Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố hồ chí minh thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.7 KB, 66 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------------------------------

NGÔ ANH

RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

CHUYÊN NGÀNH : QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ : 5.02.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

: TIẾN SĨ NGUYỄN QUANG THU

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2000
3


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VÀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH
DOANHCỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

3


1.1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI – CÁC CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI :

1.1.1.Khái niệm về ngân hàng thương mại : ...........................................3
1.1.2.Chức năng của ngân hàng thương mại : ........................................4
1.1.3.Các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng thương mại – Ý nghóa của
hoạt động tín dụng : ...................................................................................6
1.2.RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG : 9
1.2.1.Khái niệm rủi ro : ..........................................................................9
1.2.2.Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại :.10
1.2.3.Vấn đề quản lý rủi ro tín dụng : ..................................................15
CHƯƠNG 2 : PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1.SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM :

17

2.1.1.Giai đoạn trước 1988 : .................................................................17
2.1.2.Giai đoạn từ 1988 đến 1997 :.......................................................17
2.1.3.Giai đoạn từ 1998 đến nay :.........................................................18
2.2.PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NHỮNG NĂM QUA : 19

2.2.1.Tình hình kinh tế xã hội thành phố Hồ Chí Minh :.......................19
2.2.2.Tình hình hoạt động ngân hàng : ................................................21
2.3.THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH :

23


2.4.NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY RỦI RO TÍN DỤNG :

26

2.4.1.Nguyên nhân vó mô : ....................................................................26
4


2.4.2.Nguyên nhân vi mô : ....................................................................29
2.5. ĐÁNH GIÁ CHUNG :
33
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.

35

3.1. CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA RỦI RO TÍN DỤNG :

35

3.2. CÁC GIẢI PHÁP XỬ LÝ RỦI RO TÍN DỤNG :

38

3.3. CÁC GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU RỦI RO KHÁC :
3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

39
46


3.4.1. Về việc quản lý và điều hành của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam :
46
3.4.2. Về vấn đề quản lý Nhà Nước đối với hoạt động của ngân hàng
thương mại :..............................................................................................50
3.5. ĐÁNH GIÁ CHUNG
53
PHẦN KẾT LUẬN :

54

TÀI LIỆU THAM KHẢO

5


LỜI MỞ ĐẦU
I./ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI :
Lòch sử hoạt động của ngành ngân hàng trên thế giới đã từng ghi nhận
những vụ sụp đổ của nhiều hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng tạo nên các
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, gây ra những biến động lớn cho nền kinh tế và
chính trò ở nhiều quốc gia và khu vực như cuộc khủng hoảng tài chính 1929-1933,
sự đổ vỡ hệ thống quỹ tín dụng ở Albani đầu thập niên 90 và gần đây là khủng
hoảng tài chính ở châu Á làm rung chuyển cả hệ thống tài chính thế giới,… Ở Việt
Nam cũng đã từng có những “cơn bão tín dụng” gây tác hại không nhỏ đến sự
phát triển của nền kinh tế quốc gia như sự phá sản hàng loạt của các hợp tác xã
tín dụng với quy mô toàn quốc năm 89-90 và sự kiện một số ngân hàng thương
mại cổ phần liên tiếp bò xoá sổ thời gian gần đây cũng tạo ảnh hưởng bất lợi nhất
đònh cả về xã hội nói chung cũng như hoạt động của ngành ngân hàng Việt Nam
nói riêng.

Ngành ngân hàng Việt Nam, với đặc điểm có tỉ trọng về hoạt động tín dụng
chiếm đa số trong tổng nguồn vốn kinh13, trong thời gian qua, mặc dù đã có những
kinh nghiệm hoạt động nhất đònh, đã phải rất đau xót mà xoá đi nhiều khoản nợ
khó đòi và chắc chắn sẽ còn phải tiếp tục như vậy trong tương lai. Tuy nhiên, nếu
phát sinh nợ khó đòi là điều không thể tránh được thì việc nghiên cứu rủi ro, nhận
diện và hạn chế chúng lại là điều hoàn toàn có thể làm được. Nếu đối mặt với
những dấu hiệu báo trước mà không rút được kinh nghiệm và không kòp thời có
biện pháp xử lý thì sẽ khó có thể tránh khỏi những thất bại đáng tiếc.
Với sự non yếu về bề dày kinh nghiệm, về sức chòu đựng, lại đang hoạt
động trong một môi trường kinh tế với nhiều áp lực cạnh tranh và đầy rủi ro, vấn
đề quản lý rủi ro hiện tại là công việc có ý nghóa hết sức to lớn, trong đó quản lý
rủi ro tín dụng chiếm vai trò quan trọng hàng đầu. Ý thức được tính cấp thiết của
vấn đề, chúng tôi đã chọn đề tài :
“Rủi ro tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại trên đòa bàn
thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp”.

6


II./ MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU :
ƒ Nhận thức về nguyên tắc và góp phần hoàn thiện những lý luận cơ bản
về hoạt động tín dụng, rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng.
ƒ Phân tích thực trạng và xác đònh nguyên nhân rủi ro tín dụng trên đòa
bàn thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua, từ đó đề ra một số biện pháp
và kiến nghò cụ thể nhằm hạn chế rủi ro tín dụng.

III./ ĐỐI TƯNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
Nội dung của bài viết có liên quan đến nhiều lónh vực khác nhau như tài
chính - tín dụng, kế toán, thanh tra,… nhưng việc phân tích sẽ tập trung đến các đối
tượng cụ thể là các hoạt động về tín dụng cũng như phòng chống rủi ro tín dụng

của các ngân hàng thương mại trên đòa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong hoạt
động kinh doanh của mình 10 năm qua.

IV./ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã kết hợp phương pháp lòch sử, so
sánh, với những số liệu thống kê, các báo cáo của Ngân hàng Nhà Nước, các
văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động ngân hàng để đi từ những cơ sở
lý thuyết đến hoạt động thực tế, từ đó rút ra những biện pháp khả thi phù hợp
với tình hình.

V./ KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN :
-

Lời mở đầu

-

Chương 1 : Một số khái niệm cơ bản về ngân hàng thương mại và rủi ro tín
dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.

-

Chương 2 : Phân tích hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng trong các ngân hàng
thương mại trên đòa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

-

Chương 3 : Một số biện pháp quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương
mại thành phố Hồ Chí Minh.


-

Kết luận

7


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ RỦI
RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.

1.1.

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI – CÁC CHỨC NĂNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI :

1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại :
Trong quá trình phát triển của ngành ngân hàng trên thế giới, đã có nhiều
khái niệm về ngân hàng thương mại được đưa ra :
Luật ngân hàng Pháp quy đònh : những cá nhân hay cơ sở hành nghề thường
xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay các hình thức khác số tiền
mà họ dùng cho chính họ dưới những nghiệp vụ như chiết khấu, cho vay,… được coi
là ngân hàng.
Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính Việt Nam
ban hành năm 1990 quy đònh : ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt
động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và
làm phương tiện thanh toán.
Luật ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng ban hành tháng 12/1997 quy

đònh ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng
phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã và các
loại hình ngân hàng khác.
Các đònh nghóa trên tuy cách dùng từ ngữ và diễn giải có khác nhau nhưng
đều có chung một ý chính : ngân hàng là tổ chức kinh doanh trong lónh vực tiền tệ

8


mà các nghiệp vụ chủ yếu là nhận và sử dụng tiền gửi để cho vay và thực hiện các
nghiệp vụ thanh toán.
1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại :
Ngân hàng thương mại có vai trò cực kỳ quan trọng đối với toàn bộ nền kinh
tế thông qua các chức năng sau :
ƒ Chức năng trung gian tài chính :
Ngân hàng thương mại giữ vai trò trung gian thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi
hoặc tạm thời nhàn rỗi trong dân chúng hoặc từ các doanh nghiệp để cung cấp trở
lại cho những doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu sử dụng vốn vào sản xuất kinh
doanh hoặc tiêu dùng,…
Thực tế người có vốn nhàn rỗi và người có nhu cầu sử dụng vốn thường
không có điều kiện để biết đến nhau, hoặc nếu tự tìm cách giao dòch với nhau thì
cũng gặp nhiều khó khăn về chi phí, thời gian, quản lý,… Với chức năng trung gian
tài chính, ngân hàng thương mại giải quyết tất cả những vướng mắc trên, tạo ra
một lợi tức phù hợp cho người ký thác vốn và một chi phí hợp lý cho người sử dụng
vốn khiến đồng tiền nhàn rỗi trở thành hoạt động, tập trung được các lượng tiền
nhỏ, phân tán để đáp ứng cho các nhu cầu vốn lớn của nền kinh tế.
ƒ Chức năng trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán :
Việc thanh toán các khoản cung ứng hàng hoá, dòch vụ,… trong nền kinh tế

có thể thực hiện ngoài ngân hàng hoặc thông qua ngân hàng. Trong khi việc thanh
toán ngoài ngân hàng tỏ ra thiếu an toàn, chi phí cao,… thì với ưu thế về việc cất
giữ các khoản tiền của khách hàng, ngân hàng thương mại đã thực hiện cả chức
năng trung gian thanh toán trong nền kinh tế thông qua các phương tiện thanh toán
như tiền mặt, thẻ tín dụng, các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt,… đảm
bảo sự an toàn rất cao với chi phí thấp trong thời gian nhanh nhất cho khách hàng.
Chức năng này của ngân hàng thương mại đã được sử dụng rộng rãi ở nhiều
nước phát triển trên thế giới. Ở Việt Nam thời gian qua, việc thanh toán trong dân
thường được thực hiện trực tiếp với nhau ngoài ngân hàng. Tuy nhiên với sự phát

9


triển của hệ thống ngân hàng trong nước, việc thanh toán qua ngân hàng ngày
càng nhiều hơn và dần dần trở thành phổ biến. Việc thực hiện tốt chức năng này
sẽ góp phần vào việc giảm chi phí lưu thông hàng hoá cho nền kinh tế đồng thời là
cơ sở để ngân hàng thực hiện các hoạt động nghiệp vụ khác.
ƒ Chức năng tạo tiền :
Đây là chức năng tạo nên sức mạnh đặc thù, riêng có của ngành ngân hàng
với việc tạo ra những khoản “bút tệ” thông qua việc thanh toán không dùng tiền
mặt trong hệ thống ngân hàng.
Có thể mô tả quá trình tạo bút tệ như sau : Từ một khoản tiền gửi ban đầu,
thông qua hoạt động cho vay, ngân hàng tạo nên một hoặc nhiều khoản tiền gửi
mới bằng bút tệ trong hệ thống ngân hàng (có thể tại ngân hàng mình hoặc một
ngân hàng khác) qua việc thanh toán không dùng tiền mặt của người vay cho
người cung cấp hàng hoá, dòch vụ. Từ đó, ngân hàng lại tiếp tục cho vay để hình
thành khoản bút tệ kháùc và cứ như vậy cho đến khi thu hồi tiền vay thì mọi việc sẽ
diễn ra theo hướng ngược lại làm giảm số bút tệ xuống bằng đúng số tiền gửi ban
đầu. Tuy nhiên cho vay là nghiệp vụ thường xuyên và chủ yếu của một ngân hàng
thương mại nên lượng bút tệ luôn ở mức cao hơn lượng tiền thực có trong xã hội.

Như vậy từ một số tiền gửi ban đầu, thông qua chức năng này, ngân hàng đã
tạo ra một số tiền gấp nhiều lần để phục vụ cho nền kinh tế. Các tài liệu về ngân
hàng có công thức tính toán sau :
Số tiền gửi ban đầu
Tổng số bút tệ tạo ra = ---------------------------------Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Ví dụ một ngân hàng A có số dư huy động vốn là 10 tỉ đồng, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc là 5% thì tổng số bút tệ mà ngân hàng đó có thể tạo ra là 200 tỷ đồng.
Tuy nhiên tổng số bút tệ mà ngân hàng tạo ra thường khó có thể đạt đến
mức tính toán do còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác như người vay có nhu cầu nhận

10


tiền mặt, khả năng cho vay của ngân hàng và nhu cầu vay của khách hàng, dự trữ
thanh toán ở từng ngân hàng,…
ƒ Chức năng dòch vụ tài chính và dòch vụ khác :
Với các chức năng nêu trên, trong quá trình hoạt động, ngân hàng tạo được
mối quan hệ rộng khắp với nhiều tổ chức, cơ quan có chức năng khác nhau và có
điều kiện thu thập được một khối lượng thông tin đáng kể. Từ đó hình thành nên
một chức năng khác của ngân hàng thương mại là đảm nhận các dòch vụ khách
hàng khác như tư vấn mua bán, đầu tư chứng khoán, làm đại lý phát hành và quản
lý chứng khoán, cho thuê két sắt, kiểm tra và cung cấp thông tin về các đối tác
kinh doanh nước ngoài cho các doanh nghiệp,… Chức năng này có tính chất hỗ trợ
cho các hoạt động nghiệp vụ khác tại ngân hàng.
1.1.3. Các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng thương mại – Ý nghóa của hoạt
động tín dụng :
1) Hoạt động huy động vốn (hoạt động đầu vào) :
Là hoạt động thường xuyên và chủ yếu của ngân hàng thương mại, có ý
nghóa cực kỳ quan trọng, đóng vai trò tạo thêm nguồn vốn hoạt động cho ngân
hàng ngoài vốn điều lệ thông qua việc nhận tiền gửi không và có kỳ hạn dưới các

hình thức tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm, phát hành các loại trái phiếu,
kỳ phiếu có thời hạn,… Đây là những hoạt động huy động vốn thuần túy, cần có
những khoản chi phí lớn để thực hiện. Ngoài ra còn một số hoạt động dòch vụ khác
có tính chất huy động vốn đồng thời mang lại thu nhập cho ngân hàng qua việc thu
phí dòch vụ như nhận ủy thác đầu tư, thanh toán hộ qua tài khoản vãng lai, chuyển
tiền, chi trả kiều hối, dòch vụ ngân quỹ, thanh toán quốc tế, bảo lãnh,…
2) Hoạt động sử dụng vốn (hoạt động đầu ra) :
-

Hoạt động kinh doanh ngoại hối :
Là hoạt động mua bán ngoại tệ, chứng từ có giá, kinh doanh vàng bạc trong

và ngoài nước với các đơn vò có chức năng thông qua các nghiệp vụ về kinh doanh

11


ngoại tệ như spot, forward, swap,… nhằm mục đích lợi nhuận, dự trữ hoặc tạo
nguồn ngoại tệ phục vụ cho thanh toán quốc tế.
-

Hoạt động đầu tư – liên doanh :
Là hoạt động sử dụng vốn vào các dự án kinh doanh trung dài hạn của ngân

hàng như đầu tư hoặc liên doanh đầu tư xây dựng các cao ốc văn phòng, lập các
khu vui chơi, xây dựng nhà ở, nhà máy, xí nghiệp, góp vốn vào những đơn vò sản
xuất kinh doanh khác,…
-

Hoạt động tín dụng :

Hoạt động tín dụng là loại hoạt động trong đó phía ngân hàng thương mại

chuyển giao tiền hoặc tài sản cho khách hàng sử dụng trong một thời gian nhất
đònh trên cơ sở có sự cam kết từ phía khách hàng sẽ hoàn trả theo thời hạn đã thoả
thuận. Nói đơn giản đó là hoạt động cho vay trên cơ sở có hoàn trả sau một thời
hạn nhất đònh.
Tùy thuộc vào cơ sở để xem xét mà có thể phân thành nhiều loại hình tín
dụng khác nhau :
+ Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn :
ƒ Cho vay bất động sản
ƒ Cho vay sản xuất kinh doanh (cho vay công thương nghiệp)
ƒ Cho vay nông nghiệp
ƒ Cho vay tiêu dùng
+ Căn cứ vào thời hạn vay vốn :
ƒ Cho vay ngắn hạn
ƒ Cho vay trung hạn
ƒ Cho vay dài hạn
ƒ Cho vay quay vòng (thẻ tín dụng)
+ Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng :
ƒ Cho vay không đảm bảo

12


ƒ Cho vay có đảm bảo
+ Căn cứ vào hình thái giá trò của tín dụng :
ƒ Cho vay bằng tiền
ƒ Cho vay bằng tài sản
+ Căn cứ vào cách thức hoàn trả :
ƒ Cho vay thông thường

ƒ Cho vay luân chuyển
ƒ Cho vay trả góp
ƒ Cho vay hoàn trả theo yêu cầu
+ Căn cứ vào xuất xứ tín dụng :
ƒ Cho vay trực tiếp
ƒ Cho vay gián tiếp
+ Căn cứ vào kỹ thuật cấp tín dụng :
ƒ Chiết khấu thương phiếu
ƒ Tín dụng ứng trước
ƒ Thấu chi
ƒ Bảo lãnh
ƒ Cho vay trả góp
ƒ Bao thanh toán
ƒ Tín dụng thuê mua
ƒ Tín dụng chấp nhận
+ Căn cứ đối tượng sử dụng vốn :
ƒ Cho vay doanh nghiệp
ƒ Cho vay cá nhân
-

Các hoạt động khác :

13


Ngoài ra ở các ngân hàng thương mại tùy theo quy mô và trình độ kinh
nghiệm, nghiệp vụ,… còn có những hoạt động hỗ trợ khác như huấn luyện và đào
tạo về các nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu, tư vấn kinh doanh cho các doanh
nghiệp khách hàng, đào tạo nhân viên cho các ngân hàng có quan hệ,,…
Trong điều kiện kinh tế tại Việt Nam, khi các hình thức hoạt động kinh

doanh khác còn chưa phát triển mạnh thì tín dụng là hoạt động chiếm tỷ trọng cao
nhất trong hoạt động của các ngân hàng thương mại : sử dụng khoảng 60% nguồn
vốn kinh doanh và mang lại trên 50% lợi nhuận. Đồng thời nó cũng là nền tảng để
thu hút khách hàng và mở rộng các hoạt động nghiệp vụ khác.
Hoạt động tín dụng có ý nghóa rất quan trọng đối với nền kinh tế :
ƒ Đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì sự liên tục của các hoạt động sản xuất
kinh doanh trong công cuộc phát triển kinh tế.
ƒ Cung ứng vốn có tập trung phục vụ cho sản xuất kinh doanh quy mô lớn.
ƒ Là đối tượng và là trung gian chuyển tải chính sách tiền tệ từ ngân hàng
trung ương đến toàn bộ nền kinh tế.
ƒ Là một trong những công cụ giúp chính phủ thực hiện chính sách tài trợ
cho các ngành kinh tế mũi nhọn hoặc cần khuyến khích phát triển.
1.2.

RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
NGÂN HÀNG :

1.2.1. Khái niệm rủi ro :
Rủi ro là một từ dùng để mô tả chung mọi biến cố ngẫu nhiên xảy ra ngoài
sự mong đợi có thể tác động đến hoạt động của một tổ chức.
Rủi ro là vấn đề tất yếu không thể loại trừ và gắn liền với hoạt động kinh
doanh của một ngân hàng bất kể mọi biện pháp phòng chống như luật pháp, quy
đònh, hệ thống thanh tra, kiểm tra, bảo hiểm,…
Tuy nhiên rủi ro cũng có vai trò của nó trong việc đào thải những ngân hàng
yếu kém về năng lực tài chính cũng như chuyên môn. Vấn đề đặt ra là không để

14


rủi ro tác động có tính dây chuyền gây sụp đổ cả một hệ thống ngân hàng gây nên

những bất ổn trong xã hội không những về kinh tế mà cả về chính trò, xã hội.
1.2.2. Các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại :
1) Rủi ro tín dụng :
Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm năng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng
cho một khách hàng, đó là khả năng khách hàng không hoàn trả được khoản tín
dụng mà ngân hàng đã cấp cho họ. Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân
hàng không thu được đầy đủ khoản gốc và lãi của món vay hoặc việc thanh toán
nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn. Nó có tác động đến hiệu quả kinh doanh và làm
giảm nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng và có thể đưa đến tình trạng phá sản
nếu không có những biện pháp ngăn chặn hữu hiệu.
Tín dụng là hoạt động thường xuyên và chủ yếu trong hệ thống ngân hàng
thương mại tại Việt Nam nên rủi ro tín dụng là dạng rủi ro phát sinh chủ yếu và
gây nhiều thiệt hại cho ngân hàng mặc dù các ngân hàng đã thực hiện nhiều biện
pháp để phòng chống… và là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lãnh đạo ngân
hàng. Vì vậy rủi ro tín dụng được xem là dạng rủi ro cơ bản nhất trong các loại rủi
ro có thể phát sinh trong hoạt động của các ngân hàng thương mại nước ta.
Ngoài ra rủi ro tín dụng còn có một dạng khác căn cứ vào kỹ thuật cấp tín
dụng ban đầu có thể gọi là rủi ro trong hoạt động ngoại bảng.
Các ngân hàng hiện đại ngày nay có chung một xu hướng phát triển các
nghiệp vụ ngoại bảng như bảo lãnh thư tín dụng, bảo lãnh phát hành trái phiếu,
bảo lãnh thanh toán các loại do tính chất là hoạt động dòch vụ có thu phí mà không
phải sử dụng nhiều vốn kinh doanh. Các hoạt động này được hạch toán ngoại bảng
và có thể tạo ra những tài sản có và tài sản nợ bổ sung cho bảng cân đối nội bảng.
Rủi ro hoạt động ngoại bảng xảy ra khi có một số trường hợp các khoản bảo
lãnh đến hạn phải thanh toán nhưng đối tượng được bảo lãnh phá sản hoặc không
có khả năng thanh toán buộc ngân hàng phải đứng ra thực hiện trách nhiệm thanh
toán theo nội dung thư bảo lãnh. Khi đó đó rủi ro ngoại bảng cũng chính là rủi ro

15



tín dụng. Thực tế đã có một số ngân hàng phải chòu những thiệt hại nghiêm trọng
hoặc phá sản do rủi ro trong hoạt động ngoại bảng.
Rủi ro tín dụng có thể được phân thành các loại sau đây :
-

Rủi ro tín dụng thuần túy : thường có 2 dạng :
ƒ Nợ, lãi không được hoàn trả : đây là rủi ro gây hậu quả tai hại nhất cho
ngân hàng thương mại khi khách hàng không thanh toán được vốn hoặc cả
vốn và lãi cho ngân hàng khi kết thúc thời hạn nợ và không có khả năng để
thanh toán một phần hoặc toàn bộ sau đó do nhiều nguyên nhân khác nhau
như lừa đảo, phạm pháp, thua lỗ không còn tài sản,… Đây là dạng rủi ro mà
tất cả mọi ngân hàng đều cố gắng hạn chế ở mức thấp nhất do mức độ gây
thiệt hại lớn tài sản ngân hàng của nó.
ƒ Nợ, lãi chậm trả : là dạng rủi ro tín dụng trong đó khách hàng không thanh
toán được vốn hoặc cả vốn và lãi cho ngân hàng khi kết thúc thời hạn nợ và
chỉ có thể trả dần sau đó trong một thời hạn không thể xác đònh, thường là
tùy thuộc vào khả năng tài chính còn lại của khách hàng. Thường dạng rủi
ro này không gây nhiều hậu quả nghiêm trọng như dạng nợ không được
hoàn trả nhưng cũng tạo thêm nhiều khoản phí tổn trong việc xử lý khoản
rủi ro và gây mất cân đối trong báo cáo đối tài chính của ngân hàng khiến
có thể dẫn đến những rủi ro khác đồng thời làm giảm hiệu quả trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng.

-

Rủi ro bao tiêu :
Đây là loại rủi ro đối với các khoản vay được tạo ra để nhằm mục đích bán

lại hoặc tái thế chấp cho một ngân hàng hoặc một tổ chức tín dụng khác. Nó xảy

ra khi các khoản cho vay không đáp ứng được yêu cầu của bên thứ ba việc bán
hoặc tái thế chấp trở nên không thực hiện được. Chúng ta có thể xem xét ví dụ sau
:
Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn Tân Hiệp cho 200 hộ nông dân
vay 1 tỉ đồng (mỗi hộ 5 triệu đồng) với lãi suất 1,2%/tháng trong 12 tháng. Để tái

16


tạo nguồn vốn kinh doanh, ngay sau đó ngân hàng này quyết đònh bán lại 200
khoản cho vay này cho ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á với trò giá là 1,05 tỉ
đồng hoặc tái thế chấp với lãi suất 1%/tháng. Sau khi xem xét các hồ sơ, ngân
hàng Đông Á quyết đònh không mua hoặc nhận thế chấp bằng các khoản vay trên
do chưa đạt các yêu cầu về an toàn vốn. Như vậy ngân hàng thương mại Tân hiệp
đã gặp rủi ro bao tiêu ở 200 hồ sơ vay trên.
-

Rủi ro chứng từ :
Đây là loại rủi ro thường xuất hiện khi các tài liệu giấy tờ của hồ sơ vay

không được chuẩn bò kỹ lưỡng. Ví dụ việc giữ bản chính tài sản thế chấp, hợp đồng
thế chấp chưa công chứng,… Điều này thường xảy ra ở những giai đoạn phát sinh
nhiều món vay, thiếu nhân viên hoặc trình độ nghiệp vụ cán bộ tín dụng kém,…
khiến công tác kiểm soát phạm nhiều sơ sót.
-

Rủi ro trong hoạt động :
Dạng rủi ro này thường xảy ra do công tác đào tạo nhân viên không tốt

khiến quy trình cho vay không được thực hiện nghiêm túc. Ví dụ đánh giá không

đúng quy mô khách hàng, đònh giá tài sản thế chấp không chính xác, thẩm đònh dự
án chưa tốt,…
-

Rủi ro chính trò :
Dạng này thường liên quan đến những khoản cho vay ở nước ngoài dẫn đến

không thu hồi được vốn.
-

Rủi ro sự kiện :
Rủi ro dạng này xảy ra thường là do những sự kiện không lường trước làm

thay đổi uy tín tín dụng của người vay như việc thay đổi giám đốc của đơn vò vay
vốn làm cho việc kinh doanh sút kém đi; hoặc cổ đông chính rút vốn ra khỏi công
ty; hoặc việc thay đổi tỉ giá đột ngột làm nhiều công ty kinh doanh hàng xuất hay
nhập khẩu bò thiệt hại nặng nề,…

17


2) Rủi ro thanh khoản :
Ở tất cả mọi ngân hàng thương mại, đối với nguồn vốn huy động luôn làm
phát sinh một áp lực phải giải quyết đầu ra thật ổn thỏa để thu được một khoản
thu nhập nhất đònh, tối thiểu phải bù đắp được các chi phí về huy động vốn và các
chi phí cần thiết khác trong khi nếu giữ tồn quỹ ở dạng tiền mặt thì không làm
phát sinh thu nhập. Vì vậy thường các ngân hàng chỉ duy trì một lượng tiền mặt
vừa đủ để đáp ứng các nhu cầu chi trả tiền mặt thường xuyên tại ngân hàng.
Vào một vài thời điểm đặc biệt nào đó, ví dụ đồng tiền bò mất giá đột ngột
hoặc một vài ngân hàng trên đòa bàn bò phá sản hoặc một số nhu cầu rút tiền có

tính thời vụ nào đó khiến nhu cầu rút tiền tăng lên đột ngột mà ngân hàng không
dự kiến được khiến lượng tiền mặt dự trữ không đủ để chi trả. Khi đó việc chi trả
không được giải quyết kòp thời rất có thể sẽ dẫn đến sự mất lòng tin ở diện rộng
hơn và nếu tình hình xấu đến mức mà tất cả khách hàng gửi tiền đồng loạt yêu cầu
rút tiền thì ngân hàng từ chỗ đối mặt với rủi ro thanh khoản sẽ chuyển sang đối
phó với rủi ro phá sản.
Rủi ro thanh khoản cũng xảy ra khi ngân hàng thương mại gặp phải những
rủi ro nghiêm trọng thuộc các dạng khác dẫn đến mất cân đối giữa tài sản nợ và
tài sản có trong bảng tổng kết tài sản.
3) Rủi ro lãi suất :
Ngân hàng thương mại gặp phải rủi ro lãi suất khi có sự biến động về lãi
suất theo chiều hướng bất lợi làm giảm giá trò tài sản. Trường hợp này xảy ra khi
ngân hàng có một cơ cấu tài sản nợ và tài sản có theo những kỳ hạn không cân
xứng với nhau.
Trong một nền kinh tế đang phát triển, lãi suất ngân hàng thường chòu nhiều
tác động làm thay đổi lãi suất mà một trong những yếu tố tác động mạnh nhất đến
lãi suất là lạm phát.
Rủi ro lãi suất thường gặp ở các trường hợp sau :
ƒ Lãi suất đầu ra cố đònh trong khi lãi suất đầu vào tăng.

18


ƒ Lãi suất đầu vào cố đònh trong khi lãi suất đầu ra giảm.
ƒ Lãi suất đầu vào và đầu ra cố đònh nhưng khác nhau về kỳ hạn làm tăng
chi phí huy động vốn hoặc sử dụng vốn thực tế.
4) Rủi ro ngoại hối :
Rủi ro ngoại hối là việc tổng giá trò tài sản bằng ngoại tệ của ngân hàng
giảm đi khi có sự thay đổi bất lợi về tỷ giá của các loại ngoại tệ. Điều này xảy ra
khi cơ cấu tài sản nợ và tài sản có ngoại tệ không cân xứng nhau ở từng loại ngoại

tệ hay còn gọi là không cân đối về trạng thái ngoại hối.
Các trường hợp không cân đối về trạng thái ngoại hối :
ƒ Tài sản có loại ngoại tệ A lớn hơn tài sản nợ loại ngoại tệ A : trạng thái
ngoại hối âm hay trạng thái ngoại hối trường ròng (trường thế – long
asset position) ở loại ngoại tệ A.
ƒ Tài sản có loại ngoại tệ A nhỏ hơn tài sản nợ loại ngoại tệ A : trạng thái
ngoại hối dương hay trạng thái ngoại hối đoản ròng (đoản thế – short
asset position) ở loại ngoại tệ A.
5) Rủi ro công nghệ và hoạt động :
Là những sự thiệt hại về tài sản của ngân hàng có liên quan đến công nghệ
sử dụng. Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công
nghệ mới không đem lại hiệu quả dự tính do đó có thể làm giảm khả năng cạnh
tranh của ngân hàng và nếu xảy ra trong những thời điểm khó khăn về kinh tế
hoặc khoản đầu tư quá lớn sẽ rất có thể đe dọa đến sự tồn tại của ngân hàng. Ở
một góc độ khác nó còn là những thiệt hại do công nghệ áp dụng không đáp ứng
được khối lượng giao dòch phát sinh.
Rủi ro hoạt động gắn liền với rủi ro công nghệ. Ví dụ khi hệ thống máy tính
bò trục trặc sẽ dẫn dắt theo hàng loạt những ách tắc trong hoạt động như không tính
được số dư tài khoản khách hàng, xử lý sai các khoản phát sinh khiến số dư không
chính xác,… hoặc với công nghệ cũ chỉ xử lý các giao dòch bằng chứng từ giấy thì
khi khối lượng giao dòch gia tăng sẽ dẫn đến ùn tắc trong khâu xử lý sự vụ,…
19


6) Rủi ro quốc gia :
Là loại rủi ro trong đó ngân hàng bò thiệt hại do không thu hồi được những
khoản đầu tư vào một công ty nước ngoài hoặc không nhận được những khoản
thanh toán xuất nhập khẩu khác khi chính phủ của quốc gia đó vì lý do kinh tế
(xiết chặt hay hạn chế ngoại hối để bảo vệ nguồn dự trữ ngoại tệ quốc gia) hoặc
chính trò (hạn chế hoặc chấm dứt giao dòch) quyết đònh hạn chế hoặc cấm việc

chuyển, thanh toán tiền ra nước ngoài. Rủi ro quốc gia cũng có thể xảy ra khi
công ty nước ngoài được đầu tư bò phá sản mà các ngân hàng nước ngoài không
được phép hoặc không có điều kiện để tham gia vào quá trình thanh lý, phân chia
tài sản của công ty; hoặc cũng có thể là những hạn chế hoạt động ở những chi
nhánh tại các nước có những thay đổi bất lợi về thể chế chính trò,…
Nhìn chung các dạng rủi ro nêu trên đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau :
rủi ro hoạt động ngoại bảng và rủi ro quốc gia có thể dẫn đến rủi ro tín dụng, các
loại rủi ro đều có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản,…
Như trên đã nêu, rủi ro là dạng phát sinh gắn liền với hoạt động kinh doanh
của ngân hàng, trong đó rủi ro tín dụng là dạng rủi ro thường gặp và cơ bản nhất
trong điều kiện kinh tế Việt Nam nói chung và điều kiện hoạt động của ngành
ngân hàng Việt Nam nói riêng. Vì vậy việc nghiên cứu một cách nghiêm túc về
rủi ro tín dụng là việc làm cần thiết có ý nghóa sống còn đối với sự tồn tại và phát
triển của hệ thống ngân hàng thương mại toàn quốc.
1.2.3. Vấn đề quản lý rủi ro tín dụng :
Mọi rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng đều gây nên những thiệt
hại nhất đònh, trong đó rủi ro tín dụng là dạng rủi ro thường xuyên gây nên những
hậu quả nghiêm trọng dẫn đến việc giảm hoặc mất khả năng chi trả, từ đó kéo
theo sự sụp đổ của một ngân hàng, thậm chí của cả hệ thống ngân hàng.
Hoạt động ngân hàng, với các chức năng của mình, có liên quan đến toàn
bộ hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy mọi biến động bất lợi trong hệ thống ngân
hàng đều có tác động xấu đến nền kinh tế : các doanh nghiệp mất sự hỗ trợ về tài
chính nên việc sản xuất kinh doanh bò ảnh hưởng dẫn đến phá sản; các doanh
20


nghiệp bò phá sản hàng loạt khiến tỷ lệ thất nghiệp tăng nhanh trong khi hàng hoá
thiếu và trở nên đắt đỏ. Nền kinh tế khi đó lâm vào tình trạng suy thoái, đồng thời
một tâm lý hoang mang bất mãn sẽ lan rộng trong dân chúng và là nguyên nhân
của những rối loạn về an ninh xã hội và chính trò.

Trong điều kiện quan hệ kinh tế thế giới hiện nay với các mối quan hệ đa
phương và toàn diện, mọi biến động của bất kỳ một quốc gia nào cũng đều có ảnh
hưởng nhất đònh đến những quốc gia lân cận trong khu vực và thế giới. Vì vậy rủi
ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng, ở một nước có thể là ngọn sóng nhỏ khởi đầu cho
một cơn bão lớn có thể nhấn chìm nhiều nền kinh tế của khu vực và nếu không có
biện pháp ngăn chặn, sẽ trở thành tai họa của nền kinh tế thế giới.
Rủi ro tín dụng là hậu quả của rất nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ
quan, có thể phòng ngừa cũng như không thể lường trước. Do đó có thể xem đây là
vấn đề muôn thû của ngành ngân hàng. Tuy nhiên việc nghiên cứu các giải pháp
quản lý rủi ro tín dụng để ngày càng hoàn thiện hơn cho công tác hạn chế rủi ro tín
dụng vẫn là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu đối với các nhà quản trò ngân
hàng, đặc biệt là ở Việt Nam trong điều kiện hệ thống ngân hàng còn non yếu và
thiếu kinh nghiệm và hoạt động trong một môi trường có nhiều đặc thù của một
nền kinh tế mới phát triển.

21


CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN
DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH.
1.3.
1.1.4.

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM :
Giai đoạn trước 1988 :
Ngày 06/05/1951, Hồ Chủ Tòch ký sắc lệnh 15/SL về việc thành lập Ngân

hàng Quốc gia Việt Nam, khởi đầu cho một giai đoạn phát triển mới trong lónh vực

tiền tệ ngân hàng tại Việt Nam. Năm 1960, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đổi tên
thành Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam.
Các đặc điểm của hệ thống ngân hàng giai đoạn này là :
-

Về tổ chức : là hệ thống ngân hàng một cấp, trong đó ngân hàng Nhà nước
vừa là Ngân hàng trung ương, vừa hoạt động như một ngân hàng thương
mại.

-

Về hoạt động : theo cơ chế quản lý hành chính kế hoạch hoá tập trung, đảm
nhiệm các chức năng về quản lý Nhà nước trong lónh vực tiền tệ ngân hàng
đồng thời thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Với cách tổ chức và hoạt động như trên, hệ thống ngân hàng Việt Nam

trong giai đoạn này tuy đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và phát triển
kinh tế nhưng mang nhiều nhược điểm có tính đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung : không có cạnh tranh nên thiếu linh hoạt, chủ động trong hoạt động
kinh doanh, các nguyên tắc căn bản trong hoạt động tín dụng hầu như không được
tôn trọng nhằm đảm bảo thực hiện các kế hoạch chung của nền kinh tế theo đònh
hướng chung của từng giai đoạn, do vậy đã không còn phù hợp khi nền kinh tế
bước vào giai đoạn đổi mới sau đó.

22


1.1.5.

Giai đoạn từ 1988 đến 1997 :

Đây là giai đoạn có những chuyển biến quan trọng về chính trò và kinh tế

trên khắp thế giới như sự chuyển hướng và tan vỡ của hệ thống các nước xã hội
chủ nghóa ở Liên xô và Đông Âu khiến quan hệ kinh tế giữa các nước này cũng
chòu những ảnh hưởng nặng nề và tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế non yếu
của Việt Nam, tình trạng thiếu thốn hàng hoá và lạm phát triền miên trước đó lại
càng trở nên trầm trọng. Những nhược điểm của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập
trung cũng như hệ thống ngân hàng một cấp đã bộc lộ rõ hơn.
Trong bối cảnh đó, Quyết đònh số 218/CT ngày 03/07/1987 và Nghò đònh số
53/HĐBT ký ngày 26/03/1988 được xem như mở đầu của việc đổi mới về tổ chức
và hoạt động của hệ thống ngân hàng và khai sinh cho hệ thống ngân hàng hai cấp
tại Việt Nam.
Theo cơ cấu tổ chức mới, chức năng quản lý Nhà nước được tách hẳn khỏi
chức năng kinh doanh : Ngân hàng Nhà Nước giữ vai trò Ngân hàng trung ương,
các Ngân hàng chuyên doanh mới thành lập : Ngân hàng Đầu tư & xây dựng,
Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng Phát triển Nông
nghiệp, thực hiện chức năng kinh doanh. Trong giai đoạn đầu hoạt động của hệ
thống mới, do vẫn còn chòu ảnh hưởng của cơ chế tổ chức và hoạt động cũ nên vai
trò quản lý của Ngân hàng Nhà Nước cũng như vai trò kinh doanh của các ngân
hàng chuyên doanh đều chưa phát huy được đúng mức. Chỉ đến khi Hội đồng Nhà
Nước ban hành Pháp lệnh Ngân hàng và Hợp tác xã tín dụng (23/05/90) thì hoạt
động của hệ thống ngân hàng mới có những đổi mới căn bản và sâu sắc với nội
dung chủ yếu là Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại, tổ chức tín
dụng, công ty tài chính,… có quan hệ với nhau trên thò trường tiền tệ –tín dụng và
chòu sự điều tiết của cơ chế thò trường. Trên cơ sở của cơ chế hoạt động này, mọi
chính sách tín dụng, lãi suất, tỷ giá,… đều được xây dựng trên nền tảng những quy
luật thò trường.

23



1.1.6.

Giai đoạn từ 1998 đến nay :
Trên cơ sở nền tảng là Pháp lệnh ngân hàng và Hợp tác xã tín dụng với

những sửa đổi bổ sung khác, ngày 26/12/1997, Chủ tòch nước Cộng Hoà Xã Hội
Chủ Nghóa Việt Nam ra lệnh số 01/L-CTN công bố Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam số 01/1997/QH10 và Luật các Tổ chức Tín dụng số 02/1997/QH10
nhằm tạo một khung pháp lý vững chắc cho hoạt động ngân hàng, tăng cường
quản lý Nhà nước về hoạt động tiền tệ – tín dụng, tăng hiệu quả hoạt động của
các chính sách tiền tệ quốc gia, góp phần phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo cơ chế thò trường dưới sự quản lý của Nhà nước… và có hiệu
lực từ 01/01/1998.
Nhìn chung, trong giai đoạn này, ngành ngân hàng Việt Nam đã có những
bước tiến dài mà một số thành quả có thể nhận thấy như sau :
-

Cơ cấu tổ chức cũng như hoạt động của các ngân hàng ngày càng hướng
về phía thò trường hơn : tổ chức gọn nhẹ, linh hoạt trước các tình huống
phát sinh trên thò trường và thu hút khách hàng là mục tiêu hàng đầu;
các hình thức huy động vốn và cho vay ngày càng đa dạng hơn.

-

Cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như trình độ và kinh nghiệm của nguồn
nhân lực trong lónh vực ngân hàng đã được nâng cao rõ rệt. Trình độ
công nghệ trong hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển do tác động
của quan hệ ngân hàng quốc tế được mở rộng.


-

Hệ thống thông tin tín dụng phòng ngừa rủi ro, quản lý giám sát từ xa
ngày càng phong phú và hoàn thiện dần.

Tóm lại từ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, hệ thống
ngân hàng Việt Nam đã được tạo nhiều điều kiện để củng cố và phát triển và có
thể nói hiện đang ở giai đoạn phát triển cao nhất từ trước đến nay. Hơn thế nữa nó
vẫn còn những cơ hội trước mặt để ngày càng nâng cao vò trí và chứng tỏ vai trò
của mình trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước.

24


1.4.

PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NHỮNG NĂM
QUA :

1.1.7.

Tình hình kinh tế xã hội thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua :
Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.

Theo đó ngành ngân hàng cũng bắt đầu hòa vào công cuộc đổi mới từ khi thí điểm
thực hiện Quyết đònh 218 năm 1987 và Nghò đònh 53 năm 1988 với những kết quả
theo từng giai đoạn như sau (xem bảng 1) :
‰


Giai đoạn 1989 – 1992 : tốc độ tăng trưởng kinh tế ở thành phố Hồ Chí
Minh đạt 9,09% năm 1991 (cả nước là 6%), 11,72% năm 1992 (cả nước
là 8,6%). Tuy nhiên các doanh nghiệp còn đang được tổ chức, sắp xếp
lại, chưa thực sự ổn đònh do đó tình hình tài chính tiền tệ cũng có nhiều
biến động, một số hợp tác xã tín dụng, quỹ tín dụng nhân dân đổ vỡ tác
động đến cả một vài ngân hàng thương mại quốc doanh, phải cần đến sự
hỗ trợ của Ngân hàng Nhà Nước và Chính phủ. Nhìn chung hoạt động
ngân hàng trong giai đoạn này còn yếu và gặp nhiều khó khăn nhưng
cũng đã vượt qua được.

‰

Giai đoạn 1993 – 1996 : năm 1993, thành phố Hồ Chí Minh đạt tốc độ
tăng trưởng kinh tế 12,5% (cả nước 8,1%), tình hình kinh tế nhìn chung
ổn đònh. Trong bối cảnh đó, ngành ngân hàng sau khi áp dụng nhiều biện
pháp cải tiến tổ chức, khắc phục khó khăn trong giai đoạn trước đó đã
triển khai có hiệu quả các biện pháp quản lý tổng hợp về tiền tệ, tín
dụng, cải tiến công nghệ ngân hàng với việc đưa tin học vào hoạt động
thanh toán và quản lý tài chính, phát huy khá tốt vai trò của ngành trong
việc phát triển kinh tế đất nước và trên đòa bàn.

‰

Giai đoạn 1997 – 1999 : do khủng hoảng tài chính khu vực nên tốc độ
phát triển kinh tế chậm dần lại : thành phố Hồ Chí Minh đạt 12,09%
năm 1997 (cả nước là 8,15%), 9,03% năm 1998 (cả nước là 5,8%), 6,16%
năm 1999 (cả nước là 4,8%). Hoạt động kinh tế vẫn ổn đònh tuy có xảy
25



ra một số vụ án kinh tế lớn như Tamexco, Minh phụng, Epco, Ngọc
thảo,… dẫn đến dư nợ quá hạn khá cao ở một số ngân hàng có liên quan.
1.1.8.

Hoạt động ngân hàng trong những năm qua : (số liệu năm 2000 lấy đến
30/06/2000)

-

Tỉ trọng vốn huy động và dư nợ cho vay so với nguồn vốn của từng hệ thống
ngân hàng : (xem bảng 2)
Nhìn chung tỉ trọng nguồn vốn huy động trong tổng nguồn vốn của các hệ

thống ngân hàng ở mức xấp xỉ nhau ngoại trừ hệ thống ngân hàng nước ngoài với
đặc điểm là không được huy động vốn tiết kiệm và hệ thống ngân hàng liên doanh
trong những năm 93, 94 do mới hình thành. Từ năm 1999, do ảnh hưởng của việc
xét xử các vụ án kinh tế lớn và sự sụp đổ của một số ngân hàng cổ phần kém hiệu
quả như Việt Hoa, Nam Đô,… khiến tốc độ tăng về tỉ trọng vốn huy động giảm
nhẹ. Tuy nhiên do cách xử lý kòp thời và có hiệu quả đối với hệ thống ngân hàng
cổ phần nên tỉ lệ này đã tăng trở lại trong năm 2000.
Trong khi đó tỉ trọng dư nợ cho vay trong tổng vốn sử dụng cũng có biến
động khá thất thường và chiều hướng gần giống nhau ở hệ thống ngân hàng quốc
doanh và cổ phần và ngược lại ở hệ thống ngân hàng liên doanh. Riêng hệ thống
ngân hàng nước ngoài có sự phát triển gần như liên tục và giảm nhẹ ở năm 1999
do sự củng cố về tổ chức và cạnh tranh quyết liệt của hệ thống ngân hàng trong
nước.
-

Thò phần vốn huy động và dư nợ cho vay của từng hệ thống ngân hàng trên đòa
bàn thành phố Hồ Chí Minh : (xem bảng 3)

Xét về thò phần vốn huy động, hệ thống ngân hàng quốc doanh với ưu thế

về quá trình hoạt động, uy tín trong tâm lý chung của khách hàng đối với các ngân
hàng quốc doanh,… đã chiếm ưu thế với hơn 50% thò phần. Tiếp sau đó là hệ thống
ngân hàng cổ phần với trên 28% thò phần. Hệ thống ngân hàng nước ngoài với
nguồn vốn mạnh, đáp ứng được những dự án, những kế hoạch kinh doanh cần
lượng vốn lớn nên thu hút được nhiều khách hàng lớn cùng nguồn tiền gửi thanh

26


toán nên chiếm được thò phần vốn huy động khá tốt so với hệ thống ngân hàng liên
doanh.
Tương tự như thò phần vốn huy động, thò phần dư nợ cho vay cũng chòu sự
chi phối lớn nhất từ phía các ngân hàng quốc doanh với tỉ lệ bình quân qua các
năm khoảng 47%. Hệ thống ngân hàng cổ phần chiếm gần 29% so với hệ thống
ngân hàng nước ngoài khoảng 20%. Tuy nhiên như trên đã nêu, các ngân hàng
nước ngoài nhờ có nhiều khách hàng là những doanh nghiệp lớn trong khi hầu hết
các ngân hàng cổ phần đều có vốn điều lệ nhỏ, nguồn vốn hoạt động thấp nên chỉ
có khả năng hướng đến những đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, vì vậy trong những năm từ 1998 đến nay hệ thống ngân hàng nước ngoài đã
vượt qua hệ thống ngân hàng cổ phần để vươn lên chiếm vò trí thứ hai.
-

Số liệu về dư nợ và nợ quá hạn xét theo hệ thống ngân hàng : (xem bảng 4,5)
Từ năm 1998, theo chỉ thò 08/1998/CT-NHNN14 ban hành ngày 03/10/98,

các ngân hàng bắt đầu phân loại nợ quá hạn thành các loại : nợ quá hạn thông
thường, nợ chờ xử lý (gồm các khoản nợ có tài sản gán nợ đang chờ xử lý phát mãi
hoặc nhập vào tài sản của ngân hàng, hoặc có liên quan đến các vụ án đang chờ

cơ quan chức năng xử lý) và nợ khoanh.
Với số liệu từ bảng 4,5 có thể tính được tỉ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ :
Bảng 6 : TỈ LỆ N QUÁ HẠN SO VỚI TỔNG DƯ N
Loại NH

NHQD

NHCP

NHLD

NHNN

1996

Toàn hệ thống

3,71%

1997

36,74%

15,58%

13,56%

0,34%

19,22%


1998

28,29%

22,43%

19,07%

1,38%

19,49%

1999

41,55%

28,53%

22,66%

1,25%

26,67%

Sự phát triển liên tục của dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng quốc
doanh, cổ phần nhìn chung là ổn đònh. Tuy nhiên nếu so với tốc độ phát triển
rất nhanh của hệ thống ngân hàng nước ngoài thì có thể xác đònh được những
27



×