Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Một số biện pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.67 KB, 74 trang )

Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Như bất kỳ một quốc gia nào, đối với đời sống kinh tế xã hội, thuế
đóng vai trò là công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý, điều tiết sản xuất
kinh doanh cũng như phân phối tiêu dùng, thúc đẩy kinh tế phát triển. Có
được một hệ thống chính sách thuế phù hợp, đồng bộ, hoàn thiện và luôn theo
kịp sự vận động phát triển của thực tiễn là điều kiện cần thiết và cấp bách.
Theo tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta trong quá trình vận hành, đổi mới
nền kinh tế đã rất chú trọng đến cải cách hệ thống thuế .
Hệ thống thuế về tính chất được chia thành hai loại: thuế trực thu và
thuế gián thu. Tùy vào điều kiện phát triển, phương thức sản xuất và kết cấu
xã hội ... của mỗi nước mà cơ cấu các khoản thu này có sự khác nhau. Hiện
nay, tại các nước phát triển có xu hướng coi trọng thuế gián thu trong khi đó
các nước đang phát triển lại có xu hướng ngược lại là coi trọng thuế trực thu
trong đó có Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là việc gia nhập
WTO trong thời gian tới, hệ thống thuế Việt Nam cần phải sửa đổi cho phù
hợp hơn nhằm mục tiêu đơn giản, dễ hiểu, đảm bảo công bằng, phù hợp với
các cam kết quốc tế.Với tinh thần đó Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã
được sửa đổi, bổ sung và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2004.
Luật thuế mới có nhiều thay đổi trong đó đảm bảo thống nhất việc áp
dụng thuế TNDN đối với mọi thành phần kinh tế, không phân biệt DNTN với
DN có vốn ĐTNN. Đây là một chủ trương rất quan trọng của Nhà nước tạo ra
bước tiến quan trọng trong lộ trình hướng tới xây dựng một luật thuế TNDN
thống nhất và hoàn chỉnh. Tuy nhiên, luật thuế mới bên cạnh những mặt tích
cực đã bộc lộ những hạn chế, bất cập cần xem xét và sửa đổi, bổ sung. Những
vướng mắc này đang tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp chịu tác động


của Luật thuế TNDN. Với lý do này em quyết định chọn đề tài nghiên cứu
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
của mình là: “Một số biện pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế thu
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay”. Trong đó có đánh giá tình hình
thực hiện chính sách thuế TNDN trong những năm qua, những mặt tích cực,
hạn chế của chính sách thuế mới và đưa ra một số giải pháp và điều kiện cần
thiết để thực hiện tốt các giải pháp nhằm mục đích phát huy hơn nữa vai trò to
lớn của thuế TNDN trong điều kiện nước ta hiện nay, đồng thời đóng góp một
phần vào công cuộc cải cách thuế của Việt Nam trong thời gian tới.
Cụ thể kết cấu của luận văn gồm ba chương như sau:
Chương 1: Lý luận chung về thuế thu nhập doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng áp dụng chính sách thuế thu nhập doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế thu
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Thuế là một lĩnh vực lớn nên việc tìm hiểu một cách toàn diện và sâu
sắc đòi hỏi phải có nhiều thời gian. Do trình độ còn hạn chế và thời gian hạn
hẹp nên em chỉ tập trung vào những vướng mắc xung quanh luật thuế mới
đang được thi hành hiện nay. Bởi vì đây là một sắc thuế rất quan trọng trong
hệ thống thuế ở nước ta. Luận văn chắc chắn sẽ không tránh khỏi sai sót đáng
tiếc, rất mong sự đóng góp của thầy cô, bạn bè và mọi người quan tâm.
Em xin chân thành cảm ơn !
Website:

Email :


Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ
THU NHẬP DOANH NGHIỆP
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm
Thuế ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển
của Nhà nước. Nó là một công cụ tài chính để tạo lập nguồn thu nhằm duy trì
hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trải qua quá trình phát triển và hoàn thiện lâu dài, tính đến hiện nay có
rất nhiều quan niệm về thuế với những góc độ nhìn nhận khác nhau.
- Các nhà kinh điển cho rằng: “ Thuế là cái mà Nhà nước thu của dân
nhưng không bù lại” và “thuế cấu thành nên phần thu của Chính phủ, nó được
lấy ra từ sản phẩm của đất đai và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế
được lấy ra từ tư bản hay thu nhập của người chịu thuế ”(Lênin toàn tập - tập
15)
- Theo quan điểm luật pháp: Thuế là khoản đóng góp theo quy định
của pháp luật mà Nhà nước bắt buộc mọi tổ chức và cá nhân phải có nghĩa vụ
nộp vào cho ngân sách Nhà nước.
- Trên góc độ phân phối thu nhập: Thuế là hình thức phân phối và
phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành
nên quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước (quỹ ngân sách Nhà nước) để
đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước.
- Có rất nhiều khái niệm khác nhau về thuế, song có khái niệm chung
nhất về thuế như sau:
Thuế là một phần thu nhập mà các cá nhân hoặc tổ chức đóng góp bắt
buộc cho Nhà nước để phục vụ nhu cầu và nhiệm vụ của Nhà nước, thuế thể
hiện mối quan hệ kinh tế cơ bản giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế và tầng
lớp dân cư.
Thuế mang bản chất giai cấp của Nhà nước. Sự khác nhau của Nhà
nước được thể hiện qua nội dung của việc thu thuế như : thu thuế của ai là chủ

Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
yếu, thu như thế nào, thu làm gì....Thuế còn thể hiện tính chất xã hội rộng rãi
bởi thuế thu đối với toàn dân, thuế liên quan đến mọi tổ chức, cá nhân trong
xã hội. Mọi người dân trong xã hội có nghĩa vụ đóng thuế đồng thời cũng có
quyền kiểm tra xem Nhà nước đã sử dụng các khoản đóng góp đó có hợp lý
không? Thuế là công cụ rất có hiệu lực để Nhà nước sử dụng để quản lý xã
hội và điều tiết nền kinh tế quốc dân. Thông qua các chính sách thuế, Nhà
nước sẽ tạo hành lang, môi trường để các tổ chức, cá nhân được bình đẳng
phát triển. Điều đó cho thấy việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống thuế ngày
càng khoa học, đơn giản, dễ hiểu là vấn đề rất quan trọng và cần thiết.
Để làm rõ hơn bản chất của thuế, chúng ta cần tìm hiểu những đặc điểm
của thuế sau đây:
Thứ nhất: Tính cưỡng chế và tính pháp lý cao
Đặc điểm này được thể chế hoá trong hiến pháp của mỗi quốc gia.
Trong các quốc gia, việc đóng thuế cho Nhà nước được coi là một trong
những nghĩa vụ bắt buộc của các tổ chức kinh tế và công dân cho Nhà nước.
Các tổ chức kinh tế và công dân thực hiện nghĩa vụ thuế theo các luật thuế cụ
thể được cơ quan quyền lực tối cao ở quốc gia đó quy định phù hợp với các
hoạt động và thu nhập của từng tổ chức kinh tế và công dân. Tổ chức hoặc cá
nhân nào không thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình, tức là họ đã vi phạm
pháp luật của quốc gia đó.
Đặc điểm này phân biệt sự khác nhau giữa thuế với các khoản đóng
góp mang tính tự nguyện cho ngân sách Nhà nước và thuế đối với các khoản
vay mượn của Chính phủ.
Thuế là biện pháp tài chính mang tính chất bắt buộc của Nhà nước,
nhưng sự bắt buộc đó luôn được xác lập dựa trên nền tảng của các vấn đề kinh

tế, chính trị, xã hội trong nước và quan hệ kinh tế thế giới.
Thứ hai: Thuế là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp
Khác với các khoản vay, Nhà nước thu thuế từ các tổ chức kinh tế và
các cá nhân nhưng không phải hoàn trả lại trực tiếp cho người nộp thuế sau
một khoảng thời gian với một khoản tiền mà họ đã nộp vào Ngân sách Nhà
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
nước. Số tiền thuế thu được, Nhà nước sẽ sử dụng cho các chi tiêu công cộng,
phục vụ cho nhu cầu của Nhà nước và của mọi cá nhân trong xã hội. Mọi cá
nhân, người có nộp thuế cho Nhà nước cũng như người không nộp thuế,
người nộp nhiều cũng như người nộp ít, đều bình đẳng trong việc nhận được
các phúc lợi công cộng từ phía Nhà nước. Số thuế mà các đối tượng phải nộp
vào cho Nhà nước, được tính toán không dựa trên khối lượng lợi ích công
cộng họ nhận được mà dựa trên những hoạt động cụ thể và thu nhập của họ.
Đặc điểm này cũng phân biệt giữa thuế với phí và lệ phí.
1.1.2. Phân loại thuế và yếu tố cấu thành của một sắc thuế
1.1.2.1. Phân loại thuế
• Phân loại thuế dưới góc độ người nộp thuế và người chịu thuế :
(Người nộp thuế là các cá nhân, tổ chức (thể nhân hay pháp nhân) trực tiếp
đứng ra nộp thuế cho Nhà nước, người chịu thuế là người có thu nhập bị giảm
đi do nộp thuế cho Nhà nước)
+ Thuế trực thu : Thuế trực thu là thuế mà người nộp thuế cũng đồng
thời là người chịu thuế. Điển hình của thuế trực thu là thuế Thu nhập doanh
nghiệp, thuế Thu nhập cá nhân, thuế Tài sản...Căn cứ vào mức thuế được quy
định trong biểu thuế người nộp thuế tính một phần thu nhập của mình để trực
tiếp nộp cho Nhà nước.
+ Thuế gián thu: Là thuế mà người nộp thuế không phải là người chịu

thuế. Điển hình của thuế gián thu là thuế Doanh thu, thuế Giá trị gia tăng,
thuế Xuất khẩu, Nhập khẩu... Đối với loại thuế này, đối tượng nộp thuế là các
tổ chức sản xuất hoặc kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và người chịu thuế là
người tiêu dùng. Thuế gián thu điều tiết một phần thu nhập của người tiêu
dùng hàng hóa, dịch vụ nên thuế được tính vào cơ cấu giá của hàng hóa, dịch
vụ mà người mua phải trả. Như vậy, thuế gián thu tạo điều kiện cho người
chịu thuế lựa chọn các loại hàng hóa, dịch vụ trước khi quyết định tiêu dùng,
đảm bảo tính tự nguyện khi chịu thuế.
• Phân loại theo đối tượng thuế:
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
+ Đối tượng thuế là giá trị hàng hoá: Thuế TTĐB, thuế GTGT, Thuế
nhập khẩu, thuế xuất khẩu.
+Đối tượng thuế là thu nhập: Thuế TNCN, thuế TNDN
+Đối tượng thuế là hoạt động (thuế đánh vào hoạt động): thuế Môn bài
đối với hoạt động kinh doanh, thuế Tài nguyên đối với hoạt động khai thác tài
nguyên.
1.1.2.2. Các yếu tố cấu thành nên một sắc thuế và những vấn đề chính
của một chính sách thuế
• Các yếu tố cấu thành nên một sắc thuế chính là thể hiện nội dung cơ
bản của sắc thuế đó, bao gồm:
- Tên gọi của sắc thuế : mỗi sắc thuế có một tên gọi riêng. Thông
thường tên gọi của mỗi sắc thuế thể hiện đối tượng tác động của sắc thuế hoặc
mục tiêu của việc áp dụng sắc thuế đó. Ví dụ, thuế “Giá trị gia tăng” cho ta
thấy loại thuế này tính trên phần giá trị tăng thêm (giá trị gia tăng) của hàng
hoá và dịch vụ, thuế “Thu nhập doanh nghiệp” tính trên tổng các khoản thu
nhập của doanh nghiệp, thuế “Tiêu thụ đặc biệt” đánh vào hàng hóa và dịch

vụ đặc biệt, thuế “Xuất, nhập khẩu” tác động vào các hàng hóa xuất, nhập
khẩu qua biên giới.
- Đối tượng nộp thuế : Là tổ chức kinh tế hoặc cá nhân có trách nhiệm
phải kê khai và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và ngân sách Nhà nước theo các
quy định cụ thể trong mỗi sắc thuế. Đối tượng nộp thuế thể hiện phạm vi áp
dụng của một chính sách thuế cụ thể. Trong hệ thống chính sách thuế của
nước ta hiện nay, có những sắc thuế có phạm vi rất rộng như thuế Giá trị gia
tăng, thuế Môn bài; nhưng cũng có những sắc thuế có phạm vi áp dụng hẹp
như thuế Chuyển quyền sử dụng đất, thuế Xuất, Nhập khẩu. Có những đối
tượng nộp thuế chỉ kê khai và nộp một loại thuế, song cũng có những đối
tượng, trong một thời gian phải nộp nhiều loại thuế khác nhau (thuế Giá trị
gia tăng, thuế Thu nhập doanh nghiệp, thuế Nhập khẩu), điều đó hoàn toàn
tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
- Cơ sở thuế: Là đối tượng tác động của một chính sách thuế.
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Tuỳ theo mục đích và tính chất của từng sắc thuế, cơ sở thuế có thể là các
khoản thu nhập nhận được trong một thời gian nhất định của một tổ chức kinh
tế hoặc một cá nhân, tổng giá trị tài sản do tổ chức kinh tế hoặc cá nhân đó
nắm giữ, tổng trị giá một lô hàng hóa hoặc một lượng giá trị nhất định của
hàng hóa, dịch vụ....
- Thuế suất: Là yếu tố quan trọng nhất của một sắc thuế. Có thể nói
thuế suất là linh hồn của một sắc thuế. Nó phản ánh mức độ điều tiết trên một
cơ sở thuế. Do đó, thuế suất thể hiện quan điểm của Nhà nước về yêu cầu
động viên nhằm khuyến khích hay không khuyến khích sự phát triển của một
ngành nghề, một loại sản phẩm cụ thể nào đó. Thuế suất là mức thu được ấn
định trên một cơ sở thuế bằng những phương pháp tính toán thích hợp.

• Những vấn đề chính của một chính sách thuế
Có thể hiểu chính sách thuế là một hệ thống các biện pháp của từng
Nhà nước trong lĩnh vực thuế được tiến hành vì lợi ích của giai cấp thống trị.
Nó là bộ phận quan trọng nhất trong chính sách kinh tế của Nhà nước. Chính
sách thuế được thể hiện ở việc tổ chức đánh thuế, phương thức thu thuế, thuế
suất, ưu đãi về thuế...Thông qua chính sách thuế mà Nhà nước tác động tới
quá trình sản xuất xã hội, tới phân phối, tới tiêu dùng của các tầng lớp dân cư
và tác động tới các hoạt động khác của xã hội. Tuy nhiên, khi lựa chọn một
chính sách thuế đòi hỏi những nhà đặt ra chính sách phải phân tích những ảnh
hưởng khác nhau của công cụ thuế, để trên cơ sở đó có thể lựa chọn được một
chính sách thuế cao hoặc thấp đều có ảnh hưởng tới giá cả hoặc cơ cấu đầu tư
và ảnh hưởng của nó phụ thuộc vào phản ứng của công chúng đối với những
thay đổi về thuế. Do vậy khi lựa chọn chính sách thuế cần phân tích các yếu
tố cấu thành của Thuế như: đối tượng chịu thuế, người nộp thuế, mức thuế
suất, các ưu đãi về thuế và mối quan hệ giữa các yếu tố đó trong chính sách
thuế.
Ưu đãi về thuế: Những quy định của Nhà nước cho phép những người
chịu thuế được hưởng thuế suất có lợi hơn những người chịu thuế khác trong
cùng điều kiện, gọi là ưu đãi về thuế.
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Ưu đãi về thuế được coi như là một phần trong chính sách khuyến
khích phát triển của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định. Cùng với các
chính sách khuyến khích khác của Nhà nước đối với phát triển kinh tế xã hội
nói chung, chính sách ưu đãi về thuế có tác động tích cực tới hoạt động đầu tư
để phát triển sản xuất, kích thích tiêu dùng, đảm bảo công bằng xã hội, và
thực hiện các mục tiêu khác của Nhà nước. Nhà nước khuyến khích về thuế

thường được ban hành dưới những hình thức như: giảm thuế suất, miễn thuế
cho một số thu nhập nhất định nào đó và những khấu trừ đặc biệt từ thu nhập
chịu thuế.
Trong từng giai đoạn nhất định, các quốc gia khác nhau đều có thái độ
khác nhau với khuyến khích về thuế. Với các nước đang phát triển thường đặt
ra những khuyến khích với mục đích thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, bằng
việc áp dụng thuế suất thấp đối với các hoạt động của các tổ chức có vốn đầu
tư nước ngoài so với các tổ chức trong nước. Còn các quốc gia đã phát triển
thường không có những khuyến khích cho đầu tư nước ngoài vào nước họ,
nhưng họ lại áp dụng những khuyến khích đầu tư trong nước bằng việc áp
dụng mức thuế suất thấp đối với một số ngành, một số lĩnh vực mà Nhà nước
cần khuyến khích phát triển để thu hút đầu tư về ngành đó.Ví dụ miễn trừ
thuế cho hoạt động nghiên cứu khoa học và áp dụng công nghệ mới, miễn trừ
thuế trong nông nghiệp.
Tóm lại, ở các quốc gia khác nhau, Nhà nước sử dụng các hình thức ưu
đãi khác nhau tuỳ theo lĩnh vực ưu tiên và đòi hỏi thực tế của nước đó trong
từng thời kỳ nhất định.
Bên cạnh những ưu điểm, việc sử dụng ưu đãi về thuế cũng có những
hạn chế nhất định như nó làm cho hệ thống thuế thêm phần phức tạp, thu hẹp
diện chịu thuế, và giảm thuế, gây khó khăn cho công tác quản lý thuế và trên
một giác độ nhất định còn hạn chế sự cạnh tranh và phát triển sản xuất của
các doanh nghiệp. Nên việc áp dụng các ưu đãi về thuế phải rất linh hoạt, khi
mục đích chính sách đã đạt được thì Nhà nước phải chấm dứt ngay việc sử
dụng các ưu đãi về thuế. Với các nước đang phát triển, cần phải xây dựng hệ
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
thống ưu đãi về thuế phù hợp để vừa thu hút được vốn đầu tư nước ngoài mà

vẫn khuyến khích được đầu tư trong nước.
1.2. THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm
Thuế thu nhập công ty trên thế giới hay thuế TNDN ở Việt Nam là một
sắc thuế thuộc loại thuế thu nhập, nó được hầu hết các quốc gia trên thế giới
sử dụng vì tính hiệu quả và khả năng bao quát nguồn thu. Mỗi nước với
những đặc điểm kinh tế - chính trị - xã hội khác nhau mà quan niệm và cách
thức áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp là khác nhau. Tuy nhiên, có thể đưa
ra một khái niệm được pháp luật Việt Nam và nhiều nước khác thừa nhận :
Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu đánh vào phần thu nhập sau
khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến thu nhập đó.
Ngoài những đặc điểm chung của thuế là có tính cưỡng chế và tính
pháp lý cao, là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp. Thuế thu
nhập doanh nghiệp còn có một số đặc điểm riêng cụ thể là:
- Thuế TNDN là loại thuế trực thu : vì đối tượng nộp thuế và đối
tượng chịu thuế TNDN là một, tức là không có sự chuyển giao gánh nặng
thuế từ người nộp thuế sang người chịu thuế.
- Là loại thuế đánh vào lợi nhuận của các cơ sở sản xuất kinh doanh:
Bởi vậy, mức động viên của NSNN đối với loại thuế này phụ thuộc rất lớn
vào hiệu quả kinh doanh cũng như quy mô lợi nhuận của doanh nghiệp,
Doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế cao sẽ phải nộp thuế nhiều, ngược lại
những doanh nghiệp có thu nhập thấp hoặc gặp khó khăn sẽ phải nộp thuế ít
thậm chí được giảm thuế, miễn thuế.
- Chỉ đánh vào phần thu nhập còn lại sau khi đã trừ đi chi phí liên
quan để tạo ra thu nhập đó.
- Về nguyên tắc, thuế có tính chất luỹ tiến. Tuy nhiên, do những điều
kiện cụ thể mà một số nước trong đó có Việt Nam áp dụng thuế suất thống
nhất.
Website:


Email :

Tel : 0918.775.368
1.2.2. Vai trò của thuế Thu nhập doanh nghiệp
Bản chất của thuế TNDN là thuế đánh vào lợi nhuận của doanh nghiệp.
Điều này gây ra nhiều tranh luận của các nhà kinh doanh trên thế giới về sự
tồn tại của sắc thuế này. Cùng một khoản thu nhập từ vốn nhưng khoản thu
nhập có được từ vốn góp vào các công ty cổ phần sẽ phải chịu điều tiết bởi
hai khoản thuế là thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Trong
khi đó cũng khoản thuế này nếu đầu tư vào khu vực phi doanh nghiệp thì thu
nhập từ vốn chỉ phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Tuy nhiên, trong nền kinh tế
thị trường ở nhiều nước đặc biệt là các nước đang phát triển như nước ta thì
sự tồn tại của thuế thu nhập doanh nghiệp là tất yếu khách quan bởi những vai
trò sau đây của nó:
Thứ nhất: Thuế thu nhập doanh nghiệp là nguồn thu quan trọng của
NSNN. Điều này được thể hiện bởi phạm vi áp dụng thuế TNDN là rất rộng.
Nó khai thác nguồn thu từ các đối tượng nộp thuế có tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh đem lại thu nhập ở mọi lĩnh vực, trên mọi địa bàn. Mặt khác,
cùng với xu hướng tăng trưởng kinh tế, quy mô của các hoạt động kinh doanh
này ngày càng được mở rộng, hiệu quả kinh doanh ngày càng cao, tích luỹ từ
nội bộ doanh nghiệp ngày càng nhiều sẽ tạo nguồn thu về thuế thu nhập
doanh nghiệp cho ngân sách quốc gia ngày càng lớn.
Thứ hai : Thuế TNDN là công cụ quan trọng của Nhà nước trong việc
điều tiết nền kinh tế thông qua hệ thống thuế suất ưu đãi và các chế độ miễn,
giảm góp phần định hướng cho các nhà đầu tư trong nhiều ngành, lĩnh vực mà
Nhà nước cần khuyến khích đầu tư nhằm đảm bảo cơ cấu kinh tế hợp lý theo
ngành và theo địa bàn. Thuế thu nhập doanh nghiệp còn góp phần thúc đẩy
SXKD phát triển thông qua các hình thức hỗ trợ về thuế đối với các cơ sở mới
thành lập hoặc các cơ sở gặp khó khăn trong kinh doanh.
1.2.3. Nội dung cơ bản của thuế Thu nhập doanh nghiệp.

1.2.3.1. Xác định thu nhập chịu thuế của công ty
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Hiện nay, ở hầu hết các quốc gia việc xác định thu nhập chịu thuế của
công ty dựa theo hai tiêu thức: thường trú và xuất xứ.
• Đánh thuế dựa trên cơ sở thường trú:
Đa số các nước dùng hình thức đánh thuế dựa trên cơ sở thường trú,
đặc trưng của hình thức này là : đối tượng nộp thuế được chia thành đối tượng
thường trú và đối tượng không thường trú.
+ Đối tượng thường trú ở một nước bị đánh thuế trên mọi nguồn thu
nhập bao gồm thu nhâp phát sinh tại nước đó và thu nhập ở nước ngoài.
+ Đối tượng không thường trú ở một nước chỉ bị đánh thuế trên thu
nhập phát sinh tại nước đó.
Ví dụ: công ty A không thường trú ở nước B thì phải chịu thuế thu
nhập của nước B trên số thu nhập phát sinh tại nước B.
Vì đối tượng thường trú bị đánh thuế khác đối tượng không thường trú,
nên phân biệt rõ một công ty là thường trú hay không thường trú ở một quốc
gia nào đó là rất quan trọng. Khái niệm công ty thường trú ở các nước khác
nhau có sự khác nhau. ở Mĩ, Nhật, Thái Lan, Indonesia,...cho rằng công ty
thường trú là công ty được thành lập và hợp nhất ở nước họ. Ở Malaysia,
Singapo,....công ty thường trú là công ty mà việc quản lý và điều hành trung
ương(đầu não) được thực hiện ở các nước này. Ở Anh, Đức, Úc, ... họ định
nghĩa công ty thường trú là công ty được hợp nhất hoặc là được quản lý và
điều hành ở nước của họ.
Việc xác định một công ty được thành lập và hợp nhất ở đâu là tương
đối đơn giản. Song việc nhận biết ra nơi công ty đặt sự quản lý và điều hành
chính là khó khăn hơn, nhất là đối với công ty có phạm vi hoạt động ở nhiều

nước. Trong trường hợp này các chuyên gia thuế thường tập trung vào nơi mà
các quyết định được đặt ra và cũng thường là nơi hội họp của ban giám đốc.
Xu hướng hiện nay người ta thiên về định nghĩa theo cách kết hợp cả hai tiêu
thức : sự hợp nhất và quản lý điều hành trung ương của công ty.
• Đánh thuế dựa trên xuất xứ của nguồn thu nhập
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Theo cách đánh thuế dựa trên nguồn phát sinh thu nhập thì chỉ những
thu nhập của công ty phát sinh trên lãnh thổ do công ty kinh doanh mới chịu
sự đánh thuế thu nhập. Trong bối cảnh hiện nay, với sự mở rộng các công ty
đa quốc gia (công ty đăng ký tại một nước nhưng hoạt động rộng rãi ở nhiều
nước) việc đánh thuế thu nhập công ty dựa trên nền móng xuất xứ không còn
phù hợp, nó làm thu hẹp khả năng điều chỉnh của luật thuế thu nhập công ty.
Do vậy hình thức này chỉ được áp dụng tại các nước thuộc địa, hoặc các nước
thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài còn bản thân nước đó ít đầu tư ra nước
ngoài khác như Hồng Kông, Macao, Bruney...
Thu nhập chịu thuế thông thường theo luật các nước trên thế giới chia
ra làm hai loại thuế thu nhập là thu nhập từ kinh doanh và thu nhập từ đầu tư.
Thu nhập từ kinh doanh được xác định là khoản thu nhập tính được sau khi đã
trừ đi mọi chi phí. Còn thu nhập từ đầu tư là tiền lãi cho vay, lợi tức cổ
phần,...Trên cơ sở phân loại đó mà người ta phân biệt thuế suất riêng đối với
thu nhập chịu thuế từ kinh doanh và thu nhập chịu thuế từ hoạt động đầu tư.
Ngoài ra, nhiều nước còn đánh thuế trên hoa lợi từ chuyển nhượng tài sản và
các thu nhập khác.
 Đối với thu nhập từ kinh doanh
Thu nhập từ kinh doanh hay lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
được xác định bằng doanh thu từ hoạt động kinh doanh trừ đi chi phí được trừ

khi tính thuế TNCT.
+Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là toàn bộ khoản thu về bán
hàng và dịch vụ, các khoản lãi ròng thu được từ những tài sản mà công ty nắm
giữ và các khoản thu nhập khác.
+ Chi phí được khấu trừ trong thu nhập chịu thuế, mỗi yếu tố khấu trừ
đều có hiệu quả trực tiếp tới thu nhập chịu thuế. Thực chất thuế thu nhập công
ty là đánh vào lợi nhuận của công ty. Tâm lý chung các công ty muốn giảm
thu nhập chịu thuế bằng cách khai tăng chi phí. Do đó tất cả các quốc gia khi
xây dựng chính sách thuế TNCT đều quan tâm đến các khoản chi phí được
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
khấu trừ. Vì vậy, điều quan trọng đặt ra là cần phải có ngay quy định rõ ràng
trong luật thuế những chi phí nào được khấu trừ hoặc không được khấu trừ
khi kê khai thuế.
Có bốn nguyên tắc đề ra khi xác định các khoản chi phí được khấu trừ
trong thuế TNCT:
Một là, các khoản chi phí được khấu trừ phải là những khoản chi phí có
quan hệ tới doanh nghiệp hay nói cách khác các chi phí phải liên quan trực
tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và việc tạo ra thu
nhập của công ty.
Hai là, các chi phí được khấu trừ phải là những chi phí thực sự đươc chi
ra trong điều kiện thời gian và không gia nhất định.
Ba là, các khoản chi phí được miễn trừ phải là những khoản chi phí có
tính thu nhập hơn là tính vốn. Các khoản chi phí có tính vốn là những khoản
chi phí có liên quan đến cơ cấu vốn.
Bốn là, mức trả cho chi phí phải dựa trên cơ sở định mức hợp lý bao
gồm toàn bộ các khoản chi phí về lao động, chi phí về vật tư, khấu hao TSCĐ,

trả lãi vay, thuế và các chi phí hợp lý khác.
Mặc dầu, có những nguyên tắc chung để xác định các khoản chi phí
được khấu trừ, song trong thực tế có những khoản chi phí không nằm trong
các nguyên tắc trên, nhưng với xu hướng phát triển cần phải xem xét khi đánh
thuế TNCT. Nhiều khoản chi phí có được khấu trừ khỏi thu nhập chịu thuế
hay không vẫn còn là những vấn đề tranh luận ở nhiều quốc gia. Chẳng hạn,
tiền lương của công nhân được khấu trừ khỏi thu nhập chịu thuế, nhưng tiền
lương của chủ sở hữu, chi phí cơ hội của dịch vụ do chủ cung cấp có được
khấu trừ vào thu nhập chịu thuế hay không? Các cổ đông là những người
cung cấp vốn cho công ty, vậy lợi tức cổ phần hay chi phí cơ hội của những
khoản vốn đó có được khấu trừ khỏi thu nhập chịu thuế hay không? Khi đó,
lãi thu được của các trái chủ lại được khấu trừ khỏi thu nhập chịu thuế.
Các trường hợp thường được đưa ra bàn luận xung quanh việc nên cho
khấu trừ hay không cho khấu trừ khi tính vào thu nhập chịu thuế:
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
- Chi phí dự phòng: là khoản chi dự trù để sẵn ra nhằm phải trả trong
tương lai. Hầu hết các quốc gia đều cho phép khấu trừ chi phí này trước khi
tính thuế TNCT, vì những chi phí này là hết sức cần thiết trong quá trình kinh
doanh của công ty. Để thoả mãn nguyên tắc chi phí được khấu trừ phải là chi
phí thật sự được chi ra, thì chi phí dự phòng chỉ được khẩu trừ khi thoả mãn
điều kiện là khoản chi này phải đặc biệt rõ ràng, dự đoán chi phí phải trả một
cách chính xác và nó được tiên đoán là nhất định sẽ xẩy ra trong tương lai vì
trong quá khứ đã từng có.
- Nợ khó đòi: khi một công ty cho khách hàng mua chịu, thường có
một số ít khách hàng không trả nợ. Các khoản tiền của khách hàng này được
coi là nợ khó đòi và được coi là khoản chi phí của phương thức bán chịu. Lý

do có khoản nợ khó đòi này về phía người bán nhằm mục đích tăng doanh số
và lợi nhuận. Do đó mất mát vì nợ khó đòi là một khoản chi phí của bên bán
chịu, một loại chi phí phát sinh nhằm mục đích làm tăng doanh thu. Tuy
nhiên, chỉ cho phép khấu trừ các khoản nợ khó đòi nếu nó thực sự đã xẩy ra
trong trường hợp con nợ bị phá sản và giấy tờ chứng minh cụ thể.
- Chi phí trả lãi tiền vay: Đối với khoản chi phí này hiện nay có hai
quan điểm. Có quan điểm cho rằng chi phí trả lãi tiền vay là chi phí mang tính
thu nhập nên được phép khấu trừ. Có quan điểm cho rằng chi phí trả lãi tiền
vay, đặc biệt là đối với khoản vay dài hạn thì chi phí có tính chất vốn nên
không được phép khấu trừ trước khi tính thuế thu nhập công ty.
- Lỗ : Công ty phải nộp thuế thu nhập khi có lợi nhuận, vậy khi có lỗ
thì phải xem xét họ có được trừ lỗ hay không. Nói chung, quan điểm trừ lỗ
đều được áp dụng ở các nước, lý do mà mọi người thừa nhận là trong kinh
doanh phải có rủi ro vì vậy rủi ro phải được trừ. Trừ lỗ có nhiều cách: cho trừ
có giới hạn năm hoặc không có giới hạn; cho trừ vào những năm trước có
khống chế thời gian hoặc cho trừ vào những năm sau ... tuỳ vào trình độ quản
lý và đánh giá các khoản lỗ mà các nước đã áp dụng.
- Khấu hao TSCĐ: là một yếu tố của chi phí, nhưng được phân bổ
như thế nào trong từng năm khi tính thu nhập chịu thuế. Về nguyên tắc, tỷ lệ
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
khấu hao TSCĐ nhằm mục đích tích luỹ và tính thuế tương ứng với vòng đời
kinh tế hữu dụng của tài sản, nhưng thực tế ở nhiều quốc gia, khấu hao đưa
vào chi phí để tính thuế thường không tương ứng với vòng đời hữu dụng của
tài sản.
Các khoản thuế phải trả, thông thường người ta chia làm hai loại:
+ Đối với thuế TNCT thì không được coi là chi phí khấu trừ vì nó

không phải là khoản chi phí cho mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
+ Đối với các khoản thuế gián thu về nguyên tắc phải khấu trừ khỏi thu
nhập chịu thuế, nhưng thể hiện việc khấu trừ đó như thế nào lại tùy thuộc vào
chính sách thuế và chế độ kế toán mỗi quốc gia. Chẳng hạn thuế giá trị gia
tăng (VAT), nếu quan niệm VAT đầu vào là tiền thuế công ty phải trả khi
mua hang, VAT đầu ra là tiền thuế công ty thu được khi bán hàng, thì VAT
phải nộp ngân sách Nhà nước là một yếu tố chi phí khấu trừ khỏi thu nhập
chịu thuế. Nhưng quan niệm VAT là khoản thuế tính trên hàng hóa, người
tiêu dùng phải chịu khoản thuế này thì VAT đầu vào không phải là chi phí
thật, VAT đầu ra sẽ là khoản thu hộ của công ty và VAT phải nộp không đưa
vào chi phí khi tính thu nhập chịu thuế.
+ Một số khoản chi phí khác như chi phí quảng cáo, chi phí hội nghị,
tiếp tân, tiếp khách ... định mức bao nhiêu là hợp lý chỉ mang tính chất ước lệ.
Đối với thu nhập từ đầu tư
- Thu nhập từ lãi cổ phần : Lãi cổ phần được chia lợi nhuận do đầu tư
mua cổ phiếu của một công ty, nghĩa là lãi cổ phiếu đã bị đánh thuế một lần
rồi. Vì vậy, để hạn chế việc đánh thuế trùng người ta đưa ra nhiều phương án
đánh thuế:
+ Phương án đơn giản nhất là không đánh thuế thu nhập đối với loại thu
nhập này. Trừ Hồng Kông, hầu hết các nước không áp dụng phương án này.
+ Phương án miễn thuế từng phần trên thu nhập dưới hình thức lợi tức
cổ phần. Theo phương án này lợi tức cổ phần được chia ra hai phần, một phần
chịu thuế và một phần được miễn thuế.Ví dụ, ở Đài Loan 80% lãi cổ phần
nhận từ công ty khác được miễn thuế và 20% còn lại phải chịu thuế.
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
- Tiền lãi cho vay và tiền bản quyền: Ở hầu hết các nước, tiền lãi cho

vay và tiền bản quyền phải chịu thuế theo thuế suất thông thường như thu
nhập từ kinh doanh. Tuy nhiên, trong một số trường hợp lãi cho vay vẫn được
miễn thuế nhằm khuyến khích như tiền lãi từ công trái Chính phủ hay trên
một số khoản đóng quỹ tiết kiệm được Nhà nước công nhận để khuyến khích
việc đầu tư vào các quỹ hay công trái đó, Ví dụ: Malaysia, Trung Quốc...Tiền
bản quyền cũng được miễn giảm thuế trong một số trường hợp nhằm khuyến
khích công nghệ.
- Đối với khoản thu nhập từ nước ngoài: Hầu hết, các nước căn cứ
vào nền tảng đánh thuế thu nhập là thướng trú hay xuất xứ để xác định là
khoản thu nhập chịu thuế hay không. Ngoài ra, người ta dựa vào điều khoản
các hiệp định ký kết song phương hay đa phương để xem xét.
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
1.2.3.2. Thuế suất
Mức thuế suất thuế TNCT được xác định trên cơ sở mức thu nhập của
công ty, yêu cầu tạo nguồn thu cho ngân sách và điều tiết thu nhập giữa các
công ty. Thông thường ở các quốc gia, người ta sử dụng đồng thời 3 loại thuế
suất là thuế suất tỷ lệ cố định, thuế suất luỹ tiến và thuế suất lũy thoái trên
từng đối tượng chịu thuế khác nhau để tính thuế TNCT. Tuy nhiên, ở một số
nước người ta chỉ sử dụng một loại thuế suất tỷ lệ cố định.
1.2.3.3. Các ưu đãi về thuế.
Rất nhiều các nước sử dụng công cụ ưu đãi thuế cho các mục đích kinh
tế và xã hội khác nhau. Các nước đang phát triển thường giảm thuế đối với
đầu tư nước ngoài như Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc... Các nước phát triển
thì không ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài, nhưng cũng dùng ưu đãi thuế để
khuyến khích dân chúng đầu tư vào một số ngành và một số vùng nhất định
nào đó hoặc vào sản xuất hàng xuất khẩu hay đầu tư nước ngoài. Cũng có

những nước như Mỹ hoàn toàn không sử dụng các ưu đãi về thuế.
Các ưu đãi về thuế có nhiều hình thức khác nhau. Nhưng thông thường
được thể hiện qua việc giảm thuế suất (Singapo: thuế suất giảm đến 16% đối
với công nghiệp dầu khí), miễn giảm thuế đối với một số thu nhập nào đó
(như đối với lãi từ công trái ở Malaysia) hay cho phép khấu trừ những khoản
đặc biệt từ thu nhập chịu thuế (như đối với khoản đóng góp từ thiện ở Hồng
Kông).
1.3. Vấn đề cần quan tâm khi xây dựng chính sách thuế TNDN
Thuế TNDN không chỉ được coi là một sắc thuế quan trọng trong hệ
thống thuế ở nước ta, là nguồn thu lớn của ngân sách Nhà nước, mà nó còn là
công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu của
Nhà nước trong từng thời kỳ. Trong đó xây dựng chính sách thuế TNDN là
việc xây dựng một hệ thống các biện pháp của từng Nhà nước trong lĩnh vực
thuế TNDN. Nó là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế của Nhà
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
nước. Chính sách thuế thể hiện ở cách xác định phạm vi điều chỉnh của thuế,
thuế suất, việc áp dụng chế độ miễn giảm thuế, chế độ ưu đãi thuế suất…
Thông qua đó Nhà nước sẽ tác động tới mọi hoạt động kinh tế nhằm đạt được
các mục tiêu đã đề ra trong một giai đoạn nhất đinh. Chính vì vậy, khi xây
dựng chính sách thuế TNDN cần phải nắm rõ mục tiêu của giai đoạn tới để
có những sửa đổi, bổ sung phù hợp và hiệu quả. Trong đó, có một số vấn đề
cần quan tâm trong quá trình xây dựng chính sách thuế TNDN như sau:
Thứ nhất, xác định đúng đắn phạm vi điều chỉnh của thuế TNDN
Điều quan trọng trước hết trong việc sử dụng cơ chế, chính sách thuế
TNDN phục vụ cho mục tiêu quản lý của Nhà nước là cần xác định rõ phải
điều tiết khoản thu nhập nào thông qua thuế TNDN. Đối với những khoản thu

nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh mà Nhà nước cần khuyến khích phát
triển thì có thể không điều tiết hoặc điều tiết ít hơn (chẳng hạn như, Nhà nước
miễn thuế TNDN cho khoản thu nhập có được từ hoạt động nghiên cứu triển
khai của các doanh nghiệp). Còn đối với những khoản thu nhập có được từ
hoạt động, những lĩnh vực không cần khuyến khích phát triển thì có thể điều
tiết cao. Tuỳ thuộc vào thể chế chính trị, trình độ quản lý, khả năng đóng góp,
hiệu quả thu thuế, chính sách ưu đãi kinh tế, xã hội mà Luật thuế TNDN
thường loại bớt hay nói cách khác khoanh vùng phạm vi điều chỉnh, tức là xác
định những đối tượng được miễn trừ thuế TNDN. Tất nhiên ở mỗi một quốc
gia khác nhau việc xác định diện miễn trừ thuế không giống nhau và ngay
chính trong một quốc gia ở các giai đoạn khác nhau phạm vi miễn trừ thuế
cũng được xác định khác nhau.Việc xác định đối tượng miễn trừ thuế được
quyết định bằng một điều luật với thuật ngữ: “đối tượng không thuộc diện
chịu thuế”.
Thứ hai, xác định thuế suất thuế TNDN phù hợp.
Việc xác định thuế suất phù hợp là rất quan trọng. Một mặt, thuế suất
phù hợp sẽ đảm bảo cả quyền lợi của Nhà nước lẫn người nộp thuế, từ đó
khuyến khích họ phát triển sản xuất, kinh doanh. Mặt khác, thuế suất phù hợp
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp có tiềm lực tài chính đứng vững trong cạnh
tranh một cách lâu dài.
Thứ ba, áp dụng thuế suất thuế TNDN phân biệt.
Đây là phương thức áp dụng thuế suất khác nhau cho những đối tượng
nộp thuế khác nhau, có thể phân biệt theo ngành nghề, theo sản phẩm hoặc
theo khu vực. Thường thì các ngành, khu vực cần khuyến khích kinh doanh
theo chiến lược phát triển của Nhà nước sẽ được áp dụng mức thuế suất thấp

hơn thuế suất áp dụng cho các đối tượng khác(thuế suất ưu đãi). Về nguyên
tác, thuế suất ưu đãi thực sự có ý nghĩa trong trường hợp thuế trực thu, đặc
biệt là thuế TNDN. Khi đó, thuế thu vào lợi nhuận kinh doanh của doanh
nghiệp sẽ ít đi làm tăng lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Điều này cho
phép doanh nghiệp có thêm tiềm năng tài chính để đầu tư đổi mới, nâng cấp
máy móc, thiết bị và công nghệ sản xuất hoặc thậm chí giảm giá bán sản
phẩm để chiến thắng trong cạnh tranh. Tuy nhiên, nếu thuế suất ưu đãi áp
dụng cho những ngành, khu vực không có điều kiện thuận lợi trong kinh
doanh thì nó chỉ có thể giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp, làm cho doanh
nghiệp có điều kiện kinh doanh tương đương với các doanh nghiệp ở các
ngành, khu vực khác, mà chưa hẳn đã tạo ra ưu thế tuyệt đối trong cạnh tranh
của các doanh nghiệp. Như vậy, có thể có hai trường hợp cơ bản có tính chất
khác nhau khi áp dụng thuế suất ưu đãi: Một là, ngành và khu vực đó có lợi
thế tương đối và tuyệt đối trong kinh doanh nhưng vẫn cần áp dụng thuế suất
ưu đãi vì đó là ngành, khu vực quan trọng; sự phát triển của ngành, khu vực
đó có tác dụng quan trọng đến sự phát triển kinh tế quốc gia. Hai là, ngành và
khu vực đó không có lợi thế tương đối và tuyệt đối song lại cần khuyến khích
kinh doanh vì yêu cầu phát triển cân đối nền kinh tế hoặc vì lý do chính trị xã
hội.
Thứ tư, áp dụng chế độ miễn giảm thuế TNDN.
Miễn, giảm thuế là việc Nhà nước miễn một phần hoặc toàn bộ số thuế
đối tượng nộp thuế phải nộp. Miễn, giảm thuế thường được Nhà nước khuyến
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
khích kinh doanh ngành nghề, khu vực nào đó hoặc chiếu cố đến hoàn cảnh
khó khăn của đối tượng nộp thuế, hoặc thậm chí là giải quyết một chính sách
xã hội. Xét về kết quả, thì so với trường hợp áp dụng thuế suất ưu đãi, miễn,

giảm thuế có tác động tương tự. Tức là, việc miễn, giảm thuế sẽ giúp cho các
doanh nghiệp có điều kiện tăng thu nhập sau thuế, dẫn tới tăng tiềm lực tài
chính, khả năng cạnh trạnh trong thị trường. Tuy nhiên, chế độ miễn giảm có
điểm khác cơ bản là nó thường kèm theo nhiều điều kiện và áp dụng trong
một khoảng thời gian nhất định, thường không lâu dài bằng việc áp dụng thuế
suất ưu đãi.
Thứ năm, áp dụng các quy định làm giảm cơ sở thuế.
Theo phương thức này, Nhà nước quy định một mức miễn trừ hoặc có
những quy định đặc biệt khi tính cơ sở thuế. Chẳng hạn, Nhà nước có thể cho
phép một số ngành, khu vực được phép khấu hao nhanh vào chi phí sản xuất
kinh doanh. Kết quả là làm giảm chi phí của doanh nghiệp dẫn tới giảm số
thuế phải nộp.
Nói tóm lại, thuế TNDN là một công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của
Nhà nước. Nhà nước có thể sử dụng nó một cách có hiệu quả để nhằm thực
hiện các mục tiêu kinh tế của mình như tăng sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khuyến khích đầu tư vào những khu vực
nhất định... Trong quá trình hội nhập kinh tế hiện nay, ở các quốc gia đang
phát triển thì Nhà nước thường sử dụng thuế TNDN như là một yếu tố quan
trọng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chính sách thuế TNDN đóng một vai
trò quan trọng trong việc khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư
của tư bản nước ngoài. Trong đó, chính sách ưu đãi là yếu tố khuyến khích
chủ yếu. Tuy nhiên, những ưu đãi về thuế TNDN cụ thể lại là tuỳ thuộc vào
những lĩnh vực ngành nghề cụ thể mà Nhà nước cần khuyến khích đầu tư
trong từng thời gian nhất định. Xu hướng chung ở các nước là muốn khuyến
khích đầu tư thường phải áp dụng mức thuế suất thấp hơn thuế suất ở các
nước có nền công nghiệp phát triển trong ngành, lĩnh vực tương ứng, đồng
thời hệ thống thuế suất đó phải linh hoạt, mềm dẻo và phải đảm bảo quyền lợi
Website:

Email :


Tel : 0918.775.368
của nước chủ nhà về mặt tài chính. Các biện pháp ưu đãi thuế TNDN nhằm
thu hút vốn đầu tư nước ngoài thể hiện:
+ Giảm thuế TNDN đối với lĩnh vực mà Nhà nước khuyến khích đầu tư
+ Miễn thuế từ 2 đến 10 năm với các CSSX kinh doanh mới thành lập
+ Khuyến khích theo địa bàn ưu đãi đầu tư
+ Sử dụng điều kiện về lao động để khuyến khích đầu tư...
Đối với nước ta hiện nay, trình độ kinh tế xã hội rất thấp kém, Nhà
nước phải sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để hướng dẫn nền kinh tế phát
triển theo những quỹ đạo nhất định, trong đó việc sử dụng ưu đãi thuế TNDN
là biện pháp quan trọng. Đây cũng là biện pháp được sử dụng một cách có
hiệu quả trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta. Việc thu hút
được nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài không chỉ giải quyết được nhu cầu thiều
vốn ở nước ta hiện nay mà còn giúp ta có điều kiện tranh thủ kỹ thuật hiện đại
của các nước khác, đồng thời giải quyết việc làm cho lao động trong nước. Do
vậy, sử dụng ưu đãi về thuế TNDN để thu hút đầu tư là đúng đắn. Nhưng khi
sử dụng ưu đãi cần chú ý tới mối quan hệ giữa các DNTN với DN có vốn
ĐTNN về quyền và nghĩa vụ trong hoạt động kinh tế; đồng thời cũng chú ý
tới công bằng trong phân phối thu nhập. Cần thận trọng trong việc sử dụng ưu
đãi như thời gian ưu đãi, các mức thuế suất ưu đãi,... vì bản thân những ưu đãi
về thuế có những mặt trái của nó nếu sử dụng các ưu đãi đó không đúng lúc.
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH
THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Nội dung cơ bản của chính sách thuế TNDN ở Việt Nam hiện nay

Căn cứ vào luật thuế TNDN số 09/2003/QH11 ngày 17/6/2003 thay thế
cho luật thuế TNDN số 03/1997/QH9 ngày 10/5/1997 và Nghị định số
164/2003 /NĐ-CP và Thông tư số 128/2003/TT-BTC thì nội dung cơ bản của
thuế TNDN được khái quát như sau:
• Đối tượng và phạm vi áp dụng thuế TNDN
- Đối tượng thuộc diện nộp thuế TNDN
+ Tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ: bao gồm doanh
nghiệp Nhà nước, công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp
tác kinh doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, công ty và tổ chức
nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không tuân theo Luật đầu tư nước ngoài,
doanh nghiệp tư nhân, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, xã hội - nghề
nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị hành chính sự nghiệp có tổ chức
kinh doanh hàng hóa dịch vụ, các hợp tác xã....
+ Cá nhân trong nước tổ chức kinh doanh hàng hóa, dịch vụ gồm: cá
nhân và nhóm cá nhân kinh doanh, hộ kinh doanh cá thể, cá nhân hành nghề
độc lập, cá nhân cho thuê tài sản...
+ Công ty nước ngoài hoạt động kinh doanh thông qua cơ sở thường trú
tại Việt Nam như mở trụ sở điều hành, có địa điểm xây dựng, cung cấp dịch
vụ tư vấn, môi giới, đại lý...
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
- Đối tượng không thuộc diện nộp thuế TNDN bao gồm: hộ gia đình, cá
nhân, tổ hợp tác, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có thu nhập từ sản phẩm
trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản; trừ hộ gia đình và cá nhân nông dân
sản xuất hàng hóa lớn, có thu nhập cao.
• Căn cứ tính thuế

Căn cứ tính thuế là thu nhập chịu thuế và thuế suất.
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Thuế TNDN = TN chịu thuế x Thuế suất thuế
phải nộp trong kỳ tính thuế TNDN
- Thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế bao gồm thu nhập chịu thuế
của hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập chịu thuế khác, kể cả thu
nhập chịu thuế từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở nước ngoài.
Kỳ tính thuế được xác định theo năm dương lịch. Trường hợp cơ sở
kinh doanh áp dụng năm tài chính khác với năm dương lịch thì kỳ tính thuế
xác định theo năm tài chính áp dụng.
Thu nhập Doanh thu để Chi phí Thu
nhập
chịu thuế = tính thu nhập - hợp lý +
chịu thuế
trong kỳ chịu thuế trong trong kỳ khác
trong
tính thuế kỳ tính thuế tính thuế kỳ tính thuế
Thu nhập chịu thuế khác bao gồm thu nhập từ chênh lệch mua, bán
chứng khoán, quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, thu nhập từ chuyển quyền
sử dụng đất, chuyển quyền thuê đất; lãi từ chuyển nhượng, cho thuê, thanh lý
tài sản, tiền gửi, cho vay vốn, bán ngoại tệ; kết dư cuối năm các khoản dự
phòng; thu các khoản nợ phải trả không xác định được chủ...
+ Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế: là toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia
công , tiền cung ứng dịch vụ, kể cả trợ giá, phụ thu, phụ trội mà cơ sở kinh
doanh được hưởng, trường hợp có doanh thu bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ra
đồng Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh doanh thu bằng ngoại tệ.

+ Chi phí hợp lý được trừ để tính thu nhập chịu thuế bao gồm;
 Chi phí khấu hao tài sản cố định sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Mức trích khấu hao căn cứ vào giá trị tài sản cố định và thời gian trích
khấu hao. Cơ sở sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có hiệu quả kinh tế
cao đươc khấu hao nhanh nhưng tối đa không quá 2 lần mức khấu hao theo
chế độ để nhanh chóng đổi mới công nghệ.
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
 Chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, hàng hóa thực tế
sử dụng vào sản xuất kinh doanh, dịch vụ liên quan đến doanh thu và thu
nhập chịu thuế trong kỳ, được tính theo mức tiêu hao hợp lý và giá thực tế
xuất kho.
 Tiền lương, tiền công, phụ cấp theo quy định của Bộ luật lao động, tiền
ăn giữa ca, trừ tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ hộ cá
thể kinh doanh và thu nhập của sáng lập viên công ty không trực tiếp tham gia
điều hành sản xuất, kinh doanh.
 Chi phí nghiên cứu khoa học, công nghệ, sáng kiến, cải tiến; y tế; đào
tạo lao động theo chế dộ quy định; tài trợ cho giáo dục;
 Chi phí mua ngoài: điện, nước, điện thoại; sửa chữa tài sản cố định;
tiền thuế tài sản cố định; kiểm toán; dịch vụ pháp lý; thiết kế, xác lập và bảo
vệ nhãn hiệu hàng hóa; bảo hiểm tài sản; chi trả tiền sử dụng tài liệu kỹ thuật,
bằng sáng chế, giấy phép công nghệ không thuộc tài sản cố định, dịch vụ kỹ
thuật và dịch vụ mua ngoài khác.
 Các khoản chi cho lao động nữ theo quy định của pháp luật : chi bảo hộ
lao động hoặc trang phục; chi bảo vệ cơ sở kinh doanh; chi công tác phí; trích
nộp quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; kinh phí công đoàn...
 Chi trả tiền lãi vay vốn sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của

ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, của các tổ chức kinh tế theo lãi suất
thực tế, chi trả lãi tiền vay của các đối tượng theo lãi suất thực tế khi ký hợp
đồng vay, nhưng tối đa không quá 1,2 lần mức lãi suất cho vay của ngân hàng
thương mại tại thời điểm vay.
 Trích các khoản dự phòng theo chế độ quy định: dự phòng giảm giá
hàng tồn kho, công nợ khó đòi, giảm giá chứng khoán, trợ cấp mất việc làm...
 Trợ cấp thôi việc cho người lao động.
 Chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại liên quan trực tiếp đến hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các khoản chi phí khác được khống chế
tối đa không quá 10% tổng số chi phí.
 Các khoản thuế, phí, lệ phí, tiền thuế đất phải nộp có liên quan đến hoạt
động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ được tính vào chi phí hợp lý;

×