Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng thương mại góp phần vào sự phát triển của thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (969.08 KB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN TIẾN THÀNH

CHO VAY ĐẦU TƯ KINH DOANH CHỨNG KHOÁN
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI GÓP PHẦN
VÀO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP.Hồ Chí Minh, năm 2008


1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân. Các số liệu sử dụng
phân tích và đánh giá kết qủa là quá trình thu thập số liệu và tính toán các số liệu từ
các báo cáo của Ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán, Sở giao dịch
chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán và các tạp chí tài chính – chứng
khoán chuyên ngành. Luận văn này chưa được ai công bố dưới bất kỳ hình thức
nào.


2

DANH MỤC VIẾT TẮT

CTQLQ



: Công ty quản lý quỹ

CTCK

: Công ty chứng khoán

CSTT

: Chính sách tiền tệ

NHTM

: Ngân hàng thương mại

NHNN

: Ngân hàng Nhà nước

QĐT

: Quỹ đầu tư

TTCK

: Thị trường chứng khoán

TTTT

: Thị trường tiền tệ


TCTD

: Tổ chức tín dụng

TPCP

: Trái phiếu Chính phủ

TTGDCK

: Trung tâm giao dịch chứng khoán

SGDCK

: Sở giao dịch chứng khoán

UBCKNN

: Ủy ban chứng khoán Nhà nước.


3

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Quy mô niêm yết và giao dịch cổ phiếu và CCQ tại HOSE và HaSTC
Bảng 2.2: Dư nợ cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán của khối NHTMNN
Bảng 2.3: Dư nợ cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán của khối NHTMCP
Biểu đồ 2.1: Vốn hóa thị trường so với GDP giai đoạn 2005 - 2007
Biểu đồ 2.2: Vốn huy động qua TTCK giai đoạn 2005 - 2007

Biểu đồ 2.3: Dư nợ cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán của NHTM giai
đoạn 2006-2007
Biểu đồ 2.4: Dư nợ cho vay của NHTM giai đoạn 2006 – 2007
Biểu đồ 2.5: Dư nợ cho vay chứng khoán và dư nợ tín dụng theo khối NHTMNN và
khối NHTMCP năm 2007.
Sơ đồ 2.1: Chu chuyển vốn của nhà đầu tư vào TTCK
Bảng 3.1: Điềm xếp hạng tín dụng nội bộ của khách hàng
Sơ đồ 3.1: Quy trình chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp bất động sản.


4

MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU ..................... .....................................................................................................6

CHƯƠNG I
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1 CĂN BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN...................................... ........ 10
1.1.1 Thị trường chứng khoán........................................................................................ 11
1.1.2 Các chủ thể tham gia trên TTCK .......................................................................... 11
1.1.2.1 Nhà phát hành ................................................................................................... 11
1.1.2.2 Nhà đầu tư .... ................................................................................................... 12
1.1.2.3 Các tổ chức đầu tư, kinh doanh trên TTCK ...................................................... 12
1.2 HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN .................. 12
1.2.1 Khái niệm đầu tư chứng khoán ... ......................................................................... 12
1.2.2 Lợi nhuận và rủi ro trong đầu tư chứng khoán ..... ............................................... 15
1.2.2.1 Lợi nhuận và rủi ro khi đầu tư vào cổ phiếu ..... ............................................... 15
1.2.2.2 Lợi nhuận và rủi ro khi đầu tư vào trái phiếu ... ............................................... 20

1.2.2.3 Lợi nhuận và rủi ro khi đầu tư vào chứng chỉ quỹ............................................ 23
1.3 VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU
TƯ CHỨNG KHOÁN ..............................................................................................

25

1.3.1 NHNN với hoạt động của TTCK .......................................................................... 25
1.3.1.1 Chính sách tiền tệ của NHNN có tác động đến sự phát triển của TTCK và
ngược lại.. ......................................................................................................... 25
1.3.1.2 NHNN tham gia tích cực trong việc xây dựng khung pháp lý cho hoạt
động của TTCK.................................................................................................

26


5

1.3.2 NHTM với hoạt động của TTCK.......................................................................... 27
1.3.2.1 NHTM cung cấp hàng hóa cho TTCK............................................................... 27
1.3.2.2 NHTM là cầu nối quan trọng giữa nhà đầu tư với TTCK ................................. 28
1.3.2.3 NHTM góp phần điều hòa cung cầu và ổn định TTCK..................................... 30
1.3.2.4 NHTM góp phần đảm bảo các nguyên tắc hoạt động của TTCK...................... 31
1.4 SẢN PHẨM CHO VAY ĐẦU TƯ KINH DOANH CHỨNG KHOÁN CỦA
CÁC NHTM TẠI VIỆT NAM................................................................ .............. 31
1.4.1 NHTM cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá đối với công ty chứng khoán............... 32
1.4.2 NHTM cho vay dưới hình thức cầm cố chứng khoán để đầu tư kinh doanh
chứng khoán............................................................................................................ 33
1.4.3 NHTM cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán ................................................... 36
1.4.4 Thực hiện nghiệp vụ mua bán chứng khoán kỳ hạn ............................................... 37
CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐẦU TƯ KINH DOANH CHỨNG
KHOÁN CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM
2.1 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐẦU TƯ KINH DOANH
CHỨNG KHOÁN ................. ................................................................................ 40
2.1.1 Nhận định chung về TTCK .... ................................................................................ 40
2.1.2 Thực trạng cho vay để đầu tư kinh doanh chứng khoán của các NHTM .............. 44
2.2 NHỮNG TỒN TẠI, NGUYÊN NHÂN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
ĐẦU TƯ, KINH DOANH CHỨNG KHOÁN .................................................... 57
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐẦU TƯ KINH
DOANH CHỨNG KHOÁN CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM
3.1 ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ............................................................. 63


6

3.1.1 Nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng .......................................................... 63
3.1.2 Nâng cao năng lực tài chính .. ................................................................................ 74
3.1.3 Đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ liên quan đến TTCK ............................................ 76
3.1.3.1 Triển khai thực hiện nghiệp vụ chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp
bất động sản ................... ................................................................................ 77
3.1.3.2 Triển khai thực hiện nghiệp vụ giao dịch ký quỹ............................................. 81
3.1.4 Tuân thủ các quy định của NHNN về hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh
chứng khoán........................... ................................................................................ 84
3.1.5 Khuyến khích cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán thông qua CTQLQ ......... 85
3.2 KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC............................................ 88
3.2.1 Nâng cao năng lực xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ................................ 88
3.2.2 Tăng cường năng lực thanh tra, giám sát của NHNN............................................. 90
3.2.3 Đẩy mạnh cơ cấu lại các NHTM............................................................................. 91
3.2.4 Tạo sự gắn kết giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán.......................... 92

3.3 KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI BỘ TÀI CHÍNH VÀ UBCKNN ...................................... 96
KẾT LUẬN .................................... .............................................................................. 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............ .............................................................................. 102
PHỤ LỤC


7

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng và phát triển thị thị trường chứng khoán (TTCK) ổn định, bền vững là
một xu hướng tất yếu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt nam. Tuy nhiên, sự phát triển TTCK sẽ thực sự kém bền vững nếu thiếu sự gắn
kết với hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM). Qua 8 năm hoạt động, TTCK và
hệ thống NHTM đã chứng minh sự tồn tại mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau,
kết hợp và tác động lẫn nhau để cùng tồn tại và phát triển. Điều này được thể hiện ở
chỗ hệ thống NHTM góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa và hình thành các
công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự phát triển của thị trường chứng khoán. Sự phát
triển của TTCK lại tạo điều kiện giảm bớt gánh nặng cho các ngân hàng thương mại
về việc đáp ứng vốn trung dài hạn cho nền kinh tế, tạo thêm cơ hội cho các NHTM
mở rộng các sản phẩm dịch vụ của mình. Trong đó có sản phẩm dịch vụ cho vay để
đầu tư, kinh doanh chứng khoán.
Cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán của hệ thống NHTM chỉ mới xuất
hiện từ cuối năm 2005 và phát triền mạnh mẽ trong năm 2006-2007. Song đây là
lĩnh vực đuợc các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đánh giá là có mức độ rủi
ro cao khi TTCK biến động mạnh. Vì thế, hệ thống NHTM phải có các biện pháp
quản trị rủi ro thích hợp để đảm bảo nguồn vốn cho vay của mình được trả nợ (gốc,
lãi) đúng hạn.
Tuy vậy, giữa TTCK và hệ thống NHTM vẫn còn nhiều những tồn tại như sự
gắn kết giữa TTCK và hệ thống NHTM còn rời rạc; hệ thống NHTM chưa đóng vai

trò là chất xúc tác và tạo tính thanh khoản cho TTCK; sản phẩm cho vay, sản phẩm
dịch vụ của hệ thống NHTM cung ứng cho TTCK chưa đáp ứng được yêu cầu của
nhà đầu tư; năng lực và chất lượng cung ứng dịch vụ cho TTCK còn mang tính tự


8

phát, chộp giựt, thiếu ổn định; năng lực thu thập thông tin thị trường để đánh giá,
quản trị rủi ro còn nhiều bất cập; công tác kiểm tra, kiểm soát, các biện pháp phòng
ngừa rủi ro chất lượng tín dụng cung cấp cho nhà đầu tư kinh doanh chứng khoán
còn yếu và thiếu... Do đó, để TTCK và hệ thống NHTM phát triển ổn định, bền
vững và thực sự gắn kết với nhau trong sự luân chuyển vốn thì nhất thiết phải đưa ra
nhiều giải pháp khác nhau để giải quyết. Một trong các giải pháp đó là hệ thống
NHTM phải nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng, xây dựng và phát triển hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ để phân loại và đánh giá chính xác khách hàng vay
vốn nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng trong cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng
khoán; nâng cao năng lực tài chính; đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng liên
quan đến TTCK và tuân thủ đúng các quy định của NHNN trong hoạt động cho vay
chứng khoán.
Xuất phát từ những lý do đó, để TTCK và hệ thống NHTM phát triển ổn định,
bền vững trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, kết hợp và tác động lẫn
nhau, tôi mạnh dạn chọn cho mình đề tài: “ Cho vay đầu tư, kinh doanh chứng
khoán của các NHTM góp phần vào sự phát triển của TTCK Việt Nam” làm
luận văn tốt nghiệp của mình.
Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về chứng khoán; phân tích vài trò của hệ thống NHTM đối
với sự phát triển của TTCK; phân tích thực trạng hoạt động cho vay để đầu tư, kinh
doanh khoán. Từ đó đánh giá những khó khăn, thuận lợi, những tồn tại, nguyên
nhân của việc cho vay để đầu tư kinh doanh chứng khoán. Theo đó, đề tài tập trung
nghiên cứu nhằm đạt được các mục đích sau:

ƒ Cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán góp phần làm tăng tính thanh
khoản cho TTCK để TTCK phát triển trong ổn định, bền vững, lâu dài.


9

ƒ Cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán làm đa dạng hóa các sản phẩm
cho vay của hệ thống NHTM trong danh mục tín dụng của mình. Trên cơ sở
đó, áp dụng các sản phẩm, dịch vụ mới liên quan đến TTCK góp phần làm
tăng lợi ích cho ngân hàng, nhà đầu tư và ổn định thị trường.
ƒ Đề xuất các giải pháp để hoạt động cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán
của hệ thống NHTM đạt hiệu qủa, bền vững. Trong đó, đặt trọng tâm vào
giải pháp xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ nhằm nâng cao chất
lượng tín dụng, hạn chế rủi ro tín dụng trong cho vay để đầu tư, kinh doanh
chứng khoán; nâng cao năng lực tài chính; thực hiện tuân thủ các quy định
của NHNN về hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán; một số
kiến nghị đối với Chính phủ, Bộ Tài Chính và NHNN về hoạt động tín dụng,
hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán trên TTCK.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung mang tính lý luận và thực tiễn về
hoạt động cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán của hệ thống NHTM, chủ
yếu tập trung vào các khoản cho vay để dầu tư kinh doanh chứng khoán của NHTM
năm 2006 - 2007 không bao gồm các NHTM nước ngoài, các tổ chức tài chính
trung gian khác. Từ đó, đi sâu phân tích, đánh giá khách quan về sự cần thiết của
việc nâng cao chất lượng tín dụng bằng việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng
nội bộ để hoạt động cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán của NHTM được an
toàn, giảm thiểu rủi ro tín dụng phát sinh; sự cần thiết trong việc nâng cao năng lực
tài chính; đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ liên quan đến TTCK và sự cần thiết trong
việc sửa đổi, hoàn thiện, tuân thủ các văn bản pháp luật liên quan mật thiết tới hoạt
động cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán.


Phương pháp nghiên cứu


10

Trong đề tài nghiên cứu này, phương pháp nghiên cứu được sử dụng là phương
pháp duy vật biện chứng, phương pháp thống kê kết hợp với phương pháp tư duy để
đi từ cơ sở lý luận, phân tích thực trạng để đưa ra các giải pháp phù hợp với tình
hình thực tiễn hiện hiện nay. Ngoài ra, trong đề tài còn sử dụng phương pháp
chuyên gia – thông qua các cuộc hội thảo chuyên đề tiếp thu ý kiến, đóng góp của
chuyên gia để bổ sung, hoàn thiện các giải pháp được đề cập. Đồng thời, kế thừa có
chọn lọc các tài liệu về hoạt động cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán như
bài viết, bài tham luận, trao đổi… để làm rõ những nội dung nghiên cứu.


11

CHƯƠNG I
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1.1 CĂN BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1.1 Thị trường chứng khoán
Khái niệm: Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua,
bán chứng khoán trung và dài hạn như các loại trái phiếu, cổ phiếu, chứng chỉ quỹ,
các công cụ phái sinh – hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, chứng quyền.
Việc mua bán này được thực hiện ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được
chứng khoán lần đầu từ nhà phát hành và ở thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán
lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp.
Chức năng: Thị trường chứng khoán có những chức năng cơ bản sau:

ƒ Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
ƒ Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
ƒ Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
ƒ Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
ƒ Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
1.1.2 Các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán
Các chủ thể tham gia trên TTCK gồm có các tổ chức và cá nhân, có thể được
chia thành các nhóm sau: Nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan
đến TTCK.
1.1.2.1 Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn trên thị trường sơ cấp gồm
chính quyền các cấp, các công ty và các tổ chức tài chính. Trên thị trường sơ cấp,
Chính phủ và các công ty lần đầu tiên bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu
tư để huy động vốn nhằm các mục tiêu đầu tư cho phát triển kinh tế quốc dân, phúc


12

lợi xã hội, phát triển sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất, hiện đại hóa
công nghệ sản xuất vv… Việc phát hành thường được các tổ chức bảo lãnh đảm
nhiệm. Thông qua đó, các chứng khoán sẽ được phân phối đến tay các nhà đầu tư,
và như vậy, song song với việc huy động vốn, các chủ thể phát hành là người cung
cấp chứng khoán - là hàng hóa của thị trường chứng khoán.
Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ
và trái phiếu địa phương.
Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu,
chứng chỉ quỹ đầu tư... phục vụ cho hoạt động của họ.
1.1.2.2 Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường

chứng khoán. Nhà đầu tư có thể chia thành hai loại: Nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu
tư có tổ chức.
Nhà đầu tư cá nhân:
Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn tạm thời nhàn rỗi, tham gia mua bán
trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu
tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn và
ngược lại. Chính vì vậy các nhà đầu tư cá nhân luôn phải lựa chọn các hình thức
đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mình.
Nhà đầu tư có tổ chức:
Nhà đầu tư có tổ chức, hay còn gọi là các định chế đầu tư, thường xuyên mua
bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này thường có các
bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị
trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên
thị trường chứng khoán là các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, công ty


13

cho thuê tài chính, tổ chức kinh doanh bảo hiểm và tổ chức kinh doanh chứng
khoán. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm nổi bật là có thể đa dạng
hóa các danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên
gia có kinh nghiệm.
1.1.2.3 Các tổ chức đầu tư, kinh doanh trên thị trường chứng khoán
Là các tổ chức có quan hệ và tác động đến việc tổ chức hoạt động của TTCK,
bao gồm: Cơ quan quản lý Nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán, Hiệp hội các nhà
kinh doanh chứng khoán, Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán, công ty
dịch vụ máy tính chứng khoán, các tổ chức tài trợ chứng khoán, công ty đánh giá hệ
số tín nhiệm…
1.2 HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.2.1 Khái niệm đầu tư chứng khoán

Đầu tư chứng khoán là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng tiền để thực hiện các giao
dịch mua, bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán nhằm mục đích sinh lợi
hoặc lợi ích kinh tế, xã hội khác.
Đặc điểm của hoạt động đầu tư chứng khoán:
ƒ

Đầu tư chứng khoán là nhằm mục đích lợi nhuận;

ƒ

Phải có hành vi bỏ vốn của nhà đầu tư, vốn được bỏ vào dưới các hình thức
khác nhau;

ƒ

Mang tính trung, dài hạn.

Phân loại đầu tư chứng khoán:
+ Căn cứ vào tính chất quản lý của nhà đầu tư đối với đầu tư chứng khoán, có
thể chia thành đầu tư chứng khoán trực tiếp và đầu tư chứng khoán gián tiếp.


14

Đầu tư chứng khoán trực tiếp: Đây là quá trình nhà đầu tư mua chứng khoán của
một hay một số công ty đơn lẻ trên thị trường chứng khoán, tự tạo danh mục đầu tư
chứng khoán cho mình. Đầu tư chứng khoán trực tiếp là nhà đầu tư tự nắm lấy số
phận trong tay mình, tự lựa chọn và đưa ra quyết định cho riêng mình. Để làm được
điều này, nhà đầu tư phải có thời gian và kinh nghiệm.
Đầu tư chứng khoán gián tiếp: Đây là trường hợp nhà đầu tư mua một hay nhiều

gói hàng hỗn hợp của một hay nhiều quỹ đầu tư. Tùy theo mức độ rủi ro của các gói
hàng hỗn hợp có thể bao gồm cổ phiếu của các công ty, trái phiếu các loại, chứng
chỉ quỹ, tiền mặt vv..theo những tỷ lệ linh hoạt vào từng thời kỳ. Thông thường, ở
đầu tư chứng khoán gián tiếp, nhà đầu tư gián tiếp đầu tư thông qua việc mua chứng
chỉ quỹ. Việc mua chứng chỉ quỹ có nghĩa là nhà đầu tư đã ủy thác cho công ty
quản lý quỹ thay mặt nhà đầu tư thực hiện quản lý và đầu tư số tiền bằng với số tiền
nhà đầu tư mua chứng chỉ quỹ. Đầu tư chứng khoán gián tiếp giúp nhà đầu tư giảm
bớt rủi ro do sự quản lý, nghiên cứu, theo dõi tình hình thị trường của các công ty
quản lý quỹ chuyên nghiệp thực hiện.
+ Căn cứ vào thời hạn đầu tư đối với đầu tư chứng khoán có thể phân chia thành
đầu tư ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Thông thường, những chu kỳ đầu tư chứng khoán dưới 1 năm được gọi là đầu tư
ngắn hạn; chu kỳ đầu tư chứng khoán có thời gian đầu tư trên 1 năm tới dưới 5 năm
được gọi là đầu tư trung hạn và chu kỳ đầu tư chứng khoán có thời gian trên 5 năm
là đầu tư dài dạn. Giữa đầu tư chứng khoán trung hạn, dài hạn và đầu tư ngắn hạn
có thể chuyển đổi lẫn nhau. Ví dụ, mua cổ phiếu của công ty phát hành lần đầu ra
công chúng là một loại hình đầu tư dài hạn, nhưng người nắm giữ cổ phiếu vì một
lý do nào đó (chẳng hạn như mục tiêu lợi nhuận trước mắt) có thể tiến hành mua
bán trên thị trường thứ cấp, từ đó cổ phiếu trở thành đầu tư ngắn hạn.


15

+ Căn cứ vào cách thức thu được lợi nhuận khác nhau của việc đầu tư chứng
khoán có thể chia thành đầu tư chứng khoán thu lợi nhuận cố định và đầu tư chứng
khoán thu lợi nhuận không cố định.
Một số chứng khoán đầu tư thu lợi nhuận cố định thì việc thu lợi nhuận và
phương thức chi trả được quy định từ trước, trong khoảng thời gian cất giữ chứng
khoán được duy trì không thay đổi, ví dụ như trái phiếu công ty. Đặc điểm của loại
đầu tư này là rủi ro thấp và lợi nhuận thu được cũng thấp. Một số chứng khoán đầu

tư thu lợi nhuận không cố định thì số lợi nhuận thu được và phương thức chi trả
không được quy định trước mà hoàn toàn do thị trường và nhà đầu tư chứng khoán
quyết định. Loại đầu tư này rủi ro cao hơn so với đầu tư thu lợi nhuận cố định
nhưng lợi nhuận thu được có thể lớn hơn.
Phân biệt đầu tư chứng khoán và kinh doanh chứng khoán
Đầu tư chứng khoán

Kinh doanh chứng khoán

Nguồn gốc lợi

Chênh lệch giữa giá thị trường, là Chênh lệch giữa mua thấp,

nhuận

cái họ phải trả để mua chứng khoán bán cao hoặc mượn - bán
với giá trị nội tại, là giá trị nhận cao rồi mua - trả thấp, hay
được từ chứng khoán trong tương còn gọi là bán khống chứng
lai, gồm cổ tức và tiền lời từ chênh khoán.
lệch giữa giá bán chứng khoán và
giá mua ban đầu, nếu họ bán lại
chứng khoán sau khi đã nắm giữ
trong thời gian dài.

Cơ sở ra quyết

Quan tâm đến giá trị nội tại của Dựa vào xu hướng giá,

định đầu tư


chứng khoán. Dựa vào phân tích cơ thông tin, tin đồn. Quan
bản để tính giá trị nội tại của chứng tâm đến phân tích kỹ thuật
khoán. Quan tâm đến tư vấn, nhằm xác định giá vào thời


16

nghiên cứu kỹ các chỉ số tài chính, điểm mua vào hoặc bán ra.
tình hình kinh doanh, quản lý, tiềm
năng phát triển, năng lực nhân sự
của công ty.
Rủi ro

Rủi ro lớn nhất là công ty mà nhà Đối diện nhiều rủi ro như
đầu tư đầu tư hoạt động kinh doanh rủi ro về giá, rủi ro thanh
không hiệu qủa. Nếu phá sản, nhà khoản vv..
đầu tư là những người cuối cùng
được nhận phần còn lại của doanh
nghiệp sau các chủ nợ.

1.2.2 Lợi nhuận và rủi ro trong đầu tư chứng khoán
Đầu tư vào chứng khoán, nhà đầu tư không thể chắc chắn về lợi nhuận thu
được. Đầu tư vào chứng khoán có đạt được mục tiêu lợi nhuận như ý muốn hay
không hoàn toàn phụ thuộc vào các rủi ro trong đầu tư. Đối với các nhà đầu tư, rủi
ro là nhân tố khách quan vượt ra ngoài tầm quản lý và khống chế của họ. Do đó,
đầu tư chứng khoán phải là hành động có cân nhắc, có phân tích khoa học trong đầu
tư, cũng như các rủi ro có thể xảy ra trong thời gian đầu tư chứng khoán. Dưới đây
là các loại lợi nhuận và rủi ro căn bản khi nhà đầu tư đầu tư vào chứng khoán tiêu
biểu trên thị trường chứng khoán là cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ.
1.2.2.1 Lợi nhuận và rủi ro khi đầu tư vào cổ phiếu

Lợi nhuận của cổ phiếu:
Nhà đầu tư, khi đầu tư vào cổ phiếu sẽ có ba mặt lợi chính sau đây:
ƒ

Được chia cổ tức hàng năm. Cổ tức được lấy ra từ lợi nhuận sau thuế sau khi
trả cổ tức ưu đãi và thu nhập giữ lại để trích quỹ. Cổ tức có thể được trả
bằng tiền hoặc bằng cổ phiếu. Cổ tức thường không được xác định trước và


17

phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và chính sách chia cổ tức của
từng công ty.
ƒ

Được hưởng giá trị cổ phần gia tăng do công ty hoạt động tốt có lợi nhuận
và có tích lũy nội bộ, đến một lúc nào đó, công ty nhập quỹ tích lũy vào vốn
điều lệ thì người đầu tư được tăng thêm số lượng cổ phần

ƒ

Hưởng lợi do chênh lệch giá mua bán cổ phiếu. Các nhà đầu tư sẽ mua khi
có dấu hiệu giá lên, sẽ bán khi có dấu hiệu giá giảm. Để thực hiện được điều
này, nhà đầu tư phải tích cực thực hiện việc mua đi bán lại cổ phiếu của
mình và việc mua bán đó phải đúng lúc.

Rủi ro của cổ phiếu:
Rủi ro khi đầu tư vào cổ phiếu có thể được định nghĩa là sự dao động của lợi
nhuận mong đợi. Chính vì vậy, để đạt được lợi nhuận cao khi đầu tư vào cổ phiếu,
nhà đầu tu phải nhận diện và kiểm soát cho được các rủi ro sau:

+ Rủi ro hệ thống: Đây là rủi ro do các yếu tố nằm ngoài công ty, không kiểm
soát được và có ảnh hưởng đến toàn bộ thị trường và tất cả mọi loại chứng khoán.
Trong rủi ro hệ thống, có các loại rủi ro như rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro
sức mua.
Rủi ro thị trường: Rủi ro này xuất hiện do có những phản ứng của các nhà đầu
tư đối với những sự kiện hữu hình hay vô hình. Sự đánh giá rằng lợi nhuận của các
công ty nói chung có xu hướng sụt giảm có thể là nguyên nhân làm cho phần lớn
các loại cổ phiếu thường bị giảm giá. Các nhà đầu tư thường phản ứng dựa trên cơ
sở các sự kiện thực tế xảy ra, hữu hình như các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội.
Các sự kiện vô hình là các sự kiện nảy sinh do yếu tố tâm lý của thị trường. Rủi ro
thị trường thường xuất phát từ những sự kiện hữu hình, nhưng do tâm lý không
vững vàng của các nhà đầu tư nên họ hay có phải ứng vượt quá các sự kiện đó.
Những sụt giảm đầu tiên của giá cổ phiếu trên thị trường là nguyên nhân gây sợ hãi
đối với các nhà đầu tư và họ sẽ cố gắng rút vốn bằng cách bán cổ phiếu. Những


18

phản ứng dây chuyền làm tăng số lượng bán làm giá của cổ phiếu càng giảm so với
giá trị nội tại của nó.
Rủi ro lãi suất: Rủi ro này nói đến sự không ổn định trong giá trị thị trường và
số tiền thu nhập trong tương lai, nguyên nhân là do dao động trong mức lãi suất
chung. Nguyên nhân cốt lõi của rủi ro lãi suất là sự lên xuống của lãi suất trái phiếu
Chính phủ. Sự lên xuống này làm thay đổi trong mức sinh lời kỳ vọng của cổ phiếu
và các loại chứng khoán khác. Các mức lãi suất trái phiếu Chính phủ các kỳ hạn
khác nhau được dùng làm chuẩn để xác định lãi suất trái phiếu công ty có thời gian
đáo hạn tương tự. Do vậy, những thay đổi trong lãi suất trái phiếu Chính phủ sẽ làm
ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống chứng khoán, từ trái phiếu cho đến các loại cổ phiếu
rủi ro nhất. Lãi suất trái phiếu Chính phủ tăng, nó sẽ trở lên hấp hẫn hơn và các loại
chứng khoán khác sẽ kém hấp dẫn đi. Hệ qủa là, những người mua trái phiếu sẽ

mua trái phiếu Chính phủ thay vì trái phiếu công ty, giá của trái phiếu giảm cũng
làm cho giá các loại cổ phiếu giảm xuống như một phản ứng dây chuyền. Như vậy,
ta thấy một cơ cấu hợp lý về lãi suất do các loại công cụ có liên hệ với nhau. Sự
tăng lên của lãi suất chuẩn sẽ làm ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống, giá cả của các
loại chứng khoán giảm và ngược lại, khi lãi suất chuẩn giảm lại làm cho giá của các
loại chứng khoán tăng.
Đối với cổ phiếu, quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu có mối liên hệ không trực
tiếp và không hoàn toàn diễn ra theo một chiều. Bởi vì, dòng tiền thu nhập của cổ
phiếu không cố định, chúng có thể thay đổi cùng với lãi suất và mức thay đổi này có
thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn mức thay đổi của lãi suất.
ƒ Trường hợp lãi suất tăng – giá cổ phiếu ổn định hoặc tăng: Xảy ra khi giá
hàng hóa bán ra của công ty có thể tăng, dẫn đến thu nhập của công ty tăng
lên cùng với lạm phát do chi phí đầu vào tăng. Do vậy, giá cổ phiếu trong
trường hợp này có thể giữ ổn định vì lãi suất chiết khấu tăng và dòng thu
nhập tăng bù đắp được cho nhau.


19

ƒ Lãi suất tăng – giá cổ phiếu giảm: Xảy ra khi các dòng thu nhập tương lai
của công ty tăng không nhiều hoặc giảm, vì trước đó công ty phải huy động
vốn với lãi suất cao, đến khi hàng hóa được sản xuất và bán ra thì lại gặp
phải sự cạnh tranh gay gắt, trong khi sức mua lại có hạn, thu nhập của công
ty giảm sút, công ty không có khả năng tăng giá hàng hóa để bù lại mức lạm
phát. Tương tự như vậy, khi lãi suất giảm thì cũng có thể xảy ra các khả năng
tương tự.
Nếu chỉ xét trong mối tương quan giữa thị trường cổ phiếu và trái phiếu thì trên
thực tế, quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu là mối quan hệ ngược chiều. Điều này
có thể được lý giải như sau: Khi dự đoán lãi suất thị trường tăng, tức là giá trái
phiếu sẽ giảm, thì người đầu tư chuyển hướng từ đầu tư vào cổ phiếu sang đầu tư

vào trái phiếu và làm cho giá cổ phiếu giảm. Hay nói một cách đơn giản là nếu lãi
suất tăng ít hơn thu nhập của cổ phiếu, giá cổ phiếu tăng. Ngược lại, lãi suất tăng
nhiều hơn thu nhập của cổ phiếu, giá cổ phiếu giảm.
Rủi ro sức mua: Đây là biến cố của sức mua của đồng tiền thu được. Rủi ro sức
mua là tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư. Khi nhà đầu tư mua cổ phiếu,
họ đã bỏ mất cơ hội mua hàng hóa hay dịch vụ trong thời gian sở hữu cổ phiếu đó.
Nếu trong khoảng thời gian đó, giá cả hàng hóa dịch vụ tăng, nhà đầu tư đã bị mất
một phần sức mua. Yếu tố lạm phát hoặc giảm phát sẽ làm thay đổi mức lãi suất
danh nghĩa và từ đó sẽ gây tác động tới giá cả của cổ phiếu.
+ Rủi ro không hệ thống: Đây là rủi ro do các yếu tố nội tại gây ra, nó có thể
kiểm soát được và chỉ tác động đến một ngành hay một công ty, hoặc một loại
chứng khoán nào đó. Rủi ro không hệ thống là một phần trong tổng rủi ro gắn liền
với một công ty hay một ngành cụ thể. Những yếu tố này có thể là khả năng quản
lý, thị hiếu tiêu dùng, đình công và nhiều yếu tố khác là nguyên nhân gây ra sự thay
đổi trong thu nhập từ cổ phiếu của công ty. Sự không chắc chắn trong khả năng
thanh toán của công ty có thể là do môi trường của hoạt động kinh doanh và tình


20

trạng tài chính của công ty. Những rủi ro này có thể gọi là rủi ro kinh doanh và rủi
ro tài chính.
Rủi ro kinh doanh:
Rủi ro kinh doanh là do tình trạng hoạt động của công ty, khi có những thay đổi
trong tình trạng này công ty có thể sút giảm lợi nhuận và cổ tức. Mức độ thay đổi so
với xu hướng dự kiến được gọi là rủi ro kinh doanh. Rủi ro kinh doanh có thể được
chia làm hai loại cơ bản: Rủi ro bên ngoài và rủi ro nội tại.
Rủi ro nội tại phát sinh trong quá trình vận hành hoạt động của công ty. Mỗi
công ty có một loại rủi ro nội tại riêng và mức độ thành công của mỗi công ty thể
hiện qua hiệu qủa hoạt động. Một số rủi ro nội tại có thể phát sinh trong mỗi công ty

như: Những sai sót trong chính sách hạng mục đầu tư. Các hạng mục đầu tư của
công ty hiện đại thông thường có định mức tương đối lớn, nếu như chưa nghiên
cứu, phân tích đầy đủ về tính khả thi của hạng mục đầu tư thì một ngày nào đó hậu
qủa của những sai sót đó sẽ rất quan trọng; những rủi ro trong chu kỳ sản phẩm.
Nếu công ty không tích cực phát triển nghiên cứu sản phẩm mới thì khi trên thị
trường xuất hiện một loại sản phẩm mới thực dụng hơn, khoa học hơn sẽ làm cho
sản phẩm của công ty bị lỗi thời do đó dẫn đến tổn thất; rủi ro trong đổi mới kỹ
thuật. Khoa học kỹ thuật là năng lực để công ty phát triển, chỉ có tiến bộ của khoa
học kỹ thuật mới có thể nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, làm
cho sản phẩm có tính cạnh tranh và những rủi ro trên thị trường, do sự dự định về
thị trường tiêu thụ sản phẩm không chính xác hoặc làm cho sản phẩm bị ứ đọng
hoặc sản phẩm đã được bán hết sạch. Tình trạng sản phẩm bị ứ đọng sẽ tạo thành sự
lãng phí tiền vốn. Tình trạng sản phẩm bán hết sạch làm cho lợi nhuận bị giảm đi
tương đối.
Rủi ro kinh doanh bên ngoài là những trường hợp xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát
của công ty và làm ảnh hưởng đến tình trạng hoạt động của công ty. Mỗi công ty có
một kiểu rủi ro bên ngoài riêng, phụ thuộc vào các yếu tố môi trường kinh doanh cụ


21

thể của công ty. Các yếu tố bên ngoài tác động đến công ty thường là các khoản
mục chi phí tiền vay, sự cắt giảm ngân sách, chính sách thuế, chính sách tiền tệ ...
có thể làm ảnh hưởng đến lợi nhuận thông qua tác động về chi phí và nguồn vốn
của công ty.
Rủi ro tài chính:
Rủi ro tài chính liên quan đến việc công ty tài trợ cho hoạt động của mình.
Người ta thường tính toán rủi ro tài chính bằng việc xem xét cấu trúc vốn của một
công ty. Sự xuất hiện của các khoản nợ trong cấu trúc vốn sẽ tạo ra cho công ty
những nghĩa vụ trả lãi. Vì nghĩa vụ trả lãi này phải được thanh toán trước khi trả cổ

tức cho cổ phiếu thường nên nó có tác động đến cổ tức. Rủi ro tài chính là rủi ro có
thể tránh được trong phạm vi mà các nhà quản lý có toàn quyền quyết định vay hay
không vay. Một công ty không có khoản nợ vay sẽ không có rủi ro tài chính.
1.2.2.2 Lợi nhuận và rủi ro khi đầu tư vào trái phiếu
Lợi nhuận của trái phiếu
Nhà đầu tư khi khi đầu tư, kinh doanh trái phiếu sẽ được hưởng lợi từ các nguồn
chính sau đây:
ƒ

Tiền lãi định kỳ: Tiền lãi này thường được trả một năm/lần hay nửa
năm/lần. Số tiền lãi định kỳ được tính trên cơ sở lãi suất ghi trên trái phiếu
nhân với mệnh giá trái phiếu.

ƒ

Chênh lệch giá: Đây là phần chênh lệch giữa giá bán và giá mua trái phiếu.
Với loại trái phiếu có tính thanh khoản cao, nhà đầu tư sẽ bán trái phiếu khi
giá trái phiếu tăng lên để được hưởng chênh lệch giá.

ƒ

Lãi của lãi: Trong trường hợp nhà đầu tư lãnh tiền lãi định kỳ và tái đầu tư
ngay, tiền lãi này sẽ sinh ra lãi gọi là lãi tái đầu tư. Như vậy, sau một số năm
nắm giữ trái phiếu, số tiền lãi ghi trên trái phiếu được tái đầu tư sẽ mang lại


22

cho trái chủ một khoản lợi tức tiềm năng bao gồm lãi ghi trên trái phiếu và
lãi tái đầu tư.

Rủi ro của trái phiếu
Trái phiếu được đánh giá là loại hàng hóa ít rủi ro nhất trên thị trường chứng
khoán. Tuy nhiên, khi đầu tư, kinh doanh trái phiếu vẫn có rủi ro, mặc dù mức độ là
ít hơn so với rủi ro cổ phiếu. Một số loại rủi ro điển hình khi đầu tư, kinh doanh trái
phiếu là:
Rủi ro lãi suất
Giá của một trái phiếu điển hình sẽ thay đổi ngược chiều với sự thay đổi của lãi
suất: Khi lãi suất tăng thì giá trái phiếu sẽ giảm; khi lãi suất giảm thì giá trái phiếu
sẽ tăng. Nếu người đầu tư phải bán trái phiếu trước khi nó đáo hạn trong điều kiện
lãi suất tăng lên, thì người đầu tư đó sẽ lỗ vốn, tức là bán trái phiếu dưới mức giá
mua. Tất cả các loại trái phiếu, trừ trái phiếu có lãi suất thả nổi, đều phải chịu rủi ro
lãi suất.
Mức độ nhạy cảm của giá trái phiếu trước những thay đổi trong lãi suất thị
trường phụ thuộc vào những đặc tính khác nhau và những lựa chọn kèm theo đợt
phát hành.
Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán còn được gọi là rủi ro tín dụng, là rủi ro mà người phát hành
một trái phiếu có thể vỡ nợ, tức là mất khả năng thanh toán đúng hạn các khoản lãi
và gốc của đợt phát hành. Trái phiếu Chính phủ được coi là không có rủi ro thanh
toán. Trái phiếu công ty khác nhau sẽ có mức độ rủi ro khác nhau.
Rủi ro thanh toán được xác định bằng mức xếp hạng chất lượng do các công ty
xếp hạng tín nhiệm ấn định. Thông thường, họ căn cứ vào những điều khoản trong
khế ước vay, khả năng thu nhập và hệ số trang trải nợ, khả năng thanh khoản và


23

trình độ quản lý của công ty phát hành. Tuy nhiên, mức xếp hạng có thể thay đổi
sau khi công ty phát hành, hay nói khác đi là rủi ro thanh toán có thể thay đổi nhanh
hơn sự đánh giá của các tổ chức đánh giá chuyên nghiệp.

Rủi ro tái đầu tư
Trong trường hợp các dòng tiền nhận được từ trái phiếu được tái đầu tư. Khoản
thu nhập bổ sung từ việc tái đầu tư đó phụ thuộc vào mức lãi suất hiện hành tại thời
điểm tái đầu tư, cũng như vào chiến lược tái đầu tư. Khả năng thay đổi của lãi suất
tái đầu tư của một chiến lược xác định do sự thay đổi của lãi suất thị trường. Từ đó
dẫn tới tính không chắc chắn của lợi tức dự kiến nhận được từ trái phiếu. Đó là rủi
ro khi lãi suất để tái đầu tư các dòng tiền giữa kỳ bị giảm xuống. Rủi ro này sẽ lớn
hơn đối với những thời kỳ nắm giữ dài hơn. Tuy nhiên, cũng cần chú ý rằng, rủi ro
lãi suất và rủi ro tái đầu tư có những hiệu ứng triệt tiêu nhau. Rủi ro lãi suất là rủi ro
lãi suất tăng làm giảm giá trái phiếu còn rủi ro tái đầu tư là rủi ro lãi suất giảm.
Rủi ro lạm phát
Rủi ro lạm phát phát sinh do sự biến đổi trong giá trị của các dòng tiền mà một
trái phiếu đem lại, do lạm phát được đo lường bằng sức mua. Đối với trái phiếu có
lãi suất cố định, nhà đầu tư có nguy cơ phải chịu rủi ro lạm phát bởi lãi suất mà nhà
phát hành hứa trả là cố định trong suốt thời hạn của đợt phát hành. Đối với trái
phiếu có lãi suất thả nổi thì có rủi ro lạm phát ở mức thấp hơn, trong chừng mực lãi
suất phản ánh được tỷ lệ lạm phát dự đoán.
Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản tùy thuộc vào việc trái phiếu có dễ dàng được bán theo giá
trị hay gần với giá trị không. Thước đo chủ yếu đối với tính thanh khoản là độ lớn
khoảng cách giữa giá hỏi mua và giá chào bán trái phiếu mà nhà giao dịch yết lên.
Nếu nhà đầu tư dự định nắm giữ trái phiếu cho tới khi đáo hạn thì rủi ro này không
quan trọng lắm.


24

Rủi ro tỷ giá hối đoái
Khi tỷ giá hối đoái thay đổi theo chiều hướng đồng tiền thanh toán trái phiếu bị
giảm giá thì nhà đầu tư nắm giữ loại trái phiếu này sẽ gặp phải rủi ro.

1.2.2.3 Lợi nhuận và rủi ro khi đầu tư vào chứng chỉ quỹ
Lợi nhuận của chứng chỉ quỹ.
Các khoản lợi nhuận mà nhà đầu tư có được khi đầu tư vào chứng chỉ quỹ chính
là giá trị tài sản ròng của quỹ đầu tư đạt được. Giá trị tài sản ròng là tổng giá trị các
tài sản và các khoản đầu tư do quỹ đầu tư sở hữu trừ đi các nghĩa vụ nợ có liên
quan. Tổng giá trị tài sản của quỹ đầu tư bao gồm: giá trị các khoản đầu tư của quỹ;
cổ tức, lợi tức và lợi nhuận của các khoản đầu tư khác; tiền lãi gửi ngân hàng và các
khoản tiền chưa đầu tư tính đến thời điểm định giá. Dựa trên tổng giá trị tài sản ròng
của quỹ và căn cứ vào tình hình hoạt động kinh doanh hàng năm của quỹ đầu tư,
việc phân chia lợi nhuận sẽ được Đại hội nhà đầu tư thông qua.
Rủi ro của chứng chĩ quỹ
Rủi ro thanh khoản
Khả năng thanh khoản thấp trong hoạt động đầu tư và giao dịch chứng chỉ quỹ
có thể ảnh hưởng đến quỹ đầu tư, đặc biệt trong giai đoạn quỹ đầu tư mới được
thành lập và có một khối lượng vốn lớn cần giải ngân. Do đó, quỹ đầu tư có thể sẽ
không đạt được tỷ lệ phân bổ tài sản mục tiêu trong ngắn hạn. Ngoài ra, khả năng
thanh khoản thấp của thị trường có thể sẽ dẫn đến hiện tượng bán rẻ, mua đắt khi
quỹ đầu tư đầu tư. Tuy nhiên rủi ro này sẽ được hạn chế do mục tiêu đầu tư dài hạn
của quỹ đầu tư.
Tính thanh khoản của các khoản đầu tư mà quỹ đầu tư đầu tư phụ thuộc vào khả
năng niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán của các tổ chức phát hành
đó. Để hạn chế rủi ro về khả năng thanh khoản này, quỹ đầu tư thường ưu tiên đầu


×