Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Hoàn thiện chính sách thuế thu nhập cá nhân tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.79 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHẠM DUY LINH

HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ
THU NHẬP CÁ NHÂN TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành

: Kinh tế tài chính-ngân hàng

Mã số

: 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Ung Thò Minh Lệ

TP HỒ CHÍ MINH – Năm 2006


1
MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế-xã hội. Một trong những thành tựu quan
trọng không thể không nhắc tới đó là công cuộc cải cách hệ thống thuế. Với sự
lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự phối hợp giữa các ngành các cấp, và sự nỗ lực
của cả cộng đồng, hệ thống chính sách thuế đã được xây dựng và không ngừng
hoàn thiện. Kết quả, chúng ta ban hành được hệ thống chính sách thuế bao quát


hầu hết các nguồn thu, từng bước bổ sung hoàn thiện thuế phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thuế đã trở thành công cụ của Đảng và
Nhà nước trong việc điều tiết vó mô nền kinh tế theo hướng khuyến khích đầu tư,
khuyến khích xuất khẩu, thúc đẩy chuyển dòch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất
kinh doanh và chủ động hội nhập quốc tế. Thủ tục hành chính thuế được sửa đổi
theo hướng rõ ràng, minh bạch, công tác quản lý thuế ngày càng được kiện toàn,
củng cố về cơ chế quản lý, bộ máy, con người... Số thu từ thuế và phí đã trở thành
nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, năm sau cao hơn năm trước, nhất là
các năm gần đây chẳng những đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên, còn tăng
thêm cho đầu tư phát triển, trả nợ nước ngoài, góp phần đảm bảo công bằng xã
hội, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Để góp phần thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế diễn ra nhanh chóng. Bộ Chính Trò đã thông qua chiến lược cải cách thuế
đến năm 2010 và Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết đònh số 201/2004/QĐ-TTg
phê duyệt chương trình cụ thể thực hiện chiến lược trên. Theo đó chúng ta tiếp tục
hoàn thiện chính sách thuế bằng công cuộc cải cách lần thứ ba với việc sửa đổi


2
một số sắc thuế và ban hành thêm một số sắc thuế mới. Luật thuế Thu nhập cá
nhân là một trong những sắc thuế mới mà công cuộc cải cách lần này đang hướng tới.
Kể từ khi Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao được triển
khai thực hiện từ năm 1991 đến nay. Mặc dù đã trải qua năm lần sửa đổi nhưng
kết quả đạt được còn nhiều hạn chế, chưa phát huy đúng bản chất của sắc thuế này
trong cuộc sống. Trong giai đoạn tới thuế TNCN sẽ phải là một sắc thuế quan
trọng, là một nguồn thu chính cho ngân sách khi mà một số sắc thuế hiện nay phải
cắt giảm khi Việt Nam gia nhập WTO. Do đó một thay đổi lớn về chính sách thuế
TNCN là điều chúng ta phải tiến hành thực hiện, để có một sắc thuế hợp lý, phù
hợp với nền kinh tế, và đem lại hiệu quả cho Ngân sách Nhà nước. Với thực tế đó

tác giả xin được chọn đề tài:

Hoà n Thiệ n Chính Sá c h Thuế Thu Nhậ p Cá Nhâ n Tạ i Việ t Nam
làm bài luận văn tốt nghiệp cao học, nhằm nghiên cứu lý luận, thực trạng chính
sách thuế TNCN hiện nay của Việt Nam, từ đó tìm ra các đònh hướng và giải pháp
hoàn thiện trong thời gian tới.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài được thực hiện với các mục đích nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu một số lý luận về chính sách thuế TNCN để thấy được tầm
quan trọng và tính tất yếu phải hoàn thiện chính sách thuế này tại Việt Nam.
- Phân tích thực trạng triển khai áp dụng Pháp lệnh thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao hiện nay. Đánh giá những thành tựu và các mặt tồn tại.
- Đề ra một số đònh hướng cùng với những giải pháp nhằm hoàn thiện chính
sách thuế TNCN tại Việt Nam trong thời gian tới.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài được thực hiện bằng các phương pháp biện chứng vận dụng các quan
điểm khách quan, lòch sử vận động và phát triển. Bên cạnh đó, các phương pháp


3
thống kê, phân tích cũng được kết hợp với việc vận dụng, tham khảo kinh nghiệm
của một số nước về chính sách thuế TNCN, từ đó giải quyết các vấn đề được đặt
ra tại luận văn.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề về lý luận và thực tiễn về thuế
TNCN tại Việt Nam hiện nay. Đi sâu nghiên cứu những đònh hướng, quan điểm
hoàn thiện chính sách thuế TNCN phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
thời gian tới.
Với mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu trên, nội dung của luận văn
được bố cục như sau:

Mở đầu
Chương 1. Tổng Quan Về Thuế Thu Nhập Cá Nhân
Chương 2. Thực Trạng Triển Khai Chính Sách Thuế Thu Nhập Cá Nhân
Tại Việt Nam Thời Gian Qua.
Chương 3. Đònh Hướng Và Các Giải Pháp Hoàn Thiện Chính Sách Thuế
Thu Nhập Cá Nhân Của Việt Nam Trong Thời Gian Tới
Kết luận


4

CHƯƠNG 1 .
TỔNG QUAN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN

1.1. THUẾ TNCN VÀ VAI TRÒ CỦA THUẾ TNCN TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG

1.1.1. Một số lý luận về thuế TNCN
1.1.1.1. Khái niệm về thu nhập và thuế TNCN
* Khái niệm về thu nhập
Thu nhập của từng cá nhân trong xã hội là thước đo, là cơ sở để thuế TNCN
điều chỉnh, vì vậy cần phải tìm hiểu một cách tường tận về thu nhập. Quan niệm
thu nhập về lý thuyết dường như là khá đơn giản, nhưng cho đến nay trên thế giới
còn nhiều ý kiến khác nhau nên chưa có một đònh nghóa đầy đủ chính xác và tổng
hợp về khái niệm thu nhập. Có thể xem xét một vài quan điểm về thu nhập của
một số các nhà kinh tế học sau:
Hai nhà kinh tế người Anh là R.M.Haig và H.C.Simons đã đưa ra đònh nghóa
về thu nhập: “Thu nhập là tổng giá trò của cải ròng tăng lên của một cá nhân cộng
với sự tiêu dùng của người đó trong một thời gian nhất đònh, thường là một năm”
Quan điểm này về mặt lý thuyết được chấp nhận rộng rãi, nhưng trên thực tế rất

khó thực hiện bởi việc xác đònh một cách chính xác giá trò tăng thêm này rất khó khăn.
Nhà kinh tế học người Mỹ Paul.A.Samuelson đưa ra khái niệm thu nhập như
sau: “ Thu nhập là tổng số tiền kiếm được hoặc thu góp được trong một khoảng
thời gian nhất đònh”. Thuật ngữ “tiền” ở đây được hiểu là những khoản thu dưới
dạng tiền tệ hoặc hiện vật được tính thành tiền, nó bao gồm cả phần sản xuất để tự
tiêu dùng, phần nhận được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh dòch vụ, từ lao
động mà có ...


5
Mỗi quan điểm về thu nhập đều có những ưu nhược điểm riêng của nó, tuy
chưa phản ánh một cách đầy đủ tất cả các khía cạnh của thu nhập, nhưng tổng quát
lại có thể thấy một số điểm chung trong nhận đònh về thu nhập như sau:
- Thu nhập luôn gắn với một chủ thể nhất đònh trong nền kinh tế thể hiện
tính sở hữu của thu nhập.
- Thông thường, việc xác đònh thu nhập của các chủ thể khác nhau từ các
nguồn khác nhau trong một thời gian nhất đònh được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ.
- Thu nhập được hình thành thông qua quá trình phân phối lần đầu và phân
phối lại thu nhập quốc dân, do thò trường và nhà nước thực hiện.
Qua một số quan điểm trên có thể đưa ra một khái niệm khái quát về thu
nhập như sau:
Thu nhập là tổng các giá trò mọi tài sản được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ
mà một chủ thể nào đó trong nền kinh tế – xã hội tạo ra và nhận được từ các nguồn
lao động, tài sản hay đầu tư thông qua quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội và
thu nhập quốc dân trong một khoảng thời gian nhất đònh thường là một năm.
* Các nhân tố ảnh hưởng tới thu nhập
Thứ nhất: Trình độ phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia là nhân tố
quan trọng quyết đònh mức tăng thu nhập của cá nhân. Do vậy ở các nước có nền
kinh tế phát triển, thu nhập bình quân đầu người thường rất cao, ngược lại trong số
các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển thì thu nhập bình quân đầu người còn thấp.

Thứ hai: Do cơ chế phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân
trong những điều kiện kinh tế nhất đònh, trong đó có chế độ sở hữu về các yếu tố
sản xuất chi phối mức thu nhập của các thành viên tham gia vào quá trình sản xuất
và phân phối thu nhập.
Thứ ba: Do những nhân tố có tính xã hội khác tác động đến thu nhập của
các chủ thể như; khả năng đầu tư và tạo thêm việc làm của Nhà nước; chế độ phúc


6
lợi của Nhà nước; trình độ nhận thức và nghề nghiệp của người lao động; quyền sở
hữu về tài sản của các cá nhân; quan hệ tình cảm trong xã hội…
Việc nghiên cứu các nhân tố làm ảnh hưởng tới thu nhập nhằm giúp cho các
nhà quản lý và hoạch đònh chính sách có quan điểm đúng đắn khi đưa ra các quy
đònh về phân phối thu nhập. Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu mà thu nhập được
chia thành các loại khác nhau dựa theo các tiêu thức sau:
- Căn cứ vào nguồn tạo ra thu nhập có các loại: Thu nhập từ lao động, thu
nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tài sản, thu nhập từ đầu tư, thu nhập từ thừa kế....
- Căn cứ vào tính đều đặn hay không đều đặn của việc phát sinh thu nhập
của các chủ thể có thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên.
- Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ phát sinh thu nhập có thu nhập phát sinh ở
trong nước và thu nhập phát sinh từ nước ngoài.
- Căn cứ vào chủ thể được hưởng thu nhập có thu nhập Công ty, thu nhập cá
nhân, thu nhập của Chính phủ...
- Căn cứ vào tính pháp lý của thu nhập có thể được chia thành thu nhập hợp
pháp và thu nhập không hợp pháp.
* Khái niệm về thuế TNCN
Hệ thống thuế một quốc gia thường được cấu trúc bởi ba nhóm đánh thuế:
đánh thuế trên thu nhập, đánh thuế trên sự tiêu dùng và đánh thuế trên của cải.
Dựa trên đó mà các sắc thuế được thiết lập, loại thuế đánh vào tiêu dùng thường
được sử dụng đó là thuế Giá trò gia tăng, thuế Tiêu thụ đặc biệt…Thuế đánh vào

của cải như là thuế tài sản...Đối với loại thuế đánh vào thu nhập thì hiện nay trên
thế giới, hầu hết các nước sử dụng hai sắc thuế là thuế Thu nhập công ty và thuế
Thu nhập cá nhân để điều tiết các khoản thu nhập trong xã hội. Các sắc thuế này
thường phức tạp, khó thu hơn thuế đánh vào tiêu dùng, nhưng nó được xem là sắc
thuế bình đẳng bởi người có thu nhập cao nộp thuế nhiều, người có thu nhập thấp
nộp thuế ít.


7
Nếu xét về bản chất thì thuế TNCN điều tiết từ đồng thu nhập đầu tiên của
các cá nhân, tuy nhiên dù có nhiều nguồn hình thành nên thu nhập, nhưng không
phải toàn bộ thu nhập này đều là đối tượng điều chỉnh của thuế thu nhập. Thuế
TNCN chỉ điều chỉnh phần thu nhập chòu thuế. Thu nhập chòu thuế là phần thu
nhập mà trên cơ sở đó tiến hành tính thuế thu nhập phải nộp, thu nhập chòu thuế
được xác đònh trên cơ sở các khoản thu nhập nhận được sau khi miễn trừ một số
khoản thu nhập và chi phí. Tùy vào chính sách thuế của mỗi nước mà nội dung,
phương pháp xác đònh các khoản miễn trừ và thu nhập chòu thuế có sự khác nhau.
Có thể khái quát về thuế TNCN như sau:
Thuế Thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của mỗi cá
nhân trong xã hội, kể cả thu nhập của công dân nước ngoài phát sinh ở nước sở tại
trong một khoảng thời gian nhất đònh.
* Thuế TNCN có những đặc điểm sau
- Là loại thuế trực thu, người nộp thuế đồng thời là người chòu thuế. Người
chòu thuế sẽ phải gánh chòu toàn bộ số thuế theo luật đònh mà không có thể chuyển
dòch cho người khác.
- Có diện đánh thuế rất rộng, không phân biệt thu nhập phát sinh trong nước
hay ngoài nước, từ lao động hay không từ lao động.
- Thuế TNCN có tính trung lập cao bởi việc tăng hay giảm thuế hầu như
không ảnh hưởng tới giá cả hàng hóa dòch vụ trên thò trường, và ngược lại sự tăng
giá hay giảm giá của hàng hóa, dòch vụ cũng ít ảnh hưởng tới việc thu thuế. Vì vậy

áp dụng nó không gây ra những biến động nhiều trên thò trường và sự biến động
về cơ cấu kinh tế.
1.1.1.2. Nguyên nhân ra đời của thuế Thu nhập cá nhân
Thuế TNCN đã được áp dụng từ lâu ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt ở
các nước phát triển thuế TNCN giữ vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo
nguồn thu cho Ngân sách nhà nước và thực hiện sự công bằng trong phân phối thu


8
nhập. Quốc gia đầu tiên áp dụng thuế TNCN là nước Anh vào năm 1799, sau đó
nó đã nhanh chóng được lan truyền sang hàng loạt các nước khác như Mỹ, Nhật,
Pháp, Đức, Trung Quốc.... tính tới thời điểm này thì có khoảng 180 nước trên thế
giới áp dụng. Kể từ khi áp dụng đến nay, thuế TNCN ngày càng chứng tỏ nó là
một sắc thuế cơ bản, giữ vai trò trung tâm không thể thiếu trong hệ thống thuế của
mỗi quốc gia. Thuế TNCN ra đời xuất phát từ những nguyên nhân sau:
- Sự xuất hiện của thuế TNCN bắt nguồn từ yêu cầu đảm bảo sự công bằng
trong phân phối thu nhập. Điều này đặc biệt cần thiết trong điều kiện kinh tế thò
trường vì thu nhập của một cá nhân hay tổ chức phụ thuộc chủ yếu vào việc họ
cung cấp nhiều hay ít các yếu tố sản xuất như vốn, lao động, công nghệ... Trong
điều kiện đó sự phân hóa giàu nghèo khi phân phối thu nhập là điều khó tránh
khỏi. Vì vậy, cần áp dụng thuế TNCN để điều tiết thu nhập nhằm rút ngắn khoảng
cách giàu nghèo trong xã hội. Bởi với tính chất là một loại thuế trực thu nên thuế
TNCN đánh trực tiếp vào thu nhập của người nộp thuế và điều tiết thu nhập của
người nộp thuế theo khả năng của họ, đảm bảo sự công bằng theo chiều dọc trong
nghóa vụ thuế đối với Nhà nước.
- Do nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng nhanh của Nhà nước, cùng với sự giảm
dần các loại thuế khác trước yêu cầu tự do hóa thương mại, để đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội, để Nhà nước tiếp tục thực hiện các chức năng của mình
thì nhất thiết phải gia tăng nguồn thu qua các loại thuế thu nhập, trong đó thuế
TNCN là loại thuế có thể mang lại nguồn thu lớn cho Ngân sách.

- Thuế là một trong những công cụ hữu hiệu để điều tiết vó mô nền kinh tế,
do đó một trong những nguyên nhân ra đời của thuế TNCN cũng chính là việc nó
sẽ được sử dụng như một công cụ linh hoạt để điều tiết vó mô, kích thích tiết kiệm
hay tiêu dùng hoặc đầu tư để phát triển kinh tế theo những hướng có lợi hoặc theo
những mục tiêu mà Nhà nước hướng tới.


9
Như vậy có thể thấy sự ra đời của thuế TNCN là một tất yếu khách quan
trong sự phát triển của kinh tế-xã hội.
1.1.1.3. Nội dung cơ bản khi tiến hành xây dựng chính sách thuế TNCN
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội ở mỗi quốc gia mà thuế Thu nhập
cá nhân sẽ được xây dựng cho phù hợp về một số tiêu thức như thuế suất, thu nhập
chòu thuế, miễn giảm thuế.... Tuy nhiên khi xây dựng chính sách thuế này hầu hết
các quốc gia đều phải quan tâm tới những vấn đề cơ bản sau:
* Thứ nhất: Xác đònh thu nhập chòu thuế
Thu nhập chòu thuế là cơ sở để tính thuế thu nhập, vì thế việc xác đònh thu
nhập chòu thuế chính xác có ý nghóa rất quan trọng. Thường thu nhập chòu thuế của
một cá nhân trong kỳ tính thuế là tổng các khoản thu nhập có được trừ đi các
khoản được giảm trừ. Để xác đònh được tổng thu nhập cần phải xác đònh từng
khoản cấu thành tổng thu nhập theo từng loại thu nhập cụ thể, tức xem xét tổng thu
nhập đo được hình thành từ những nguồn nào. Tùy theo mục đích đánh thuế mà có
khoản thu nhập không đưa vào đối tượng đánh thuế, khi xây dựng các quy đònh
tính thuế cần xác đònh rõ những khoản nào nằm trong tổng thu nhập chòu thuế và
những khoản nào không nằm trong tổng thu nhập không chòu thuế. Việc tính toán
thu nhập chòu thuế chính xác cần phải xem xét tới các vấn đề như:
- Xác đònh nguồn gốc của thu nhập: Thu nhập của mỗi cá nhân có thể có
được từ rất nhiều nguồn khác nhau, do đó phải dựa trên một số tiêu thức thực hiện
việc phân loại chúng thành các nguồn cơ bản như: thu nhập từ lao động; thu nhập
từ phúc lợi; thu nhập từ hoạt động kinh doanh; thu nhập từ vốn tài sản; các khoản

thu nhập bất thường khác...
- Thực hiện đánh thuế trên cơ sở cư trú hay nguồn phát sinh thu nhập: Việc
đánh thuế dựa vào tình trạng cư trú được sử dụng rộng rãi hiện nay. Theo cách tiến
hành này thì các cá nhân cư trú ở một nước phải nộp thuế tại nước đó và đánh trên
mọi khoản thu nhập từ khắp nơi trên thế giới, còn những cá nhân không cư trú chỉ


10
bò đánh thuế trên phần thu nhập phát sinh tại nước đó. Còn nếu thực hiện việc
đánh thuế trên cơ sở nguồn phát sinh thu nhập thì các cá nhân chỉ phải nộp thuế
đối với khoản thu nhập phát sinh tại nước sở tại mà không phải nộp thuế đối với
những khoản thu nhập phát sinh ở nước ngoài.
- Xác đònh thời gian tính thuế: Xác đònh đúng đắn thời gian tính thuế là vấn
đề hết sức quan trọng để có thể tính toán tổng thu nhập chòu thuế của các cá nhân
chính xác.
* Thứ hai: Xác đònh các khoản thu nhập được miễn trừ
Một trong những tính chất của thuế TNCN là có tính tới hoàn cảnh của từng
cá nhân, do vậy sẽ có một số khoản chi được giảm trừ khi xác đònh thu nhập chòu
thuế. Các khoản giảm trừ này có thể được thực hiện dưới hai dạng: miễn trừ cá
nhân và miễn trừ tiêu chuẩn.
Miễn trừ cá nhân được thực hiện theo phương pháp kê khai chi phí thực tế
phát sinh đối với các khoản được phép giảm trừ. Thông thường có hai loại giảm trừ
cá nhân là giảm trừ có tính chất kinh tế và giảm trừ có tính chất xã hội. Giảm trừ
có tính chất kinh tế là các khoản giảm trừ mang tính chất chi phí liên quan trực tiếp
đến việc tạo ra thu nhập như chi phí đi lại, ăn ở.... Giảm trừ có tính chất xã hội là
các khoản giảm trừ mang tính chất chi trợ cấp như giúp đỡ người khó khăn, chi
nuôi dưỡng người già, tàn tật... Xác đònh các khoản miễn trừ cá nhân là phương
pháp hợp lý, đảm bảo được sự công bằng trong nghóa vụ thuế.
Phương pháp miễn trừ tiêu chuẩn được thực hiện dưới dạng quy đònh mức
khởi điểm chòu thuế. Tức tất cả các cá nhân sẽ thực hiện nghóa vụ thuế bắt đầu từ

mức đó trở lên, về nguyên tắc mức khởi điểm chòu thuế là mức thu nhập trung bình
trong xã hội bảo đảm trang trải đủ những chi phí cần thiết cho cuộc sống. Tuy
phương pháp này không đảm bảo sự công bằng nhưng nó khiến cho thuế thu nhập
cá nhân được tính toán đơn giản, tiết kiệm được chi phí quản lý, chi phí hành thu....


11
* Thuế suất Thuế thu nhập cá nhân
Thuế suất thường được coi là linh hồn của một sắc thuế, bởi qua đó nó cho
thấy mức độ đóng thuế là bao nhiêu, có phù hợp với điều kiện nền kinh tế, và với
khả năng của đối tượng nộp hay không, có ảnh hưởng quá mức tới cuộc sống của
các cá nhân và hạn chế sự mở rộng sản xuất kinh doanh.... Vì vậy đây là nội dung
thường xuyên được cân nhắc, thậm chí là thường xuyên phải thay đổi trong quá
trình xây dựng và áp dụng thuế TNCN. Thông thường thuế suất thuế TNCN được
quy đònh theo biểu thuế suất lũy tiến từng phần, tức thuế suất sẽ gia tăng theo sự
gia tăng của thu nhập chòu thuế. Biểu thuế lũy tiến từng phần có thể gồm nhiều
bậc thuế, và cùng có thể đơn giản chỉ gồm vài bậc. Biểu thuế nhiều mức thuế suất
tương ứng với các mức thu nhập khác nhau đảm bảo công bằng hơn, bởi gánh nặng
thuế mà người dân phải chòu sẽ giảm nhẹ do sự chia nhỏ của mức thuế, còn với
biểu thuế ít bậc hơn tuy có có ưu điểm là thuận lợi trong việc tính thuế nhưng mức
thuế giữa các bậc chênh lệch nhau nhiều dẫn tới không công bằng trong nghóa vụ
thuế. Việc sử dụng thuế suất lũy tiến từng phần xuất phát từ hai lý do: thứ nhất,
nhu cầu công bằng xã hội. Nhà kinh tế học Paul.A. Samuelson chỉ ra rằng nền kinh
tế thò trường tất yếu dẫn đến phân hóa và bất bình đẳng. Do vậy phải có chính
sách phân phối thu nhập của Chính phủ, mà công cụ chủ yếu là thuế thu nhập lũy
tiến để đánh vào người có thu nhập cao hơn người có thu nhập thấp; thứ hai, xuất
phát từ khả năng: hữu dụng biên của thu nhập giảm dần khi thu nhập tăng. Chính
phủ có thể động viên thuế từ người giàu có với thuế suất cao hơn so với những
người nghèo, vừa thực hiện được công bằng, vừa làm tăng hiệu quả việc phân phối
thu nhập.



12
Độ hữu dụng
Hàm hữu dụng
Độ hữu dụng cận biên
của thu nhập cao hơn

Độ hữu dụng cận
biên của thu nhập
thấp hơn

Thay đổi đơn vò
thu nhập

Thay đổi đơn vò
thu nhập

Thu nhập

Hình 1 : Hữu dụng biên của thu nhập giảm dần khi thu nhập tăng
* Phương pháp quản lý thu nộp
Phương pháp quản lý thu nộp là một trong những nội dung không kém phần
quan trọng khi xây dựng chính sách thuế, nếu chúng ta thực hiện tốt những nội
dung trên nhưng không có một phương pháp quản lý thu nộp hợp lý thì không thể
tránh khỏi việc thất thoát thuế và chồng chéo trong quản lý thuế. Thuế TNCN có
thể được thu theo phương pháp khấu trừ tại nguồn hoặc phương pháp thu trực tiếp.
Phương pháp khấu trừ tại nguồn được áp dụng cho các khoản thu nhập phát
sinh có tính chất ổn đònh dễ quản lý như thu nhập từ tiền lương, tiền công, thu nhập
từ bất động sản...Theo phương pháp này, tổ chức chi trả thu nhập phải khấu trừ số

thuế phải nộp của cá nhân để nộp vào Ngân sách Nhà nước. Áp dụng phương pháp
khấu trừ tại nguồn tuy chi phí hành thu thấp, quy trình quản lý đơn giản nhưng
không khai thác được hết nghóa vụ thuế của các cá nhân vì chỉ thu được thuế từ
những khoản thu nhập rõ ràng, chính thống còn những khoản thu nhập khác dễ bò
bỏ qua do không kiểm soát được.
Với phương pháp thu trực tiếp, người nộp thuế tự khai thu nhập của mình
gửi cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế sau khi kiểm tra số liệu kê khai và các khoản


13
được giảm trừ, sẽ xác đònh số thuế phải nộp. Các cá nhân chòu trách nhiệm trước
pháp luật về tính đầy đủ và đúng đắn của các khoản thu nhập đã khai. Phương
pháp này có thể đảm bảo tính chính xác và động viên được tối đa nghóa vụ thuế
của các cá nhân. Tuy nhiên, trên thực tế để thực hiện phương pháp này hiệu quả,
người nộp thuế phải hiểu rõ nghóa vụ và trách nhiệm của mình, đồng thời cơ chế
kiểm tra giám sát của cơ quan chức năng đủ mạnh mới có thể nắm bắt được thu
nhập của cá nhân.

1.1.2. Vai trò của thuế Thu nhập cá nhân trong nền kinh tế
Sự ra đời và phát triển của thuế gắn liền với sự ra đời và phát triển của Nhà
nước, từ đó tới nay, thuế thực sự trở thành một công cụ đắc lực trong việc điều
hành, quản lý kinh tế-xã hội của Nhà nước. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế
thò trường có sự can thiệp của Nhà nước, thuế càng thể hiện những vai trò hết sức
quan trọng như: tạo thu nhập cho Nhà nước, quản lý vó mô nền kinh tế, thực hiện
công bằng xã hội...
Thuế TNCN là một sắc thuế cụ thể trong hệ thống thuế nói chung nên nó
cũng mang trong mình những vai trò của thuế như sau:
- Thuế Thu nhập cá nhân tạo nguồn thu ổn đònh ngày càng tăng cho Ngân
sách nhà nước:. Thu nhập của Nhà nước có thể được hình thành từ nhiều nguồn
khác nhau, trong đó thuế là một nguồn thu chủ yếu nhất, chiếm từ 70-80% trong

tổng thu Ngân sách của các quốc gia. Thuế TNCN là một hình thức thu quan trọng
của Ngân sách tại các nước đang phát triển, cùng với sự tăng trưởng kinh tế thì
ngày càng có nhiều nguồn thu nhập mới phát sinh, tài sản và thu nhập của dân
chúng ngày càng tăng điều đó tạo cơ sở vững chắc để thuế TNCN phát huy vai trò
huy động tài chính cho Nhà nước của mình. Hiện nay, tại các nước phát triển như:
Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức... số thu thuế TNCN chiếm khoảng 30-40% tổng số thu
ngân sách, các nước có nền kinh tế chuyển đổi như: Các nước Đông Âu thuộc Liên
xô cũ, Hung ga ri, Trung Quốc, số thu thuế TNCN chiếm 20-25% tổng thu Ngân


14
sách Nhà nước, các nước trong khối ASEAN, như: Thái Lan, Ma-lay-xi-a, Phi-lippin... số thuế TNCN chiếm khoảng 15-20% (Nguồn: Tờ trình Chính phủ về Dự thảo
Luật thuế TNCN ngày 01/08/2006 – Bộ Tài chính). Trong tương lai, trước xu hướng
hội nhập kinh tế trên thế giới thì hầu hết các sắc thuế gián thu đang dần phải cắt
giảm, điều này đã ảnh hưởng trực tiếp tới các nước đang phát triển, đặc biệt với
một số nước mà nguồn tài nguyên thiên nhiên khan hiếm. Với đối tượng chòu thuế
rộng lớn, và có khả năng mang lại nguồn thu ổn đònh cho Ngân sách, thuế TNCN
sẽ là sắc thuế chủ đạo trong hệ thống thuế tại các quốc gia đang phát triển.
- Thuế Thu nhập cá nhân là công cụ góp phần thực hiện công bằng xã hội:
Công bằng và bình đẳng là một đòi hỏi khách quan trong tiến trình phát triển của
lòch sử. Trong một xã hội dân chủ tính công bằng phải được thực hiện trước hết đối
với việc phân chia gánh nặng của thuế. Công bằng trong nghóa vụ thuế là việc
người có thu nhập cao hơn sẽ nộp thuế với tỷ lệ lớn hơn người có thu nhập thấp.
Với tính chất là một loại thuế trực thu đánh vào thu nhập nhận được của các cá
nhân theo biểu thuế lũy tiến từng phần, thuế TNCN đã trở thành công cụ để Nhà
nước điều tiết thu nhập của những người có thu nhập cao, giảm bớt chênh lệch
giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư. Nhất là trong cơ chế kinh tế thò trường, hiện
nay, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt do đó khó có một sắc thuế nào thực
hiện vai trò này tốt hơn thuế TNCN.
- Thuế Thu nhập cá nhân góp phần điều chỉnh vó mô nền kinh tế: Bên

cạnh vai trò thu Ngân sách và thực hiện công bằng xã hội, thuế TNCN cũng là một
công cụ được Nhà nước sử dụng để điều tiết nền kinh tế quốc dân. Trong mỗi thời
kỳ phát triển kinh tế khác nhau, tùy theo mục tiêu điều tiết vó mô nền kinh tế mà
chính sách thuế TNCN được xây dựng và điều chỉnh thích hợp. M. Keynes là nhà
kinh tế học nổi tiếng người Anh đã đề xướng tư tưởng cần có sự can thiệp của Nhà
nước vào hoạt động của nền kinh tế để đạt được “cầu hiệu quả” thông qua chính
sách thuế, trong đó có thuế TNCN. Ông cho rằng, tiêu dùng sẽ tăng một cách


15
tương đối so với mức tăng của thu nhập. Cùng với tốc độ tăng của thu nhập thì tốc
độ tiết kiệm tăng nhanh hơn làm cho cầu có khuynh hướng giảm xuống, vì vậy
biện pháp cần để kích thích tiêu dùng và tăng đầu tư thì phải có chính sách thuế
đánh vào phần thu nhập dành tiết kiệm. Keynes cho rằng khuynh hướng tiêu dùng
ở những người có thu nhập thấp sẽ cao hơn ở những người có thu nhập cao, vì vậy,
Nhà nước phải đánh thuế TNCN theo biểu thuế suất lũy tiến để phân phối lại thu
nhập của những người có thu nhập cao. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 19291933, lý thuyết của M.Keynes được sử dụng rộng rãi ở hầu hết các nước tư bản
phát triển. Đặc điểm của thuế TNCN trong thời kỳ này là biểu thuế suất khá cao
với nhiều bậc thuế và mức chênh lệch tỉ lệ điều tiết khá lớn giữa bậc thấp và bậc cao.
Theo quan điểm của nhà kinh tế học A.Laffer, đại diện trường phái trọng
cung, để tìm kiếm con đường cho tăng trưởng và duy trì năng suất lao động thì phải
kích thích lao động, đầu tư và tiết kiệm. Trên cơ sở đó, một mức thuế giảm sẽ kích
thích hoạt động tích cực của con người, sẽ làm tăng sản phẩm, tăng thu nhập, kinh
tế tăng trưởng, vì thế phải giảm nhẹ mức lũy tiến của thuế TNCN. A.Laffer đã đưa
ra đường cong lý thuyết phản ánh sự phụ thuộc giữa thuế suất và tổng số thuế thu
được, trên cơ sở đó đề nghò giảm mức lũy tiến đối với thuế TNCN.
Số thu
từ thuế
A


0

t*

t

Hình 2: Biểu đồ đường cong A.Laffer

Thuế
suất


16
Mô hình đường cong A.Laffer cho thấy quan hệ giữa thuế suất và tổng thu
từ thuế. Mức thuế bằng 0, thu Ngân sách từ thuế cũng bằng 0; mức thuế suất bằng
100% thì thu từ thuế cũng bằng 0, vì lúc đó sẽ không có ai làm việc, không có sản
xuất thì không thể thu thuế. Nếu Nhà nước duy trì mức thuế suất từ trên 0 đến mức
t*% thì kích thích được tăng trưởng kinh tế và đạt được sự ủng hộ của đối tượng
nộp thuế, số thu từ thuế cũng đồng thời tăng lên. Còn nếu mức thuế suất vượt quá
t*% thì tác động kìm hãm của mức thuế suất cao sẽ xuất hiện, nghóa là sản lượng
và thu nhập sẽ giảm làm cho số thu từ thu thuế cũng giảm.
1.2. CHÍNH SÁCH THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TẠI MỘT SỐ NƯỚC

1.2.1. Chính sách thuế Thu nhập cá nhân tại Pháp
* Đối tượng nộp thuế
Cá nhân không phân biệt quốc tòch được coi là đối tượng cư trú tại Pháp nếu
thỏa mãn một trong 3 tiêu thức: Có hộ gia đình tại Pháp; hoặc có thời gian sống
chủ yếu tại Pháp (từ 183 ngày trở lên trong năm tính thuế); hoặc có hoạt động
nghề nghiệp tại Pháp; hoặc có trung tâm lợi ích tại Pháp. Các cá nhân phải nộp
thuế TNCN trên toàn bộ thu nhập không phân biệt nguồn phát sinh thu nhập ở

trong nước hay ngoài nước.
Cá nhân không phân biệt quốc tòch, không là đối tượng cư trú tại Pháp chỉ
nộp thuế cho phần thu nhập có được tại Pháp hoặc trên phần thu nhập khoán.
* Thu nhập chòu thuế
Luật thuế của Pháp xác đònh 8 loại thu nhập chòu thuế. Thu nhập ròng để
làm căn cứ tính thuế là tổng hợp thu nhập của từng loại thu nhập mà đối tượng nộp
thuế có được trong năm. Thu nhập ròng được xác đònh cụ thể như sau:
- Đối với thu nhập từ tiền lương là tổng thu nhập từ tiền lương, các khoản
như tiền lương, tiền công và các khoản trợ cấp, kể cả các khoản trợ cấp cho các
đối tượng hưu trí, tàn tật... sau khi trừ đi các khoản chi phí cần thiết cho hoạt động
nghề nghiệp theo chứng từ hợp lệ hoặc theo các mức giảm trừ quy đònh.


17
- Thu nhập từ hoạt động kinh doanh công thương nghiệp: Được xác đònh là
các khoản lợi nhuận thu được từ các hoạt động này dưới các hình thức kinh doanh
cá thể hay doanh nghiệp tư nhân. Thu nhập ròng từ kinh doanh được xác đònh hoặc
là áp dụng tỷ lệ % trên doanh thu, hoặc xác đònh bằng mức khoán, hay bằng cách
lấy doanh thu trừ đi các khoản chi phí hợp lệ, tùy thuộc vào hình thức kê khai nộp
thuế của đối tượng nộp thuế.
- Thu nhập từ nông nghiệp: Các chủ trang trại và những người lao động
khác có thu nhập từ trồng trọt, chăn nuôi chòu thuế TNCN theo loại thu nhập từ
nông nghiệp, riêng thu nhập từ cho thuê đất, nhà xưởng trong nông nghiệp được
xếp vào loại thu nhập từ đất đai. Chính sách thuế áp dụng cho nông nghiệp có
nhiều ưu đãi hơn so với các hoạt động khác.
- Thu nhập từ hành nghề độc lập và từ các dòch vụ tư vấn nghề nghiệp: Loại
thu nhập này bao gồm thu nhập của những người hành nghề độc lập như tư vấn
pháp luật, kiến trúc, kế toán.... và các khoản thu nhập khác không được xếp vào
một trong các loại thu nhập ở trên. Đối với thu nhập loại này, thu nhập ròng chòu
thuế được xác đònh theo hai cách: khoán thu nhập, hoặc tính theo thực tế tùy vào

doanh số phát sinh.
- Thu nhập từ đầu tư chứng khoán: Gồm hai khoản thu nhập chính là cổ tức
và thu nhập từ tiền lãi. Luật thuế Pháp quy đònh miễn thuế đối với một số loại thu
nhập như tiền tiết kiệm dài hạn, tiền tiết kiệm mua nhà. Riêng đối với khoản thu
nhập từ tiền lãi, đối tượng nộp thuế có thể chọn lựa nộp thuế riêng cho loại thu
nhập này theo thuế suất 15%, mà không phải gộp chung vào tổng thu nhập để tính
thuế theo biểu thuế.
- Thu nhập từ cho thuê bất động sản: Là các khoản thu nhập từ việc cho
thuê nhà cửa, đất đai ở thành thò cũng như ở nông thôn, trừ khoản tiền thu được từ
việc cho thuê nhà cửa đã ghi nhận trong bảng cân đối kế toán của công ty tư nhân,
cho thuê nhà kèm theo trang thiết bò được xếp vào thu nhập từ kinh doanh công


18
thương nghiệp. Thu nhập ròng từ hoạt động cho thuê bất động sản được xác đònh
bằng tổng số thu từ việc cho thuê trừ đi các khoản chi phí mà đối tượng nộp thuế
phải chòu; ngoài các khoản chi phí này chủ bất động sản được tính trừ khoán 14%
trên tổng số thu coi như khấu hao và cho phí quản lý. Lỗ từ đất đai, nếu có, được
trừ vào tổng thu nhập chòu thuế của đối tượng nộp thuế trong một giới hạn nhất đònh.
- Thu nhập từ chuyển nhượng tài sản: Thu nhập ròng từ chuyển nhượng tài
sản được phân thành hai loại: thu nhập từ chuyển nhượng tài sản ngắn hạn (thời
gian nắm giữ tài sản dưới 2 năm) và thu nhập từ chuyển nhượng tài sản dài hạn
(thời gian nắm giữ từ hai năm trở lên) trừ một số tài sản đặc biệt đã chòu một loại
thuế khác. Thu nhập từ chuyển nhượng tài sản ngắn hạn được xác đònh bằng chênh
lệch giữa giá bán với giá mua cộng thêm các khoản chi phí nếu có, đối với chuyển
nhượng tài sản dài hạn được xác đònh bằng giá bán trừ đi giá mua tính theo thời
điểm hiện tại và trừ đi 5% giá mua cho mỗi năm sở hữu tính từ năm thứ ba. Ngoài
ra đối tượng nộp thuế còn được trừ khỏi thu nhập từ chuyển nhượng dài hạn một số
khoản giảm trừ khác.
- Thù lao của người điều hành công ty:

+ Thu nhập tiền lương của các thành viên công ty tư nhân mà không thuộc
diện nộp thuế thu nhập công ty thì phải gộp vào lãi của công ty và phân phối cho
các thành viên để tính thuế thu TNCN dưới danh nghóa từng người theo loại thu
nhập từ sản xuất, thương mại.
+ Thu nhập từ tiền lương của các Tổng giám đốc công ty vô danh và các
lãnh đạo có cổ phần trong các công ty cổ phần được coi là thu nhập từ tiền lương
và đối với công ty là các khoản chi phí được phép trừ khi xác đònh thu nhập công ty.
* Xác đònh thu nhập chòu thuế
Tổng thu nhập chòu thuế của hộ nộp thuế bằng tổng các khoản thu nhập
ròng từ mọi nguồn thu nhập được xác đònh theo quy tắc trên cộng thêm với thu
nhập của vợi hoặc chồng, các con trong hộ nếu có sau khi đã trừ đi các khoản lỗ


19
của từng loại thu nhập. Ngoài ra hộ nộp thuế còn được trừ ra khỏi tổng thu nhập
chòu thuế một khoản chi phí nếu thỏa mãn các điều kiện quy đònh như: trợ cấp nuôi
con bắt buộc theo phán quyết của tòa án đối với vợ hoặc chồng đã ly dò …
* Thuế suất
Luật thuế TNCN tại Pháp sử dụng biểu thuế lũy tiến từng phần, từ 0% cho
mức thu nhập 26.600 FR/năm đến 53,25% cho mức thu nhập trên 299.200 FR.
* Kê khai, tính thuế, và nộp thuế
Hộ nộp thuế phải tự kê khai thu nhập của họ trong năm tính thuế vào một tờ
khai chung và nộp cho cơ quan thuế trước ngày 28 tháng 2 hàng năm. Việc xác
đònh thuế phải nộp do cơ quan thuế đảm nhiệm dựa trên hệ số gia đình (QF), và áp
dụng biểu thuế lũy tiến. Hệ số gia đình là tổng số phần phải chòu thuế của hộ nộp thuế.
Thuế TNCN được nộp theo thời hạn ghi trong thông báo thuế, theo hình
thức tạm nộp trước hai kỳ, mỗi kỳ 1/3 số thuế phải nộp dựa theo số thuế phải nộp
năm trước, quyết toán vào cuối năm. Hoặc theo hình thức tạm nộp hàng tháng, mỗi
tháng nộp 1/10 số thuế phải nộp của năm trước, cuối năm sẽ quyết toán.


1.2.2. Chính sách thuế Thu nhập cá nhân tại Trung Quốc
Mặc dù Luật thuế TNCN ở Trung Quốc mới được áp dụng từ 10/9/1980,
nhưng nó đã đem lại nguồn thu đáng kể cho Ngân sách và được đa số người dân
đồng tình. Sau vài lần sửa đổi, hiện nay thuế TNCN tại Trung Quốc có một số nội
dung cơ bản sau:
* Đối tượng nộp thuế
Các cá nhân có chỗ ở hoặc không có chỗ ở trong nước Trung Quốc, mà cư
trú tại Trung Quốc đủ 1 năm thì phải nộp thuế đối với toàn bộ thu nhập của người
đó nhận được từ trong và ngoài nước Trung Quốc.
Các cá nhân không có chỗ ở tại Trung Quốc mà cư trú dưới 1 năm, thì phải
nộp thuế với thu nhập phát sinh từ Trung Quốc.
* Thu nhập chòu thuế gồm 11 loại thu nhập:


20
- Thu nhập về tiền lương, tiền công:là tổng số tiền lương, tiền công nhận
được trong tháng trừ đi một khoản khoán chi phí là 800Yuan (nhân dân tệ).
- Thu nhập chòu thuế của hộ công thương cá thể: là tổng số thu nhập về sản
xuất kinh doanh trong năm trừ đi các khoản chi phí và tổn thất có liên quan tới thu
nhập chòu thuế.
- Thu nhập của cá nhân hành nghề độc lập là tổng số thu nhập của cả năm
trừ đi chi phí cần thiết tạo ra thu nhập chòu thuế. Theo quy đònh, chi phí khoán mỗi
tháng là 800Yuan, cả năm sẽ là 9.600Yuan.
- Bốn loại thu nhập gồm: Thu nhập về thù lao dòch vụ; Thu nhập về nhuận
bút; Thu nhập về chi phí sử dụng quyền đặc biệt; Thu nhập về cho thuê tài sản; là
tổng tiền có được từ các hoạt động đó mang lại, nếu mỗi lần thu nhập không quá
4.000Yuan thì được trừ chi phí 800Yuan, nếu vượt quá 4.000Yuan thì được trừ chi
phí bằng 20% thu nhập, số còn lại là thu nhập chòu thuế.
- Thu nhập về chuyển nhượng tài sản là thu nhập mà người nộp thuế nhận
được trừ đi nguyên giá tài sản và chi phí hợp lý tạo ra thu nhập.

- Thu nhập về lãi tiền cho vay, cổ tức hoa hồng; Thu nhập ngẫu nhiên; Các
khoản thu nhập khác mà ngành tài chính xác đònh phải chòu thuế là toàn bộ thu
nhập mỗi lần nhận được của cá nhân nộp thuế.
* Thuế suất
Luật thuế TNCN của Trung Quốc sử dụng biểu thuế lũy tiến từng phần cho
thu nhập từ tiền lương, tiền công, không phân biệt giữa người nước ngoài và trong
nước, bao gồm 9 bậc thuế, với mức thuế suất thấp nhất là 5% cho phần thu nhập
chòu thuế từ 0 tới 500Yuan. Thuế suất cao nhất là 45% tính cho phần thu nhập chòu
thuế vượt quá 100.000Yuan.
Đối với thu nhập của hộ kinh doanh cá thể và cá nhân hành nghề độc lập áp
dụng biểu thuế suất riêng gồm 5 cấp, với mức thuế suất thấp nhất là 5% cho phần


21
thu nhập chòu thuế dưới 5.000Yuan, và cao nhất là 35% cho phần thu nhập chòu
thuế vượt quá 50.000Yuan.
Đối với thu nhập từ dòch vụ, nhuận bút, cho thuê tài sản, lãi cho vay, cổ tức...
áp dụng mức thuế 20%, và được giảm trừ hoặc tăng lên trong từng trường hợp cụ thể.
* Kê khai, nộp thuế
Cơ sở chi trả thu nhập cho các cá nhân có nghóa vụ khấu trừ, nộp thay, đồng
thời gửi tới cơ quan thuế biểu báo cáo nộp thay thuế. Đối tượng nộp thuế có thu
nhập tiền lương, tiền công từ nhiều nơi chi trả thì đối tượng nộp thuế có nghóa vụ
tự khai báo nộp thuế.
Thời hạn nộp thuế đối với thu nhập của hộ công thương cá thể tính theo
năm và chia theo tháng để tạm nộp trước vào ngày 7 của tháng sau. Ba tháng sau
khi hết năm sẽ tổng hợp quyết toán, nếu thừa sẽ được Nhà nước hoàn lại, thiếu thì
nộp bù vào Ngân sách Nhà nước.
Đối với thu nhập từ hành nghề độc lập, nếu có thu nhập đều trong năm thì
sẽ chia thành số lần nộp theo tháng như hộ công thương cá thể, nếu thu nhập phát
sinh không đều đặn thì phải nộp thuế sau khi có thu nhập 30 ngày.

Thu nhập nhận được từ bên ngoài Trung Quốc, trong vòng 30 ngày sau khi
hết năm phải nộp khoản tiền thuế vào kho bạc và gửi báo cáo tới cơ quan thuế.

1.2.3. Chính sách thuế Thu nhập cá nhân tại Thái Lan
Thuế TNCN tại Thái Lan được triển khai từ năm 1939, trải qua nhiều lần
sửa đổi, bổ sung chính sách thuế này đã trở thành một sắc thuế quan trọng trong hệ
thống thuế của Thái Lan, với số thu chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trên tổng thu từ
thuế. Nội dung cơ bản của thuế TNCN hiện nay tại Thái Lan như sau:
* Đối tượng nộp thuế
Các cá nhân có tổng thời gian ở Thái Lan lớn hơn 180 ngày trong năm tính
thuế thì được coi là cư trú. Cá nhân cư trú sẽ phải chòu thuế TNCN đối với thu
nhập nhận được, không phân biệt thu nhập phát sinh ở trong nước hay ở nước


22
ngoài. Ngược lại, đối với cá nhân không cư trú, họ chỉ phải nộp thuế TNCN đối với
phần thu nhập phát sinh ở Thái Lan.
* Thu nhập chòu thuế
Thu nhập chòu thuế gồm cả thu nhập bằng tiền và thu nhập dưới hình thức
hiện vật hoặc hình thức khác phát sinh trong kỳ tính thuế. Luật thuế TNCN tại
Thái Lan quy đònh thu nhập chòu thuế gồm các loại sau:
Thu nhập từ tiền công, tiền lương; Thu nhập mang lại do tính chất công
việc, vò trí làm việc hoặc dòch vụ cung cấp; Thu nhập từ lợi thế thương mại, bản
quyền, thu nhập phát sinh đều đặn hàng năm từ các nguồn khác do pháp luật hoặc
tòa án quy đònh; Thu nhập từ lợi tức cổ phiếu, lãi tiền gửi ngân hàng, thu nhập
hoặc các lợi ích được chia từ các công ty có tư cách pháp nhân, thu nhập từ hoạt
động chuyển nhượng cổ phiếu; Thu nhập từ việc cho thuê tài sản, thu nhập lãi bán
hàng trả chậm hoặc từ các hợp đồng thuê mua tài sản; Thu nhập từ các hoạt động
xây dựng hoặc các công việc khác dưới dạng hợp đồng; Thu nhập từ hoạt động
kinh doanh, hoạt động thương mại, nông nghiệp, công nghiệp, vận tải và các hoạt

động khác chưa liệt kê ở trên.
* Thuế suất
Thuế suất thuế TNCN được thiết kế theo biểu thuế lũy tiến từng phần gồm
5 bậc, thấp nhất là miễn thuế đối với khoản thu nhập chòu thuế dưới 100.000 Bath.
Cao nhất là 37% đối với khoản thu nhập từ 4.000.000 Bath trở lên.
Thu nhập tính thuế trong biểu thuế là thu nhập được xác đònh sau khi đã trừ
đi các khoản khấu trừ như: giảm trừ cho người nộp thuế: 30.000 Bath; Vợ (chồng)
của người nộp thuế: 30.000 Bath; Con đẻ hoặc con nuôi dưới 25 tuổi còn phải nuôi
dưỡng: 15.000 Bath/người (tối đa 3 con); Trợ cấp phụng dưỡng cha mẹ:15.000
Bath/người.


23
Ngoài ra các khoản thu nhập từ việc bán bất động sản, thu nhập từ lãi tiền
gửi, lãi chứng khoán, trái phiếu, thu nhập từ cổ tức sẽ được đánh thuế theo những
tỷ lệ riêng biệt.
* Kê khai, nộp thuế
Người nộp thuế là đối tượng cư trú tại Thái Lan được cấp mã số thuế và
phải ghi trên tất cả các bảng kê khai thu nhập. Những công dân Thái Lan có số
chứng minh nhân dân sẽ dùng số chứng minh đó để ghi lên các bảng kê khai thuế.
Thuế TNCN ở Thái Lan được quản lý theo phương pháp khấu trừ tại nguồn.
Tùy theo từng loại thu nhập, tỷ lệ khấu trừ tại nguồn quy đònh khác nhau, đơn vò
chi trả thu nhập có trách nhiệm giữ lại các khoản thu nhập này và nộp cho cơ quan
thuế. Đối tượng nộp thuế sẽ được kê khai khấu trừ số thuế đã khấu trừ khi thực
hiện khai thuế phải nộp trong năm, nếu số thuế phải nộp lớn hơn số thuế đã khấu
trừ tại nguồn thì phải nộp bổ sung, nếu nhỏ hơn thì được hoàn thuế.
Thời hạn nộp tờ khai quyết toán thuế chậm nhất vào ngày 31/3 hàng năm
dựa trên thu nhập nhận được trong cả năm. Các cá nhân có thu nhập từ công việc
như luật sư, kiến trúc, kế toán, y tế, kinh doanh thương mại..v.v. thì trong khoảng
thời gian từ tháng 1 đến tháng 6 phải lập bảng kê khai cho nửa năm và đóng thuế

vào tháng 9 trong năm.

1.2.4. Nhận đònh chung về chính sách thuế TNCN các nước
Có thể nhận thấy rằng thuế TNCN là một sắc thuế đã được áp dụng khá lâu
và phổ biến tại các nước trên thế giới, từ những nước có nền kinh tế phát triển như
Mỹ, Pháp, Anh...đến các nước đang phát triển với điều kiện kinh tế-xã hội tương
đối giống Việt Nam như Trung Quốc, Thái Lan.... Chính sách thuế này đã phát huy
được vai trò của nó trong việc đảm bảo công bằng xã hội và đem lại nguồn thu cho
ngân sách cho dù việc triển khai tại hầu hết các nước đều gặp những khó khăn ban
đầu và chính sách thuế luôn phải bổ sung sửa đổi để ngày càng hoàn thiện. Do
điều kiện kinh tế-xã hội ở mỗi nước khác nhau, nên chính sách thuế TNCN được


24
xây dựng khác nhau, tuy nhiên, một số đặc tính cơ bản thể hiện bản chất của thuế
TNCN thì hầu hết các nước đều phản ánh trong chính sách thuế của mình. Qua
nghiên cứu chính sách thuế TNCN của các nước và kinh nghiệm áp dụng có thể
rút ra một số nhận đònh như sau:
- Về đối tượng nộp thuế: Các nước áp dụng nguyên tắc đánh thuế theo cư
trú, tức là các đối tượng được coi là cư trú tại nước sở tại sẽ phải nộp thuế đối với
các khoản thu nhập nhận được không phân biệt nguồn phát sinh thu nhập là ở
trong nước hay ngoài nước. Mỗi nước có một quy đònh khác nhau về đối tượng cư
trú, nhưng thường dựa vào các tiêu thức như thời gian sinh sống, có nhà ở, hay có
việc làm tại nước sở tại...
- Về thu nhập chòu thuế: Thu nhập chòu thuế là tổng thu nhập có được
(không bao gồm các khoản thu nhập miễn thuế) trừ đi tổng các khoản được giảm
trừ của đối tượng nộp thuế trong kỳ. Đa số các nước xác đònh thu nhập chòu thuế
và phân loại chúng theo nguồn hình thành gồm các loại chủ yếu như: Thu nhập từ
tiền lương, tiền công; Thu nhập từ kinh doanh; Thu nhập từ cho thuê tài sản,
chuyển nhượng tài sản, Thu nhập từ tiền lãi, cổ tức, các hoạt động góp vốn khác...;

Thu nhập khác do pháp luật quy đònh thuộc diện tính thuế.
Các khoản giảm trừ khi xác đònh thu nhập chòu thuế đều có trong chính sách
thuế của các nước, và mỗi nước có quy đònh riêng của mình về các khoản giảm trừ
này. Đây là một nội dung tương đối phức tạp khi xây dựng chính sách thuế TNCN,
nhìn chung, chính sách thuế của các nước đều có các khoản giảm trừ là các khoản
chi phí để tạo ra thu nhập và đảm bảo sinh hoạt thường xuyên của đối tượng nộp
thuế. Chế độ giảm trừ thường được xác đònh theo nguyên tắc giảm trừ cho bản
thân người nộp thuế, giảm trừ cho vợ/chồng không có thu nhập, giảm trừ để nuôi
con, bố mẹ hay người tàn tật, giảm trừ đối với một số khoản như chi từ thiện, phí
bảo hiểm, các chi phí hợp lý khác theo quy đònh...


×