Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Xây dựng chiến lược cạnh tranh đấu thầu tại các công ty TNHH xây dựng TP HCM 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.21 KB, 42 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

HÀ THỊ MINH CHÂU

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2000


Luận văn Thạc só kinh tế

Hà Thò Minh Châu

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHIẾN LƯC CẠNH TRANH VÀ NGÀNH XÂY DỰNG
Chương này đề cập đến những nền tảng lý thuyết chủ yếu được dùng để phân tích thực trạng đấu thầu xây dựng tại
các công ty TNHH xây dựng, từ đó thiết kế chiến lược cạnh tranh. Nội dung chương 1 bao gồm cơ sở lý luận về chiến
lược cạnh tranh và ngành xây dựng.
1.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG
Trong nền kinh tế thò trường, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra thường xuyên và ngày càng trở nên quyết
liệt. Như quy luật đấu tranh sinh tồn của giới tự nhiên, cạnh tranh được xem là động lực phát triển của nền kinh tế.
Tuy nhiên, cạnh tranh trong kinh doanh không phải là hoạt động tự phát mà thường đi theo một phương thức riêng
được mỗi doanh nghiệp vạch ra. Đó chính là chiến lược cạnh tranh. Trước khi đi vào chi tiết vấn đề này, việc tìm
hiểu các khái niệm cơ bản sau là cần thiết.
• Cạnh tranh (Competition)
Sự đối nghòch giữa các doanh nghiệp kinh doanh trên cùng một thò trường để giành được nhiều khách hàng, do
đó nhiều lợi nhuận hơn cho bản thân doanh nghiệp thường là cách bán theo giá cả thấp nhất hay cung cấp một
chất lượng hàng hóa tốt nhất.
• Chiến lược (Strategy)
Cách thức theo đó doanh nghiệp cố gắng thực sự để có một sự khác biệt rõ ràng so với đối thủ cạnh tranh, tận


dụng các sức mạnh liên hiệp của mình nhằm thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
• Chiến lược cạnh tranh (Competitive Strategy)
Theo Michael E. Porter, chiến lược cạnh tranh là sự kết hợp giữa các kết quả cuối cùng (mục tiêu) mà doanh
nghiệp đang tìm kiếm và các phương tiện (chính sách) nhờ đó doanh nghiệp cố gắng đạt đến mục tiêu trên.
Sau đây là một công cụ để tóm lược các lónh vực trong chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp.
Sơ đồ 1: BÁNH XE CHIẾN LƯC CẠNH TRANH

Danh mục
sản phẩm
Tài chính
và kiểm
soát

Nghiên
cứu và
triển khai

Thò trường
mục tiêu
Marketing

MỤC TIÊU
Kinh
nghiệm về
việc hãng
sẽ cạnh
tranh như
thế nào

Các mục

tiêu về
tăn g lợi
nhuận, thò
phần,
trách
nhiệm xã
hội

Tiêu thụ

Phân phối

Sản xuất

Mua vật tư
Lao động

Như vậy, hoạch đònh chiến lược cạnh tranh không chỉ được hiểu trong giới hạn của việc xây dựng một chiến lược
“đặc thù” hay “chuyên sâu”, mang tính chất đơn lẻ để đạt đến một mục tiêu nhất đònh, mà với ý nghóa tổng quát
hơn, chiến lược cạnh tranh chính là một mô hình tổng thể về việc doanh nghiệp sẽ cạnh tranh như thế nào, mục
tiêu là gì và những chính sách cần có để thực hiện mục tiêu đó. Vì thế, chiến lược cạnh tranh phải là một chiến
lược tổng hợp, có tính chất đa chiều và liên quan đến tất cả các hoạt động chủ yếu nhằm đạt được mục tiêu dài hạn
của doanh nghiệp.
1.2 MÔI TRƯỜNG CẠNH TRANH
Điểm cốt yếu của việc xây dựng chiến lược cạnh tranh là liên hệ công ty với môi trường. Mặc dù môi trường liên
quan rất rộng, bao gồm tất cả các lực lượng kinh tế lẫn xã hội, nhưng mảng quan trọng nhất vẫn là ngành kinh tế
nơi các hoạt động cạnh tranh của công ty đang diễn ra hay còn gọi là môi trường ngành. Phân tích cấu trúc ngành
mang tính chiến lược rất hữu ích trong việc quản trò chiến lược của công ty. Sau đây là “Mô hình 5 áp lực cạnh
tranh” của Michael E. Porter_một phương pháp phân tích ngành rất quan trọng khi xây dựng chiến lược cạnh tranh.
Theo M.E.Porter, hiện trạng cạnh tranh trong một ngành phụ thuộc vào năm lực lượng cơ bản sau:

• Nguy cơ đe dọa của các nhà cạnh tranh tiềm năng.

1


Luận văn Thạc só kinh tế






Hà Thò Minh Châu

Sức mạnh mặc cả của người mua.
Sức mạnh mặc cả của nhà cung cấp.
Sản phẩm thay thế.
Mức độ cạnh tranh của các đối thủ đang hoạt động trong cùng ngành.

Toàn bộ năm lực lượng này kết hợp với nhau xác đònh cường độ cạnh tranh và mức lợi nhuận của ngành. Áp lực
cạnh tranh càng mạnh thì khả năng sinh lời và tăng giá hàng của các công ty đang hoạt động càng bò hạn chế. Một
tác lực cạnh tranh mạnh được xem là một nguy cơ làm giảm lợi nhuận. Tuy nhiên, một tác lực cạnh tranh yếu có
thể là một cơ hội tạo cho công ty khả năng kiếm lời nhiều hơn. Do đó, để cạnh tranh một cách hữu hiệu, công ty
phải cố gắng tranh đấu tìm một vò trí tốt nhất có khả năng bảo vệ công ty chống lại các áp lực cạnh tranh, hay ít
nhất cũng có thể ảnh hưởng và tác động đến chúng theo hướng có lợi cho công ty. Nói cách khác, công ty cần cố
gắng giảm áp lực cạnh tranh càng nhiều càng tốt và đặc biệt là các áp lực quan trọng. Chìa khóa thành công nằm ở
khả năng khác biệt của các công ty trong việc giải quyết mối liên hệ với các lực lượng đó.
1.3 CHIẾN LƯC CẠNH TRANH
1.3.1 Lợi thế cạnh tranh
Để có thể tồn tại cũng như đối phó với các lực lượng cạnh tranh, công ty phải tạo được lợi thế cạnh tranh. Việc gia

tăng lợi thế cạnh tranh sẽ góp phần làm giảm áp lực cạnh tranh đối với công ty. Lợi thế cạnh tranh được đònh nghóa
là những thế mạnh hay năng lực phân biệt của công ty mà khách hàng xem trọng và đánh giá cao vì chúng tạo ra
giá trò cao cho khách hàng. Thích ứng với cạnh tranh đòi hỏi phải sáng tạo và khai thác lợi thế cạnh tranh một cách
nhạy bén và chính xác. Công ty có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh thông qua nhiều khía cạnh khác nhau:
• Tích lũy tài sản vô hình
Tài sản vô hình là nguồn lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất và là chìa khóa của công ty để thích nghi với môi
trường kinh doanh. Đây chính là lòng tin của khách hàng đối với công ty cũng như với sản phẩm và dòch vụ, là
giá trò mà công ty đã cố gắng tích lũy qua một quá trình lâu dài. Tài sản vô hình khó tích lũy, có khả năng đa
dụng và là đầu vào, đầu ra trong các hoạt động kinh doanh nên là lợi thế cạnh tranh hiệu quả nhất. Tài sản vô
hình có thể được tích lũy bằng cách trực tiếp (quảng cáo...) và gián tiếp (tích lũy qua hoạt động hằng ngày
bằng chính giá trò của sản phẩm). Việc tích lũy tài sản vô hình qua cách gián tiếp có thể sẽ lâu hơn cách trực
tiếp nhưng thường đáng tin cậy và vững chắc hơn.
• Chu kỳ sử dụng khí giới cạnh tranh
Trong bất cứ tuyến thò trường hay sản phẩm nào, khí giới cạnh tranh thích hợp thay đổi theo thời gian. Thông
thường sản phẩm được xem là khí giới ưu tiên nhất, sau đó đến các dòch vụ phụ và sau cùng là giá cả. Vì vậy
công ty cần tập trung khai thác khí giới lợi hại nhất là sản phẩm và các dòch vụ phụ. Trong hầu hết các ngành
công nghiệp, cạnh tranh về giá được xem là biện pháp nghèo nàn nhất vì làm giảm khả năng sinh lời, ngoại trừ
một số trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, đối với các công ty mới thành lập hay muốn xâm nhập thò trường mới,
thường áp dụng chu kỳ khác hẳn, khởi hành từ giá sau đó đến sản phẩm rồi mới đến dòch vụ. Do vậy, công ty
cần chú ý chọn lựa chu kỳ sử dụng khí giới cạnh tranh thích hợp để tạo ra lợi thế cạnh tranh hữu hiệu nhất.
• Tập trung vào các yếu tố then chốt (KFS)
Yếu tố then chốt (Key factors for success) là các yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự thành công của một công
ty, khi chúng được kiểm soát và sử dụng một cách có hiệu quả. Như vậy, tập trung vào các yếu tố then chốt
chính là tập trung tất cả các nguồn lực vào một lónh vực riêng biệt nào đó mà công ty xác đònh có cơ hội để đạt
được lợi thế chiến lược có ý nghóa nhất so với các đối thủ cạnh tranh. Từ đó, công ty sẽ đưa ra các đònh hướng
cơ bản cho hoạt động của mình. Tuy nhiên, việc xác đònh các yếu tố then chốt cho thành công không phải bao
giờ cũng dễ dàng. Về cơ bản, có hai cách tiếp cận. Cách thứ nhất là phân tích, mổ xẻ thò trường một cách đầy
sức tưởng tượng để từ đó xác đònh các lónh vực then chốt. Cách thứ hai là phát hiện ra những điểm gì làm phân
biệt giữa công ty thành công và công ty thất bại trên thò trường, sau đó phân tích sự khác biệt này giữa chúng.
Việc xác đònh tập trung một cách có hiệu quả toàn bộ nguồn lực của công ty vào các yếu tố then chốt sẽ đem

lại ưu thế cạnh tranh thực sự cho công ty.
• Hoàn thiện các sản phẩm hiện hữu và phát triển sản phẩm mới
Tốc độ hoàn thiện các sản phẩm hiện hữu là một trong những nguyên nhân thành công trong cạnh tranh. Nếu
như hoàn thiện liên tục là một yếu tố quan trọng trong cạnh tranh thì tốc độ hoàn thiện có ý nghóa rất lớn nhằm

2


Luận văn Thạc só kinh tế









Hà Thò Minh Châu

không ngừng thỏa mãn nhu cầu của khách hàng và khẳng đònh “giá trò” của sản phẩm. Tuy nhiên, bên cạnh
các sản phẩm cũ, công ty cũng cần liên tục phát triển các sản phẩm mới. Rất nhiều công ty trên thế giới trong
thời gian qua đã giảm chu kỳ phát triển sản phẩm mới xuống chỉ còn ít hơn một nửa thời gian so với trước đây.
Công ty nào có tốc độ phát triển sản phẩm mới nhanh và thỏa mãn nhu cầu đa dạng của khách hàng có thể trở
thành đối thủ cạnh tranh dẫn đầu thò trường, khi đó áp lực sản phẩm thay thế và đối thủ tiềm ẩn sẽ không còn
đáng kể đối với công ty.
Cá nhân hóa sản phẩm
Chỉ có các công ty có sự năng động cao mới có thể linh hoạt trong việc thay đổi và tạo ra các sản phẩm phù
hợp với những nhu cầu đa dạng đang được cá nhân hóa của khách hàng. Khi mức sống ngày càng cao, nhu cầu
khách hàng ngày càng có xu hướng cá nhân hóa thì sự thành công của các công ty là có được sản phẩm và dòch

vụ phù hợp với các nhu cầu rất khác biệt của khách hàng. Do đó, công ty cần phải “cắt lát” và “tái cắt lát” thò
trường, xác đònh được một hay nhiều loại khách hàng trong toàn bộ thò trường và tập trung mọi nỗ lực của công
ty vào việc đáp ứng cho các nhóm khách hàng khác nhau. Như vậy, việc hiểu rõ tường tận mong muốn của
khách hàng chính là cơ sở cho việc cá nhân hóa sản phẩm thành công.
Quan tâm đến khách hàng
Chiến lược dựa trên khách hàng là cơ sở cho mọi chiến lược. Quan tâm đến những yêu cầu và phản ứng nhanh
chóng để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng sẽ dẫn đến nhiều lợi thế và thực sự là một yếu tố rất quan trọng
trong lợi thế cạnh tranh. Cụ thể như việc tổ chức tốt nguồn thông tin từ khách hàng sẽ giúp công ty xác đònh
chính xác các nhu cầu và thò hiếu của khách hàng, hiểu rõ được những sai sót của bản thân sản phẩm để nhanh
chóng khắc phục. Và thú vò nhất là các ý kiến phản hồi từ khách hàng có thể trở thành ý tưởng cho những
thành công sau này của công ty.
Phân phối sản phẩm theo đơn đặt hàng
Rút ngắn thời gian từ khi nhận được đơn đặt hàng đến khi giao sản phẩm cho khách hàng có ý nghóa rất lớn
trong việc thu hút và giữ vững khách hàng, góp phần làm giảm chi phí và giá cả cạnh tranh. Điều này càng
quan trọng đối với các sản phẩm theo mùa hoặc có tính thời trang.
Điều chỉnh hoạt động marketing
Thò trường luôn thay đổi và thay đổi rất nhanh nên việc điều chỉnh các hoạt động marketing cho phù hợp với
những thay đổi của thò trường có hiệu quả rất lớn trong cạnh tranh.

1.3.2 Các chiến lược cạnh tranh
Lợi thế cạnh tranh được thể hiện dưới hai hình thức cơ bản là chi phí thấp hoặc khác biệt hóa. Kết hợp hai hình
thức này với phạm vi hoạt động của công ty sẽ hình thành nên ba chiến lược cạnh tranh chung: chiến lược chi phí
thấp, chiến lược khác biệt hóa và chiến lược tập trung.
• Chiến lược chi phí thấp
Mục tiêu của chiến lược này là công ty tạo ra sản phẩm và dòch vụ với chi phí thấp nhất so với đối thủ cạnh
tranh. Do chi phí thấp, công ty có thể bán sản phẩm với giá thấp hơn đối thủ cạnh tranh mà vẫn giữ nguyên
mức lợi nhuận. Trong trường hợp đối thủ cạnh tranh bán ở cùng mức giá thì các công ty có chi phí thấp hơn sẽ
đạt được mức lợi nhuận cao hơn. Mặt khác, nếu xảy ra chiến tranh giá cả khi ngành kinh doanh đi vào giai
đoạn trưởng thành thì công ty có chi phí thấp hơn sẽ chòu đựng cạnh tranh tốt hơn. Ngoài ra chiến lược chi phí
thấp giúp công ty dễ dàng chòu đựng được khi có sức ép tăng giá của các nhà cung cấp.

• Chiến lược khác biệt hóa
Mục tiêu của chiến lược này là đạt được lợi thế cạnh tranh thông qua việc tạo ra sản phẩm được xem là duy
nhất, độc đáo hay thỏa mãn nhu cầu khách hàng bằng cách thức riêng mà các đối thủ cạnh tranh không đạt
được. Chính khả năng này đã cho phép công ty đònh giá vượt trội cho “sản phẩm”, phát triển doanh thu và đạt
tỷ suất lợi nhuận trên trung bình. Giá “vượt trội” này thường cao hơn nhiều so với giá sản phẩm của công ty
theo chiến lược chi phí thấp và được khách hàng chấp nhận vì họ tin rằng sản phẩm có chất lượng cao. Do vậy,
sản phẩm được đònh giá trên cơ sở thò trường, ở mức mà thò trường chấp nhận.


Chiến lược tập trung
Khác với hai chiến lược trên, chiến lược tập trung chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu cho một phân khúc thò trường nào
đó, được xác đònh thông qua yếu tố đòa lý, đối tượng khách hàng hay tính chất sản phẩm. Công ty có thể thực

3


Luận văn Thạc só kinh tế

Hà Thò Minh Châu

hiện chiến lược này thông qua hai phương thức chi phí thấp hay khác biệt hóa. Nói cách khác, công ty thực hiện
chiến lược chi phí thấp hay khác biệt hóa chỉ trong phân khúc thò trường đã chọn, nằm đạt được lợi thế cạnh
tranh. Sự khác biệt hóa sản phẩm trong chiến lược tập trung ở mức cao hay thấp tùy thuộc vào việc công ty
theo con đường chi phí thấp hay khác biệt hóa.
Ba loại chiến lược nêu trên tuy có những yêu cầu khác nhau nhưng đều chung một mục đích là tạo nên các loại
hàng rào khác nhau để chống đỡ và làm giảm áp lực cạnh tranh đối với công ty. Theo M.E.Porter, để lựa chọn
chiến lược cạnh tranh thích hợp, công ty cần căn cứ vào lợi thế cạnh tranh của riêng mình, đó chính là vũ khí quan
trọng nhất giúp công ty vượt qua các đối thủ cạnh tranh và thành công.
1.4 XÂY DỰNG CHIẾN LƯC CẠNH TRANH
Như phần trên đã trình bày, cấu trúc ngành giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng chiến lược cạnh

tranh. Phân tích môi trường ngành giúp công ty hiểu rõ được các áp lực cạnh tranh. Tuy nhiên cấu trúc ngành luôn
thay đổi và là những thay đổi căn bản. Do vậy, sự tiến hóa của ngành có tầm quan trọng đặc biệt trong việc xây
dựng chiến lược. Trước khi đi vào giai đoạn xây dựng chiến lược, việc tìm hiểu ảnh hưởng vòng đời phát triển
ngành đối với chiến lược là rất cần thiết.
• Ảnh hưởng của vòng đời phát triển ngành
Vòng đời phát triển ngành trải qua bốn giai đoạn phát triển và tại mỗi giai đoạn, bản chất cạnh tranh cũng sẽ
khác nhau. Đó là giai đoạn giới thiệu, tăng trưởng, bảo hòa và suy thoái. Ở giai đoạn giới thiệu, công ty có thể
sử dụng chiến lược xây dựng thò phần và chiến lược chi phí thấp. Trong giai đoạn tăng trưởng các công ty cần
củng cố vò thế cạnh tranh bằng các chiến lược marketing, chiến lược sản phẩm, và nếu có thể phát triển và mở
rộng thò trường. Vào giai đoạn trưởng thành, công ty có thể lựa chọn chiến lược khai thác tối đa lợi nhuận,
chiến lược tập trung khác biệt hóa, chiến lược gặt hái ngay hay chiến lược thanh lý và rút lui khỏi ngành. Cuối
cùng là giai đoạn suy thoái, các chiến lược tập trung củng cố thò trường, chiến lược thu hoạch và chiến lược
chuyển hướng kinh doanh cần được vận dụng. Mô hình vòng đời phát triển ngành chỉ mang tính chất tổng quát.
Trong thực tế mô hình này không nhất thiết phải trải qua đủ bốn giai đoạn nêu trên. Công ty cần nghiên cứu kỹ
các giai đoạn phát triển ngành để có thể xây dựng các chiến lược cạnh tranh thích hợp và thành công.


Xây dựng chiến lược cạnh tranh
Theo M.E.Porter việc xây dựng chiến lược có thể được thể hiện dưới hình thức so sánh các điểm mạnh và
điểm yếu của công ty, đặc biệt là những khả năng nổi bật để tìm ra các cơ hội và rủi ro trong môi trường kinh
doanh. Các nguyên tắc phân tích môi trường giúp công ty có được đề cương xác đònh một cách có hệ thống
những điểm mạnh và điểm yếu chủ chốt của công ty, khi xét tương đối với các đối thủ cạnh tranh. Trên cơ sở
này, công ty có thể xác đònh chiến lược cạnh tranh thích hợp và thành công. Các chiến lược cạnh tranh chung
cũng như một số phương pháp khai thác lợi thế cạnh tranh đã trình bày ở phần trên thể hiện cách tiếp cận tổng
quát đối với việc xác đònh vò trí chiến lược thành công cho công ty. Quy trình quản trò chiến lược cạnh tranh
bao gồm ba giai đoạn chính sau: thiết kế chiến lược, thực hiện chiến lược và đánh giá chiến lược.

1.5 TỔNG QUAN VỀ NGÀNH XÂY DỰNG
Xây dựng cơ bản là một trong những lónh vực sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Với chức
năng tái sản xuất tài sản cố đònh cho các ngành, lónh vực của nền kinh tế thông qua hoạt động đầu tư vốn, thiết kế

và sản xuất xây lắp, xây dựng cơ bản giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Và để có một
cái nhìn tổng quát về ngành xây dựng, việc tìm hiểu đặc điểm riêng của ngành là rất cần thiết.
1.5.1 Đặc điểm kinh tế cơ bản của thò trường ngành xây dựng
1.5.1.1 Đặc điểm của sản phẩm xây dựng và quá trình sản xuất xây dựng
Sản phẩm xây dựng với tư cách là các công trình xây dựng đã hoàn chỉnh và theo nghóa rộng là tổng hợp và kết
tinh sản phẩm của nhiều ngành sản xuất như chế tạo máy, công nghiệp, vật liệu sản xuất, năng lượng, hóa chất,
luyện kim... và lẽ dó nhiên là của ngành xây dựng đóng vai trò tổ chức cấu tạo công trình ở khâu cuối cùng để đưa
chúng vào hoạt động. Với những nét đặc trưng trên, sản phẩm xây dựng thường có các tính chất sau:
• Là những công trình, vật kiến trúc được xây dựng và sử dụng tại đòa điểm qui đònh, cố đònh tại điểm xây dựng
và thường được phân bổ trên nhiều nơi của lãnh thổ.

4


Luận văn Thạc só kinh tế





Hà Thò Minh Châu

Thường có kích thước lớn, kết cấu phức tạp đòi hỏi chi phí chế tạo lớn, thời gian xây dựng kéo dài, tồn tại qua
nhiều năm và khó sửa đổi.
Tính chất cá biệt cao, đa dạng về công dụng, cách thức cấu tạo và cả phương pháp chế tạo.
Liên quan đến nhiều ngành khác nhau trong quá trình xây dựng và sử dụng, mang tính chất tổng hợp về kỹ
thuật, kinh tế, chính trò, văn hóa, xã hội và quốc phòng.

Từ tính chất đặc biệt này của sản phẩm xây dựng, quá trình sản xuất xây dựng cũng mang nhiều đặc điểm kinh tế
kỹ thuật khác nhau:

• Tình hình và điều kiện sản xuất thiếu tính ổn đònh, luôn biến đổi theo đòa điểm và giai đoạn xây dựng. Do vậy,
tổ chức sản xuất xây dựng phải chú ý tăng cường tính cơ động và linh hoạt, thích ứng với từng đòa điểm và giai
đoạn cụ thể như phải lựa chọn phương án, hình thức tổ chức sản xuất, vận chuyển, vùng hoạt động, lợi dụng và
liên kết tối đa với lực lượng xây dựng tại chỗ để giảm chi phí khi lập giá đấu thầu.
• Thời gian xây dựng công trình thường kéo dài làm cho chu kỳ sản xuất xây dựng lớn hơn chu kỳ sản xuất công
nghiệp, dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn trong khối lượng thi công dở dang. Ngoài ra, các doanh nghiệp xây dựng
dễ gặp phải các rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian như biến động kinh tế, khoa học kỹ thuật, thiên nhiên... làm
gia tăng chi phí sản xuất và giá thành công trình. Do đó, các doanh nghiệp cần chọn lựa trình tự thi công hợp
lý, phối hợp khéo léo giữa các hạng mục công trình nhằm hạn chế tối đa “thời gian chết”, chú ý nhân tố thời
gian khi lựa chọn phương án xây dựng, phương thức thanh toán và kiểm tra chất lượng công trình, nhất là khi
soạn thảo hồ sơ đấu thầu…
• Quá trình sản xuất xây dựng rất phức tạp, các đơn vò tham gia phải cùng kéo đến hiện trường thi công trên một
diện tích có hạn để thực hiện phần việc theo một trình tự nhất đònh về thời gian và không gian. Đặc điểm này
đòi hỏi các đơn vò phải có trình độ tổ chức, phối hợp cao, coi trọng công tác chuẩn bò và thiết kế tổ chức thi
công, liên kết chặt chẽ giữa các đơn vò tổng thầu (thầu chính) và các thầu phụ.
• Quá trình sản xuất xây dựng chòu nhiều ảnh hưởng của điều kiện đòa lý, tự nhiên, đòa chất làm gián đoạn quá
trình thi công, năng lực của các tổ chức xây dựng không được sử dụng điều hòa theo bốn q, chất lượng công
trình bò thay đổi. Vì vậy, doanh nghiệp cần sắp xếp, chọn lựa phương pháp thi công hợp lý, đẩy nhanh tiến độ,
quan tâm đến nhân tố rủi ro của thời tiết khi đấu thầu.
• Sản xuất xây dựng còn bò tác động bởi lợi nhuận chênh lệch do điều kiện của đòa điểm xây dựng đem lại. Cùng
một loại công trình nhưng nếu được đặt tại nơi có sẵn nguồn nguyên vật liệu, máy móc thiết bò cho thuê và lực
lượng nhân công thì doanh nghiệp có nhiều cơ hội hạ thấp chi phí và thu được lợi nhuận cao hơn.
Tất cả các đặc điểm trên ảnh hưởng đến mọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh xây dựng nói riêng và đến lý
thuyết kinh tế thò trường áp dụng cho lónh vực xây dựng nói chung.
1.5.1.2 Đặc điểm kinh tế cơ bản của thò trường ngành xây dựng
Xuất phát từ những đặc điểm riêng của sản phẩm và quá trình sản xuất xây dựng, thò trường xây dựng được hiểu là
nơi gặp gỡ giữa sự chào hàng về khả năng và kết quả xây dựng của các doanh nghiệp (bên cung_người bán sản
phẩm xây dựng) và nhu cầu xây dựng của các chủ đầu tư (bên cầu_người mua sản phẩm xây dựng) nhằm đi đến ký
kết hợp đồng xây dựng giữa người mua và người bán công trình. Thò trường ngành xây dựng có những đặc điểm
chính sau:

• Sản xuất đơn chiếc theo đơn đặt hàng, không thể sản xuất hàng loạt, không có thời gian lưu kho và chưa được
sản xuất ra (xây dựng) khi đặt hàng và chào hàng.
• Quá trình mua bán đã xảy ra trước lúc bắt đầu giai đoạn sản xuất thông qua việc đấu thầu và ký kết hợp đồng
xây dựng, sau đó được tiếp tục thông qua các đợt thanh toán trung gian cho đến khi bàn giao công trình và
quyết toán cuối cùng. Việc tiêu thụ sản phẩm xây dựng được tiến hành trực tiếp giữa người bán và người mua
(chủ đầu tư) và không qua khâu trung gian.
• Người mua (chủ đầu tư) thường là các chủ doanh nghiệp sản xuất và dòch vụ nên chưa phải là người tiêu dùng
ở cấp cuối cùng, chỉ trừ trường hợp người mua công trình chỉ để sử dụng cho sinh hoạt và không phải để kinh
doanh (ví dụ nhà ở).
• Số người tham gia quá trình mua bán sản phẩm xây dựng thường lớn (không phải hai người). Ý đònh của người
mua (chủ đầu tư) quyết đònh chất lượng, giá cả của sản phẩm và quyết đònh cả người bán sản phẩm (tức chủ

5


Luận văn Thạc só kinh tế









Hà Thò Minh Châu

thầu xây dựng). Người mua phải tạm ứng trước một số tiền cho người bán dùng để sản xuất sản phẩm (xây
dựng công trình).
Quy luật cạnh tranh trong thò trường xây dựng xảy ra phổ biến dưới hình thức đấu thầu.

Quá trình cung và cầu trong xây dựng xảy ra tương đối không liên tục như các ngành khác nên hoạt động xây
dựng chỉ xảy ra một cách gián đoạn và phụ thuộc vào chu kỳ khủng hoảng kinh tế. Thò trường xây dựng phụ
thuộc chặt chẽ vào thò trường đầu tư, nhất là vào lãi suất tín dụng và mức thu lợi đạt được của đầu tư.
Không có giá cả thống nhất cho sản phẩm xây dựng nên các chính sách và chiến lược giá thường khó linh hoạt
và không quan trọng bằng các ngành khác.
Marketing được tiến hành cá biệt cho từng trường hợp đấu thầu và không tiến hành hàng loạt. Quảng cáo xây
dựng thực hiện chủ yếu thông qua các thành tích công trình đã đạt được. Ngoài ra chiến lược ngoại giao có vai
trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động tìm kiếm khách hàng và nghiệm thu công trình.
Vai trò của Nhà nước đối với ngành xây dựng tương đối lớn hơn so với các ngành khác vì liên quan đến vấn đề
sử dụng đất đai, bảo vệ môi trường và ngân sách Nhà nước đầu tư cho các công trình phục vụ công cộng tương
đối cao.

Những đặc điểm của sản phẩm xây dựng nói riêng và của thò trường xây dựng nói chung có tác động không nhỏ
đến quá trình tổ chức sản xuất và quản lý ngành. Việc tìm hiểu các đặc trưng này sẽ giúp doanh nghiệp xây dựng
có một tầm nhìn chiến lược trong quá trình sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong hoạt động đấu thầu cạnh tranh.
1.5.2 Tình hình hoạt động ngành xây dựng TP.HCM
1.5.2.1 Vai trò của ngành xây dựng đối với nền kinh tế quốc dân
Trong thời gian qua, xây dựng là một trong những ngành kinh tế quốc dân có tốc độ tăng trưởng khá cao (giai đoạn
1995-1998 là 25%) nên những dòch vụ có liên quan đến xây dựng đều có cơ hội phát triển mạnh. Các dự án đầu tư
trực tiếp của nước ngoài cũng như trong nước đã thực hiện một khối lượng xây dựng cơ bản rất lớn, đó là những tác
nhân góp phần nâng cao cả về chất lượng lẫn số lượng cho lónh vực xây dựng nước ta.
Có thể nói, xây dựng là lónh vực chòu tác động mạnh nhất từ sự tăng trưởng với tốc độ cao của nền kinh tế. Từ năm
1992 đến nay, lónh vực xây dựng luôn có tốc độ tăng trưởng cao hơn so với tốc độ phát triển GDP. Cũng giống như
ở nhiều nước, trong giai đoạn đầu của sự phát triển, các nước đều có nhu cầu rất lớn về đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng và các công trình công nghiệp… Trong giai đoạn nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nước ta chỉ tập trung đầu
tư xây dựng ngành công nghiệp nặng mà quên mất nhu cầu tiêu dùng nói chung, trong đó có nhu cầu về nhà ở của
nhân dân. Do đó, khi chuyển sang cơ chế mới và cùng với sự cải thiện về đời sống kinh tế của các hộ gia đình, nhu
cầu nhà ở theo đó tăng lên rất nhanh. Điều này trở thành nhân tố thúc đẩy sự phát triển của lãnh vực dòch vụ xây
dựng. Một nhân tố khác cũng góp phần đáng kể vào sự phát triển của lónh vực xây dựng nước ta là hoạt động đầu
tư trực tiếp của nước ngoài.

Như vậy, lónh vực dòch vụ xây dựng không chỉ chòu ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế mà còn có vai trò tác động
tích cực đối với nền kinh tế nói chung và sự phát triển của các ngành cụ thể trong nền kinh tế. Ngành xây dựng đã
tạo công ăn việc làm, giải quyết các vấn đề xã hội liên quan đến lao động. Do vậy, tiến đến hội nhập với khu vực,
thế giới và mở cửa hoàn toàn trong lónh vực dòch vụ xây dựng, cần đánh giá thực chất năng lực hiện tại của các
doanh nghiệp xây dựng để có thể đề ra các chính sách và biện pháp hỗ trợ thiết thực. Mặt khác, phải có các chiến
lược nâng cao khả năng cạnh tranh để trong một thời gian nhất đònh, các doanh nghiệp nước ta tự vươn lên, đủ sức
cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trên thò trường Việt Nam và vươn ra thò trường thế giới.
1.5.2.2 Tình hình hoạt động ngành xây dựng TP.HCM
TP.HCM là một trung tâm kinh tế-văn hóa và chính trò quan trọng của nước ta. Với diện tích tự nhiên chiếm 0,6%
và dân số là 6,5% so với cả nước nhưng đã đạt đến 18% tổng sản phẩm xã hội, 15,9% thu nhập quốc dân và 29%
sản lượng công nghiệp so với cả nước. Nằm trong khu vực được xác đònh là vùng tam giác trọng điểm phát triển
của phía Nam bao gồm TP.HCM-Đồng Nai-Bà Ròa Vũng Tàu, TP.HCM chính là trung tâm phát triển của hành
lang phía Nam, có vai trò rất lớn trong việc tạo điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật trong toàn khu vực miền Nam.
Trong lãnh vực quản lý xây dựng, tổng vốn đầu tư xây dựng trên đòa bàn thành phố trong 25 năm qua (1975-1999)

6


Luận văn Thạc só kinh tế

Hà Thò Minh Châu

đã đạt khoảng 129.486 tỉ đồng (tính theo giá trò thực tế hàng năm) được chia ra theo Bảng1. Vốn đầu tư xây dựng
bắt đầu tăng vọt từ năm 1991 từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thò trường, đồng thời vốn đầu tư trực tiếp của
nước ngoài cũng tăng cao sau khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành (1987), chiếm khoảng 1/3 tổng vốn đầu tư
trên đòa bàn. Tốc độ phát triển ngành tăng đều ở giai đoạn 1995-1998 là 25%, nhưng chựng lại ở năm 1999 là
2,86%. Trong đó giá trò sản xuất của khu vực ngoài quốc doanh và đầu tư nước ngoài giảm rõ rệt, từ 47%
(1996/1995) xuống còn 23% (1997/1996), 12,8% (1998/1997) và đặc biệt tăng trưởng âm: -6,95% (1999/1998). Đây
là tình hình chung của cả khu vực, tác động xấu đến hoạt động ngành xây dựng thành phố nói riêng và nền kinh tế
nước ta nói chung.


Bảng 1: VỐN ĐẦU TƯ XDCB TPHCM GIAI ĐOẠN 1975-1999
ĐVT: Tỷ Đồng
1975-1991 1991-1995
Tổng số

1996

1997

1998

1999

8.000

37.000

18.645

22.960

23.984

18.897

Nguồn vốn trong nước

7.800


29.000

11.935

14.211

15.767

12.578

Nguồn vốn nước ngoài

200

8.000

6.710

8.749

8.217

6.319

(Niên giám Thống kê TPHCM 1999)
Trong năm 1999, GDP của TP.HCM tăng 10% so với năm 1998, trong khi tốc độ tăng trưởng bình quân từ năm
1996 đến năm 1999 là 14% chứng tỏ nền kinh tế đang có xu hướng phát triển chựng lại. Mặt khác, cuộc khủng
hoảng kinh tế-tài chính trong khu vực (1997-1998) đã tác động rất lớn đến ngành xây dựng. GDP ngành xây dựng
thành phố năm 1999 tăng 12,4% so với năm 1998 (giai đoạn 1996-1999 tăng bình quân 18,8%) cho thấy ngành
đang trong giai đoạn bão hòa... Tình hình hoạt động sản xuất xây dựng của các đơn vò hiện nay rất khó khăn do thò

trường xây dựng bò thu hẹp, nhất là các đơn vò chuyên thi công các công trình kiến trúc như cao ốc, văn phòng cho
thuê, khách sạn, nhà máy… nhiều dự án bò ngưng trệ giữa chừng, có dự án tuy đã giải tỏa mặt bằng xong, có giấy
phép xây dựng nhưng chưa được khởi công gây lãng phí cho chủ đầu tư và xã hội. Các công trình có giá trò lớn khởi
công trong thành phố hầu như không có, các đơn vò xây dựng vẫn tập trung chủ yếu vào các công trình chuyển tiếp,
phần lớn nằm ngoài thành phố như ở các khu chế xuất, khu công nghiệp… (khu vực tỉnh Bình Dương, Biên Hòa,
Vũng Tàu…). Tình trạng thiếu vốn, bò chiếm dụng vốn, công trình đưa vào sử dụng nhưng bên A chưa thanh toán…
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các công ty xây dựng.
Bảng 2: GIÁ TRỊ NGÀNH XÂY DỰNG TPHCM GIAI ĐOẠN 1995-1999
ĐVT : Triệu Đồng
1995
Tổng số

1996

1997

1998

1999

5.842.125 7.915.193 9.939.960 11.316.337 11.640.054

– Quốc doanh

3.000.748

3.736.271

4.795.261


5.514.617

6.241.638

– Ngoài quốc doanh

2.752.469

3.572.272

4.334.453

5.032.706

4.764.010

– Đầu tư nước ngoài

88.908

606.650

810.246

769.014

634.406

(Niên giám Thống kê TPHCM 1999)


Về cơ cấu thành phần kinh tế, các doanh nghiệp xây dựng quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, chiếm khoảng 50% giá
trò sản xuất toàn ngành, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (các công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp tư
nhân…) đóng góp 40% giá trò sản xuất và còn lại là các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (các công ty liên doanh,
100% vốn nước ngoài) chiếm 10% giá trò. Đây là ba đối thủ cạnh tranh chính trong thò trường ngành xây dựng hiện
nay.
Có thể nói thò trường xây dựng TP.HCM đang trong giai đoạn phát triển rất khó khăn do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan. Tốc độ tăng trưởng của toàn ngành giảm, phần lớn nguồn vốn đầu tư phụ thuộc vào bên ngoài,
cơ cấu vốn đầu tư chưa thật ổn đònh… Tất cả những yếu tố trên đã tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất toàn
ngành. Vì vậy, để có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay, các công ty xây dựng cần xác đònh chiến

7


Luận văn Thạc só kinh tế

Hà Thò Minh Châu

lược nâng cao khả năng cạnh tranh, đặc biệt đối với các công ty TNHH xây dựng, hạt nhân phát triển của ngành
xây dựng Việt Nam.
Tóm lại, doanh nghiệp muốn thành công phải xây dựng chiến lược cạnh tranh_mọât chiến lược tổng hợp nhằm tạo ra
vò thế cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thò trường. Điểm cốt yếu của việc xây dựng chiến lược là liên hệ doanh
nghiệp với môi trường xung quanh, đặc biệt là môi trường ngành. Tuy nhiên, việc xây dựng chiến lược cạnh tranh
không thể khả thi nếu bỏ qua giai đoạn tìm hiểu vòng đời phát triển ngành. Đây chính là những nền tảng cơ bản
trong việc hoạch đònh chiến lược cạnh tranh. Và trước khi đi vào phân tích thực trạng đấu thầu xây dựng tại các
công ty TNHH xây dựng TPHCM, việc tìm hiểu khái quát về ngành xây dựng là rất cần thiết, đặc biệt là các đặc
điểm kinh tế của thò trường ngành. Những đặc trưng cơ bản này có ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất hoạt động của
các doanh nghiệp trong ngành, nhất là trong đấu thầu cạnh tranh.

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG ĐẤU THẦU XÂY DỰNG TẠI CÁC CÔNG TY TNHH XÂY
DỰNG TP.HCM

Chương này gồm hai nội dung chính. Phần thứ nhất giới thiệu khát quát và phân tích thực trạng đấu thầu cạnh tranh
tại các công ty TNHH xây dựng. Phần thứ hai tập trung nghiên cứu tình hình hoạt động xây dựng tại các công ty
TNHH xây dựng TP.HCM. Cụ thể là phân tích môi trường vó mô, vi mô và nội bộ ngành, từ đó làm cơ sở cho việc xây
dựng chiến lược cạnh tranh ở chương 3.
2.1 HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU CẠNH TRANH
2.1.1 Vai trò của đấu thầu đối với doanh nghiệp xây dựng
Một trong những vấn đề quyết đònh sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp xây dựng trong cơ chế thò trường là
phải tạo được lợi thế cạnh tranh để có thể ký kết nhiều hợp đồng xây dựng đạt lợi nhuận cao với các chủ đầu tư
công trình. Vì thế, hoạt động tìm kiếm hợp đồng có thể xem là một trong những hoạt động chủ yếu, có vai trò rất
quan trọng đối với các doanh nghiệp xây dựng. Nếu hoạt động này đạt được kết quả tốt, nghóa là doanh nghiệp có
nhiều hợp đồng thì các hoạt động khác của doanh nghiệp như sản xuất thi công xây lắp, tài chính, bàn giao công
trình… mới có điều kiện thực hiện.
Trong nền kinh tế thò trường, doanh nghiệp có thể ký kết hợp đồng xây dựng khi doanh nghiệp thắng trong đấu
thầu hay được chủ đầu tư lựa chọn (không thông qua đấu thầu) để giao thầu trực tiếp. Chính vì vậy, đấu thầu xây
dựng là một phương thức lựa chọn nhà thầu phổ biến trong thực tế. Trong đấu thầu, các nhà thầu tức các doanh
nghiệp xây dựng cạnh tranh nhau để thắng thầu. Thông thường, các doanh nghiệp trúng thầu là những doanh
nghiệp chào hàng (dự thầu) với giá cả xây dựng hợp lý và thỏa mãn tốt nhất những điều kiện của chủ đầu tư (thời
gian xây dựng, năng lực kỹ thuật và tài chính, chất lượng công trình...). Đấu thầu còn thể hiện cao tính cạnh tranh
của thò trường xây dựng giữa bên mời thầu và các bên dự thầu.
Vấn đề quan trọng đặt ra cho các doanh nghiệp xây dựng tham gia đấu thầu là làm thế nào để thắng thầu. Đây là
mục tiêu duy nhất, quyết đònh sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trên thò trường. Thông thường, với tỉ
suất thắng thầu ở một đơn vò xây dựng “thiện chiến” là 10-12% (có nghóa là phải tham gia đấu thầu 8-10 cuộc mới
“hy vọng” thắng một cuộc), hoạt động đấu thầu cạnh tranh thực sự là một thách thức lớn đối với nhà thầu. Vì vậy,
để có thể thắng thầu, các doanh nghiệp xây dựng chẳng những cần có thực lực cạnh tranh mà còn phải có chiến
lược và chiến thuật đấu thầu hiệu quả.
2.1.2 Nội dung hoạt động đấu thầu

8



Luận văn Thạc só kinh tế

Hà Thò Minh Châu

Trên thế giới, ở các nước có nền kinh tế thò trường, việc đấu thầu mua sắm thiết bò vật tư và xây dựng công trình từ
lâu đã trở thành thông lệ và được xem như một thủ tục, một thể thức phổ biến. Phương thức đấu thầu quốc tế hiện
nay được tiến hành theo những chế đònh của tổ chức FIDIC (Hiệp hội quốc tế các kỹ sư tư vấn_Fédération
Internationle des Ingéniecurs Conseils). Theo tính chất, đấu thầu có thể áp dụng cho ba loại công việc chính sau:
đấu thầu công tác giám đònh và tư vấn (bao gồm các công việc khảo sát, lập dự án đầu tư xây dựng, thiết kế, soạn
thảo hồ sơ đấu thầu, giám sát và điều khiển quá trình thi công..); đấu thầu mua sắm thiết bò và vật tư xây dựng
công trình và đấu thầu thực hiện thi công xây lắp công trình. (Phạm vi đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu liõnh vực
đấu thầu xây dựng công trình).
2.1.2.1 Nguyên tắc đấu thầu
Với mục tiêu thực hiện tính cạnh tranh, công bằng và minh bạch trong quá trình đấu thầu để lựa chọn nhà thầu phù
hợp, đảm bảo hiệu quả kinh tế của dự án, hoạt động đấu thầu cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
• Nguyên tắc cạnh tranh với điều kiện ngang nhau: mỗi cuộc đấu thầu đều phải được thực hiện với sự tham dự
của một số nhà thầu có đủ năng lực để hình thành một cuộc cạnh tranh mạnh mẽ. Điều kiện đặt ra và thông tin
cung cấp cho các đơn vò ứng thầu phải ngang bằng nhau, nhất thiết không có sự phân biệt đối xử.
• Nguyên tắc dữ liệu đầy đủ: các nhà thầu phải nhận được đầy đủ tài liệu đấu thầu với các thông tin chi tiết, rõ
ràng và có hệ thống về quy mô, khối lượng, qui cách, yêu cầu chất lượng của công trình hay hàng hóa dòch vụ
cần cung ứng, về tiến độ và điều kiện thực hiện.
• Nguyên tắc đánh giá công bằng: các hồ sơ đấu thầu phải được đánh giá một cách không thiên vò, theo cùng
một chuẩn mực và bởi một hội đồng xét thầu có đủ năng lực và phẩm chất. Lý do để “được chọn” hay “bò loại”
phải được giải thích đầy đủ nhằm tránh sự ngờ vực.
• Nguyên tắc trách nhiệm phân minh: khống chế các nghóa vụ, quyền, quyền lợi của các bên liên quan được đề
cập và chi tiết hóa trong hợp đồng, với phạm vi trách nhiệm của mỗi bên ở từng phần việc đều được phân đònh
rạch ròi để không một sai sót nào không có người chòu trách nhiệm.
• Nguyên tắc “ba chủ thể”: thực hiện dự án theo thể thức “Đấu thầu quốc tế” luôn luôn có sự hiện diện đồng thời
của ba chủ thể: chủ công trình, nhà thầu và kỹ sư tư vấn. Trong đó, “kỹ sư tư vấn” hiện diện như một nhân tố
đảm bảo cho hợp đồng luôn được thực hiện nghiêm túc đến từng chi tiết, mọi sự bất cập về kỹ thuật và tiến độ

được phát hiện kòp thời, những biện pháp điều chỉnh được đưa ra đúng lúc. Đồng thời, “kỹ sư tư vấn” cũng là
nhân tố hạn chế tối đa những mưu toan thông đồng hoặc thỏa hiệp “châm chước” gây thiệt hại cho chủ đầu tư.
• Nguyên tắc bảo lãnh, bảo hành và bảo hiểm thích đáng: để bảo vệ quyền lợi chính đáng và công bằng cho cả
chủ đầu tư và nhà thầu, các điều kiện về bảo lãnh, ký quỹ dự thầu, bảo hành công trình, bảo hiểm.. cần được
tuân thủ nghiêm ngặt nhằm giúp dự án được thực hiện một cách an toàn và thành công.
2.1.2.2 Hình thức đấu thầu chủ yếu
• Đấu thầu rộng rãi
Hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia. Đây là hình thức chủ yếu được áp dụng trong
đấu thầu. Bên mời thầu thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu trên các phương tiện thông tin
đại chúng trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Thông thường nhà thầu nào có giá dự thầu thấp nhất sẽ được
chọn.
• Đấu thầu hạn chế
Chủ đầu tư chỉ mời một số nhà thầu có đủ năng lực về tài chính, kỹ thuật, chuyên môn... tham dự. Hình thức
này được áp dụng khi chỉ có một số nhà thầu đáp ứng được yêu cầu của gói thầu hay do tình hình cụ thể của
gói thầu.
• Chỉ đònh thầu
Chủ đầu tư chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để thương thảo hợp đồng. Sự lựa chọn này có
thể dựa trên uy tín, quan hệ ngoại giao hay chính năng lực của nhà thầu.
2.1.2.3 Quy trình đấu thầu
Toàn bộ thể thức, trình tự đấu thầu xây dựng có thể chia làm ba giai đoạn chính sau:
Sơ đồ 2: QUY TRÌNH ĐẤU THẦU XÂY DỰNG

9


Luận văn Thạc só kinh tế

Hà Thò Minh Châu

GIAI ĐOẠN SƠ TUYỂN


GIAI ĐOẠN NHẬN ĐƠN THẦU

GIAI ĐOẠN MỞ VÀ ĐÁNH GIÁ
ĐƠN THẦU, XÉT THẮNG THẦU







Giai đoạn sơ tuyển
Giai đoạn sơ tuyển có mục đích lọc lấy nhiều nhà thầu đã được đánh giá sơ bộ là đủ năng lực ứng thầu. Số
lượng nhà thầu cần đủ lớn để đảm bảo tính cạnh tranh nhưng phải đủ nhỏ để tạo ra sự quan tâm thích đáng
trong mọi đơn vò ứng thầu. Trong một số trường hợp, khi chủ công trình nắm vững thông tin về các nhà thầu
khả dó tham gia đấu thầu thì có thể đi tắt, bỏ qua giai đoạn sơ tuyển và bước ngay vào giai đoạn nhận đơn dự
thầu.
Giai đoạn nhận đơn thầu
Chủ công trình, hay thuê một đơn vò tư vấn, chuẩn bò văn kiện đấu thầu gửi đến cho các ứng thầu đã được sơ
tuyển. Văn kiện đấu thầu gồm ba nội dung chính: các nội dung về hành chính, pháp lý; các nội dung về kỹ thuật
và các nội dung về thương mại, tài chính. Trong bộ văn kiện này, phần thuyết minh về kỹ thuật là quan trọng
nhất, phải được soạn thảo rất công phu để cùng với bảng kê số lượng làm cơ sở chủ yếu cho các ứng thầu tính
toán giá thầu công trình, còn gọi là giá hợp đồng.
Giai đoạn mở và đánh giá đơn thầu, xét thắng thầu
Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình đấu thầu để chọn ra đơn vò thắng thầu với giá cả hợp đồng đưa ra
thấp nhất, đảm bảo các yêu cầu về mặt kỹ thuật, thương mại và điều kiện trong văn kiện đấu thầu. Tuy nhiên,
việc trao thầu cũng có thể dành cho đơn vò đạt được yêu cầu về tiến độ, phương án thi công hay các tiêu chuẩn
về chất lượng, tài chính, uy tín lâu năm... tạo cho đơn vò một lợi thế cạnh tranh về chi phí, hiệu quả tốt hơn.


2.1.3 Nhận xét lợi thế cạnh tranh trong đấu thầu
Dựa vào quy trình đấu thầu xây dựng, các doanh nghiệp cần chú ý đến các yếu tố sau để nâng cao khả năng cạnh
tranh trong đấu thầu.




Giai đoạn sơ tuyển
Đây là giai đoạn đầu tiên nhưng rất quan trọng, đặc biệt đối với hình thức đấu thầu hạn chế và chỉ đònh thầu.
Như đã nêu trên, việc chọn lựa các đơn vò ứng thầu chủ yếu dựa vào năng lực nhà thầu gồm nhiều yếu tố như:
uy tín, trình độ kỹ thuật, chuyên môn, chất lượng, khả năng tài chính, kinh nghiệm... Bên cạnh đó, việc chọn
lựa nhà thầu còn có thể thông qua các quan hệ ngoại giao giữa chủ đầu tư và nhà thầu. Chính vì vậy, lợi thế
cạnh tranh phải được tạo nên thông qua một quá trình lâu dài trước đó, quan trọng nhất là việc tích lũy “tài sản
vô hình”. Giá trò tài sản vô hình của doanh nghiệp càng cao thì doanh nghiệp càng có ưu thế trên thò trường.
Ngoài ra, doanh nghiệp nên duy trì và mở rộng quan hệ ngoại giao với mọi đối tác, nhất là các “khách hàng
tiềm năng”. Tất cả các yếu tố này sẽ góp phần tạo nên một giá trò cao cho doanh nghiệp và các chủ đầu tư sẽ
không quên “nhớ”ù đến doanh nghiệp khi tổ chức đấu thầu.
Giai đoạn nhận đơn thầu
Nếu như ở giai đoạn sơ tuyển, lợi thế cạnh tranh đạt được thông qua một quá trình, thì ở giai đoạn này, doanh
nghiệp phải giành lấy ưu thế dựa vào nỗ lực trong một thời gian xác đònh. Đó là công tác chuẩn bò hồ sơ dự
thầu. Đây là công việc rất quan trọng, quyết đònh sự thành công hay thất bại trong đấu thầu và cả hiệu quả
kinh doanh của đơn vò. Các nhà thầu phải dốc toàn bộ sức lực chuẩn bò hồ sơ thật cẩn thận, đầy đủ, chính xác
và sáng tạo trong một khoảng thời gian nhất đònh. Phần nội dung hành chính và pháp lý không được phép thiếu
sót. Quan trọng nhất vẫn là các điều khoản kỹ thuật. Các nhà thầu cần khảo sát trước hiện trường và lập hồ sơ
rất công phu, làm cơ sở cho việc tính toán giá thầu và hoạch đònh tiến độ thi công một cách chính xác. Ngoài
ra, để gia tăng lợi thế cạnh tranh, nhà thầu có thể đề nghò thêm về kỹ thuật, các phương án thay thế thích hợp

10



Luận văn Thạc só kinh tế



Hà Thò Minh Châu

với chi phí kèm theo. Điều này thể hiện năng lực và sự quan tâm của nhà thầu với dự án. Sau cùng là các nội
dung về thương mại và tài chính. Giá dự thầu phải được tính toán thật chính xác kèm theo thuyết minh và biểu
giá chi tiết dựa trên cơ sở hồ sơ kỹ thuật. Giá chào thầu phải đủ thấp để giành được công trình, nhưng vẫn phải
đủ cao để thu được lợi nhuận. Điều này thể hiện “nghệ thuật” cạnh tranh giá của nhà thầu. Điều kiện về tài
chính và thanh toán cũng là một lợi thế cạnh tranh. Một nhà thầu với tiềm lực tài chính mạnh, điều kiện thanh
toán “dễ chòu” cho phía chủ đầu tư cũng góp phần tạo nên ưu thế cho nhà thầu.
Giai đoạn mở và đánh giá đơn thầu, xét thắng thầu
Đây là giai đoạn chọn ra đơn vò thắng thầu. Chủ đầu tư quyết đònh nhà thầu dựa trên kết quả đánh giá hồ sơ dự
thầu. Tiêu chuẩn xét thầu chủ yếu là giá cả, ngoài ra còn có thể là chất lượng kỹ thuật, tiến độ thi công, điều
kiện tài chính... Chính vì vậy, các nhà thầu cần cố gắng tối đa trong việc chuẩn bò tốt mọi chi tiết của hồ sơ dự
thầu. Một văn kiện đấu thầu được soạn thảo chu đáo và nghiêm túc không những đem lại kết quả cho nhà thầu
mà còn tạo được một “ấn tượng” tốt đối với phía chủ đầu tư, đem đến những cơ hội ứng thầu trong tương lai.

2.1.4 Thực trạng hoạt động đấu thầu xây dựng ở nước ta
Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI (1986), nước ta bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới nền kinh tế từ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thò trường cùng với sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thò trường bắt đầu từng bước được hình thành. Trong lónh vực xây dựng đã bắt
đầu xuất hiện một công nghệ mới, đó là phương thức đấu thầu. Nhằm làm cho hoạt động đấu thầu xây dựng đi vào
nề nếp, tạo điều kiện tự do cạnh tranh lành mạnh trên thò trường xây dựng, Chính phủ đã ban hành Quy chế đấu
thầu. Trước hết là Nghò đònh 43/CP ngày 16/07/1996, sau đó được sửa đổi bổ sung theo Nghò đònh 93/CP ngày
23/08/1997. Đến ngày 04/09/1999, Chính phủ đã ban hành Quy chế đấu thầu mới, Nghò đònh 88/1999/NĐ_CP.
Trong đó có phần qui đònh cụ thể cho hoạt động đấu thầu xây dựng ở Chương IV_Đấu thầu xây lắp. Đây là quy chế
áp dụng đối với các dự án đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam.
Qua gần bốn năm thực hiện quy chế đấu thầu, theo Nghò đònh 43/CP, 93/CP và nay là Nghò đònh 88/CP của Chính

phủ có thể thấy rõ phương thức đấu thầu đã từng bước thay thế phương thức chỉ đònh thầu, mang nhiều tiềm ẩn tiêu
cực trong nền kinh tế thò trường. Trong thời gian qua, hầu như các dự án sử dụng vốn Nhà nước đều được áp dụng
phương thức đấu thầu. Ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nơi tính chất của nền kinh tế thò trường thể hiện rõ nét
nhất, việc áp dụng phương thức này là điều tất yếu. Tính hiệu quả của công tác đấu thầu cũng được thể hiện rõ. Từ
khi áp dụng Nghò đònh 43/CP đến tháng 2/1999, chỉ tính các gói thầu lớn do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là 96
gói thầu với giá trúng thầu là 2.390 triệu USD so với giá dự kiến ban đầu là 2.782 triệu USD, giảm được 392 triệu
USD tương đương 14,09%. Các dự án khác ở các bộ, ngành, đòa phương nhờ áp dụng phương thức đấu thầu, giá
trúng thầu đều giảm so với giá được duyệt. Cụ thể như các dự án do Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) thẩm đònh đã có
giá trúng thầu giảm từ 15%-20% ở lónh vực giao thông vận tải, 10%-30% ở ngành điện... Trên điạ bàn
TPHCM,khoảng 1.200 gói thầu đã được đấu (không kể hàng loạt những gói thầu nhỏ được chỉ đònh thầu, hay những
công trình tự làm) thông qua giá xét thầu và giá giao thầu đã tiết giảm bình quân 6%, cá biệt có những gói thầu
giảm đến 20%. Bên cạnh việc giảm giá thầu, chất lượng sản phẩm xây dựng đã được đảm bảo và phù hợp hơn, thời
gian thực hiện hợp đồng cũng ngắn hơn dự kiến, các điều kiện về tài chính và thương mại cũng như các điều kiện
khác trong hợp đồng được các bên tôn trọng. Song điều đáng ghi nhận nhất là năng lực đội ngũ nhà thầu trong nước
từng bước được nâng cao, bắt kòp trình độ phát triển của các nước trong khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, do đấu thầu là một công nghệ mới nên việc áp dụng vào thực tế còn gặp rất nhiều khó khăn, vướng
mắc. Quy chế đấu thầu chưa thật rõ ràng, cụ thể, thủ tục thực hiện còn nhiều rườm rà và rất tốn kém làm ảnh
hưởng đến thời gian, chất lượng và chi phí công trình. Việc tổ chức đấu thầu ở một số nơi chỉ mang tính “hình
thức”, chưa thực sự nghiêm chỉnh, công minh dẫn đến việc trao công trình cho nhà thầu đã được chỉ đònh trước.
Hiện tượng thông đồng nâng giá công trình, hiện tượng đặt giá tranh thầu thấp nhưng đến khi thắng thầu lại đề nghò
chỉnh giá cao hơn lúc đầu, chi phần trăm cho bên A để được nhận thầu, bán thầu để hưởng chênh lệch… Tất cả
những yếu tố trên đã ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, gia tăng các tiêu cực khác
trong ngành.

11


Luận văn Thạc só kinh tế

Hà Thò Minh Châu


2.1.5 Một số kinh nghiệm đấu thầu xây dựng của Tập đoàn xây dựng Hyundai (Hàn Quốc)
Trong việc đấu thầu xây dựng các công trình quốc tế, Hyundai đã rất thành công. Đây là kinh nghiệm quý giá cho
các nhà thầu xây dựng Việt Nam và thế giới mà ông Romusup, Phó giám đốc Tập đoàn xây dựng Hyundai đã báo
cáo tại Stanford-Nayang Executive Programme–Singapore 1995. Xin trích lược một vài nét tiêu biểu minh họa cho
đề tài.
¾ Khái niệm về ngành xây dựng
Ngành công nghiệp lớn nhất nhưng đa số hàng ngàn thành viên là những doanh nghiệp vừa và nhỏû cạnh tranh
với nhau. Ngành xây dựng có nhiều đặc trưng liên quan đến các ngành công nghiệp dòch vụ và chế tạo, được
đònh hướng khuyến khích hoàn toàn.
¾ Bí quyết thành công
Phân tích S.W.O.T. (những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và đe dọa) là công cụ rất hữu hiệu và cần thiết trong
việc nghiên cứu môi trường hoạt động, làm cơ sở cho mọi đònh hướng chiến lược của doanh nghiệp.
¾ Một số kinh nghiệm quản lý hoạt động đấu thầu xây dựng
• Đối với công tác đấu thầu, công ty cần điều tra trước vò trí xây dựng (sơ đồ vùng, thông tin về điều kiện tự
nhiên, đòa lý, thổ nhưỡng…), vò trí dòch vụ có ích (điện, gas, nước, vệ sinh, cống rãnh, đường sắt, đường cao tốc,
MRT…), điều kiện tại chỗ (các văn phòng xây dựng, hiệp hội lao động, nhà thầu đòa phương, nguồn vật liệu
xây dựng, máy móc thiết bò… )… Kết quả điều tra này rất có ích cho việc soạn thảo hồ sơ dự thầu và công tác
thi công sau này.
• Trong hồ sơ dự thầu, công ty cần nghiên cứu về những điểm đặc biệt của dự án, phác thảo phương án có thể
thay thế hay thêm vào các bổ sung cần thiết nhằm tạo lợi thế cạnh tranh cho đơn thầu.
• Công ty cần thiết lập các mối quan hệ với các nhà thầu, nhà cung cấp tại đòa điểm xây dựng để thật sự hiểu rõ
về nền văn hóa đòa phương, cấu trúc xã hội, những giá trò cổ truyền… Sự hòa hợp với đặc thù riêng của đòa
phương sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong việc quản lý xây dựng công trình, đảm bảo sự thành công
của dự án.
• Chính sách quản lý nhà thầu xây dựng rất cần thay đổi theo mối quan hệ với nhà thầu chính. Phương pháp
quản lý nhà thầu phụ của nhà thầu chính còn phụ thuộc vào năng lực thi công của nhà thầu phụ. Nhà thầu
chính sẽ chấp nhận mọi cách thức của nhà thầu phụ khi họ có thể hoàn tất công trình trong mọi tình huống.
• Nhà thầu chính cần lập trước kế hoạch hoạt động cụ thể cho tất cả các nhà thầu phụ. Sự hợp nhất ở mức độ cao
trong việc điều khiển các nhà thầu phụ sẽ tạo điều kiện cho nhà thầu chính quản lý quá trình sản xuất xây

dựng một cách thành công.
• Nếu như nhà thầu chính thừa nhận tỉ lệ trách nhiệm giữa mình và nhà thầu phụ là 30:70 thì mỗi bên phải hoàn
thành công việc không ít hơn số 30:70. Tuy nhiên, nếu nhà thầu phụ chỉ đạt 50 thay vì 70 thì nhà thầu chính
phải bao thêm 20 vào phần việc của mình để hoàn tất những công việc có liên quan.
• Trong điều khoản về mối quan hệ thầu khoán thì nhà thầu phụ phụ thuộc vào nhà thầu chính. Trong mọi
trường hợp, nhà thầu chính phải chòu trách nhiệm hoàn toàn với chủ đầu tư về những phần việc mà nhà thầu
phụ đã làm. Do đó, việc quản lý và giám sát chặt chẽ các nhà thầu phụ chính là điều kiện đảm bảo sự thành
công của dự án và bảo vệ uy tín của nhà thầu chính.
Trên đây là một số kinh nghiệm trong đấu thầu của Tập đoàn xây dựng Hyundai (Hàn Quốc), tuy chỉ là một vài nét
phác thảo rất sơ lược nhưng chắc rằng những nhận xét nêu trên sẽ rất hữu ích cho các doanh nghiệp xây dựng Việt
Nam trong việc tìm hiểu và vận dụng thành công.
2.2 PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG ĐẤU THẦU XÂY DỰNG TẠI CÁC CÔNG TY TNHH XÂY DỰNG
TPHCM
Trong nền kinh tế thò trường, các công ty TNHH xây dựng đều phải thông qua phương thức đấu thầu để tìm kiếm
hợp đồng. Đấu thầu xây dựng vì thế trở thành hoạt động có tầm quan trọng đặc biệt đối với các công ty. Tuy nhiên,
do những nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan, thực trạng đấu thầu tại các công ty TNHH xây dựng còn
gặp rất nhiều khó khăn và hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh của các công ty. Hiện
nay, hình thức đấu thầu chủ yếu tại các công ty TNHH xây dựng là đấu thầu hạn chế và chỉ đònh thầu, thực hiện
thông qua các quan hệ ngoại giao của công ty. Đây có thể là những dự án lớn, từng hạng mục công trình, hay công
tác nâng cấp, cải tạo và sữa chữa nhỏ… Tùy thuộc vào nguồn vốn và giá trò công trình, chủ đầu tư sẽ quyết đònh tổ
chức đấu thầu theo quy chế hay theo hình thức chào hàng cạnh tranh. Tuy nhiên dù ở hình thức nào, công ty vẫn

12


Luận văn Thạc só kinh tế

Hà Thò Minh Châu

phải tuân theo các bước của quy trình đấu thầu và phát huy lợi thế cạnh tranh của mình. Đối với hình thức đấu thầu

rộng rãi, do nhiều yếu tố “khách quan tiêu cực” đã hạn chế rất nhiều đến sự tham gia đông đảo của các nhà thầu.
Sau đây là các nhân tố tác động trực tiếp và gián tiếp đến hiệu quả công tác đấu thầu tại các công ty TNHH xây
dựng.
2.2.1 Các nhân tố trực tiếp
• Cơ cấu tổ chức
Ở phần lớn các công ty TNHH xây dựng đều chưa có tổ, nhóm hay phòng nghiệp vụ về đấu thầu. Mỗi khi nhận
được hồ sơ dự thầu, giám đốc hay phó giám đốc sẽ phân chia công việc cho các bộ phận hữu quan để chuẩn bò
hồ sơ dự thầu. Cụ thể phòng hành chánh chuẩn bò các hồ sơ về hành chính và pháp lý, phòng kế toán chuẩn bò
các nội dung thương mại và tài chính và một vài kỹ sư sẽ chuẩn bò các nội dung về kỹ thuật và dự toán. Đến
thời hạn nộp thầu, hồ sơ sẽ được tổng hợp từ các bộ phận trên. Cách phân chia công việc này đã ảnh hưởng rất
nhiều đến “chất lượng” của đơn thầu. Các phòng ban không bắt kòp tiến độ công việc lẫn nhau, hồ sơ thiếu tính
đồng bộ và thống nhất, tính bảo mật bò vi phạm... Do đó, công việc kiểm tra và đánh giá đơn thầu nhằm điều
chỉnh chiến lược cạnh tranh thích nghi không được chú trọng đúng mức.
• Trình độ và năng lực nhân viên
Đây là yếu tố quyết đònh trực tiếp đến chất lượng đơn thầu. Tại các công ty TNHH xây dựng, khả năng ngoại
ngữ (Anh văn) của nhân viên còn hạn chế, nhất là trong lónh vực đọc hiểu nên việc nắm bắt tất cả nội dung
của điều kiện sách thực sự là một khó khăn. Thật không dễ dàng để thông hiểu mọi điều khoản của đơn thầu
(thường rất dày), soạn thảo kỹ thuật và lập dự toán chính xác trong một thời gian ngắn xác đònh. Đối với những
công trình lớn, hay yêu cầu kỹ thuật cao, công nghệ, chi tiết kiến trúc phức tạp… bản dự toán có khi đến vài
trăm trang, chi chít con số, giá thành nên mức độ chính xác hoàn toàn phụ thuộc vào vào người lập. Do đó, để
có được một hồ sơ đạt yêu cầu, người lập cần có nhiều kinh nghiệm thi công, hiểu biết sâu về đơn giá, đònh
mức và đặc biệt phải am hiểu về công trình để bóc ra toàn bộ khối lượng công việc đến từng chi tiết, càng
chính xác cao càng đạt yêu cầu cạnh tranh. Nhưng tại các công ty, đa số nhân viên chuyên trách về lập dự toán
đều không được đào tạo chính quy, đúng chuyên ngành và có kinh nghiệm thi công thực tế…, ảnh hưởng rất
nhiều đến khối lượng và giá dự thầu.
• Hồ sơ kỹ thuật
Hồ sơ kỹ thuật là một phần quan trọng trong đơn thầu, là căn cứ tính toán giá thầu, phương án thi công, tiêu
chuẩn nghiệm thu và mức lợi nhuận công trình. Các điều khoản kỹ thuật bao gồm các quy đònh về các yếu tố
vật chất cấu thành công trình, chất lượng nhân công, thiết bò chuyên dùng, trình tự thực hiện, kiểm tra và chất
lượng tổng thể của công trình. Sau giá, hồ sơ kỹ thuật còn là yếu tố quyết đònh lợi thế cạnh tranh hữu hiệu

nhưng các công ty TNHH xây dựng trong thời gian qua ít quan tâm đầu tư đúng mức. Việc nghiên cứu các giải
pháp kỹ thuật, phương án thay thế khả thi, đề xuất biện pháp cải tiến… vẫn chưa được thực hiện thường xuyên
và nghiêm túc. Trong đó, công tác khảo sát hiện trường rất quan trọng, làm cơ sở cho việc tính toán, hoạch
đònh phương án thi công, nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào. Khảo sát còn để tìm hiểu các đặc trưng xã hội
của đòa phương có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến quá trình chuẩn bò thi công sau này.
• Giá
Giá là yếu tố cạnh tranh quan trọng nhất của nhà thầu, nếu giá cao sẽ không trúng thầu còn giá thấp sẽ ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh doanh của đơn vò. Giá đấu thầu thường bò ép xuống thấp do hồ sơ thiết kế không được
làm kỹ, tổng dự toán và dự toán không chính xác và thường là thiếu hụt. Giá trúng thầu bò hạn chế trong phạm
vi không chuẩn xác đó đã tác động trực tiếp đến kết quả đầu thầu. Mặt khác, để có việc làm, duy trì hoạt
động, mặc dù bò ép giá, các nhà thầu vẫn phải cạnh tranh nhau hạ giá thật thấp để mong cơ hội trúng thầu,
chấp nhận lãi ít hay không có lãi, miễn là có việc làm. Không ít trường hợp nhà thầu bò thua lỗ dù đã trúng
thầu. Và để hạn chế tổn thất này, có nơi giảm giá thành bằng nhiều cách, ảnh hưởng đến chất lượng công
trình, gây thiệt hại cho chủ đầu tư và xã hội. Tuy nhiên, do các công ty TNHH có cơ cấu gọn nhe, năng động
nên việc cạnh tranh giá thường linh hoạt hơn các đối thủ khác. Giá của công ty gần như giá thực tế do trực tiếp
thi công hay chỉ qua một nhà thầu phụ nên vẫn đảm bảo được tính cạnh tranh. Bên cạnh đó, các công ty rất ít
quan tâm đến vai trò của thông tin khi lập giá đấu thầu. Thông tin về các đối thủ cạnh tranh, thông tin về các
yếu tố đầu vào như nhân công, công nghệ, nguyên vật liệu… sẽ là cơ sở trong việc điều chỉnh các chiến lược
đấu thầu thích nghi.

13


Luận văn Thạc só kinh tế










Hà Thò Minh Châu

Khả năng tài chính
Khả năng tài chính là điểm hạn chế lớn nhất của các công ty TNHH xây dựng trong đấu thầu. Vì thiếu vốn,
các công ty không thể đầu tư đổi mới công nghệ, mất lợi thế cạnh tranh trong đấu thầu. Ngoài ra, các hồ sơ dự
thầu đều qui đònh khoản bảo lãnh trong ngân hàng tương đương 10%-15% giá trò hợp đồng. Với tài sản và
nguồn vốn hạn chế thì các công ty TNHH thường không đủ điều kiện để dự thầu, nói chi đến thắng thầu. Nếu
vay ngân hàng cũng rất khó khăn, nhất là với đối tượng thành phần kinh tế ngoài quốc doanh như của công ty.
Điều kiện vay, thủ tục thế chấp phức tạp, thời gian kéo dài.. đã ảnh hưởng đến cơ hội dự thầu của công ty.
Hiện nay, với qui đònh thanh toán sau khi nghiệm thu từng phần công trình và giữ lại từ 3%-10% giá trò công
trình để bảo hành đã gây khó khăn rất nhiều đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Như vậy, các
công ty TNHH phải có một tiềm lực tài chính thật sự vững mạnh mới hy vọng cạnh tranh trong tình hình hiện
nay.
Công nghệ
Đây cũng là điểm hạn chế của các công ty TNHH xây dựng trong đấu thầu. Do nguồn vốn có hạn nên việc đầu
tư đổi mới công nghệ, nhất là các công nghệ hiện đại là một thách thức lớn đối với các công ty. Khi tham gia
các công trình có quy mô lớn, các dự án đấu thầu quốc tế thì yêu cầu về công nghệ cao chính là một rào cản
cho các công ty TNHH xây dựng của nước ta. Hiện nay, các hình thức thuê mua tài chính vẫn chưa thật sự phổ
biến nhằm giúp các công ty vượt qua trở ngại lớn này.
Quan hệ ngoại giao
Chính sách ngoại giao có vai trò đặc biệt đối với các hoạt động của ngành. Trong đấu thầu, ngoại giao để tiếp
cận với chủ đầu tư, mở rộng quan hệ với các khách hàng tiềm năng, thu thập thông tin các dự án gọi thầu,
thông tin về các đối thủ cạnh tranh… Các công ty TNHH xây dựng tuy có hạn chế về quy mô và phạm vi hoạt
động nhưng đã nỗ lực rất nhiều trong việc đẩy mạnh các quan hệ ngoại giao với các đối tượng hữu quan. Chính
nhờ vậy, số lượng đơn thầu thông qua hình thức đấu thầu hạn chế và chỉ đònh thầu của công ty ngày càng tăng.
Đây là điểm nổi bật trong đấu thầu tại các công ty TNHH xây dựng.
Tài sản vô hình

Như đã nêu ở phần trên, tài sản vô hình chính là lợi thế cạnh tranh hiệu quả nhất đối với tất cả các doanh
nghiệp. Trong ngành xây dựng, do các đặc điểm về tính chất sản phẩm mà yếu tố này rất cần được chú trọng
đúng mức. Đây chính là điều kiện cần để công ty được mời tham dự trong các hình thức đầu thầu hạn chế hay
chỉ đònh thầu. Tuy nhiên, do chưa nhận thức đầy đủ vấn đề mà các công ty TNHH ít quan tâm và đầu tư
nghiêm túc vào chất lượng công trình cũng như các dòch vụ hậu mãi. Công ty chỉ chú ý đến các hình thức
quảng cáo thông thường mà quên mất chính sản phẩm công trình mới là phương thức quảng cáo hiệu quả nhất
đối với các công ty xây dựng, đặc biệt là trong đấu thầu cạnh tranh.

2.2.2 Các nhân tố gián tiếp
• Việc quy đònh “một giá” khi bán hồ sơ dự thầu là không hợp lý, gây lãng phí và hạn chế sự tham gia của các
nhà thầu. Giá bán một bộ hồ sơ dự thầu rất cao, thường khoảng từ 500.000VND hay 50USD lên đến vài trăm
USD đối với các gói thầu lớn.
• Chưa có quy đònh về thời gian tối đa để phê duyệt kế hoạch đấu thầu làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của
công ty vì khoản tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng đang còn trong ngân hàng. Việc thông báo kết quả đấu thầu
cần được công khai với tất cả các nhà thầu nhằm chứng minh sự công bằng cạnh tranh và minh bạch trong quá
trình chọn thầu, không thể chỉ thông báo cho đơn vò trúng thầu.
• Với thời gian chuẩn bò hồ sơ dự thầu theo các quy đònh hiện nay là rất ít nên khó có thể chuẩn bò tốt đơn thầu,
tình hình tài chính…. và đó là kẽ hở làm phát sinh tiêu cực.
• Vấn đề bảo mật hồ sơ, tài liệu thông tin trong đấu thầu còn nhiều tồn tại nhiều tiêu cực như hầu hết các thông
tin về quá trình xét thầu đều bò rò rỉ ít nhiều, có những văn bản bổ sung nội dung dự thầu nộp sau thời điểm
chấm dứt xét thầu, thông tin về thành viên hội đồng xét duyệt không được giữ kín…
• Theo quy chế đấu thầu, nhà thầu phải bảo lãnh thực hiện hợp đồng bằng khoản tiền nộp trước tương đương
10%-15% tổng trò giá hợp đồng nhưng có nhiều doanh nghiệp, toàn bộ tài sản chỉ tương đương 40% giá trò công
trình, trong đó tài sản cố đònh chiếm hết 20% cộng với 10% nộp trước thì doanh nghiệp chỉ còn 10% năng lực
tài chính. Vậy là bò loại. Đây là khó khăn rất lớn đối với các nhà thầu Việt Nam.

14


Luận văn Thạc só kinh tế











Hà Thò Minh Châu

Khoản tiền bảo hành có ảnh hưởng rất nhiều đến các nhà thầu. Thông thường, sau khi nghiệm thu, chủ đầu tư
giữ lại khoảng 3%-10% trò giá công trình cho khoản bảo hành, đề phòng tình trạng chất lượng xuống cấp. Khi
hết thời hạn bảo hành (thường là một năm, tùy giá trò công trình), khoản tiền trên được trả lại cho doanh
nghiệp. Nhưng trên thực tế doanh nghiệp muốn nhận lại đủ phải mất thời gian khá lâu cộng thêm một ít chi
phí, đặc biệt đối với các công trình có vốn ngân sách…
Đối với các công trình đấu thầu quốc tế, hồ sơ mời thầu đều do các các công ty tư vấn nước ngoài chuẩn bò nên
thể hiện rất nhiều bất lợi cho các nhà thầuViệt Nam. Việc chia dự án thành các gói thầu quá lớn, các điều kiện
dự thầu cao và khó khăn làm cho các nhà thầu nước ta không thể dự thầu độc lập nên hầu hết các nhà thầu
nước ngoài đều trúng vai trò thầu chính. Cụ thể như các điều kiện rất cao về tiềm lực tài chính, công nghệ,
năng lực hoạt động, kinh nghiệm ….
Chủ đầu tư không có đủ vốn để thanh toán theo đúng tiến độ hợp đồng, nợ đọng kéo dài, ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của nhà thầu, nhất là các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách.
Trong quá trình xây dựng thường có nhiều khối lượng phát sinh chưa được đề ra trong thiết kế và dự toán, việc
qui đònh cứng nhắc và thiếu chi tiết trong các văn bản pháp lý gây khó khăn cho cả phía nhà thầu và phía nhà
đầu tư.
Nhiều yếu tố bất ngờ từ nguồn gốc xã hội đổ lên đầu nhà thầu như vấn đề hạn chế phương tiện vận tải chở
hàng hóa, vấn đề ách tắc trong giải phóng mặt bằng…


Tóm lại, đấu thầu cạnh tranh là hoạt động không thể thiếu được trong nền kinh tế thò trường. Bên cạnh những ưu
điểm sẵn có, hoạt động đấu thầu ở nước ta vẫn còn rất nhiều vấn đề cần thay đổi, gây khó khăn không ít cho các
nhà thầu và hạn chế tính cạnh tranh của các doanh nghiệp. Nghiên cứu kỹ hoạt động đấu thầu chính là phương thức
tìm ra chiến lược cạnh tranh hiệu quả cho các đơn vò. Tuy nhiên, do hiệu quả hoạt động đấu thầu chính là sự kết
hợp toàn diện và thống nhất kết quả của tất cả các hoạt động còn lại trong doanh nghiệp xây dựng nên việc nghiên
cứu đấu thầu không thể tách rời với nghiên cứu hoạt động sản xuất xây dựng của doanh nghiệp. Sau đây là phần
phân tích thực trạng hoạt động tại các công ty TNHH xây dựng TPHCM.
2.3 PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC YẾU TỐ THUỘC MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ
2.3.1 Các yếu tố kinh tế
Cùng với chính sách đổi mới toàn diện, hướng về nền kinh tế thò trường từ những năm 1986, Việt Nam đã gặt hái
được những thành tựu ban đầu khá vững chắc với GDP tăng dần và đạt đến đỉnh cao vào năm 1995 (9,5%/năm).
Mức tăng trưởng này có tác dụng tạo nền tảng căn bản cho những bước phát triển tiếp theo, phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Nền kinh tế tăng trưởng còn là đòn bẩy, kích thích sự phát triển
của các ngành công nghiệp và dòch vụ, và đó chính là cơ hội phát triển tuyệt vời cho ngành xây dựng nước ta. Sau
đây là tác động chủ yếu của các yếu tố kinh tế đến hoạt động các doanh nghiệp thể hiện qua các cơ hội và nguy
cơ.
¾ Cơ hội
• Vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội tăng đều qua các năm
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội tăng trung bình 14,6%/năm giai đoạn 1997-1999 thể hiện tốc độ đầu tư
mạnh mẽ vào các ngành, trong đó nguồn vốn ngân sách Nhà nước chiếm tỷ trọng cao (61,6%) và tăng dần qua các
năm chứng tỏ sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung mạnh nhất ở các
ngành công nghiệp, vận tải, kho bãi, cơ sở hạ tầng… Đây là cơ hội rất thuận lợi cho sự phát triển của ngành xây
dựng nước ta.

15


Luận văn Thạc só kinh tế

Hà Thò Minh Châu


Bảng 3: VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TOÀN XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 1997-1999
Tiêu thức
Tổng số

1997
Nghìn tỷ đồng
79.367,40

1998
%
100

1999

Nghìn tỷ đồng %
96.400,00

100

Nghìn tỷ đồng
103.900,00

%
100

Vốn Nhà nước

35.894,40 45,2


51.600,00 53,5

64.000,00 61,6

Vốn ngoài quốc doanh

20.773,00 26,2

20.500,00 21,3

21.000,00 20,2

Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài

22.700,00 28,6

24.300,00 25,2

18.900,00 18,2

(Niên giám thống kê TPHCM 1999)
• Lãi suất giảm
Lãi suất và xu hướng của lãi suất có ảnh hưởng đến xu thế của tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư, và do vậy ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp. Trong những năm vừa qua, lãi suất ở nước ta tương đối ổn đònh và
có xu hướng giảm dần từ năm 1996. Lãi suất tín dụng hiện hành của ngân hàng Ngoại thương đối với những khoản
vay VND ngắn hạn là 0,75%/tháng, vay dài hạn là 0,80%/tháng; USD là 7%/năm. Lãi suất giảm sẽ gia tăng nhu
cầu vay vốn để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
• Hệ thống thuế và mức thuế mới
Luật thuế Giá trò gia tăng (VAT) có hiệu lực thi hành trong cả nước từ ngày 01.01.1999. Đây là một bước cải cách
hệ thống thuế ở nước ta nhằm giảm bớt các bất hợp lý trong cách tính thuế, khuyến khích sản xuất kinh doanh và

hòa nhập với các nước trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, mức thuế VAT ở một số ngành còn cao và phương
pháp khấu trừ chưa thật hợp lý đã ảnh hưởng nhiều đến mức chi phí và thu nhập của doanh nghiệp, như các doanh
nghiệp thuộc ngành xây dựng.
¾ Nguy cơ
• Tổng sản phẩm trong nước giảm
Sau một giai đoạn tăng trưởng từ 5,1% (1990) đến 9,5% (1995), mức tăng trưởng GDP ở nước ta đã bắt đầu có xu
hướng giảm dần. Cụ thể là năm 1996 là 9,3% đến năm 1998 còn 5,8% và năm 1999 là 4,8%. Đây là mức tăng
trưởng thấp nhất trong giai đoạn 10 năm gần đây. GDP giảm do nhiều nguyên nhân như hệ thống chính sách không
còn phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng và tài chính yếu kém…, và thêm vào đó, cuộc
khủng hoảng tiền tệ Châu Á đã ảnh hưởng không ít đến mức tăng trưởng của nền kinh tế nước ta. Đây chính là
nguy cơ lớn nhất ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh ở các ngành.
• Đầu tư nước ngoài giảm
Chính sách đầu tư nước ngoài đã thu hút một nguồn vốn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế, đóng góp khoảng 10%
GDP và chiếm 20% tổng số thuế. Tổng số vốn đầu tư nước ngoài tính đến tháng 9/1999 là 33,9 tỷ USD với 1.757
dự án đang còn hoạt động. Tuy nhiên, tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài trong GDP từ mức 15% trong năm 1995 đã giảm
xuống chỉ còn 2,5% trong năm 1998 và ước đoán khoảng 2,2% trong năm 1999 do cuộc khủng hoảng tiền tệ trong
khu vực. Điều này đã tác động mạnh đến tốc độ đầu tư của các dự án và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của
ngành xây dựng.

16


Luận văn Thạc só kinh tế

Hà Thò Minh Châu

8497,3

Đồ thò1: ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI GIAI ĐOẠN 1990-1999
9000


6530,8

8000
7000

1534,8
278

260

340

325

370

343

268

151

108

839

1322

2000


0

Số dự án

2165

3000

1000

Vốn

2861

4000

4058

4625,5
3766

5000

197

Triệu USD

6000


1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999

• Lạm phát chưa ổn đònh
Lạm phát cao hay thấp đều có ảnh hưởng đến tốc độ đầu tư vào nền kinh tế. Lạm phát ở nước ta trong giai đoạn
qua chưa thật ổn đònh. Nếu như năm 1992 tỷ lệ lạm phát là 17,5% giảm xuống còn 4,5% năm 1996, sau đó tăng lên
9,2% năm 1998 và đến năm 1999 là 0,1%. Tỷ lệ lạm phát biến động thất thường đã ảnh hưởng xấu đến nền kinh
tế. Điều này chứng tỏ mặc dù đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao, nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa thật ổn đònh. Đây
là yếu tố đe dọa đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, và đặc biệt tác động trực tiếp đến các
quyết đònh đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam.
2.3.2 Các yếu tố luật pháp và chính trò
¾ Cơ hội
• Sự ổn đònh về chính trò là một ưu thế của Việt Nam so với các nước trong khu vực, tạo điều kiện thu hút vốn
đầu tư từ các nước vào Việt Nam.
• Sau gần 5 năm gia nhập vào ASEAN, Việt Nam đã tạo ra một môi trường khu vực tốt hơn, quan hệ song
phương với các nước thành viên trong khu vực ngày càng được cải thiện và nâng cao. Hiện nay, Việt Nam
đang chuẩn bò gia nhập Tổ chức Thương Mại Quốc tế (WTO) và Hệ thống toàn cầu về ưu đãi thương mại cho
các nước đang phát triển. Chính những yếu tố chính trò này đã tạo ra những tiền đề quan trọng cho nền kinh tế,
thúc đẩy đầu tư trong và ngoài nước phát triển mạnh.
• Quốc hội đang tiếp tục hoàn chỉnh các văn bản luật đã ban hành, soạn thảo các dự luật mới… nhằm tạo một
môi trường kinh doanh thuận lợi và ổn đònh để kích thích phát triển sản xuất, tiến đến hòa nhập với quốc tế.
Đối với ngành xây dựng, Nghò đònh 52/1999/NĐ-CP về Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng (ban hành ngày
08/07/1999) và Nghò đònh 88/1999/NĐ-CP về Quy chế đấu thầu (ban hành ngày 04/09/1999) đã thể hiện quyết
tâm của Chính phủ trong việc cải cách môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư xây
dựng ở nước ta.
• Luật đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngoài cùng với các chủ trương, chính sách khuyến khích các thành
phần kinh tế, những cải cách về thủ tục hành chính… đã và đang từng bước tạo điều kiện thu hút và kích thích
các doanh nghiệp trong và ngoài nước yên tâm đầu tư sản xuất kinh doanh tại Việt Nam.
• Đối với ngành xây dựng, Luật đầu tư nước ngoài (1987) đã thực sự đem lại một vận hội lớn, thúc đẩy toàn
ngành xây dựng chuyển sang một giai đoạn phát triển mới. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tập trung chủ yếu
vào các dự án công nghiệp, khách sạn-văn phòng cho thuê, xây dựng… đã đem lại một khối lượng công việc rất

lớn cho các doanh nghiệp xây dựng nước ta trong thời gian qua.
¾


Nguy cơ
Mặc dù Việt Nam có tình hình chính trò ổn đònh nhưng bộ máy hành chính vẫn còn rườm rà, nhiều thủ tục, một
số còn quan liêu, cửa quyền. Điều này đã hạn chế rất nhiều nhiệt tình đầu tư của các doanh nghiệp trong và
ngoài nước, gây tổn thất không ít cho xã hội.

17


Luận văn Thạc só kinh tế



Hà Thò Minh Châu

Các văn bản pháp lý, các chính sách, quy đònh của Nhà nước chưa đồng bộ và thống nhất, hay thay đổi gây
nhiều khó khăn và ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Luật Đất đai,
các quy đònh về đền bù và giải tỏa chưa cụ thể, rõ ràng đã ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động đầu tư xây dựng
ở nước ta hiện nay.

2.3.3 Các yếu tố văn hóa và xã hội
• Dân số Việt Nam hiện nay khoảng 78 triệu người (theo cuộc điều tra dân số năm 1998), dự báo đến năm 2000
sẽ là 80 triệu người, với tốc độ gia tăng dân số tự nhiên là 1,75% thì nhu cầu về nhà ở đang là một vấn đề cấp
thiết. Dân số toàn miền Nam từ Nha Trang trở vào có khoảng hơn 31 triệu người, chiếm khoảng 40% dân số.
Trong đó TP.HCM có khoảng 5 triệu người với mức độ di dân từ các khu vực khác đến với tốc độ cao
1,5%/năm (chỉ tính sự di dân hợp pháp, có đăng ký hộ khẩu). Đây là thành phố đông dân nhất nước và được
xem như một thò trường đầy tiềm năng về các loại hình nhà ở và các cơ sở vật chất, dòch vụ kèm theo.

• Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, lối sống người dân đã có những biến đổi. Một gia đình lớn bao gồm
nhiều thế hệ sống chung với nhau đã dần dần được biến đổi và thay thế bằng mẫu gia đình hạt nhân. Mô hình
gia đình mới này trung bình chỉ có cha mẹ và con cái, đang có xu hướng này càng gia tăng ở các khu vực đô thò
lớn. Các cặp vợ chồng trẻ, các cá nhân vì nhu cầu học tập và công việc đang có khuynh hướng sống tách riêng
và độc lập với gia đình. Với lối sống và quan niệm sống như vậy sẽ làm cho nhu cầu về căn hộ, chung cư… tăng
lên nhanh chóng.
• Thu nhập khả dụng gia tăng đáng kể. Theo điều tra của Tổng cục Thống kê, nếu so với năm 1990, hiện nay có
51,77% hộ gia đình trong cả nước có mức sống khá lên, trong đó số hộ khá ở nông thôn tăng cao hơn thành thò
(nông thôn: 52,74%; thành thò: 47,26%). Mức thu nhập (khả dụng) bình quân đầu người cũng có khuynh hướng
gia tăng đã ảnh hưởng đến các qui đònh tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư của người dân. Với một bộ phận dân cư
có thu nhập cao hơn bình thường làm phát sinh các nhu cầu về nhà ở cao cấp tiện nghi, các biệt thự, nhà nghỉ ở
ngoại thành… Một bộ phận dân cư còn lại với mức thu nhập gia tăng tuy thấp hơn nhưng bước đầu đã có tích
lũy hay đầu tư vào các hình thức bất động sản bằng nhiều hình thức như mua nhà trả góp, mua đất để xây nhà…
Tất cả các yếu tố trên đã tạo ra một lượng cầu đáng kể cho thò trường xây dựng nước ta.
• Các chính sách kinh tế, xã hội của Chính phủ đã tạo một lượng cầu đáng kể cho ngành xây dựng như: các chính
sách cải tạo khu dân cư, phát triển các khu vực đô thò mới, xây dựng nhà ở cho các đối tượng chính sách, xã
hội……
2.3.4 Các yếu tố tự nhiên
¾ Cơ hội
Môi trường tự nhiên ở nước ta đang ở mức báo động. Mức ô nhiễm và hủy hoại về môi trường, môi sinh ở các khu
vực nội thành đang rất nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân. Mặt khác, các nhà máy, xí
nghiệp ở nước ta hầu hết đều tập trung ở các khu dân cư và được xây dựng từ rất lâu, công nghệ lạc hậu, cũ kỹ gây
ô nhiễm môi trường xung quanh. Chính vì vậy, Nhà nước đang chủ trương di dời tất cả các nhà máy ở nội thành ra
các khu công nghiệp mới, các khu chế xuất ở ngoại thành. Do vậy, nhu cầu xây dựng về nhà máy, các cơ sở sản
xuất, các khu công nghiệp mới sẽ tăng cao trong thời gian sắp tới. Sự xuống cấp của môi trường tự nhiên ở các đô
thò lớn sẽ ảnh hưởng đến khuynh hướng chọn nơi ở của các cư dân thành phố. Các khu vực dân cư mới xa trung tâm
với cơ sở hạ tầng tốt, thuận lợi sẽ là sự lựa chọn của họ. Nhu cầu xây dựng vì vậy cũng gia tăng.
¾ Đe dọa
Nước ta nằm ở khu vực nhiệt đới gió mùa, khí hậu nóng ẩm với hai mùa chính: mùa khô và mùa mưa. Với điều kiện
khí hậu như vậy đã ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp, đặc biệt là

các doanh nghiệp xây dựng. Cụ thể như làm gián đoạn quá trình thi công, kế hoạch cung cấp nguyên vật liệu, tiến
độ thi công bò kéo dài, vốn ứ đọng… Do vậy, các doanh nghiệp xây dựng cần chú ý đến nhân tố thời tiết khi hoạch
đònh kế hoạch kinh doanh và soạn thảo hồ sơ đấu thầu.
2.3.5 Các yếu tố công nghệ
¾ Cơ hội
Chủ trương đổi mới và hòa nhập thế giới của Đảng và Nhà nước đã tạo tiền đề cho sự phát triển vượt bật của công
nghệ. Tiến bộ công nghệ làm tăng năng suất, chất lượng và từ đó giảm giá thành, góp phần tạo ra lợi thế cạnh tranh

18


Luận văn Thạc só kinh tế

Hà Thò Minh Châu

cho sản phẩm. Trong thời gian gần đây, công nghệ xây dựng ở nước ta đã có những thay đổi về chất. Cùng với sự
phát triển kinh tế, nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng dần trong tỉ trọng đầu tư chung nên đã có những thay đổi nhận
thức về chất lượng công trình. Điều này là tác nhân tích cực trong việc nâng cao trình độ quản lý cũng như chuyên
môn của ngành xây dựng nước ta, góp phần hội nhập với các nước trong khu vực.
¾ Đe dọa
Bên cạnh những ưu thế, yếu tố công nghệ cũng chứa đầy những rủi ro và bất trắc cho doanh nghiệp. Thực trạng
công nghệ ở nước ta vẫn còn rất lạc hậu, trình độ hiện đại của thiết bò chỉ đạt 16%, hệ số hao mòn vô hình trên
50%, hệ số đổi mới chỉ có 7%, tiêu hao nguyên vật liệu thường gấp đôi mức bình quân thế giới và chất lượng sản
phẩm thấp kém. Do đó, sản phẩm Việt Nam không cạnh tranh nổi với các nước trong khu vực là một hệ quả tất
yếu. Ngoài ra, vòng đời công nghệ có xu hướng rút ngắn dần, hiện nay trung bình khoảng 5-7 năm. Việc đầu tư
một công nghệ hiện đại với giá trò cao, thời gian khấu hao dài trong điều kiện hiện nay có thể không khả thi lắm
đối với các doanh nghiệp nước ta. Do vậy, các doanh nghiệp chỉ tập trung đầu tư các máy móc thiết bò có giá trò
vừa và nhỏ, điều này là trở ngại rất lớn cho các doanh nghiệp trong tình hình cạnh tranh quyết liệt hiện nay. Đối
với ngành xây dựng nước ta, yếu tố công nghệ còn là một đe dọa rất lớn đối với quá trình hòa nhập với các lực
lượng xây dựng đầu tư nước ngoài. Với phương pháp thi công thủ công, máy móc thiết bò lạc hậu, trình độ quản lý

cũ… đã hạn chế tính cạnh tranh trong đấu thầu nói riêng và hoạt động sản xuất của ngành xây dựng nói chung.
Qua các yếu tố nêu trên, có thể nhận diện được những cơ hội cũng như đe dọa của môi trường vó mô tác động đến
các doanh nghiệp Việt Nam. Các chủ trương, chính sách về chính trò, đầu tư, văn hóa xã hội của Chính phủ sẽ tạo
tiền đề cho các doanh nghiệp mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên do nước ta chỉ mới
chập chững bước vào nền kinh tế thò trường chưa lâu, nên chắc chắn sẽ còn rất nhiều nhân tố phát triển chưa đồng
bộ về kinh tế, pháp luật,công nghệ... Tất cả các yếu tố này sẽ là lực cản, đe dọa đến tiến trình phát triển chung.
2.4 PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC YẾU TỐ THUỘC MÔI TRƯỜNG NGÀNH
2.4.1 Các đối thủ cạnh tranh
Thò trường ngành xây dựng TPHCM gồm có các đối thủ cạnh tranh chính sau: các công ty xây dựng quốc doanh, các
công ty xây dựng ngoài quốc doanh và các công ty xây dựng đầu tư nước ngoài.
2.4.1.1 Giới thiệu chung về các đối thủ cạnh tranh
• Các công ty xây dựng quốc doanh
Các công ty xây dựng quốc doanh thành phố bao gồm các đơn vò quốc doanh trung ương (chiếm 45%) và quốc
doanh đòa phương (chiếm 55%) (quốc doanh thành phố và quốc doanh quận huyện). Nhìn chung, các đơn vò này có
quy mô lớn hơn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và trong đó doanh nghiệp quốc doanh trung ương là những đối
thủ cạnh tranh mạnh nhất. Theo số liệu thống kê năm 1998, số lượng đơn vò quốc doanh trên đòa bàn thành phố là
112 đơn vò, chiếm 14% tổng số các doanh nghiệp xây dựng toàn thành phố. Hầu hết các doanh nghiệp quốc doanh
có số lượng lao động lớn, khoảng 100-500 người, có tổng công ty lực lượng lao động lên đến hàng vạn người. Vốn
bình quân một đơn vò năm 1998 là 28 tỉ đồng, bằng 12,5 lần các đơn vò ngoài quốc doanh. Hiện nay, lực lượng xây
dựng quốc doanh vẫn là lực lượng chủ đạo, chiếm tỉ trọng lớn về giá trò đầu tư doanh nghiệp cũng như sản lượng
xây lắp, và tập trung chủ yếu ở một số bộ có chuyên ngành xây dựng dân dụng-công nghiệp, giao thông, thủy lợi,
lắp đặt và sản xuất cấu kiện….
• Các công ty xây dựng ngoài quốc doanh
Theo số liệu thống kê năm 1998, số lượng các công ty xây dựng ngoài quốc doanh trên đòa bàn thành phố là 624
đơn vò, chiếm khoảng 76% tổng số các đơn vò xây dựng trên thành phố, bao gồm các công ty cổ phần (chiếm 1,4%
số lượng đơn vò), các công ty TNHH (91,2%) và các doanh nghiệp tư nhân (7,4%). Trong đó các công ty TNHH là
lực lượng chính rất năng động và thích nghi với nền kinh tế thò trường nên có thể xem như đại diện của thành phần
kinh tế xây dựng ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển rộng rãi trong mọi lãnh vực của
ngành xây dựng, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Với chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, các thành phần kinh tế phát triển đan xen nhau, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã không ngừng

khẳng đònh vò trí của mình và là hạt nhân phát triển của ngành. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, tuy có thực lực
nhưng các đơn vò này chỉ hoạt động ở dạng thầu phụ, bò ép giá và không đạt hiệu quả kinh tế. Trên thực tế, ngoại

19


Luận văn Thạc só kinh tế

Hà Thò Minh Châu

trừ các công trình do các đơn vò quốc doanh thi công, phần còn lại đều do các đơn vò ngoài quốc doanh đảm nhận
(dưới hình thức B’, B’’,B’’’...). Đây là vấn đề cấp bách cần được Nhà nước quan tâm và giúp đỡ.
• Các công ty xây dựng đầu tư nước ngoài
Đến nay đã có 90 nhà thầu xây dựng nước ngoài thuộc 25 quốc gia và lãnh thổ hoạt động tại Việt Nam, chiếm
2,6% số lượng doanh nghiệp xây dựng của cả nước. như Nhật Bản (37 công ty), Úc, Pháp, Hàn Quốc… Các công ty
xây dựng đầu tư nước ngoài tiếp cận thò trường Việt Nam dưới hai hình thức: liên doanh và 100% vốn (thông qua
hợp đồng hợp tác kinh doanh). Với những ưu thế về vốn, công nghệ, trình độ quản lý, thông tin … các đơn vò xây
dựng nước ngoài đang từng bước thâm nhập thò trường Việt Nam. Tuy nhiên, do đặc điểm về vò trí, đòa lý lãnh thổ,
các đơn vò này đều chọn các công ty xây dựng nước ta làm lực lượng sản xuất chính và các công ty ngoài quốc
doanh chiếm đa số. Đây cũng chính là cơ hội nâng cao trình độ của các doanh nghiệp nước ta, góp phần giải quyết
việc làm cho người lao động.
2.4.1.2 Tình hình thò phần của các doanh nghiệp
• Các công ty xây dựng quốc doanh và ngoài quốc doanh hiện đang chiếm thò phần cao trên thò trường xây dựng
TP.HCM. Các doanh nghiệp xây dựng quốc doanh với 53,6% thò phần đang là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất,
kế đến là các công ty ngoài quốc doanh chiếm gần 41% thò phần và còn lại là các công ty xây dựng nước ngoài
giữ 5,5% thò phần.
• Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã tác động trực tiếp đến giá trò sản xuất ngành xây dựng. Cụ thể là đối
với nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước (chiếm gần 40% cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội) sẽ
được giao ưu tiên và thông qua đấu thầu cho các doanh nghiệp xây dựng quốc doanh đảm nhận. Các doanh
nghiệp xây dựng ngoài quốc doanh chủ yếu đấu thầu các dự án thuộc nguồn vốn của các tổ chức ngoài quốc

doanh (26,6%). Với nguồn vốn FDI (33,4%), cạnh tranh thầu sẽ diễn ra giữa ba đối thủ trên nhưng ưu thế vẫn
thuộc về các công ty xây dựng nước ngoài và các công ty quốc doanh. Các công ty TNHH ít khi thành công ở
vò trí B mà hầu hết đều làm B’,B’’… Đây là vấn đề bức xúc nhất mà các công ty TNHH xây dựng cần cố gắng
khắc phục và thay đổi.
• Tuy các công ty xây dựng quốc doanh và xây dựng nước ngoài khống chế vai trò chủ thầu trong các phân khúc
thò trường xây dựng công nghiệp, các công ty TNHH vẫn khẳng đònh mình thông qua thò trường xây dựng nhà ở
với nguồn vốn đầu tư năm 1999 là 2.350 tỷ đồng (chiếm 20% tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản). Điều này
cho thấy khả năng cạnh tranh của các công ty TNHH xây dựng và đònh hướng phát triển chiến lược cho tương
lai.

Đồ thò 2:

THỊ TRƯỜNG NGÀNH XÂY DỰNG
TPHCM NĂM 1999

CƠ CẤU VỐN ĐẦU TƯ XDCB

TRÊN ĐỊA BÀN TPHCM NĂM 1999

Đầu tư
nước ngoài
5%
Ngoài quốc
doanh
41%

Đồ thò 3:

Quốc doanh
54%


Vốn đầu tư
nước ngoài
33%

Vốn ngân
sách Nhà
nước
40%

Vốn các tổ
chức ngoài
quốc doanh
27%

2.4.1.3 Nhận xét về lợi thế cạnh tranh
¾ Các công ty xây dựng quốc doanh
Lợi thế cạnh tranh
• Là đơn vò được hình thành từ nguồn vốn Nhà nước nên nhận được nhiều hỗ trợ và ưu đãi trong các chính
sách kinh tế và xã hội của Chính phủ
• Đầu ra được Nhà nước quan tâm và giúp đỡ. Những công trình đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước đều
được ưu tiên chỉ đònh thầu, hay đấu thầu giữa các đơn vò quốc doanh với nhau.

20


Luận văn Thạc só kinh tế

Hà Thò Minh Châu


Quy mô lớn, lực lượng lao động dồi dào, công nghệ cao, hệ thống thông tin vó mô tốt, quan hệ ngoại giao
rộng nên dễ có cơ hội thắng thầu.
Hạn chế
• Vì là những đơn vò quốc doanh nên chưa thích nghi lắm với cơ chế thò trường, còn thụ động, cơ cấu tổ chức
cồng kềnh, hệ thống phân cấp cũ, một số đơn vò còn quan liêu, cửa quyền.
• Nguồn vốn bò hạn chế.
• Khả năng cạnh tranh giá không linh hoạt, yếu kém.
• Tính đa dạng và chất lượng của sản phẩm chưa cao
• Thái độ phục vụ khách hàng thiếu tận tình.
• Công tác marketing chưa được chú trọng đúng mức
• Dòch vụ hậu mãi chưa tốt.
• Chưa quan tâm đến công tác đấu thầu.
Nhận xét
Tuy có nhiều điểm cơ bản chưa thích nghi với nền kinh tế thò trường nhưng do tính chất ưu đãi của thành phần
kinh tế nên các công ty xây dựng quốc doanh vẫn là những đối thủ cạnh tranh mạnh nhất.


¾

Các công ty TNHH xây dựng
Lợi thế cạnh tranh
• Là “hạt nhân” phát triển của thò trường ngành xây dựng và là “vệ tinh” của các doanh nghiệp có quy mô
lớn.
• Cơ cấu gọn nhẹ, linh hoạt và năng động.
• Đa dạng hóa sản phẩm cao, phân khúc thò trường tốt.
• Trình độ quản lý, chuyên môn cao, lực lượng lao động lành nghề, có tinh thần trách nhiệm.
• Chất lượng sản phẩm và cả tính mỹ thuật, kỹ thuật luôn được chú trọng.
• Khả năng cạnh tranh giá linh hoạt.
• Marketing được quan tâm đặc biệt.
• Tận tình, uy tín với khách hàng.

• Đòa bàn hoạt động rộng.
• Dòch vụ hậu mãi tốt.
Hạn chế
• Khả năng tài chính yếu.
• Công nghệ lạc hậu, thiếu nhiều phương tiện thi công hiện đại.
• Quy mô vừa và nhỏ, không thể thi công các công trình lớn của quốc gia.
• Thiếu thông tin vó mô.
• Hiệu quả của công tác đấu thầu chưa cao.
Nhận xét
Với những ưu điểm thích nghi với môi trường cạnh tranh, các công ty TNHH xây dựng đã và đang từng bước
phát huy thế mạnh của mình. Tuy nhiên, những điểm yếu về tài chính, công nghệ, quy mô… đã hạn chế rất
nhiều cơ hội cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thò trường.

¾

Các công ty xây dựng nước ngoài
Lợi thế cạnh tranh
• Danh tiếng trên thò trường quốc tế.
• Khả năng tài chính dồi dào.
• Trước khi hoạt động tại Việt Nam, các công ty đều có văn phòng đại diện nghiên cứu và nắm rất chắc thò
trường Việt Nam và quốc tế.
• Lợi thế về đấu thầu các dự án FDI, thường quốc gia nào đầu tư vào Việt Nam cũng ưu tiên giao thầu cho
các công ty xây dựng nước đó.
• Công nghệ cao, hiện đại, trình độ quản lý chuyên nghiệp dẫn đến chất lượng sản phẩm cao.
• Hệ thống thông tin tốt, quan hệ ngoại giao rộng.
• Rất chuyên nghiệp trong công tác đấu thầu.

21



Luận văn Thạc só kinh tế

Hà Thò Minh Châu

Hạn chế
• Sử dụng lực lượng lao động đòa phương thông qua các nhà thầu phụ như các công ty xây dựng quốc doanh,
công ty TNHH xây dựng…
• Chỉ nhận thầu các công trình có quy mô lớn.
• Khả năng cạnh tranh giá không cao.
• Cơ cấu tổ chức chưa gọn nhẹ.
Nhận xét
Các công ty xây dựng nước ngoài là những đơn vò có nhiều lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, quyết đònh sự
thành công hay thất bại của một doanh nghiệp trên thò trường. Tuy nhiên, do đây là những doanh nghiệp nước
ngoài vào Việt Nam hoạt động nên không tránh khỏi những hạn chế về bộ máy tổ chức, lực lượng nhân công…
ảnh hưởng đến lợi nhuận các đơn vò này. Với những lợi thế như trên, chắc rằng trong một tương lai không xa,
các công ty xây dựng nước ngoài sẽ là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trong ngành xây dựng Việt Nam.
2.4.2 Khách hàng
Khách hàng là yếu tố quan trọng nhất của môi trường ngành ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các doanh
nghiệp. Đây chính là bộ phận quyết đònh đầu ra của sản phẩm. Khách hàng của các công ty TNHH xây dựng rất đa
dạng và có tiềm lực tài chính khác nhau như các công ty đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài
quốc doanh, và một số tập thể, cá nhân… có nhu cầu về các sản phẩm xây dựng công nghiệp hay xây dựng dân
dụng. Do đặc điểm của sản phẩm xây dựng nên việc chọn lựa nhà thầu là một quyết đònh rất quan trọng đối với
khách hàng. Quá trình mua bán sản phẩm xây dựng lại xảy ra trước giai đoạn sản xuất nên khách hàng giữ vai trò
quyết đònh trong sự tồn tại và phát triển củadoanh nghiệp. Ngoài ra, tỉ trọng về khối lượng sản phẩm mà khách
hàng mua so với tổng khối lượng hàng sản xuất ở một đơn vò xây dựng là rất lớn, có khi là toàn bộ (đối với các
công trình lớn, thời gian kéo dài) khiến cho áp lực từ khách hàng là rất cao, chi phối toàn bộ quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp xây dựng phải luôn tìm kiếm khách hàng và thỏa mãn tối đa
mọi nhu cầu của họ.
Căn cứ vào hình thức, có thể phân loại khách hàng thành hai đối tượng: nhóm khách hàng có tư cách pháp nhân và
nhóm khách hàng cá nhân.

• Nhóm khách hàng có tư cách pháp nhân: các công ty có vốn đầu tư trong và ngoài nước, đây là nhóm khách
hàng chủ yếu của các công ty TNHH xây dựng. Sản phẩm chính là các công trình xây dựng công nghiệp, xây
dựng dân dụng, cải tạo và sửa chữa cơ bản có giá trò cao… Nhóm khách hàng này lựa chọn công ty phần lớn
thông qua các hình thức đấu thầu.
• Nhóm khách hàng cá nhân: đây là những cá nhân có nhu cầu xây dựng và cải tạo, sửa chữa nhà ở, biệt thự …
Hình thức đấu thầu chủ yếu là chỉ đònh thầu và thông qua môi giới, giá trò tài sản vô hình của công ty. Tuy các
công trình này có giá trò không cao nhưng đây là thò trường chính của các công ty TNHH xây dựng trong giai
đoạn giới thiệu, giai đoạn chờ việc hay giai đoạn suy thoái...

Nếu căn cứ vào nguồn khách hàng, có thể phân loại khách hàng thành ba dạng chính:
• Nhóm khách hàng tự tìm đến do có sự giới thiệu, môi giới: hình thức đấu thầu chủ yếu là chỉ đònh thầu. Các
công trình của nhóm này thường có giá trò vừa và nhỏ, thường nhằm mục đích thăm dò và tìm hiểu năng lực
của công ty.
• Nhóm khách hàng đạt được thông qua các quan hệ ngoại giao, biện pháp marketing: hình thức đấu thầu chủ yếu
là đấu thầu hạn chế, hay chào hàng cạnh tranh, một số ít là chỉ đònh thầu. Đây thường là các công trình có giá
trò cao.
• Nhóm khách hàng đạt được thông qua hình thức đấu thầu rộng rãi: sản phẩm là các dự án lớn của quốc gia hay
đòa phương, thường có giá trò rất cao và công ty phải có năng lực thật mạnh mới có khả năng cạnh tranh.
Tùy vào danh tiếng, quy mô và năng lực của các công ty xây dựng mà tỉ lệ của mỗi dạng khách hàng khác nhau.
Đối với các công ty xây dựng quốc doanh, nhóm khách hàng thông qua đấu thầu rộng rãi và sự “giới thiệu” của
Chính phủ chiếm gần toàn bộ. Các công ty TNHH xây dựng có quy mô vừa thì tỉ lệ khách hàng do quan hệ ngoại
giao, môi giới và các biện pháp marketing đem lại là chủ yếu. Còn đối với các công ty xây dựng nước ngoài, việc

22


Luận văn Thạc só kinh tế

Hà Thò Minh Châu


đấu thầu là hoạt động chủ yếu để tìm kiếm khách hàng. Như vậy, tùy vào đối tượng khách hàng mà các công ty
xây dựng phải tìm ra chiến lược cạnh tranh thích hợp nhằm thu hút và giảm thiểu những áp lực từ họ.
2.4.3 Nhà cung cấp
Trong ngành xây dựng, chủng loại các nhà cung cấp rất đa dạng và phong phú. Đó là các nhà cung cấp các máy
móc thiết bò phục vụ thi công, các nguyên vật liệu xây dựng, vật liệu trang trí... Với sự tiến bộ không ngừng của
khoa học kỹ thuật, chất lượng, mẫu mã… của các sản phẩm này càng được nâng cao và đem đến những tiện ích mới
cho sản phẩm xây dựng, phục vụ tối đa cho nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Máy móc thiết bò phục vụ thi công trên thò trường hiện nay rất đa dạng và cạnh tranh nhau gay gắt. Chủ yếu là các
thiết bò thi công của các hãng nổi tiếng như Nhật, Mỹ, Đức cao cấp với chủng loại phong phú và giá cả cạnh tranh
nên có thể nói, áp lực của các nhà cung cấp này là không có. Hoạt động chủ yếu giữa công ty xây dựng với nhà
cung cấp chính là ở thò trường vật liệu xây dựng và có thể phân loại nhà cung cấp thành ba nhóm chính sau:
• Nhà cung cấp vật liệu thô hay phần cứng của công trình như: gạch, cát, đá, ciment, sắt, thép, gỗ… Hầu hết các
đơn vò xây dựng đều có các nhà cung cấp riêng, quen thuộc và giá cả rất ổn đònh nên sức ép hầu như không có
vì nguồn cung rất nhiều và mức độ cạnh tranh cao.
• Nhà cung cấp các vật liệu phụ, vật liệu trang trí và thiết bò như: gạch trang trí, sơn, thiết bò điện, nước, thiết bò
vệ sinh… Các sản phẩm này rất đa dạng và phong phú, giá cả phụ thuộc vào chất lượng và các doanh nghiệp
rất khó kiểm soát nên áp lực này có thể cao hay thấp tùy thuộc vào chất lượng và giá trò của công trình
• Nhà cung cấp các sản phẩm đặc biệt, nguyên liệu mới, độc quyền như: các sản phẩm trang trí cao cấp, thiết bò
hiện đại, chất phụ gia mới, sản phẩm độc đáo với số lượng hạn chế, sản phẩm thủ công trang trí… Những loại
sản phẩm này thường chỉ sử dụng ở các công trình có giá trò cao, đặc biệt hay theo yêu cầu của khách hàng
nên áp lực rất mạnh và không thể thay thế.
Với nhà cung cấp ở nhóm 1, công ty là khách hàng quen thuộc nên được sự ưu đãi về giá cả, thời hạn thanh toán,
phương thức giao hàng… và tất nhiên chất lượng phải được bảo đảm. Đối với nhóm 2, tùy vào đặc điểm công trình,
công ty chọn lựa nhà cung cấp phù hợp với giá cả, kiểu mẫu, chất lượng và thời hạn giao hàng. Nếu sử dụng sản
phẩm của các nhà cung cấp nổi tiếng thì áp lực sẽ rất cao. Do đó, công ty cần xác đònh thò trường mục tiêu của
mình để thiết lập mối quan hệ với các nhà cung cấp loại này càng nhiều càng tốt, tránh bò phụ thuộc. Còn nhà cung
cấp ở nhóm 3 chắc chắn sẽ tạo ra áp lực rất mạnh cho công ty và không thể kiểm soát.
Nhu cầu vật liệu xây dựng thường chiếm khoảng 60% tổng vốn đầu tư xây dựng công trình nên việc quản lý các
yếu tố này có ý nghóa rất lớn đối với các công ty xây dựng. Hiện nay, thò trường máy móc thiết bò, vật liệu xây
dựng ở nước ta rất đa dạng và đáp ứng mọi yêu cầu của chủ đầu tư. Hầu hết các hãng nổi tiếng trên thế giới đều đã

có mặt tại thò trường Việt Nam, góp phần đa dạng hóa nhu cầu của khách hàng. Hy vọng trong thời gian sắp tới, khi
các dự án liên doanh sản xuất vật liệu xây dựng đi vào hoạt động ổn đònh thì áp lực nhà cung cấp sẽ giảm đi, tạo
thuận lợi cho các doanh nghiệp xây dựng.
2.4.4 Các đối thủ tiềm năng
Đối thủ tiềm năng là những công ty hiện tại không cạnh tranh trong cùng ngành nhưng có khả năng trở thành đối
thủ thực sự nếu họ quyết đònh tham gia. Áp lực cạnh tranh của những đối thủ tiềm năng mạnh hay yếu phụ thuộc
vào rào cản thâm nhập liên quan đến ba yếu tố sau:
• Trung thành với nhãn hiệu sản phẩm: do đặc điểm của sản phẩm xây dựng là giá trò cao, thời hạn sử dụng kéo
dài… nên việc thể hiện sự trung thành với nhãn hiệu nói chung là rất khó, rào cản xâm nhập của yếu tố này là
thấp.
• Ưu thế tuyệt đối về chi phí: các công ty trong ngành xây dựng không có một thuận lợi tuyệt đối về chi phí sản
xuất, chỉ có một số ít doanh nghiệp với quy mô lớn có ưu thế về công nghệ, trình độ quản lý… nhưng vẫn không
thể tạo thành một rào cản chung cho cả ngành vì tính đa dạng của sản phẩm xây dựng.
• Quy mô sản xuất có tính kinh tế: đối với ngành xây dựng, quy mô sản xuất lớn không đồng nghóa với hạ chi phí
sản xuất vì tính công đoạn trong công tác thi công, do đó rào cản về quy mô sản xuất là không đáng kể.

23


Luận văn Thạc só kinh tế

Hà Thò Minh Châu

Nhìn chung, trên đòa bàn TPHCM, đa số các công ty xây dựng có quy mô vừa và nhỏ, sản xuất không có sự phân
biệt đặc thù về công nghệ, kỹ thuật sản xuất mà chủ yếu khác nhau ở trình độ quản lý. Quy trình sản xuất xây
dựng lại đơn giản, dễ bắt chước nên sự xâm nhập vào ngành là rất dễ và rào cản thâm nhập nói chung không cao.
Điều này giải thích sự gia tăng của các nhà thầu không có tư cách pháp nhân chuyên đi “mượn dấu” để tham gia thò
trường. Nhưng để có thể trở thành các công ty xây dựng uy tín và có khả năng đảm nhiệm các công trình quy mô
lớn thì phải cần rất nhiều yếu tố quan trọng khác như vốn, kinh nghiệm, trình độ chuyên môn, đạo đức… Tuy nhiên,
đối với ngành xây dựng nước ta trong giai đoạn hiện nay thì sự xâm nhập của các đối thủ tiềm ẩn nói chung là rất

thấp.
2.4.5 Sản phẩm thay thế
Sản phẩm xây dựng là tổng hợp và kết tinh sản phẩm của nhiều ngành sản xuất khác và ngành xây dựng đóng vai
trò tổ chức cấu tạo công trình ở khâu cuối cùng. Với khái niệm trên thì ngành xây dựng sẽ không có sản phẩm thay
thế nên áp lực của sản phẩm thay thế tiềm năng là không tồn tại. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng sản phẩm
thay thế của ngành xây dựng là các công trình bằng vật liệu xây dựng đặc biệt, lắp ghép sẵn, nhưng thực tế đây
cũng chỉ là một dạng sản phẩm thay thế cho các vật liệu xây dựng truyền thống. Cuối cùng, chính ngành công
nghiệp xây dựng vẫn phải tổ chức tổng hợp chúng lại để tạo thành một công trình hoàn chỉnh nên áp lực sản phẩm
thay thế của ngành xây dựng hầu như không có.
Tóm lại, môi trường ngành xây dựng có thể minh họa qua mô hình mô hình 5 áp lực cạnh tranh của M.E. Porter
theo Sơ đồ 5. Các áp lực của các đối thủ cạnh tranh và khách hàng là những áp lực mạnh nhất, tác động trực tiếp
đến khả năng cạnh tranh của các công ty trong ngành. Bên cạnh đó, nhà cung cấp cũng tạo áp lực nhưng mức độ
cao thấp còn tùy thuộc vào đặc điểm mặt hàng. Và cuối cùng là các sản phẩm thay thế tiềm nặng, do tính chất của
ngành mà áp lực này hầu như không tồn tại đối với ngành xây dựng. Những đặc điểm cạnh tranh của các lực lượng
này sẽ tạo điều kiện cho các công ty đề ra các chiến lược ứng phó một cách thành công.

Sơ đồ 3: MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ NGÀNH XÂY DỰNG
ĐỐI THỦ TIỀM NĂNG
Đe dọa nhập cuộc
(thấp)

NHÀ CUNG CẤP
Sức mạnh mặc cả
(tùy sản phẩm)

ĐỐI THỦ
CẠNH TRANH
(cạnh tranh gay gắt)

KHÁCH HÀNG

Sức mạnh mặc cả
(rất cao)

(không có)
Đe dọa về sản phẩm
thay thế
N PHẨ
M THAY
CỦASẢCÁ
C CÔ
NG THẾ
TY

2.5 PHÂN TÍCH NỘI BỘ HOẠT ĐỘNG
TNHH XÂY DỰNG
2.5.1 Các hoạt động chủ yếu
Các hoạt động chủ yếu của ngành xây dựng bao gồm những hoạt động được gắn trực tiếp với công trình xây dựng
là: hoạt động đấu thầu, sản xuất xây dựng, hoạt động marketing, bàn giao công trình, và hoạt động bảo hành.

2.5.1.1 Hoạt động đấu thầu
(Xem phần 2.2 Phân tích thực trạng đấu thầu xây dựng tại các công ty TNHH xây dựng TPHCM)

24


×