Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Biện pháp quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.21 KB, 39 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội để
đưa các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống xã hội, giáo dục ý thức pháp
luật xã hội chủ nghĩa cho nhân dân nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước
bằng xã hội trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN) Việt Nam. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những
nhiệm vụ trọng yếu của toàn bộ hệ thống chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Đó là một mắt xích, là giai đoạn đầu của hoạt động thực thi pháp luật.
Giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường phổ thông là một trong những vấn
đề có ý nghĩa rất quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông của nước ta
hiện nay.
Đất nước ta đã bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, cả nước đang
tiếp tục công cuộc đổi mới sâu sắc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định “Tập trung
nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục pháp luật, tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành. Xây dựng
môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình
và xã hội, xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân
được học tập suốt đời”. Giáo dục pháp luật, tư tưởng chính trị, đạo đức cho học
sinh phổ thông cần được cải tiến và đẩy mạnh, góp phần tích cực vào sự nghiệp
giáo dục toàn diện, hài hòa, đáp ứng yêu cầu mới của xã hội.
Giáo dục pháp luật trong các nhà trường là một bộ phận cấu thành của quá
trình tổ chức dạy và học, là bộ phận quan trọng góp phần hình thành nhân cách,
phẩm chất, lối sống cho học sinh theo mục tiêu giáo dục: “Đào tạo con người
Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành
và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc” (Điều 2, Luật Giáo dục). Những mục
tiêu đó chỉ có thể thực hiện được phần lớn thông qua giáo dục pháp luật cho học


sinh. Công tác này đòi hỏi phải tiến hành một cách liên tục, thường xuyên và
đang trở thành một trong những nội dung không thể thiếu được trong các mặt
giáo dục của nhà trường nhằm tạo ra lớp người “vừa hồng, vừa chuyên” như
mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thời gian gần đây, tình trạng xuống cấp đạo đức ở một bộ phận học sinh
trở nên đáng báo động. Nạn bạo lực học đường, hiện tượng học sinh gian dối
trong kiểm tra, thi cử, nói tục, chửi bậy, trộm cắp, vi phạm luật an toàn giao
thông trở nên nhức nhối. Rồi tình trạng học sinh sa đà vào tệ nạn cờ bạc, cá độ
1


bóng đá, sát phạt nhau, ham mê trò chơi điện tử lan rộng ở nhiều trường học, cấp
học, khiến cho tỷ lệ học sinh hư, học sinh vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật có
chiều hướng gia tăng.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do ý thức của các em về vấn đề pháp
luật còn hạn chế. Do đó, cần phải hình thành cho mọi người có ý thức chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật, đặc biệt là với đối tượng học sinh, ngay từ khi các em
chưa phải là người tham gia pháp luật thường xuyên. Vì thế, xây dựng chương
trình giáo dục pháp luật trong nhà trường là biện pháp mang tính lâu dài và cấp
bách.
Thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ý thức được vai trò, vị
trí và sứ mệnh chính trị của mình trong thời kỳ mới, trong những năm qua, các
trường trung học phổ thông (THPT) trên địa bàn đã luôn chú trọng đến việc
giáo dục pháp luật cho học sinh. Điều này được thể hiện rất rõ qua sự quan tâm
chỉ đạo của Chi ủy, lãnh đạo nhà trường, trong kết quả học tập, rèn luyện của
học sinh. Song, để có thể đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các trường THPT cần phải chú
trọng nâng cao hơn nữa hiệu quả giáo dục pháp luật cho học sinh.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài “Biện pháp quản lý giáo
dục pháp luật cho học sinh các trường trung học phổ thông tại ” làm tiểu luận

tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về quản lý giáo dục
pháp luật, quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông và thực
trạng công tác quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh trường THPT tại trong
thời qua, chúng tôi đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản
lý giáo dục pháp luật cho học sinh các trường THPT trong địa bàn trong thời
gian đến.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh THPT trên địa tại .
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Khảo sát thực trạng quản lý của Hiệu trưởng các trường THPT về giáo dục
pháp luật cho học sinh trên địa bàn . Các biện pháp được đề xuất cho các trường
THPT trên địa bàn .
Khảo sát thực trạng của 03 trường THPT trên địa bàn : trường THPT Trần
Quý Cáp, Nguyễn Trãi và Trần Hưng Đạo.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận của việc quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh
THPT.
2


Nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác quản lý về giáo dục pháp luật
cho học sinh các trường THPT trên địa bàn trong những năm qua.
Đề xuất các biện pháp thực hiện tốt hơn công tác quản lý giáo dục pháp
luật tại các trường THPT tại trong thời gian đến.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để
nghiên cứu, luận giải các vấn đề của đề tài.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Các phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.
Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp thống kê.
6. Kết cấu của tiểu luận gồm:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 03
chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý giáo dục pháp luật, quản lý giáo dục
pháp luật cho học sinh trung học phổ thông.
- Chương 2: Thực trạng công tác quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh
các trường trung học phổ thông tại trong thời gian qua (giai đoạn 2013-2016).
- Chương 3: Các biện pháp quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh các
trường trung học phổ thông tại trong thời gian đến (giai đoạn 2016-2020).

3


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT, QUẢN LÝ
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Quản lý, Quản lý giáo dục
1.1.1.1. Quản lý
Dưới góc độ khoa học, quản lý là những hoạt động cần thiết phải được thực
hiện khi con người kết hợp với nhau trong các nhóm, các tổ chức nhằm đạt được

mục tiêu chung. Trên cơ sở những cách tiếp cận khác nhau, khái niệm quản lý
được các nhà lý luận đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau:
“Quản lý là những tác động có tính định hướng, có kế hoạch của chủ thể
quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt
được mục đích nhất định”.
“Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của
từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội”.
Tóm lại: Có thể hiểu quản lý là một quá trình tác động có tổ chức, có mục
đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng hiệu quả nhất các
tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện
biến động của môi trường.
1.1.1.2. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục (QLGD) là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý trong hệ thống giáo dục, là sự điều hành
hệ thống giáo dục quốc dân, các cơ sở giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. QLGD tác động lên tập thể
học sinh, giáo viên và các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm
huy động mọi lực lượng trong xã hội cùng tham gia vào các hoạt động của nhà
trường để đạt đến mục tiêu dự kiến.
1.1.2. Giáo dục pháp luật
1.1.2.1. Pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà
nước thừa nhận hoặc ban hành, được bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai
cấp thống trị nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo lập trật tự, ổn định cho
sự phát triển xã hội.
Đặc trưng của pháp luật thể hiện ở tính quy phạm phổ biến, tính quyền lực,
bắt buộc chung và tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức.

4



Trước hết, pháp luật có tính quy phạm phổ biến, bởi lẽ pháp luật là những
quy tắc xử sự chung, là khuôn mẫu chung, được áp dụng nhiều lần, ở nhiều nơi,
đối với tất cả mọi người, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Pháp luật mang tính quyền lực, bắt buộc chung, vì pháp luật do nhà nước
ban hành và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của quyền lực nhà nước.
Pháp luật có tính bắt buộc chung tức là quy định bắt buộc đối với tất cả các cá
nhân và tổ chức, ai cũng phải xử sự theo pháp luật.
Pháp luật có tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức, bởi vì hình thức thể
hiện của pháp luật là các văn bản có chứa quy phạm pháp luật do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành. Các văn bản này gọi là văn bản quy phạm pháp
luật. Cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền ban hành những hình thức văn bản
nào đều được quy định chặt chẽ trong Hiến pháp và Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật.
1.1.2.2. Giáo dục pháp luật
GDPL là vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong khoa
học giáo dục cũng như trong sự nghiệp giáo dục ở nước ta. Khái niệm GDPL
thường được quan niệm là một dạng hoạt động gắn liền với việc triển khai thực
hiện pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật. Với tư
cách là một dạng giáo dục thì GDPL ở nước ta hình thành và thực hiện muộn
hơn so với giáo dục chính trị, và giáo dục đạo đức. Với tư cách là một khái niệm
pháp lý, GDPL được hình thành trong khoa học pháp lý cũng như được tiến
hành trong thực tế ở nước ta rất muộn màng so với nhiều nước trên thế giới.
1.1.3. Quản lý giáo dục pháp luật
Quản lý GDPL là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể
quản lý nhằm giúp GDPL đạt được kết quả mong muốn, làm cho tất cả mọi
người trong xã hội có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng, tính cấp thiết của
GDPL trong xã hội.
1.2. Lý luận chung về giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ
thông

1.2.1. Sự cần thiết phải giáo dục pháp luật cho học sinh THPT
Thời gian qua, tình trạng vi phạm pháp luật ở lứa tuổi vị thành niên đang có
chiều hướng gia tăng. Trong số đó, có không ít trường hợp là học sinh phổ thông
đang ngồi trên ghề nhà trường.
Xu hướng những kẻ phạm tội ở tuổi vị thành niên ngày càng nhiều làm
dấy lên những lo lắng, quan ngại trong dư luận xã hội. Có thể nhận thấy, ngoài
những nhân tố như: hoàn cảnh, môi trường sống, phương pháp giáo dục của gia
đình, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng trên là những
khoảng trống chưa được khỏa lấp trong công tác giáo dục pháp luật cho học
sinh. Trong chương trình GDCD cho học sinh trung học phổ thông, những kiến
thức cơ bản về pháp luật đã được đưa vào giảng dạy hoặc được lồng ghép tích
5


hợp. Mặc dù vậy, do hạn chế về thời lượng, cùng với đó là phương pháp truyền
thụ của giáo viên chưa thực sự sinh động, hấp dẫn, những kiến thức pháp luật
cần thiết thì còn phổ biến chung chung nên học sinh thường có suy nghĩ rằng lứa
tuổi các em chưa phải chịu trách nhiệm pháp lý hoặc có chăng thì chỉ là cảnh
cáo. Chính những nhận thức, hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, mơ hồ đã dẫn
đến ý thức chấp hành pháp luật chưa tốt, thậm chí là có những hành vi coi
thường pháp luật. Do đó, việc giáo dục pháp luật cho học sinh ở bậc học này vì
thế là rất cần thiết. Việc làm này nhất thiết phải có sự đồng thuận, thống nhất từ
gia đình, nhà trường đến cộng đồng nhằm xây dựng môi trường xã hội lành
mạnh, từ đó, ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của
mỗi học sinh.
1.2.2. Mục tiêu của giáo dục pháp luật cho học sinh THPT
Mục tiêu của giáo dục pháp luật là một trong những yếu tố tạo nên cấu trúc
bên trong của giáo dục pháp luật, là cái đích hướng tới các hoạt động giáo dục
pháp luật. Việc xác định đúng đắn mục tiêu cần đạt được trong quá trình giáo
dục pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nội dung, hình thức,

phương pháp,… giáo dục pháp luật, bởi suy cho cùng, các nội dung, hình thức,
phương pháp giáo dục pháp luật, đều phụ thuộc vào mục đích đặt ra.
1.2.3. Chủ thể và đối tượng của giáo dục pháp luật
1.2.3.1 Chủ thể của giáo dục pháp luật
Trong các trường THPT, chủ thể GDPL là các tổ chức chính trị trong nhà
trường gồm: Chi bộ, lãnh đạo trường, Công đoàn, Đoàn thanh niên, … Đặc biệt
là vai trò phụ trách trực tiếp là các tổ, các ban, trong đó vai trò của giáo viên chủ
nhiệm hết sức quan trọng.
1.2.3.2.Đối tượng của giáo dục pháp luật
Đối tượng của GDPL là các cá nhân, công dân hay nhóm cộng đồng công
dân, tiếp nhận trực tiếp hay gián tiếp tác động của các hoạt động GDPL tiến
hành nhằm đạt được mục đích đề ra.
1.2.4. Nội dung giáo dục pháp luật
Một trong những yếu tố quan trọng của quá trình GDPL là nội dung GDPL.
Nội dung của GDPL được xác định trên cơ sở mục đích, đối tượng GDPL nhằm
hình thành cho họ hệ thống tri thức pháp luật, tình cảm lòng tin và thói quen
hành động phù hợp với yêu cầu của pháp luật.
Theo quy định của chương trình giáo dục hiện nay, nội dung GDPL chia
theo ba mức độ sau:
Thứ nhất: Mức độ tối thiểu về GDPL, phổ cập cho mọi công dân: Trong
giai đoạn hiện nay khi mà Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, thực hiện các
quyền, lợi ích của mình cũng như thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước thì
mỗi công dân phải có những hiểu biết tối thiểu về pháp luật. Vì vậy, GDPL phổ
6


cập cho công dân nhằm trang bị những kiến thức cơ bản về pháp luật, giúp họ
hình thành những tri thức cơ bản về pháp luật và thói quen xử sự theo pháp luật.
Thứ hai: Mức độ giáo dục theo yêu cầu của ngành nghề là GDPL cho những

người hoạt động ở trong những lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội khác nhau. Ngoài
việc giáo dục những khái niệm pháp luật cơ bản, cần GDPL có nội dung liên quan
trực tiếp đến lĩnh vực hoạt động của đối tượng, các quyền và nghĩa vụ công dân
trong lĩnh vực hoạt động của họ và trình tự giải quyết các tranh chấp phổ biến liên
quan đến lĩnh vực nghề nghiệp.
Thứ ba: Giáo dục luật chuyên ngành cho những người hành nghề pháp
luật. Đây là mức độ cao nhất, được thực hiện nhằm mục đích đào tạo các chuyên
gia pháp luật cho bộ máy nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội… Sự
hiểu biết của đối tượng này bao gồm những tri thức pháp luật mang tính chuyên
sâu về các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
1.2.5. Hình thức và phương pháp giáo dục pháp luật
1.2.5.1.Hình thức giáo dục pháp luật
GDPL cho đối tượng là học sinh THPT là một hoạt động tác động trực tiếp
vào quá trình hình thành nhân cách con người. Do vậy GDPL phải được tiến
hành dưới nhiều hình thức khác nhau. Hiệu quả của công tác GDPL tùy thuộc rất
nhiều vào việc sử dụng các hình thức giáo dục.
Hình thức GDPL là một yếu tố có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao
hiệu quả giáo dục. Việc áp dụng các hình thức giáo dục phải lựa chọn trên cơ sở
phù hợp với nội dung và điều kiện, phù hợp với chương trình theo từng khối,
từng cấp học của các em.
Qua nghiên cứu thực tế, GDPL cho học sinh THPT có thể được tiến hành
theo 2 hình thức cơ bản sau:
Các hình thức GDPL mang tính phổ biến, truyền thống được sử dụng trong
nhiều loại hình thức giáo dục như: nói chuyện pháp luật, dạy và học pháp luật
trong các trường THPT, qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, tác
phẩm văn học nghệ thuật, câu lạc bộ pháp lý, thi tìm hiểu pháp luật, hội nghị,
hội thảo, nói chuyện pháp luật ở các cơ quan Nhà nước, tổ chức quần chúng,
khu dân cư, hội thảo khoa học pháp lý.
Các hình thức mang tính đặc thù của GDPL. Tính đặc thù này thể hiện
trong mối quan hệ tác động giữa GDPL và ý thức, hành vi của công dân. Nội

dung này bao gồm định hướng GDPL trong các hoạt động lập pháp, hành pháp,
tư pháp của các cơ quan Nhà nước. Các cơ quan quản lý Nhà nước chuyên
ngành, GDPL thông qua hoạt động của các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, tổ hòa
giải, dịch vụ tư vấn pháp luật.
1.2.5.2.Phương pháp giáo dục pháp luật

7


Theo khoa học sư phạm thì phương pháp giáo dục là các con đường, cách
thức, biện pháp tác động để chiếm lĩnh nội dung giáo dục và đạt được mục đích
giáo dục.
Về cơ bản phương pháp GDPL gồm ba phương pháp chính: Phương pháp
thuyết phục; phương pháp tổ chức hoạt động; phương pháp kích thích những hành
vi.
1.2.6. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị và các chính sách trong
giáo dục pháp luật
Cơ sở vật chất thiết bị dạy học giáo dục là phương tiện lao động sư phạm
của các nhà giáo dục và học sinh. Nguồn lực tài chính dùng để mua sắm cơ sở
vật chất thiết bị, huy động nguồn lực tham gia các hoạt động giáo dục. Nếu thiếu
kinh phí, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học - giáo dục thì các hoạt động giáo dục
trong nhà trường sẽ gặp nhiều khó khăn hoặc không thể thực hiện được. Trang
thiết bị hiện đại phù hợp với thực tiễn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả các hoạt
động giáo dục. Vì vậy một trong những nội dung của việc quản lý giáo dục pháp
luật là phải có kế hoạch bố trí, sắp xếp huy động các nguồn lực tài chính để tăng
cường cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ dạy học và
giáo dục pháp luật cho học sinh.

8



CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI TRONG THỜI GIAN
QUA
(Giai đoạn 2014- 2016)
(TẠI SAO Ở PHẦN KẾT CẤU TIỂU LUẬN C ĐỂ LÀ 2013 ĐẾN 2016
MÀ?)
2.1. Khái quát chung về địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của
thuộc , có tổng diện tích tự nhiên 61,71 km2, nằm bên bờ Bắc hạ lưu sông
Thu Bồn, ở vị trí địa lý từ 15 015’26” đến 15055’15” vĩ độ Bắc và từ 108017’08”
đến 108023’10” kinh độ Đông; cách quốc lộ 1A khoảng 9 km về phía Đông, cách
Đà Nẵng 25 km về phía Đông Nam, cách Tam Kỳ khoảng 50 km về phía Đông
Bắc;
Phần đất liền của có diện tích 46,22 km2 (chiếm 74,9% tổng diện tích tự
nhiên toàn ), có hình thể gần giống như một hình thang cân, đáy là phía Nam giáp
huyện Duy Xuyên với ranh giới chung là sông Thu Bồn, phía Tây và phía Bắc
giáp huyện Điện Bàn, phía Đông giáp biển với bờ biển dài 7 km. Hạt nhân trung
tâm đô thị là các phường Minh An, Sơn Phong, Cẩm Phô; trong đó có Khu phố cổ
rộng chừng 5km2 đã được Tổ chức Văn hóa Khoa học Giáo dục Liên hợp quốc
(UNESCO) công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới (ngày 04/12/1999).
Cách đất liền 18 km là cụm đảo Cù Lao Chàm với 8 hòn đảo lớn nhỏ, có
diện tích 15,49 km2 (chiếm 25,1% tổng diện tích tự nhiên toàn ), ở vị trí tọa độ :
15052’30’’ đến 160 00’00’’ Bắc và 108024’30’’ đến 108034’30’’ kinh độ Đông. Các
hòn đảo này quần tụ thành hình cánh cung hướng mặt ra Biển Đông, như bức
bình phong che chắn cho đất liền. Cù Lao Chàm - đã được UNESCO công nhận
là Khu dự trữ sinh quyển thế giới (ngày 26/5/2009).
Do phía Bắc được ngăn bởi dải Hoành Sơn, phía Tây được che bởi khối núi
Bắc tỉnh Kon Tum nên cũng như các địa phương khác của và các tỉnh, lân cận,

nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa vùng Nam Hải Vân, mang tính chất
khí hậu ven biển Miền Trung, nóng ẩm, mưa nhiều và mưa theo mùa, có nền nhiệt
độ cao, nắng nhiều, ít chịu ảnh hưởng của gió mùa đông.
Đặc điểm về vị trí địa lý, cấu trúc địa chất và lịch sử làm cho khí tượng thủy văn, địa hình, địa mạo của khá phong phú và đa dạng. vừa có đô thị cổ, đô
thị cũ, đô thị mới; vừa có đồng bằng; vừa có biển, có hải đảo tạo nên nguồn tài
nguyên thiên nhiên dồi dào về lâm, thổ, hải sản... Phần lớn diện tích tự nhiên của
được bao bọc bởi hệ thống sông lớn nhỏ, mương lạch chằng chịt và bị chia cắt bởi
những bãi, nổng, trảng, dốc, cồn cát; những bàu, đầm, hói, vũng, ao…và những
rừng dừa nước. Địa hình nhìn chung thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, độ
dốc thoải trung bình 0,0150, phân thành 2 dạng địa hình: địa hình đồng bằng và
9


địa hình hải đảo.
có dân số là 93.851 người, mật độ dân số 1.477 người/km 2 1. gồm 09 đơn
vị hành chính cấp phường: Minh An, Cẩm Phô, Sơn Phong, Thanh Hà, Cẩm
Nam, Tân An, Cẩm Châu, Cẩm An, Cửa Đại và 4 đơn vị hành chính cấp xã:
Cẩm Hà, Cẩm Kim, Cẩm Thanh, Tân Hiệp.
Cơ cấu kinh tế của được xác định là: dịch vụ - du lịch thương mại. Kinh tế
phát triển bền vững và có sự thay đổi về chất. Giá trị sản xuất (GO) theo giá cố
định 1994 tăng bình quân 10,23%/năm và theo giá hiện hành tăng 10,31%/năm,
đạt so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XVI. Năm 2015, thu nhập bình quân đầu
người ước đạt 31,3 triệu đồng, tăng 1,54 lần so với năm 2010. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch rõ nét theo hướng giảm nhanh tỉ trọng nông nghiệp, công nghiệp
nặng và tăng về dịch vụ, du lịch, thương mại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tiếp
tục khẳng định tính đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Dịch vụ - Du lịch - Thương mại chiếm tỷ
trọng cao trong cơ cấu kinh tế với 64,82%, Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp Xây dựng chiếm 27,24%, Ngư - Nông nghiệp chỉ còn 7,94%. Cơ cấu lao động có
sự chuyển dịch mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhu cầu phát triển. Các thành phần kinh
tế phát triển lành mạnh và chuyển biến đáng kể về cơ cấu, trong đó, kinh tế tư

nhân, kinh tế hộ chiếm tỷ trọng lớn. Vai trò quản lý Nhà nước về kinh tế tiến bộ
trên nhiều mặt.
Kinh tế - xã hội những năm gần đây có sự chuyển biến rõ nét. Hiện nay,
đang bước vào thời kỳ mới với những thuận lợi cơ bản, đó là:
Hệ thống chính trị ổn định, đảm bảo vai trò lãnh đạo, điều hành, quản lý và
huy động được sức mạnh của nhân dân cho sự phát triển của trong thời kỳ mới.
cũng đang tập trung chỉ đạo và đầu tư để đẩy nhanh tốc độ phát triển của
với mục tiêu: xây dựng đạt chuẩn đô thị loại 2, một trung tâm du lịch của quốc
gia, đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ của giai đoạn đầu trong lộ trình xây dựng
- sinh thái.
Diện mạo đô thị và cơ cấu kinh tế đang hình thành rõ nét. Đây chính là
những tiền đề quan trọng để tiếp tục định hướng phát triển, tạo niềm tin, tinh
thần quyết tâm trong Đảng bộ và nhân dân quận.
Tiếp tục phát huy vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục đào tạo và khoa
học - công nghệ phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của .
Bên cạnh đó, cũng có nhiều khó khăn, thách thức, đó là:
đang trong giai đoạn đầu của quá trình cải tạo cảnh quan môi trường cho
phù hợp với đô thị sinh thái, còn nhiều dự án lớn trong giai đoạn quy hoạch và
triển khai ảnh hưởng lớn đến sản xuất, kinh doanh và đời sống của bộ phận lớn
nhân dân tạo nên nhiều vấn đề xã hội cần phải tập trung giải quyết.
Một bộ phận người dân chưa có việc làm ổn định, một bộ phận tham gia
1 Theo Niên giám thống kê Thành phố Hội An năm 2015.

10


lao động phổ thông hoặc làm việc theo thời vụ nên đời sống bấp bênh không ổn
định, việc quan tâm chăm sóc và đầu tư cho việc học tập của con em phần nào
còn hạn chế.
2.1.2. Tình hình phát triển giáo dục của

Cùng với nhiệm vụ chăm lo phát triển kinh tế, đã triển khai nhiều biện
pháp đẩy mạnh phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân, tích cực giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc. Trên lĩnh
vực giáo dục đào tạo, đã tập trung nguồn vốn đầu tư xây dựng nâng cấp hệ
thống trường lớp và các trang thiết bị theo hướng kiên cố và chuẩn hóa, đảm bảo
cho nhu cầu dạy và học.
hiện có 14 trường mầm non; 14 trường tiểu học, 10 trường trung học cơ sở,
03 trường trung học phổ thông; 01 trung tâm Giáo dục thường xuyên, 14 trung
tâm học tập cộng đồng ở các xã/phường. đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung
học cơ sở đúng độ tuổi, từng bước thực hiện phổ cập bậc trung học; 9/9 phường
đã được công nhận hoàn thành chuẩn phổ cập bậc trung học.
đã nỗ lực xây dựng nhiều giải pháp thiết thực như chương trình “Tiếp sức
học sinh nghèo đến trường”, “Người bạn đồng hành”, tổ chức các chuyên đề
nhằm giúp đỡ các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt nghèo, học sinh bỏ học và
thiếu niên hư, vi phạm pháp luật trên địa bàn .
Tổng kết công tác xét và công nhận hoàn thành chương trình tiểu học đạt tỉ
lệ 100%. Tỉ lệ huy động trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo và học sinh 6 tuổi vào lớp 1 đạt
tỉ lệ 100%. Các trường tiểu học đã được công nhận chuẩn quốc gia (mức độ 1)
tiếp tục phấn đấu đạt chất lượng cao hơn nhằm đáp ứng yêu cầu mới của cấp
học.
Tuy nhiên, là một đô thị ven biển vùng duyên hải miền Trung, nên ở một
số xã/phường ven biển, đời sống dân cư trên địa bàn gặp nhiều khó khăn: đa số
nhân dân sống bằng nghề nông và đánh bắt cá trên biển, nhiều hộ nghèo, đất
canh tác bị thu hẹp, nghề nghiệp không ổn định... Phần lớn người dân nhận thức
chưa đầy đủ về tầm quan trọng của giáo dục, do đó chưa thực sự quan tâm,
chăm lo và đầu tư đúng mức cho việc học hành của con em trong gia đình.
2.1.3. Tình hình phát triển giáo dục trung học phổ thông trên địa bàn
2.1.3.1. Quy mô trường lớp
Bảng 2.1. Quy mô trường, lớp, học sinh THPT
Nội dung

Tổng số trường
THPT
Tổng số lớp học

20112012

20122013

20132014

20142015

20152016

03

03

03

03

03

95

97

65


58

59

11


Chia ra: Lớp 10
Lớp 11
Lớp 12
Tổng số học sinh
Chia ra: Lớp 10
Lớp 11
Lớp 12

35
33
27
4.132
1.522
1.397
1.213

22
32
33
3.724
980
1.372
1.372


15
19
31
2.829
673
790
1.366

26
13
19
2.414
1.097
536
781

25
21
13
2.597
1.072
988
537

(Nguồn: BGH các trường THPT tại TP cung cấp)

2.1.3.2. Quy mô học sinh
Trong năm học 2016-2017, tổng số học sinh THPT trên địa bàn là: 3.672
học sinh, được phân chia tại các trường trong Bảng 2.2.

Bảng 2.2. Quy mô học sinh các trường THPT
trên địa bàn năm học 2016-2017
Trường
Trường THPT Trần Quý Cáp
Trường THPT Nguyễn Trãi
Trường THPT Trần Hưng Đạo
Tổng cộng

Lớp 10

Lớp 11

Lớp 12

Tổng số

Số lớp Số HS
10
383
9
356
8
324
27
1.063

Số lớp Số HS
10
412
8

345
7
315
25
1.072

Số lớp Số HS
8
325
9
369
7
294
24
988

Số lớp Số HS
28
1.120
26
1.070
22
933
76
3.123

(Nguồn: BGH các trường THPT tại TP cung cấp)

2.1.3.3 Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên
Đội ngũ CBQL, giáo viên, nhân viên các trường THPT năm học 2016-2017

của có 166 người, 100% giáo viên đạt trình độ chuẩn được đào tạo từ đại học sư
phạm trở lên; trong đó số giáo viên có trình độ trên chuẩn chiếm tỉ lệ 13,3%.
Trình độ CBQL, giáo viên các trường THPT:
Về trình độ chuẩn của CBQL: Đạt chuẩn 100%; Trên chuẩn: 06/10 chiếm tỉ
lệ 60%.
Về trình độ chuẩn của giáo viên: Đạt chuẩn 100%; Trên chuẩn: 16/166
chiếm tỉ lệ 13,3%.
Tỉ lệ đảng viên trong các nhà trường: 46/166 đạt tỉ lệ 27,7%.
Bảng 2.3. Số lượng đội ngũ CBQL, giáo viên, nhân viên THPT
12


ST
T

Đơn vị

1. Trường THPT Trần Quý Cáp
2. Trường THPT Nguyễn Trãi
Trường THPT Trần Hưng
3.
Đạo
Tổng cộng

Tổn Trình độ chuyên
Tổng số Tổng
môn
g số
CB-GV- số CB
giáo Thạ Đại Trình

NV
QL
viên c sĩ học độ khác

51
68

2
3

42
57

7
5

39
55

5
8

47

3

40

10


40

3

166

08

139

22

12
8

16

(Nguồn: BGH các trường THPT tại TP cung cấp)

Đội ngũ CBQL, giáo viên, nhân viên các trường THPT trên địa bàn có tinh
thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật cao đối với nhiệm vụ được giao, tích
cực tự học, tự rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho bản
thân. Qua tổng kết đánh giá, xếp loại chuẩn nghề nghiệp của CBQL, giáo viên
trong 5 năm qua, đại đa số đều xếp loại khá, tốt.
2.1.3.4. Điều kiện cơ sở vật chất
Tất cả các trường THPT trên địa bàn đều đảm bảo đủ phòng học cho học
sinh và phòng làm việc của Ban giám hiệu, Công đoàn, Đoàn Thanh niên,
phòng nghỉ cho giáo viên và các phòng làm việc của Văn phòng nhà trường.
Được sự quan tâm đầu tư của các cấp lãnh đạo ngành, địa phương, sự hỗ trợ
của các tổ chức chính trị xã hội, sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của các

trường nên cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học từng bước được đầu tư nâng
cấp, xây dựng mới với 100% phòng học kiên cố, các phòng chức năng, khu
hiệu bộ, sân chơi bãi tập cho học sinh. Các trường đều có nhà đa năng để dạy
học môn thể dục và tổ chức các hoạt động thể dục thể thao, văn nghệ trong nhà
trường.
2.1.3.5. Đánh giá chung
Được sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của Sở Giáo dục Đào tạo, Thành ủy và
Ủy ban Nhân dân , giáo dục đã có bước phát triển đáng kể, chất lượng đại trà
phát triển tương đối bền vững, số lượng học sinh tham gia các hội thi cấp thành
phố, quốc gia như học sinh giỏi lớp 9, lớp 12, giải toán qua mạng, Olympic tiếng
Anh, giải thể thao học sinh, Hội khỏe Phù Đổng, văn nghệ Mừng Đảng, mừng
xuân… luôn tăng và đạt nhiều thành tích cao. Các trường THPT đều có khuôn
viên rộng rãi, thoáng mát, đảm bảo đủ phòng học để tổ chức các hoạt động giáo
dục. Tất cả các trường đều được đầu tư các trang thiết bị dạy học hiện đại như
máy vi tính, máy chiếu, máy photocopy…; 100% giáo viên đạt chuẩn và trên
chuẩn. Đặc biệt, các trường đã triển khai có hiệu quả chương trình “Tiếp sức học
13


sinh nghèo đến trường”, chương trình “Người bạn đồng hành” với những hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp thật bổ ích đã góp phần giúp đỡ các em học sinh
yếu, những học sinh có hoàn cảnh khó khăn có cơ hội vươn lên trong học tập.
Kết quả đã góp phần hạ thấp số lượng học sinh yếu kém, nâng cao chất lượng
đại trà và hạn chế tỷ lệ học sinh bỏ học thấp nhất trên địa bàn .

14


2.2. Thực trạng công tác quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh các trường
trung học phổ thông tại

2.2.1. Chỉ đạo thực hiện:
- Chỉ thị 32-CT/TW ngày 09 tháng 12 năm 2003 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, nhân dân.
- Kết luận số 04-KL/TW ngày 19 tháng 4 năm 2011 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về kết quả thực hiện Chỉ thị 32-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương
Đảng (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân từ
năm 2012 đến năm 2016.
- Quyết định số 1928/QĐ-TTg ngày 20 tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật trong nhà trường”;
- Quyết định số 1141/QĐ-BĐHĐA ngày 29 tháng 3 năm 2013 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án - Nâng cao chất lượng
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường giai đoạn 2013- 2016.
- Quyết định số 580/QĐ-BGDĐT ngày 26 tháng 02 năm 2015 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về Kế hoạch công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2015 của
ngành Giáo dục.
- Quyết định số 606/QĐ-BGDĐT ngày 02 tháng 3 năm 2015 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về việc ban hành “Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật
ngoại khóa cho học sinh các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông giai
đoạn 2015 - 2017”.
- Quyết định số 6293/QĐ-BGDĐT ngày 29 tháng 12 năm 2015 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo về Kế hoạch công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm
2016 của ngành Giáo dục.
- Kế hoạch số 405/KH-SGDĐT ngày 01/4/2016 của Sở Giáo dục và Đào
tạo về thực hiện Đề án Nâng cao chất lượng công tác phổ biến giáo dục pháp
luật trong nhà trường năm 2016.
- Kế hoạch số 1532/KH-SGDĐT ngày 04/10/2016 về Tổng kết thực hiện
Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong nhà

trường giai đoạn 2013 – 2016”.
2.2.2. Quá trình triển khai thực hiện GDPL cho học sinh trung học phổ
thông
2.2.2.1. Nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên về giáo dục pháp luật cho
học sinh trung học phổ thông
Qua quan sát thực tế tại trường THPT trên địa bàn , tác giả được biết lãnh
đạo nhà trường có lập kế hoạch năm học, trong đó có nội dung GDPL cho học
sinh thông qua các hoạt động dạy học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
15


(GDNGLL). Bên cạnh đó, Nhà trường có lập kế hoạch cho cả năm học và từng
tháng. Kế hoạch có chú trọng GDPL qua các ngày lễ, kỷ niệm và các đợt thi đua
theo chủ đề thể hiện sự quan tâm của nhà quản lý đến GDPL và nhận thức được
tầm quan trọng của công việc này, có sự sắp xếp, bố trí nhân sự khá hợp lý.
Tuy nhiên, công tác xây dựng kế hoạch vẫn còn một số hạn chế như: chưa
có kế hoạch riêng về GDPL mà còn thể hiện chung trong kế hoạch năm học, kế
hoạch tháng, tuần chưa cụ thể. Bên cạnh đó, thời gian xây dựng kế hoạch chưa
hợp lý thường mang tính thời vụ.
Phần lớn giáo viên chỉ chú trọng đến công tác chuyên môn giảng dạy hơn
là chú ý đến các hành vi đạo đức của các em. Họ vẫn cho rằng việc GDPL là
trách nhiệm của cơ quan chức năng, trách nhiệm của người quản lý và của các tổ
chức Đoàn thể.
Qua khảo sát cán bộ quản lý (CBQL), tổ trưởng chuyên môn (TTCM) và
giáo viên tại trường về nhận thức GDPL cho học sinh, kết quả nêu trong bảng
2.4 dưới đây:
Bảng 2.4. Việc xây dựng kế hoạch GDPL cho học sinh
CBQL, TTCM
Giáo viên
Hiệu quả thực

hiện
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
Tốt
13
50
8
26,67
Khá
10
38,5
12
40
TB
03
11,5
10
33,33
Chưa tốt
0
0
0
0
(Nguồn: BGH các trường THPT tại TP cung cấp)

Số liệu trên cho thấy CBQL và TTCM đánh giá việc xây dựng kế hoạch
GDPL cho học sinh ở mức độ tốt, khá cao hơn so với giáo viên (88,5% so với
66,67%). Qua đó cho thấy đánh giá của CBQL và TTCM có sự tập trung hơn.

Sự khác biệt trong trường hợp này xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ và nhận
thức của đối tượng về vấn đề trên. CBQL và TTCM có nhiều kinh nghiệm trong
việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch nên có những hiểu biết nhất định
về quy trình xây dựng cũng như chất lượng kế hoạch đề ra. Thông qua công tác
thường xuyên, theo dõi, kiểm tra, CBQL và TTCM có cơ sở để đánh giá khách
quan về hiệu quả việc xây dựng kế hoạch GDPL cho học sinh.
Hầu hết đội ngũ cán bộ, giáo viên các trường THPT trên địa bàn có trình
độ học vấn, chuyên môn cao, nhiều người có khả năng sư phạm tốt. Tuy nhiên,
công tác giáo dục pháp luật chưa được đặt ngang tầm với yêu cầu quản lý xã hội
bằng pháp luật, chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục, đồng bộ, rộng khắp,
chưa có trọng tâm, trọng điểm. Họ xem việc giáo dục pháp luật là trách nhiệm
của cơ quan quản lý pháp luật, họ chưa có kế hoạch phối hợp chặt chẽ, đồng bộ
16


giữa các cấp, các ngành để huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, và sự
tham gia của toàn xã hội. Vì những hạn chế đó, nhu cầu thông tin về pháp luật
của học sinh trong trường chưa được đáp ứng đầy đủ. Nhiều học sinh còn rất mơ
hồ khi nói về luật, kể cả trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình.
2.2.2.2. Thực trạng tổ chức giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ
thông:
2.2.2.2.1. Thực trạng về mục tiêu giáo dục pháp luật
Các trường quán triệt đầy đủ và sâu sắc ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng
của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho học sinh. Qua đó, giúp học sinh
nâng cao hiểu biết, có ý thức tôn trọng, thực thi pháp luật; góp phần tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật mọi lúc, mọi nơi.
Phổ biến đầy đủ, kịp thời các quy định pháp luật cơ bản và cần thiết cho
học sinh. Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức, hành vi của học sinh trong việc
thực hiện quy định của pháp luật.

Học sinh nghiêm túc chấp hành và thực hiện pháp luật. Góp phần hình
thành ý thức và phẩm chất công dân, xây dựng các mối quan hệ lành mạnh, hòa
nhập, yêu thương, chia sẻ và giúp đỡ của học sinh với người thân, bạn bè và
cộng đồng.
2.2.2.2.2.. Thực trạng về nội dung giáo dục pháp luật
Thực hiện Quyết định số 1928/QĐ-TTg ngày 20 tháng 11 năm 2009 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Nâng cao chất lượng công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường”; Quyết định số 606/QĐBGDĐT ngày 02 tháng 3 năm 2015 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban
hành “Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật ngoại khóa cho học sinh các
trường trung học cơ sở, trung học phổ thông giai đoạn 2015 - 2017”.
Về giáo dục chính khóa: Chương trình GDPL trong nhà trường chỉ thông
qua môn giáo dục công dân (GDCD). Môn học này có thời lượng 37 tiết/năm
học, được giảng dạy cho học sinh lớp 12 với chủ đề công dân với pháp luật. Nội
dung chương trình giảng dạy môn GDCD áp dụng theo chương trình khung của
Bộ Giáo dục Đào tạo.
Qua tìm hiểu giáo viên giảng dạy môn GDCD, đa số ý kiến đánh giá việc
thực hiện nội dung chương trình GDPL trong thời gian qua là phù hợp với quy
định của Bộ Giáo dục Đào tạo đề ra (75%), nhưng so với yêu cầu thực tế và sự
phát triển nhanh chóng của xã hội, sự thay đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống
pháp luật của Nhà nước thì chưa đáp ứng được. Sách giáo khoa môn Giáo dục
công dân chưa cập nhật và chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh (50%).
Về giáo dục ngoại khóa: Giáo dục pháp luật ngoại khóa là một phần không
thể thiếu được của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường. Nội
dung phổ biến, giáo dục pháp luật ngoại khóa bám sát nhiệm vụ trọng tâm của
17


ngành giáo dục, của nhà trường, thống nhất với chương trình giáo dục pháp luật
chính khóa. Kết hợp giáo dục chính khóa với ngoại khóa; tích hợp, lồng ghép
nội dung pháp luật một cách hợp lý trong “Tuần sinh hoạt công dân” đầu năm

học và các hoạt động GDNGLL. Để làm tốt công tác GDPL ngoại khóa, các
trường đã tiến hành xây dựng và triển khai kế hoạch về việc thực hiện “Chương
trình phổ biến, giáo dục pháp luật ngoại khóa cho học sinh các trường trung học
cơ sở, trung học phổ thông giai đoạn 2015 - 2017”. Nội dung cụ thể như sau:
Phổ biến, giáo dục những nội dung cần thiết liên quan tới học sinh, như:
Quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013, pháp luật về thanh
thiếu niên; chú trọng phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông, phòng
chống tội phạm và các tệ nạn xã hội, phòng chống ma túy và tệ nạn mại dâm,
giáo dục giới tính và phòng chống HIV/AIDS, chống kỳ thị, phân biệt đối xử với
người nhiễm HIV/AIDS, biện pháp chăm sóc sức khỏe vị thành niên, bảo vệ môi
trường; phổ biến các nội dung Luật Biển Việt Nam, về chủ quyền biển, đảo và
chiến lược biển của Việt Nam, pháp luật về cư trú, pháp luật về lao động và việc
làm, hôn nhân và gia đình, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, pháp luật về
lao động và an toàn lao động, Luật Phòng cháy chữa cháy, các hiểu biết nhất
định về phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, biến đổi khí hậu, tiết kiệm năng lượng
và các quy định pháp luật có liên quan đến công tác đảm bảo an ninh, trật tự,
nếp sống văn minh đô thị.
2.2.2.2.3.. Thực trạng về hình thức và phương pháp giáo dục pháp luật
Trong thời gian qua, GDPL cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn
đã có những chuyển biến tích cực cả về nội dung, hình thức, phương pháp tiến
hành ở cả chính khóa và ngoại khóa.
Giáo dục chính khóa: Đối với môn GDCD, khi giảng dạy rất cần đến sự
hỗ trợ của các thiết bị như máy tính xách tay, đèn chiếu projector, ...để làm cho
bài giảng sinh động hơn và cần kết hợp giữa giảng dạy với việc đưa học sinh đi
thực tế dự các phiên tòa...Tuy nhiên, qua khảo sát thì có (50%) ý kiến cho rằng
khả năng ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào thiết kế bài giảng của giáo
viên còn hạn chế, (75%) giáo viên đã quen với cách dạy truyền thống là viết
bảng và thuyết trình.
Cùng với các hoạt động giáo dục khác, sinh hoạt chủ nhiệm là hoạt động
quan trọng vì qua đó giáo viên chủ nghiệm (GVCN) có thể vận dụng linh hoạt

các phương pháp, tổ chức phong phú các hoạt động cho học sinh học tập, rèn
luyện.
Bảng 2.5. GVCN tổ chức các hoạt động trong giờ sinh hoạt lớp

18


Hiệu quả
thực hiện
Tốt
Khá
Trung bình
Chưa tốt

CBQL và GV
Số lượng
Tỉ lệ %
09
34,6
13
50
04
15,4
0
0

GVCN
Số lượng
Tỉ lệ %
16

53,3
10
33,33
04
13,37
0
0

(Nguồn: BGH các trường THPT tại TP cung cấp)

Do vậy, việc chỉ đạo tổ chức thực hiện giờ sinh hoạt chủ nhiệm khoa học, đạt
hiệu quả là công việc rất cần thiết. Số liệu trên cho thấy ý kiến nhận xét của
CBQL, giáo viên và GVCN đánh giá về nội dung tiết Sinh hoạt lớp tổ chức ở mức
độ tốt là: CBQL và giáo viên chiếm tỉ lệ 34,6%, GVCN chiếm tỷ lệ: 53,3%.
Nguyên nhân sự chênh lệch đó bắt nguồn từ 2 đối tượng. CBQL thì dựa trên kết
quả công tác kiểm tra giờ Sinh hoạt lớp. Tuy nhiên kết quả đánh giá hiệu quả công
việc này ở một thời điểm nhất định, không mang tính liên tục của cả quá trình.
Trong khi đó GVCN là người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ nên khi đánh giá
thường căn cứ trên hiệu quả thực tế của công việc và sự hứng thú của học sinh khi
tham gia các hoạt động trong giờ Sinh hoạt lớp. Do đó đánh giá của GVCN là tốt
hơn.
Bên cạnh đó, để tìm hiểu cụ thể mức độ thực hiện các hoạt động trong giờ
Sinh hoạt lớp, tác giả đã khảo sát ý kiến học sinh, kết quả như sau:
Thông thường trong những giờ Sinh hoạt lớp, GVCN thường xuyên phát
động các phong trào thi đua rất thường xuyên chiếm đến 90,50% nhưng khâu
tổng kết và khen thưởng chiếm tỉ lệ ít hơn, khâu tổng kết ở mức độ thường
xuyên chiếm chỉ 51,50%, còn khâu khen thưởng cá nhân, tập thể chỉ chiếm 35%.
Qua bảng số liệu, ta thấy công việc thực hiện Sinh hoạt lớp của GVCN qua
ý kiến của học sinh rất tốt. GVCN thường xuyên tổ chức các hoạt động vui chơi
bổ ích trong giờ Sinh hoạt lớp, tuy nhiên ở một số hoạt động liên quan trực tiếp

đến GDPL thì học sinh vẫn đánh giá chưa cao như: Tổ chức các trò chơi theo
chủ đề GDPL chỉ 18% ở mức độ thường xuyên, 32,5% ở mức độ không thường
xuyên.
Có đến 49,5% học sinh cho rằng GVCN không thực hiện tổ chức các trò
chơi theo chủ đề GDPL cho học sinh. Thông thường trong các giờ Sinh hoạt
lớp, GVCN dành phần lớn thời gian để thông báo những nội dung của nhà
trường và nhắc nhở đối với những học sinh thường xuyên vi phạm nội quy, quy
chế của nhà trường.
Bảng 2.6. Ý kiến của học sinh về việc tổ chức các hoạt động
trong giờ Sinh hoạt lớp
19


CHỊ CÓ THỂ CHỈNH LẠI THÀNH 3 MỨC THƯỜNG XUYÊN, THỈNH
THOẢNG, KHÔNG BAO GIỜ
Mức độ thực hiện (%)
T
Không Không
Nội dung hoạt động
Thường
T
thường
thực
xuyên
xuyên
hiện
1 Phát động các phong trào thi đua của
90,5
9
0,5

lớp
2 Tổng kết thi đua hàng tuần
51,5
41
7,5
3 Nhắc nhở, động viên học sinh
92,5
6
1,5
4 Phê bình, kỷ luật nghiêm học sinh vi
51
38,5
10,5
phạm
5 Khen thưởng cá nhân, tập thể tốt
35
51,5
13,5
6 Nêu gương người tốt, việc tốt
56
39,5
4,5
7 Tổ chức các hoạt động: văn nghệ, kể
62,5
34
3,5
chuyện, tọa đàm,...
8 Tổ chức các trò chơi theo chủ đề giáo
dục pháp luật (đóng vai, tình huống,
18

32,5
49,5
tiểu phẩm)
9 Phối hợp với lãnh đạo trường, Đoàn
20,5
38,5
41
Thanh niên, giáo viên bộ môn
10 Phối hợp với CMHS
62
32,5
5,5
11 Giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học
91
7,5
1,5
sinh
12 Tổ chức phân công, giao việc, rèn
51
36
13
luyện, tập thói quen tốt cho học sinh
(Nguồn: BGH các trường THPT tại TP cung cấp)

Giáo dục ngoại khóa: Việc tổ chức các hoạt động GDPL của Đoàn thanh
niên còn nhiều khó khăn, chưa thường xuyên, chưa có phối hợp giữa ngành liên
quan trong hoạt động GDPL cho học sinh.
Qua các hoạt động GDNGLL, văn nghệ, thi đấu thể dục thể thao, Đoàn
thanh niên đã lồng ghép được GDPL vào trong các hoạt động và đa số học sinh
rất thích vấn đề này.

Hiểu biết pháp luật của học sinh còn hạn chế. Hiện tượng vi phạm pháp luật
nói chung trong lứa tuổi học sinh vẫn còn xảy ra. Có nhiều trường hợp học sinh vi
phạm pháp luật vẫn không nhận thức được những việc làm của mình.
Bảng 2.7. Các hoạt động ngoài giờ lên lớp do nhà trường,
Đoàn thanh niên tổ chức nhằm GDPL cho học sinh
20


T
T
1
2
3
4
5

6
7
8

Nội dung
Sinh hoạt dưới cờ
Phổ biến tình hình thời sự, chính
trị
Nghe nói chuyện, thi tìm hiểu về
các chủ đề: ATGT, phòng chống
ma túy, bảo vệ môi trường…
Thi tìm hiểu kiến thức pháp luật
Các hoạt động xã hội như cứu trợ,
khuyến học, giúp đỡ bạn bè khó

khăn, xây dựng quỹ đền ơn đáp
nghĩa
Tổ chức cắm trại, tham quan, du
lịch
Tổ chức thi đấu TDTT, Văn nghệ
Hướng nghiệp, dạy nghề

Hiệu quả thực hiện (%)
Không
Rất thích Thích
thích
62
25,5
12,5
37,5

40,5

22

41

16,5

42,5

51

21,5


27,5

61,5

31,5

6

92,5

7,5

0

87,5
43,5

10,5
38

2
18,5

(Nguồn: BGH các trường THPT tại TP cung cấp)

Qua khảo sát ta thấy rằng có 42,5% học sinh không thích nghe nói chuyện,
tìm hiểu về các vấn đề an toàn giao thông hơn so với 41% học sinh cho rằng rất
thích. Hầu hết các em rất thích tham gia các hoạt động ngoài trời như cắm trại,
tham quan, du lịch, thi đấu TDTT, văn nghệ; có đến hơn 92% học sinh rất thích
hoạt động này

Có 27,5% học sinh không thích các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật bởi vì
nội dung GDPL còn dàn trải, nặng về phổ biến các quy định của pháp luật, chưa
chú trọng đến việc hướng học sinh rèn luyện kỹ năng ứng xử, kỹ năng vận dụng
pháp luật vào để giải quyết các vấn đề của thực tiễn cuộc sống.
d. Các chủ thể giáo dục pháp luật
Khảo sát ý kiến của CBQL và giáo viên của nhà trường thì phần lớn ý kiến
cho rằng lực lượng chính đảm nhận vai trò GDPL cho học sinh là: Chi bộ, lãnh
đạo nhà trường; Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp Thanh niên; giáo viên chủ
nhiệm lớp và toàn thể giáo viên của nhà trường. Như vậy các trường THPT trên
địa bàn đã huy động được lực lượng tham gia GDPL cho học sinh tương đối dồi
dào và có nhiều kinh nghiệm.
đ. Các điều kiện phục vụ giáo dục pháp luật
Cơ sở vật chất:Tất cả các trường THPT trên địa bàn đều đảm bảo đủ
phòng học cho học sinh và phòng làm việc của lãnh đạo trường, Công đoàn,
Đoàn Thanh niên, phòng nghỉ cho giáo viên và các phòng làm việc của Văn
21


phòng nhà trường. Cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học từng bước được đầu
tư nâng cấp, xây dựng mới với 100% phòng học kiên cố, các phòng chức năng,
khu hiệu bộ, sân chơi bãi tập cho học sinh. Các trường đều có nhà đa năng để
dạy học môn thể dục và tổ chức các hoạt động thể dục thể thao, văn nghệ trong
nhà trường.
Hiện nay, các trường có 6 phòng máy vi tính với 140 máy vi tính kết nối
mạng Lan và Internet phục vụ việc dạy học thực hành bộ môn Tin học.
Thiết bị dạy học: Có 04 phòng trang bị máy chiếu projector cố định, các
phòng còn lại trang bị các thiết bị phục vụ cho việc dạy học như: đèn chiếu, tivi,
projector cơ động.
Về tài liệu phục vụ dạy học:Thư viện các trường hiện có 05 phòng đọc với
tổng diện tích 332 m2; 03 phòng với 22 máy để truy cập Internet phục vụ nhu

cầu tra cứu, giảng dạy và học tập của cán bộ, giáo viên, học sinh.
2.2.3. Kết quả giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông
2.2.3.1. Nhận thức của học sinh
Bảng 2.8. Ý kiến về sự cần thiết của GDPL trong học sinh
Rất cần
Cần
Không cần
STT
Trường
thiết
thiết
thiết
01 Trường THPT Trần Quý Cáp
56,25 % 40,63 %
3,12 %
02 Trường THPT Nguyễn Trãi
52,3%
39,6%
8,1%
Trường THPT Trần Hưng
03
55 %
37,5 %
7,5 %
Đạo
Tổng cộng
54,5 %
39,2 %
6,3 %
(Nguồn: BGH các trường THPT tại TP cung cấp)


Theo kết quả Bảng 2.8, đa số ý kiến thấy rằng việc GDPL cho học sinh
trong nhà trường là cần thiết, điều này cho thấy công tác GDPL mặc dù được
quan tâm chú trọng, tuy nhiên mức độ đầu tư chưa nhiều, công tác GDPL trong
học sinh hiện nay là rất cấp thiết.
Tìm hiểu những nguyên nhân chính dẫn đến một bộ phận học sinh có biểu
hiện không chấp hành nội quy của nhà trường, có hành vi vi phạm pháp luật, kết
quả thu được các nguyên nhân xếp từ cao xuống thấp:
Do thói quen đua đòi, ham thích chơi bời
30,5%
Do nhận thức, hiểu biết về pháp luật còn hạn chế
29,5%
Do đặc tính lứa tuổi, muốn thể hiện mình
26,0%
Do việc quản lý GDPL của nhà trường chưa thường xuyên
7,0%
Do bị ép buộc
6,0%
Do coi thường nội quy, các quy định của nhà trường
5,5%
Do sự quản lý, giáo dục của gia đình buông lỏng
5,0%
22


Kết quả đã thể hiện rõ đặc điểm tâm lý của lứa tuổi của học sinh rất dễ bị
ảnh hưởng bởi bạn bè lôi kéo, muốn thể hiện mình mà chưa nhận thức sâu sắc về
những việc làm mình đúng hay là sai, lợi hay hại, vi phạm pháp luật hay không vi
phạm pháp luật. Với tâm lý bồng bột, nóng vội, dễ xúc cảm, dễ bị lôi kéo theo
hành vi của nhóm bạn bè nên không làm chủ được bản thân, dễ bị lôi kéo vào

vòng cám dỗ của các tệ nạn xã hội dẫn đến vi phạm pháp luật. Thời kỳ hội nhập,
giao lưu văn hoá mạnh mẽ, đa dạng hiện nay một mặt tạo cho học sinh có nhiều
cơ hội để mở rộng tầm nhìn, mở rộng giao lưu văn hoá nhưng mặt khác cũng dễ
bị kích động, lôi kéo thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật.
2.2.3.2. Kết quả giáo dục pháp luật
Các trường học tích cực tuyên truyền, giáo dục và thực hiện nghiêm túc
Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em và Luật Bảo vệ, Chăm sóc và
Giáo dục trẻ em. Nâng cao nhận thức cho giáo viên và học sinh, ngăn ngừa các
hiện tượng vi phạm quyền trẻ em trong trường học như đánh đập, trừng phạt,
nhục mạ, chèn ép học sinh. Phối hợp với Hội Chữ thập đỏ, Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên, Công an, ngành Y tế … tổ
chức rèn luyện cho các em học sinh kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống
trong cuộc sống; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng,
chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; rèn luyện
kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn
xã hội; giúp cho học sinh biết tự bảo vệ tính mạng và nhân phẩm của mình, cần
phải xây dựng kỹ năng ứng xử văn hóa, biết cách giao tiếp từ việc trò chuyện
trao đổi với bạn bè, người thân đến khả năng thuyết trình, báo cáo trước đám
đông, hội nghị… Giáo dục các em biết bảo vệ sức khỏe, nói không với rượu bia,
thuốc lá, tránh xa các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm trong học đường.
Bằng nhiều hình thức sinh động, sáng tạo sự phối hợp của các Hội, Đoàn thể
như: Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Thanh niên… đã xây dựng các chương trình
hành động, cụ thể:
Phát huy vai trò của thùng thư “Tố giác tội phạm”, cam kết xây dựng “Mái
trường không có khói thuốc lá”... trong việc ngăn ngừa, phát hiện các hành vi
mua bán, tàng trữ các chất ma túy, đấu tranh phòng chống tội phạm và các tệ nạn
xã hội xâm nhập học đường.
Các chương trình ngoại khóa về truyền thông giáo dục sức khỏe cho học
sinh trong nhà trường đã góp phần rất lớn trong công tác phòng chống ma túy,
HIV/AIDS trong trường học.

Có biện pháp theo dõi, quản lý chặt chẽ việc đội mũ bảo hiểm của học sinh
đi học bằng xe máy điện, xe đạp điện, kể các những học sinh được người nhà
đưa đón bằng các loại phương tiện bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao
thông theo quy định.
Tổ chức cho học sinh tham quan Bảo tàng, Nhà truyền thống cách mạng, di
23


tích, tìm hiểu lịch sử, văn hóa của nói chung và của nói riêng qua các thời kỳ
lịch sử. Từ đó, giúp các em hiểu sâu sắc hơn, thêm yêu và có ý thức giữ gìn,
phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, cách mạng của nói riêng và của Tổ quốc
nói chung.
Để có cơ sở đánh giá kết quả GDPL cho học sinh THPT trên địa bàn trong
những năm qua, chúng tôi tiến hành khảo sát kết quả xếp loại hạnh kiểm của học
sinh trong giai đoạn từ năm học 2011-2012 đến năm học 2015-2016. Kết quả
được nêu trong Bảng 2.9.
Bảng 2.9. Thống kê xếp loại hạnh kiểm học sinh THPT
từ năm học 2011-2012 đến năm học 2015-2016
Xếp loại hạnh kiểm
Tổng số
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
Năm học
học sinh
Số
Số
Số
Số

%
%
%
%
lượng
lượng
lượng
lượng
2011-2012
2012-2013
2013-2014
2014-2015
2015-2016
Tổng cộng

4.132
3.724
2.829
2.414
2.597
15.696

2.607
2.470
1.841
1.574
1.672
1.0164

63,09

66,33
65,08
65,20
64,38
64,76

1.156
919
733
649
689
4.146

27,98
24,68
25,91
26,88
26,53
26,41

340
316
224
179
211
1.270

8,23
8,49
7,92

7,42
8,12
8,09

29
19
31
12
25
116

0,7
0,51
1,1
0,5
0,96
0,74

(Nguồn: BGH các trường THPT tại TP cung cấp)

Từ kết quả trên cho ta thấy việc xếp loại hạnh kiểm học sinh chứng tỏ rằng
đại đa số học sinh nắm bắt quy chế, thực hiện nghiêm túc nội quy nhà trường, có
ý thức phấn đấu vươn lên trong quá trình học tập, rèn luyện trong nhà trường.
Tuy nhiên, bên cạnh đại đa số học sinh có ý thức chấp hành tốt chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, nội quy, quy chế của Bộ
GDĐT và quy định của nhà trường vẫn còn một bộ phận nhỏ học sinh do nhận
thức còn chậm, việc chấp hành nội quy, quy chế chưa tốt, tư tưởng không vững
vàng dẫn tới kết quả rèn luyện không cao.
Nguyên nhân:
Công tác GDPL cho học sinh chưa được thường xuyên, liên tục.

Một số giáo viên chỉ giảng dạy chuyên môn, không quan tâm tới việc giáo
dục và quản lý học sinh, còn coi việc lên lớp của giáo viên chỉ là để giảng bài
theo chương trình, không chịu trách nhiệm giáo dục học sinh.
Một số GVCN chưa thực sự quan tâm tới lớp, tới từng học sinh, khi triển
khai các văn bản của nhà trường còn hạn chế, còn chủ quan, chỉ ngồi một chỗ
triển khai cho ban cán sự lớp, ban chấp hành chi đoàn, không trực tiếp triển khai
tới từng học sinh, thông qua ban cán sự lớp triển khai tới học sinh.
24


Sự phối hợp giữa Đoàn thanh niên, giáo viên chủ nhiệm chưa chặt chẽ, chưa
nhịp nhàng, do vậy nhiều hoạt động Đoàn thanh niên chỉ triển khai trực tiếp tới
đoàn viên không qua giáo viên chủ nhiệm, nhiều công việc triển khai bị chồng
chéo.
Nhiều hoạt động phong trào, hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao
còn mang tính thời vụ không thường xuyên liên tục, không thu hút được đông
đảo học sinh tham gia, chỉ tập trung vào những học sinh có năng khiếu bẩm sinh
cho nên kết quả rèn luyện không cao.
Nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức tổ chức GDPL cho học
sinh còn nghèo nàn, lạc hậu.
Một bộ phận học sinh sống buông thả, xem thường kỷ cương nề nếp nhà
trường: ăn chơi sa đà vào các tệ nạn xã hội dẫn tới vi phạm pháp luật, vi phạm
quy chế phải xử lý kỷ luật.
Qua quá trình thực hiện quy chế đánh giá kết quả rèn luyện học sinh, qua
khảo sát điều tra, theo dõi quá trình học tập, rèn luyện, tự rèn luyện, ý thức tổ
chức học sinh học sinh các trường THPT trên địa bàn thực hiện tốt kỷ cương, nề
nếp nhà trường, có ý thức phấn đấu vươn lên trong học tập, ra sức phấn đấu để
trở thành những người có ích cho xã hội và cho bản thân mình.
2.3. Đánh giá chung
2.3.1. Những mặt mạnh

Đội ngũ CBQL nhiều kinh nghiệm, nhiệt tình, chịu khó; đội ngũ giáo viên
dạy môn GDCD có tinh thần trách nhiệm cao trong giảng dạy và trong hoạt
động GDPL; đa số học sinh các trường có thái độ, động cơ học tập và rèn luyện
tốt; môi trường giáo dục lành mạnh tạo điều kiện thuận lợi để học sinh nỗ lực
học tập và rèn luyện, khắc phục khó khăn để vươn lên trong cuộc sống.
Đa số CBQL, giáo viên đều có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò và tầm
quan trọng trong GDPL cho học sinh tại trường THPT. Trong thời qua các
trường đã chủ động xây dựng nhiều nội dung và hình thức GDPL phong phú,
thực hiện nhiều biện pháp hữu hiệu GDPL cho học sinh góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện.
Hoạt động của Đoàn thanh niên ở các trường từng bước đổi mới về nội
dung và hình thức hoạt động, đã từng bước thu hút được nhiều học sinh tự giác
tham gia. Từ đó, giáo dục cho học sinh am hiểu về pháp luật, có thói quen chấp
hành pháp luật mọi lúc, mọi nơi qua đó hình thành những kỹ năng sống, phát
triển nhân cách cần thiết ở trong mỗi học sinh.
Nhiệm vụ phối hợp với các lực lượng ngoài nhà trường để GDPL cho học
sinh ngày càng được quan tâm nhiều hơn, chặt chẽ hơn, đã có tác dụng tích cực
trong việc phòng chống các tệ nạn xã hội đang tìm mọi cách xâm nhập vào học
đường.
Công tác GDPL được các trường coi trọng, GVCN và giáo viên bộ môn
25


×