Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Những giải pháp huy động vốn và đầu tư tín dụng ngân hàng nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn tỉnh cà mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (621.17 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM
----------------

CHÂU PHƯỚC THÀNH

NHỮNG GIẢI PHÁP HUY ĐỘNGVỐN
VÀ ĐẦU TƯ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
NHẰM THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ NÔNG THÔN TỈNH CÀ MAU

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Năm 2000


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu :
Nông nghiệp-nông thôn luôn là vấn đề trọng yếu của mỗi quốc gia. Việt Nam
cũng vậy, nông nghiệp vẫn được coi là mặt trận quan trọng, phát triển nông thôn
là vấn đề then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
Gần đây, nông nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng việc
mất cân đối trong cơ cấu kinh tế nông thôn đang là vấn đề hết sức cấp bách.
Chính vì vậy, chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông thôn có ý nghóa chiến lược đối với
nước ta. Để quá trình này có hiệu quả thì vốn là vấn đề cực kỳ quan trọng, là
khâu then chốt trong chuyển dòch cơ cấu kinh tế, trong đó phải kể đến vai trò của
tín dụng ngân hàng.
Đối với tỉnh Cà Mau, một khu vực có nhiều tiềm năng về kinh tế, thì tín
dụng ngân hàng càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết trong chuyển dòch cơ cấu
kinh tế.
Xuất phát từ thực tiển trên, tôi chọn đề tài “Những giải pháp huy động vốn


và đầu tư tín dụng ngân hàng nhằm thúc đẩy chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông
thôn tỉnh Cà Mau”
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu : luận văn tập trung nghiên cứu cơ cấu kinh tế ở
tỉnh Cà Mau, hoạt động huy động vốn và đầu tư tín dụng của ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Cà Mau cho các thành phần kinh tế ở tỉnh Cà
Mau trong quá trình chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông thôn.
+ Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian : chủ yếu nghiên cứu tỉnh Cà Mau.

1


Về thời gian : từ năm 1995 đến nay.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lòch sử,
logic, thống kê, so sánh và tổng hợp để chứng minh.
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu kham khảo và kết luận, luận văn
gồm 3 chương.
Chương 1: Vai trò của tín dụng ngân hàng với quá trình chuyển dòch cơ cấu
kinh tế nông thôn.
Chương 2:Thực trang hoạt động huy động vốn và đầu tư tín dụng ngân hàng
với quá trình chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông thôn ở tỉnh Cà Mau.
Chương 3: Những giải pháp huy động vốn và đầu tư tín dụng của ngân hàng
nhằm thúc đẩy chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông thôn ở Tỉnh Cà Mau.

2


CHƯƠNG 1

VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VỚI QUÁ TRÌNH
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN

1.1./ TÍNH TẤT YẾU CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG
THÔN:
Chuyển dòch cơ cấu kinh tế là một quá trình phức tạp và lâu dài. Trong
quá trình đó, tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng tác động tích cực
đến việc chuyển dòch.
1.1.1./ Vai trò của kinh tế nông thôn:
Kinh tế nông thôn là một khu vực quan trọng của mỗi quốc gia, nó biểu
hiện các hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra trên đòa bàn nông thôn bao gồm: Nông
- Lâm - Ngư - Công nghiệp - Dòch vụ. Như vậy, khu vực kinh tế nông thôn có vò
trí quan trọng trong nền kinh tế, trước hết là khu vực sản xuất và cung cấp lương
thực, thực phẩm cho dân cư toàn xã hội tồn tại và phát triển, cung cấp ngày càng
nhiều các nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, cung cấp nguồn lao động phong
phú cho khu vực thành thò và là thò trường rộng lớn để tiêu thụ sản phẩm công
nghiệp bao gồm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.
Trong những năm gần đây, nông nghiệp - nông thôn được xem là mặt trận
hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt nam. Nông nghiệp
đã có những thành tựu vượt bậc, mà thế giới phải khâm phục, từ chổ thiếu đói
trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới sau Thái Lan vào năm 1997, và
là ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tất cả các chỉ tiêu kinh tế - xã hội. Bộ mặt
nông thôn đã có chuyển biến đáng phấn khởi. Tuy nhiên, nhìn một cách toàn

3


diện, nông nghiệp nước ta vẫn chủ yếu là sản xuất nhỏ, lạc hậu, phân tán...
Trong đó, biểu hiện chủ yếu nhất là mất cân đối trong cơ cấu kinh tế.
Sản xuất cuả Việt Nam chủ yếu là nông nghiệp, khoảng 80% dân số tập

trung vào khu vực nông thôn, tốc độ tăng dân số bình quân 2% năm, riêng lao
động trong nông thôn tăng cao bình quân 2,7% năm, gây áp lực lớn về kinh tế xã hội cho khu vực này. Sản xuất chủ yếu là thuần nông nên lao động trong nông
nghiệp chuyển dòch sang ngành nghề khác không đáng kể, mặt khác thay đổi
ngành nghề cũng không phải là dễ dàng, nó đòi hỏi phải có vốn, kỹ thuật, kiến
thức, môi trường kinh tế xã hội nhất đònh, phụ thuộc vào tập quán truyền thống
của từng đòa phương, phụ thuộc vào cơ chế quản lý của nhà nước. Chính vì vậy,
để chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông thôn, nhà nước phải có đònh hướng, bảo trợ
sản xuất nông nghiệp, phân công lao động theo vùng, lãnh thổ hợp lý, hướng dẫn
người lao động phát triển ngành nghề phù hợp, đào tạo nghề, có chính sách
khuyến khích chuyển đổi nghề nghiệp trong nông thôn.
Gần đây, chính sách đổi mới đã tạo động lực to lớn cho kinh tế hộ, động
viên từng hộ bỏ vốn, sức lao động tối đa vào sản xuất và đã tạo ra những thành
tựu to lớn trong nông nghiệp, góp phần ổn đònh kinh tế - xã hội, đưa đất nước vào
giai đoạn phát triển mới theo hướng chuyển dòch dần cơ cấu kinh tế thuần nông
sang Công - Nông - Dòch vụ. Nhìn chung nông thôn Việt nam có những đặc điểm
kinh tế xã hội sau :
+ Nông nghiệp nước ta vẫn nghèo nàn lạc hậu, GDP/1ha đất nông nghiệp
là 650 USD/năm, GDP/người ở nông thôn 2,4triệu đồng/năm, thấp hơn 3,6 lần so
với thành thò, thấp hơn nhiều lần so với các nước khác trong khu vực.
+ Cơ cấu kinh tế nông thôn chậm chuyển dòch, đa số sản phẩm làm ra
chất lượng thấp, giá thành cao. Công nghiệp - dòch vụ mới chiếm 28 % trong cơ

4


cấu kinh tế nông thôn, còn nông nghiệp chiếm 72% .[51]
+ Các thành phần kinh tế chưa phát huy tác dụng. Trước đây, chỉ có hai
hình thức: Quốc doanh và tập thể, quản lý theo mô hình tập trung với thói quen ỷ
lại, kém năng động, không hiệu qủa. Hai thành phần đó chậm đổi mới, trong khi
đó, kinh tế hộ là đơn vò kinh tế tự chủ làm ăn có hiệu quả, nên số hộ giàu khá

tăng nhanh.
+ Đầu tư trong nông nghiệp - nông thôn đã được chú trọng, nhưng phân
bổ còn mất cân đối.
+ Quỹ đất nước ta hẹp, bình quân mỗi hộ 0,49 ha, thấp nhất thế giới, còn
tính trên lao động chỉ có 0,3ha/1 lao động. Lao động ở nông thôn ngày càng tăng,
quỹ đất lại giảm đi, mâu thuẫn này là một thách thức to lớn đối với nông
thôn.[141]
+ Thò trường nông thôn kém phát triển: vốn, ruộng đất manh mún, lao
động, công nghệ lạc hậu, thò trường tiêu thụ kém, sức mua thấp, chất lượng sản
phẩm không có khả năng cạnh tranh trên thế giới. Giá cả hàng công nghiệp và
hàng nông sản có khoảng cách xa là yếu tố kìm hãm sự phát triển nông thôn.
+ Cơ sở hạ tầng nông thôn yếu kém chưa đáp ứng yêu cầu của một nền
nông nghiệp sản xuất hàng hóa. Mạng lưới thủy lợi được mở rộng nhưng chưa
đồng bộ nên hiệu quả thấp. Điện cho nông thôn có bước tiến bộ nhưng chỉ mới
phục vụ cho đời sống sinh hoạt và thuỷ lợi, còn phục vụ cho công nghiệp, dòch vụ
còn ít, thiếu an toàn, mức tổn thất cao, cơ sở chế biến chưa hình thành hoạt động
kém hiệu quả.
+ Đời sống vật chất tinh thần của nông dân nông thôn vẫn còn nhiều khó
khăn, thiếu thốn, hộ nghèo trung bình còn chiếm tới 20%, hộ đói 4%. Theo chuẩn
mực của Bộ Lao Động Thương Binh Xã Hội thì hộ nghèo là hộ không có khả

5


năng tái sản xuất mở rộng, bình quân ở thành thò từ 1.8000.000đ/người/năm trở
xuống,nông thôn đồng bằng từ 1.200.000đ/người/năm trở xuống, nông thôn
miền núi từ 960.000đ/người/ tháng trở xuống. Hộ đói là hộ không đủ ăn, áo không
đủ mặc, con cái không được học hành, nhà ở rách nát thu nhập thấp . [Báo SGGP
ngày 04.11.2000]
Về văn hoá xã hội, giáo dục có phổ cập nhưng vẫn còn người mù chữ,

vùng sâu, vùng xa tỷ lệ bỏ học còn nhiều. Y tế có phát triển nhưng tỷ lệ bệnh tật,
trẻ suy dinh dưỡng còn cao. Tình hình dân chủ, công bằng, luật pháp kỷ cương
chưa đảm bảo, nạn chiếm đất, tham nhũng, buôn lậu, tệ nạn xã hội, mãi dâm, mê
tín dò đoan chưa giảm. Bộ máy quản lý hành chính nông thôn yếu kém chưa đáp
ứng nhu cầu xây dựng và phát triển nông thôn theo hướng Công nghiệp hóa, Hiện
đại hóa.
1.1.2./ Cơ cấu kinh tế nông thôn:
- Cơ cấu kinh tế :
Cơ cấu kinh tế của một nước là tổng thể những mối quan hệ giữa các bộ
phận hợp thành nền kinh tế bao gồm các lónh vực sản xuất, phân phối, trao đổi,
tiêu dùng; các ngành kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,
giao thông vận tải...); các thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể, cá thể, tư
nhân...); các vùng kinh tế.
Ở mỗi vùng, mỗi ngành cơ cấu kinh tế là biểu hiện tập trung của nó trong
điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Cơ cấu kinh tế của một nước được biểu hiện tập
trung trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước đó.
- Đặc trưng cơ cấu kinh tế:
Từ khái niệm trên, cơ cấu kinh tế có bốn đặc trưng sau:
+ Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan: Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải

6


phản ánh sự tác động của các qui luật khách quan, phản ánh sự tương quan giữa
các nguồn lực cuả một quốc gia. Ýù muốn chủ quan dù mạnh mẽ đến thế nào,
cũng không thể tách rời thực tế này. Vai trò của yếu tố chủ quan là thông qua sự
nhận thức ngày càng sâu sắc về những qui luật đó, để phân tích và đánh giá
những xu thế phát triển khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau mà tìm ra những
phương án thay đổi cơ cấu có hiệu quả, trong điều kiện cụ thể. Mọi ý muốn chủ
quan, bảo thủ trong việc tạo ra cơ cấu kinh tế mới thường dẫn đến hậu quả không

nhỏ đối với nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế tuy chòu sự tác động của yếu tố chủ quan như phân công
lao động, kế hoạch hoá, bảo đảm cân đối... nhưng không vì thế mà mất tính khách
quan của nó.
+ Cơ cấu kinh tế mang tính lòch sử - xã hội: Nền kinh tế chỉ phát triển, khi
giữa những bộ phận của quá trình tái sản xuất xã hội xác lập được những quan hệ
cân đối của phân công lao động xã hội. Giữa các nền sản xuất, những yêu cầu về
lượng thì có thể tương tự nhau, nhưng yêu cầu về chất, cách thức thực hiện tỉ lệ
cân đối thì khác nhau. Điều đó do qui luật đặc thù, trước hết là qui luật kinh tế cơ
bản của mỗi phương thức sản xuất qui đònh. Ngay trong cùng một hình thái kinh tế
- xã hội, ở những nước khác nhau cơ cấu kinh tế cũng có thể khác nhau, do điều
kiện kinh tế - xã hội không giống nhau.
+ Cơ cấu kinh tế mang tính biến đổi: Cơ cấu kinh tế luôn có sự chuyển
dòch, theo hướng ngày càng mở rộng và hoàn thiện để hình thành một cơ cấu hợp
lý. Đặc biệt, đối với những nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang kinh tế thò trường, thì chuyển dòch cơ cấu kinh tế càng phải nhanh và mạnh
hơn mới có thể thích nghi được với cơ chế mới.
+ Cơ cấu kinh tế là một quá trình xây dựng lâu dài: Cơ cấu kinh tế được
hình thành và xây dựng cùng với quá trình phát triển nền kinh tế, quá trình phân
công lao động xã hội dựa trên cơ sở kỹ thuật công nghệ ngày càng hiện đại. Mục

7


tiêu cuối cùng của chuyển dòch cơ cấu kinh tế là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh ”
- Phân loại cơ cấu kinh tế :
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ hợp thành nền kinh tế được
xem xét dưới nhiều góc độ: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ
cấu vùng,lãnh thổ.

+ Cơ cấu ngành kinh tế: là tổng thể các đơn vò kinh tế cùng thực hiện một
loạt chức năng trong hệ thống phân công lao động xã hội, nó được phân biệt theo
tính chất và đặc điểm của sản phẩm. Cơ cấu ngành quan trọng nhất là công nông nghiệp và dòch vụ. Cơ cấu ngành kinh tế phải được xác đònh trong tổng sản
phẩm xã hội và thu nhập quốc dân.
+ Cơ cấu thành phần kinh tế: Việc xác đònh và xây dựng cơ cấu thành
phần kinh tế là nhằm khai thác và phát huy sức mạnh tổng hợp các thành phần
kinh tế. Trong lòch sử phát triển kinh tế - xã hội của một nước, mỗi thành phần
kinh tế có vò trí quan trọng khác nhau trong nền kinh tế. Ở nước ta, thành phần
kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
+Cơ cấu vùng, lãnh thổ: Xây dựng cơ cấu vùng, lãnh thổ là nhằm khai
thác triệt để có hiệu quả các khả năng và thế mạnh của từng vùng kinh tế. Do đó
cơ cấu vùng lãnh thổ cần thiết phải bố trí theo cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu
thành phần kinh tế, vì vậy nhà nước cần có qui hoạch chiến lược và kế hoạch phát
triển phù hợp cho từng vùng, lãnh thổ.
Để hiểu được vò trí và vai trò của kinh tế nông thôn trong nền kinh tế
quốc dân, cần phải có căn cứ khoa học đúng đắn và phải thống nhất một số khái
niệm sau:
- Cơ cấu kinh tế nông thôn:

8


Kinh tế nông thôn là một khái niệm biểu đạt một tổng thể các hoạt
động kinh tế - xã hội diễn ra trên đòa bàn nông thôn bao gồm: Nông - Lâm - Ngư
- Công nghiệp - Dòch vụ. Như vậy, cơ cấu kinh tế được hiểu là tổng thể kinh tế,
bao gồm các mối quan hệ giữa các yếu tố và trong từng yếu tố của lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất thuộc khu vực kinh tế nông thôn trong khoảng thời gian
và điều kiện kinh tế - xã hội nhất đònh. Các mối quan hệ trong cơ cấu kinh tế
nông thôn phản ánh trình độ phát triển cuả phân công lao động theo ngành, lãnh
thổ, khi phân công lao động đạt trình độ cao thì cơ cấu kinh tế nông thôn càng đa

dạng phức tạp cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Ngoài những đặc trưng chung của cơ cấu kinh tế là mang tính khách quan,
mang tính lòch sử xã hội nhất đònh, luôn luôn vận động và phát triển gắn liền với
sự phát triển cuả các yếu tố của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã
hội, chuyển dòch từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp thì cơ cấu kinh tế nông
thôn còn có đặc trưng riêng chủ yếu biểu hiện trên các mặt: cơ cấu kinh tế nông
thôn được hình thành và vận động trên cơ sở của điều kiện tự nhiên và mức độ lợi
dụng, cải thiện điều kiện tự nhiên ( đất đai, thời tiết, vò trí điạ lý...)
Cũng giống như cơ cấu kinh tế chung, cơ cấu kinh tế nông thôn bao gồm:
cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế - kỹ
thuật.
Cơ cấu kinh tế kỷ thuật trong nông thôn mang nặng tính chất nông thôn cổ
truyền và nông nghiệp truyền thống. Trong nhiều thế kỷ nông thôn là khu vực
kinh tế lạc hậu, phân tán, manh mún và có tính chất bảo thủ. Về kỹ thuật có tính
cha truyền con nối, tự đào tạo và truyền khẩu cho nhau những kinh nghiệm truyền
thống trong gia đình, làng xã, với tư tưởng trọng nông khinh thươngï, quý nghiã
khinh lợi, ít tính toán đến hiệu qủa kinh tế. Chính tư tưởng truyền thống đã chi

9


phối phương thức kinh doanh của hộ, làm cho họ mang tính bảo thủ, ít thay đổi
kỹ thuật, lệ thuộc vào tự nhiên.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, đã
tác động tích cực vào nông nghiệp - nông thôn phá vỡ tính cổ truyền lạc hậu, trì
trệ, kỹ thuật và công nghệ mới từng bước hoà nhập vào nông nghiệp, tỷ lệ thuần
nông giảm nhanh, bộ mặt nông thôn thay đổi và xích gần với đô thò. Cơ giới hoá,
điện khí hoá nông thôn, phát triển mạnh mạng lưới giao thông, đưa công nghệ
sinh học, hoá học hóa, phát triển mạnh công nghiệp chế biến, đó là điều kiện để
thực hiện Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa.

- Chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông thôn:
Chuyển dòch cơ cấu kinh tế là quá trình làm thay đổi cấu trúc và các mối
quan hệ của hệ thống kinh tế theo một chủ đích và đònh hướng nhất đònh, nghiã là
đưa hệ thống kinh tế đến các trạng thái phát triển tối ưu, đạt được hiệu quả tổng
hợp mong muốn thông qua các tác động điều khiển có ý thức và vận dụng đúng
đắn các quy luật khách quan.
Cơ cấu kinh tế nông thôn biến đổi theo xu hướng có tính quy luật là giảm
tương đối và tuyệt đối số người lao động, với tư cách là lao động thứ yếu giảm,
tăng lao động thặng dư. Khi nào lao động trong nông nghiệp - nông thôn giảm
tuyệt đối thì mới bắt đầu có chuyển biến cách mạng trong cơ cấu kinh tế nông
thôn.
Cơ cấu kinh tế nông thôn hình thành và biến đổi gắn liền với sự ra đời và
phát triển cuả nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa. Kinh tế nông thôn mà chủ yếu
là nông nghiệp, khi chuyển sang nền sản xuất hàng hóa nhỏ rồi lên nền sản xuất
hàng hóa lớn thì cơ cấu kinh tế nông thôn mới được hình thành và vận động theo
hướng đa dạng có hiệu quả, phân cao lao động tỉ mỉ hơn, vật nuôi cây trồng có giá

10


trò cao hơn, ngành nghề khác được mở rộng hơn.
Để đánh giá trình độ và hiệu quả cơ cấu kinh tế, cần sử dụng một số chỉ
tiêu như : cơ cấu giá trò thu nhập các lọai sản phẩm, cơ cấu lao động, đầu tư, sử
dụng đất, năng suất cây trồng, vật nuôi, giá trò tổng thu nhập, hiệu quả vốn đầu
tư, năng suất lao động nông thôn. . .
1.1.3./ Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế nông thôn:
Cơ cấu kinh tế nông thôn phụ thuộc vào nhiều nhân tố đa dạng và phức
tạp có thể phân thành nhóm sau:
Nhóm nhân tố về đòa lý –tự nhiên: Điều kiện đất đai, khí hậu, thời tiếtù ý
nghóa to lớn đối với sản xuất nông nghiệp, là ngành có đối tượng sản xuất là

những sinh vật, phát triển theo qui luật tự nhiên mà nó tồn tại. Nếu điều kiện tự
nhiên thuận lợi thì con người có thể lợi dụng những yếu tố đầu vào, để tạo ra sản
phẩm với rủi ro và chi phí thấp nhất, có chất lượng cao, đủ khả năng cạnh tranh
trên thò trường.
Nhóm nhân tố kinh tế –tổ chức: Đây là nhóm nhân tố liên quan đến thò
trường và các nguồn lực chủ yếu, có ý nghóa vô cùng quan trọng trong việc phát
triển kinh tế nói chung và phát triển nông nghiệp - nông thôn nói riêng. Chính vì
vậy, hệ thống chính sách kinh tế vó mô của nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến
việc xây dựng và chuyển dòch cơ cấu kinh tế bao gồm: chính sách phát triển kinh
tế hàng hoá, chính sách khuyến khích xuất khẩu và đầu tư, hình thành vùng
chuyên môn hóa trong nông nghiệp với qui mô ngày càng lớn.
Nhóm nhân tố về kỹ thuật: Ứng dụng khoa học kỹ thuật vào quá trình sản
xuất, sẽ tác động mạnh mẽ đến việc hình thành và chuyển dòch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, mở ra triển vọng lớn cho việc áp dụng công nghệ mới vào sản xuất,
chế biến bảo quản nhằm nâng cao năng suất - chất lượng sản phẩm, góp phần hòa

11


nhập vào thò trường thế giới. Nhóm nhân tố này bao gồm: Cơ sở hạ tầng, khoa
học công nghệ.
Nhóm nhân tố về hợp tác, phân công lao động: Tính đa dạng của nhu cầu
và điều kiện sản xuất ở mỗi nước đòi hỏi phải có sự trao đổi kết quả hoạt động
với nhau trong mức độ phạm vi khác nhau. Quá trình tham gia vào phân công lao
động quốc tế dưới nhiều hình thức sẽ tăng sự thích ứng và phù hợp với kinh tế thế
giới và khu vực.
1.1.4./ Tính tất yếu của chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông thôn:
- Những tồn tại trong cơ cấu kinh tế nông thôn:
+ Mất cân đối trong nội bộ ngành: Nông nghiệp chưa thoát khỏi tình trạng
độc canh tự cấp, tự túc, trình độ sản xuất hàng hoá thấp, tính quãng canh còn phổ

biến, hiệu quả kinh tế kém, phần lớn diện tích là trồng trọt, do vậy phần lớn giá
trò tổng sản phẩm là từ sản xuất lương thực.
Kinh tế nông thôn với điểm xuất phát thấp. Cơ cấu kinh tế nông thôn cơ
bản vẫn là thuần nông, 80% dân số làm nông nghiệp và sống bằng nghề nông, cơ
cấu kinh tế tuy có hướng chuyển dòch theo hướng tiến bộ, nhiều hoạt động phi
nông nghiệp có chiều hướng tăng lên nhưng nhìn chung còn chiếm tỷ trọng thấp.
Cơ cấu kinh tế còn độc canh cây lúa là yếu tố làm hạn chế việc phát huy lợi thế
so sánh giữa các vùng sinh thái.
+ Mất cân đối cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn. Ngành nông nghiệp
phát triển chủ yếu ở vùng nông thôn rộng lớn nhưng chưa gắùn với kinh tế nông
thôn. Kinh tế nông thôn bao gồm cả công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao
thông liên lạc, thương mại, dòch vụ. Nhưng điều kiện vùng nông thôn còn khó
khăn, sản xuất nặng tính thuần nông, tự cung tự cấp, giao thông kém, gây trở ngại
cho việc chuyên chở vật tư, tiêu thụ nông sản, làm tăng thêm tính khép kín của

12


nông nghiệp. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp còn yếu kém làm cho sản xuất
ở nông thôn phải duy trì kéo dài tình trạng xuất bằng thủ công.
+ Khoa học công nghệ trong nông nghiệp - nông thôn còn lạc hậu, kém
phát triển. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chưa được công nghiệp hoá, do vậy, cơ sở
vật chất kỹ thuật phục vụ cho sản xuất còn ở trình độ thấp kém. Công nghiệp
phục vụ sau thu hoạch còn yếu kém cũng làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản
phẩm.Vì vậy phần lớn nông sản xuất khẩu đều dưới dạng thô hiệu qủa kinh tế
thấp. Giống luá có tiến bộ nhưng chất lượng xuất khẩu chưa cao, do chỉ chú trọng
đến năng suất mà chưa quan tâm đến chất lượng. Bên cạnh đó giống cây màu,
cây công nghiệp, rau quả, lâm nghiệp...còn chưa được chú ý.
Những nguyên nhân quan trọng đó làm cho năng suất, chất lượng cây
trồng, vật nuôi của nông nghiệp nước ta còn thấp so với các nước trên thế giới và

cả trong khu vực.
+ Mâu thuẩn giữa tính chất và hình thức tổ chức sản xuất. Cơ cấu kinh tế
nông nghiệp có đổi mới đã tạo ra được những thành tựu to lớn là lấy hộ gia đình
làm đơn vò kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Điều này đã làm cho quá
trình chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông nghiệp được nhanh chóng. Trong khi đó,
các hợp tác xã vẫn còn mang tính chất hình thức, các đơn vò quốc doanh sản xuất,
dòch vụ thua lỗ nhưng vẫn tồn tại, mang tính thách thức trong sản xuất nông
nghiệp
+ Hạn chế của chính sách vó mô. Các chính sách kinh tế - xã hội chưa
đồng bộ đã gây trở ngại cho việc chuyển dòch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ. Nông
nghiệp đã đóng góp 40 - 50% thu nhập quốc dân, nhưng đầu tư chỉ từ 15 - 20%
tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản là chưa thỏa đáng.
+ Công nghiệp chưa kết hợp với nông nghiệp. Công nghiệp chưa gắn với

13


nông nghiệp để hình thành cơ cấu kinh tế có hiệu qủa và phát triển bền vững,
đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế lâu dài.
- Tính tất yếu của chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông thôn:
Tình hình thế giới đòi hỏi nước ta phải nhận thức rõ, và xây dựng cơ cấu
kinh tế như thế nào để không bò lạc hậu mà còn phải tận dụng lợi thế của nước đi
sau. Trong thập kỷ gần đây, các nước thuộc vùng Châu Á Thái Bình Dương đã tận
dụng được lợi thế so sánh để phát triển kinh tế của mình và đạt được mức tăng
trưởng khá nhanh. Tuy nhiên các lợi thế này ngày càng giảm dần, giá nhân công
ngày càng tăng làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm do giá thành tăng
nhanh. Mặt khác do sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ đã tạo
ra lónh vực công nghệ mới có hiệu quả, tiết kiệm được tài nguyên, bảo vệ môi
sinh.
Trong bối cảnh chung đó, mặc dù những năm qua chúng ta đã đạt được

một số kết quả về mặt kinh tế cũng như xã hội, nhưng xét về cơ bản nước ta vẫn
là nước nông nghiệp lạc hậu và là nước nghèo vào loại nhất thế giới. Do đó,
chúng ta còn phải phấn đấu hơn nữa. Mục tiêu chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông
thôn là tạo cho nền nông nghiệp Việt Nam phát triển toàn diện, đạt hiệu quả kinh
tế cao nhất trên cơ sở đảm bảo an toàn lương thực quốc gia tăng thu nhập, cải
thiện đời sống vật chất, văn hoá tinh thần ở nông thôn, góp phần tích lũy, phục vụ
cho công nghiệp hóa đất nước. Việc chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông thôn là
nhằm đáp ứng công cuộc đổi mới chuyển nền kinh tế nước ta sang nền sản xuất
hàng hoá gồm nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế hộ gia đình giữ vai trò
vô cùng quan trọng trong phát triển nông nghiệp hiện nay
Nông nghiệp - nông thôn, nông dân đang thiếu vốn đầu tư để hoạt động
sản xuất, dòch vụ, thay đổi ngành nghề, thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn trong

14


suốt thời gian qua. Muốn thực hiện Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa nông thôn,
chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông thôn ngoài phần tạo nguồn vốn từ nông thôn (
bằng phát triển sản xuất tăng thu nhập, tiết kiệm tiêu dùng tăng để dành), cần
phải tranh thủ đầu tư vốn từ nguồn bên ngoài: Đầu tư ngân sách trung ương và điạ
phương, vốn nước ngoài, vốn vay từ khu vực đô thò để cho vay khu vực nông thôn.
Do vậy, để đạt được những yêu cầu trên thì vai trò cuả tín dụng ngân
hàng là hết sức cần thiết trong việc huy động vốn, tạo động lực cho tiến trình
Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa nông thôn.
1.2./ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VỚI QÚA TRÌNH CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN.
1.2.1./ Tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ra đời từ khi xã hội có sự phân công lao động và xuất hiện chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Cùng với sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên
thủy, các quan hệ sản xuất mới ra đời, lực lượng sản xuất phát triển là điều kiện

cho sự phân công lao động phát triển, hình thành sự phân hoá xã hội: của cải tập
trung vào tay người giàu, có quyền thế, trong khi đó người nghèo không đủ thu
nhập để đáp ứng nhu cầu tối thiểu của đời sống. Mặt khác do điều kiện thiên
nhiên, điều kiện sản xuất luôn luôn có rủi ro, đòi hỏi phải có sự vay mượn nhau
để điều hoà cuộc sống. Hình thức tín dụng sơ khai bằng hiện vật xuất hiện.
Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, thì quan hệ tín dụng càng được
mở rộng. Do nhu cầu về đầu tư tìm kiếm lợi nhuận, nhu cầu tiêu dùng ngày càng
gia tăng. Đặc điểm của tuần hoàn vốn là có những xí nghiệp lúc này đang thừa
vốn, nhưng có xí nghiệp khác có nhu cầu bổ sung nguồn vốn. Do đó đòi hỏi phải
có tín dụng làm cầu nối giữa nơi thừa và nơi thiếu.
Trong cơ chế thò trường, nhu cầu vốn đòi hỏi phải có nguồn vốn để đáp

15


ứng việc mở rộng sản xuất, tái sản xuất tài sản cố đònh Nguồn vốn đáp ứng này
là nguồn vốn tiết kiệm trong toàn xã hội: vốn tiết kiệm cá nhân, các doanh
nghiệp, ngân sách nhà nước. Như vậy sự phát triển của tín dụng là xuất phát từ
nhu cầu tiết kiệm và đầu tư, vậy tín dụng cũng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu
tư.
Tín dụng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau nhưng bất kỳ
phương thức nào, tín dụng biểu hiện ra ngoài như là sự vay mượn lẫn nhau tạm
thời một số tiền tệ. Bản chất của tín dụng được biểu hiện trong quá trình hoạt
động của tín dụng và mối quan hệ của nó với quá trình tái sản xuất.
- Một số quan điểm về tín dụng:
+ Tín dụng được coi là sản phẩm của quá trình chuyển giao tài chính. Qúa
trình này có nhiều chủ thể tham gia và quan điểm này bao gồm tiết kiệm, người
đi vay và tổ chức cho vay. Do vậy cần phân tích rõ hành vi chủ thể và các yếu tố
của thò trường tài chính - tín dụng nông thôn.
+ Qũy vốn cho vay phải hình thành chủ yếu từ nguồn vốn tiết kiệm. Cần

áp dụng chính sách khuyến khích tiết kiệm và huy động tiền gửi tiết kiệm một
cách hợp lý, do vậy cần phải có:
* Chính sách tạo ra cơ hội tiết kiệm tốt, giúp cho các tầng lớp dân cư đều
có điều kiện tiết kiệm, kể cả những người nghèo, hơn là áp dụng lãi suất thấp đễ
cho người nghèo thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói.
* Huy động tiết kiệm tốt còn là yếu tố bảo đảm sự phát triển bền vững
của các tổ chức tín dụng, giảm được sự phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài, đáp
ứng vốn cho khách hàng, giảm chi phí, tránh khả năng đổ vỡ của tín dụng.
* Huy động tiết kiệm tốt đồng thời cũng có nghiã là nguồn vốn trong xã
hội được sử dụng tốt có hiệu qủa hơn, không sử dụng vốn vào nhu cầu không cần

16


thiết, cho những dự án không hiệu quả.
* Các tổ chức tín dụng tự đảm bảo về khả năng tài chính và phát triển
nghiã là phải tự bù đắp chi phí và có lãi hợp lý, nhằm góp phần ổn đònh thò trường
tài chính - nông thôn, ổn đònh kinh tế vó mô của nền kinh tế.
Như vậy, khác với lý thuyết truyền thống, lý thuyết mới về thò trường tài
chính nông thôn ở các nước đang phát triển đặc biệt chú ý đến hiệu qủa của thò
trường tài chính - tín dụng nông thôn, với những tổ chức tín dụng phát triển bền
vững. Quan điểm này cho rằng: Lãi suất thực tế dương, huy động tiền gửi tiết
kiệm, giảm bớt hoặc xoá bỏ tín dụng chỉ đònh.
Các lý thuyết về thò trường tài chính - tín dụng nông thôn có khác nhau
nhưng vận dụng có hiệu quả hay không còn tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế chính trò - xã hội của mổi nước.
Ngoài việc nghiên cứu các lý thuyết, chúng ta cần phải học hỏi kinh
nghiệm của một số nước trong việc huy động vốn phục vụ cho nhu cầu phát triển
nông nghiệp - nông thôn qua kênh tín dụng.
Như vậy tín dụng là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi
vay, là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trò hay hiện vật theo

những điều kiện mà hai bên thoả thuận. Quan hệ kinh tế trên được thông qua sự
vận động giá trò vốn tín dụng qua các giai đoạn:
@ Giai đoạn phân phối vốn tín dụng: Giai đoạn này vốn tiền tệ hoặc giá
trò vật tư hàng hoá đưọc chuyển từ người này đến người khác bằng hành vi cho
vay và đi vay.
@Giai đoạn sử dụng vốn tín dụng: Ở giai đoạn này vốn vay được sử dụng
trực tiếp (nếu vay bằng hiện vật) hoặc vốn vay được sử dụng để mua hàng hoá
(vay bằng tiền) để thoả mãn nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng của người đi vay.

17


Tuy nhiên người đi vay không có quyền sở hữu về giá trò đó mà chỉ có quyền sử
dụng tạm thời trong một thời gian nhất đònh.
@ Giai đoạn hoàn trả vốn tín dụng: Là giai đoạn kết thúc một vòng tuần
hoàn của tín dụng, nghóa là sau khi hoàn thành một chu kỳ sản xuất T-H-T để trở
về hình thái tiền tệ, thì vốn tín dụng được hoàn trả cho người cho vay.
Như vậy, bản chất của tín dụng là hoàn trả và là cơ sở để phân biệt với
phạm trù kinh tế khác, là quá trình quay trở về với tư cách là một lượng giá trò
vận động, cho nên sự hoàn trả luôn luôn phải đảm bảo giá trò và có phần tăng
thêm dưới hình thức lợi tức. Trong trường hợp có lạm phát sự hoàn trả về mặt giá
trò cũng phải được tôn trọng, thông qua cơ chế điều tiết bằng lãi suất, tiền đi vay
có đặc điểm là quay về với điểm xuất phát thì vẫn còn nguyên vẹn giá trò của nó
và đồng thời lại lớn thêm trong quá trình vận động.
- Hình thức của tín dụng:
Trên thực tế còn tồn tại nhiều hình thức tín dụng khác nhau nhưng có thể
chia ra các hình thức sau:
+ Xét theo tính chất pháp lý: Có hai hình thức đó là hình thức tín dụng
chính thức và hình thức tín dụng không chính thức:
* Tín dụng chính thức là các hình thức tín dụng được pháp luật thừa nhận

bao gồm: Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng
liên doanh, Ngân hàng cổ phần, Hợp tác xã tín dụng và các tổ chức trung gian tài
chính khác.
Tín dụng chính thức là nguồn cung ứng vốn lớn nhất và dần dần chiếm
lónh thò trường nông thôn rộng lớn mà NHNo & PTNT VN là nòng cốt, có mạng
lưới rộng khắp toàn quốc. Hình thức này đang hoạt động mạnh mẽ và thực sự
mang lại lợi ích cho kinh tế hộ, kinh tế nông thôn, thúc đẩy kinh tế phát triển, làm

18


cầu nối giữa sản xuất và lưu thông hàng hoá.
* Tín dụng không chính thức: (tín dụng ngầm) là hình thức tín dụng
không được luật pháp thừa nhận. Hình thức tín dụng này ra đời và tồn tại gắn liền
với lòch sử phát triển của loài người. Do xuất hiện sự phân chia giai cấp dẫn đến
tình trạng có người giàu, người nghèo từ đó nẩy sinh quan hệ vay mượn lẫn nhau.
Hình thức này tồn tại phổ biến trong nông thôn nước ta và phát triển tương đối
mạnh dưới các dạng: Cho vay bằng tiền lãi suất cao 5 -> 10 % tháng. Cho thuê
ruộng theo vụ: 1 công = 2 giạ lúa/vụ. Cho vay bằng vàng lãi suất 3->7%. Cho vay
phân: 01 bao Urê cuối vụ trả 6 - 10 giạ lúa. Bán lúa non lãi suất 7- 15%. Cho vay
ngày lãi suất 1->3% ngày.
Hình thức này thường tồn tại trong nền sản xuất kém phát triển, sản xuất
hàng hoá chưa phát triển. Để duy trì mức sống bình thường tối thiểu, người ta đi
vay với bất kỳ hình thức nào, với mức lãi suất nào cũng được. Do đó, hình thức
này kiềm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Xét theo thời hạn tín dụng:
* Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng dưới một năm, thường để cho vay bổ
sung vốn lưu động phục vụ cho sản xuất, kinh doanh của các tổ chức kinh tế, các
hộ sản xuất.
* Tín dụng trung hạn là loại tín dụng từ 1-5 năm, loại tín dụng này cung

cấp để mua sắm tài sản cố đònh, cải tiến và đổi mớikỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ
tầng.
* Tín dụng dài hạn là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm nhằm đầu tư
xây dựng mới, thay đổi qui trình công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
+ Xét theo đối tượng:

19


* Tín dụng vốn lưu động là loại tín dụng để hình thành vốn lưu động của
các tổ chức kinh tế dùng để dự trữ vật tư, hàng hoá...., thường dùng để bù đắp
vốn lưu động tạm thời thiếu hụt, bao gồm cho vay dự trử, cho vay chi phí sản
xuất, cho vay thanh toán các khoản nợ.
* Tín dụng vốn cố đònh là loại tín dụng hình thành nên vốn cố đònh nhằm
đầu tư xây dựng mới, thay đổi qui trình công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật phục vụ cho sản xuất kinh danh theo đònh hướng chung. Thời hạn cho vay
loại này là tín dụng trung dài hạn.
+ Theo mục đích sử dụng vốn:
* Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá là loại tín dụng cho các nhà
doanh nghiệp tiến hành sản xuất và kinh doanh hàng hoá.
* Tín dụng tiêu dùng là loại tín dụng cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng, sinh hoạt trong gia đình hay cá nhân.
+ Căn cứ vào chủ thể quan hệ tín dụng:
* Tín dụng thương mại là quan hệ giữa các nhà doanh nghiệp được biểu
hiện dưới hình thức bán chòu hàng hoá. Nguyên nhân là do sự cách biệt giữa sản
xuất và tiêu thụ hàng hoá: Người sản xuất cần tiêu thụ sản phẩm còn người tiêu
thụ chưa có tiền thanh toán, do vậy hành vi bán chòu xảy ra và đựơc gọi là tín
dụng thương mại. Đến hạn người mua phải thanh toán cùng với phần lãi suất.
* Tín dụng ngân hàng:

Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín
dụng khác với các doanh nghiệp và cá nhân. Ngân hàng vừa là người đi vay vừa
là người cho vay.
* Tín dụng nhà nước: là quan hệ tín dụng mà nhà nước là người đi vay
nhân dân, các tổ chức kinh tế, ngân hàng và nước ngoài .
Trong các hình thức tín dụng trên, luận án chỉ đề cập đến hình thức tín

20


dụng ngân hàng liên quan đến quá trình chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông thôn ở
nước ta nói chung và ở tỉnh Cà mau nói riêng.
1.2.2./ Vai trò của tín dụng ngân hàng với qúa trình chuyển dòch cơ cấu
kinh tế nông thôn:
Nước ta đang chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thò trường
có sự điều tiết của Nhà nước. Trong tình hình đó, để phù hợp với nền kinh tế thò
trường, hệ thống ngân hàng cũng thay đổi thành hệ thống ngân hàng hai cấp,
nhằm tách hẳn chức năng kinh doanh và chức năng quản lý của Nhà nước. Chính
vì lẽ đó, vai trò của tín dụng ngân hàng có sự thay đổi về chất, không như trước
đây tín dụng được xem như là một công cụ cấp phát của Nhà nước.
Tín dụng ngân hàng thực sự là đòn bẩy kinh tế, là động lực thúc đẩy sản
xuất phát triển, tạo khả năng tăng trưởng kinh tế. Tín dụng ngân hàng có vai trò
quan trọng để chuyển nền kinh tế tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá, thúc đẩy
sự chuyển dòch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa. Riêng
đối với nông nghiệp tín dụng ngân hàng có thể coi là yếu tố cực kỳ quan trọng để
phát triển nông nghiệp - nông thôn điều đó thể hiện như sau:
- Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn cho sản xuất. Tín dụng ngân
hàng đóng vai trò trung gian của các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi ngắn hạn
và dài hạn trong nền kinh tế quốc dân, được khai thác và sử dụng triệt để mang
lại hiệu quả kinh tế xã hội cao.

Hoạt động của tín dụng ngân hàng bao gồm tập trung vốn tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi chưa sử dụng, để cho các đơn vò sản xuất kinh doanh, hộ sản xuất vay
nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tín dụng ngân hàng đáp ứng được nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất
mở rộng với qui mô ngày càng lớn cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Việc tập trung
vốn và phân phối tín dụng đã góp phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế từ
nơi thừa sang nơi thiếu.

21


Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung tư liệu sản
xuất, sức lao động, vốn... đưa nông nghiệp lên sản xuất hàng hoá. Vốn ngân
hàng đã tạo ra sức sống mới cho nông thôn, đưa hộ khá lên giàu, hộ nghèo lên
khá hơn. Trong qúa trình đó, có những hộ phải thay đổi ngành nghề, bán tư liệu
sản xuất cho những hộ có điều kiện và khả năng sản xuất, do vậy làm cho quá
trình tích tụ tập trung tư liệu sản xuất, vốn diễn ra nhanh hơn.
- Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế và là công cụ thúc
đẩy ngành kinh tế mũi nhọn phát triển. Trong điều kiện hiện nay cần quan tâm
đến CNH - HĐH nông nghiệp - nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư
nghiệp, gắn với chế biến nông, lâm, thủy sản, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu, mở rộng thương nghiệp, du lòch, dòch vụ ở cả thành thò và nông thôn,
đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngọai.
- Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao trình độ quản lý, tăng cường chế
độ hạch toán kinh tế. Đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở
hoàn trả có lợi tức, do vậy, hoạt động tín dụng phản ánh phần nào kết quả sản
xuất kinh doanh của đơn vò. Chất lượng tín dụng của ngân hàng còn thể hiện
được sự hoạt động của nền kinh tế. Nguyên tắc hoàn trả, đã thúc đẩy nông dân
nâng cao trình độ sản xuất, tăng cường khả năng hạch toán, nhằm mục đích đạt
được kết qủa cao, giảm chi phí, tạo tâm lý tiết kiệm tập trung vốn cho sản xuất.

- Kết hợp giữa lãi suất và tín dụng là công cụ điều tiết vó mô của Nhà
nước. Chuyển sang nền kinh tế thò trường có sự điều tiết của Nhà nước, lãi suất
và tín dụng là công cụ quan trọng nhằm điều tiết hoạt động kinh tế. Sử dụng công
cụ này khuyến khích tiết kiệm, tiêu dùng, tăng cường đầu tư trong tất cả mọi lónh
vực, mọi thành phần kinh tế, vùng kinh tế theo đònh hướng chung: đẩy lùi lạm
phát, tăng trưởng kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện xây dựng nền kinh tế mới. Trong điều
kiện quốc tế hoá, nền kinh tế của một nước luôn luôn gắn với thò trường thế giới.

22


Chính sách mở cửa của ta nhằm mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Vì
vậy, tín dụng ngân hàng phải trở thành một trong những phương tiện nối liền
kinh tế các nước với nhau trong phân công và hợp tác quốc tế
- Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy và hình thành thò trường vốn, thò
trường tài chính, thò trường nông thôn. Nông nghiệp nước ta chiếm hơn 80% dân
số, hơn 12 triệu hộ làm nghề nông, lâm, ngư nghiệp, đã sản xuất ra gần 50% tổng
sản phẩm xã hội. Chuyển sang sản xuất hàng hoá thì vấn đề đặt ra là phải hình
thành hệ thống thò trường đồng bộ ở nông thôn, vì đây là một đòa bàn rộng lớn:
vừa tiêu thụ hàng hoá và dòch vụ của ngành công nghiệp, vừa cung cấp nông sản
tiêu dùng cho cả nước, cung ứùng nguyên liệu cho công nghiệp, cung cấp nguồn
lao động dồi dào cho ngành nghề khác.
Thò trường tài chính nông thôn bao gồm thò trường vốn và hoạt động tín
dụng, là “cầu nối” trung gian giữa những người thiếu vốn và thừa vốn, nhằm phục
vụ cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá được nhanh chóng. Trong việc
điều hoà vốn hệ thống NHNo & PTNT có nhiều khả năng hơn vì có chân rết đến
tận huyện, xã, khu vực và cũng có thể có quỹ tín dụng nông thôn. Hoạt động tín
dụng đã hình thành và đẩy mạnh sự phát triển của thò trườngvốn, tín dụng nông
thôn.

- Tín dụng ngân hàng góp phần khai thác mọi tiềm năng về đất đai, lao
động, tài nguyên thiên nhiên.... Trong kinh tế thò trường, nông dân luôn tính toán
sản xuất cái gì, cho ai và sản xuất như thế nào?, do đó, tín dụng đã thúc đẩy cho
họ khai thác mọi tiềm năng nhằm giảm chi phí, đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Tín dụng ngân hàng góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng, góp phần tạo
điều kiện cho nông dân tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất
và đời sốngï. Đồng thời, tín dụng ngân hàngtham gia hỗ trợ xây dựng các cơ sở hạ
tầng phục vụ sản xuất, đời sống, đặc biệt là luân chuyển hàng hoá, xoá dần sự
cách biệt giữa thành thò và nông thôn.

23


- Tín dụng ngân hàng góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn, mang lại
hiệu quả cao về mặt xã hội. Nhờ tất cả những tác dụng trên, tín dụng ngân hàng
như luồng sinh khí mới thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển nhanh, sự tách
biệt giữa nghèo và giàu giảm dần đời sống nông thôn được nâng lên một bước.
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy ngành nghề phát triển giải quyết lao động thừa
trong nông thôn, hạn chế việc di dân vào thành phố, tăng thu nhập và nâng cao
đời sống văn hoá, kinh tế.
Phần lý luận trên đã chỉ rõ vai trò của tín dụng ngân hàng trong quá trình
chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông thôn. Do vậy, việc nghiên cứu thực trạng kinh tế
nông thôn tỉnh Cà mau và vai trò đòn bẩy của tín dụng ngân hàng nhằm thúc đẩy
quá trình chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông thôn vùng này đạt hiệu quả, sẽ tiếp tục
nghiên cứu ở chương sau.

24



×