Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh tại các ngân hàng thương mại cổ phần thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
-------o0o--------

ĐẶNG THỊ NHƯ HOA

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ XUÂN LIỄU

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2008


MỤC LỤC
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
Danh mục các biểu đồ
MỤC LỤC.......................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................7
U

1.

Lý do chọn đề tài: ..................................................................................................... 7



2.

Mục tiêu nghiên cứu: ............................................................................................... 8

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ......................................................................... 8

4.

Phương pháp nghiên cứu: ........................................................................................ 8

5.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu:.................................................................................. 9

6.

Kết cấu luận văn: ...................................................................................................... 9

CHƯƠNG 1: .................................................................................................................11
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI ...............................................................................................11
1.1.

Tổng quan về ngân hàng thương mại: ................................................................. 11

1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại .............................................................. 11
1.1.2. Phân loại Ngân hàng thương mại ..................................................................... 11

1.1.3. Các hoạt động kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng thương mại .................. 12
1.2.

Lý luận chung về quản trị rủi ro ........................................................................... 13

1.2.1. Khái niệm về rủi ro: ........................................................................................... 13
1.2.2. Quản trị rủi ro là gì? ........................................................................................... 14
1.2.3. Sự cần thiết phải quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng: ....................... 15
1.2.4. Một số rủi ro chủ yếu trong hoạt động ngân hàng ......................................... 17
1.2.5. Một số chỉ tiêu phổ biến dùng để đo lường rủi ro trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng:................................................................................................ 27
1.3.

Kinh nghiệm về quản trị rủi ro từ ngân hàng ACB:........................................... 29

1.3.1. Rủi ro về lãi suất ................................................................................................. 29
1.3.2. Rủi ro về tín dụng ............................................................................................... 30
1.3.3. Rủi ro về ngoại hối ............................................................................................. 30


1.3.4. Rủi ro về thanh khoản ........................................................................................ 31
1.3.5. Rủi ro về hoạt động ngoại bảng ........................................................................ 32
1.3.6. Rủi ro luật pháp .................................................................................................. 33
1.3.7. Rủi ro khác .......................................................................................................... 33
CHƯƠNG 2: .................................................................................................................36
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH................................................................36
2.1.

Đặc điểm kinh tế và diễn biến tình hình hoạt động của hệ thống các tổ

chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua: ....... 36

2.2.

Thực trạng về quản trị rủi ro tín dụng của các Ngân hàng thương mại thành
phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua: ................................................................ 41

2.2.1. Tình hình hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại thành phố
Hồ Chí Minh trong thời gian qua: .................................................................... 41
2.2.2. Nguy cơ rủi ro trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại
thành phố Hồ Chí Minh: .................................................................................... 43
2.3.

Thực trạng về quản trị rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại
thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua: ...................................................... 46

2.3.1. Tình hình huy động của các Ngân hàng thương mại Thành phố Hồ Chí
Minh: .................................................................................................................... 46
2.3.2. Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản ở các ngân hàng thương mại ........... 52
2.4.

Thực trạng về quản trị rủi ro thị trường trong các ngân hàng thương mại
trong thời gian qua: ................................................................................................ 55

2.5.

Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong công tác quản trị rủi ro trong
các Ngân hàng thương mại thành phố Hồ Chí Minh: ........................................ 60

2.5.1. Nhiều ngân hàng vẫn còn vi phạm quy trình, quy chế: .................................. 61

2.5.2. Các ngân hàng chưa tính toán được chi phí vốn: ............................................ 63
2.5.3. Hầu hết các ngân hàng hiện nay đều chưa xây dựng cho mình một chính
sách tín dụng khoa học và phù hợp: ................................................................. 64
2.5.4. Hầu hết các ngân hàng đều không có chiến lược phát triển rõ nét. ............... 65

2


2.5.5. Chưa có sự độc lập giữa chức năng bán hàng, tác nghiệp và quản trị rủi
ro trong mô hình tổ chức tín dụng ở hầu hết các Ngân hàng. ....................... 66
2.5.6. Quản trị danh mục cho vay của ngân hàng chưa chú trọng đa dạng hoá. ... 66
2.5.7. Các ngân hàng thương mại Việt Nam hầu như chưa xây dựng được mô
hình lượng hoá rủi ro và xác định mức cho vay tối đa, tối ưu đối với
khách hàng. ......................................................................................................... 67
2.5.8. Công tác phòng ngừa và quản lý rủi ro tỷ giá còn nhiều bất cập: ................ 67
2.5.9. Nguyên nhân khác: .............................................................................................. 70
CHƯƠNG 3...................................................................................................................73
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG. ....................................................................73
3.1.

Đối với các ngân hàng: .......................................................................................... 73

3.1.1. Tiếp tục thử nghiệm các mô hình quản trị rủi ro mới phù hợp với sự thay
đổi của thị trường tài chính: ............................................................................. 73
3.1.2. Mỗi ngân hàng cần xây dựng văn hóa rủi ro: ................................................. 74
3.1.3. Các ngân hàng cần nhanh chóng quy định và thực hiện chế độ nghỉ
phép liên tục nhiều ngày và bắt buộc đối với nhân viên tín dụng và kiểm
soát viên phụ trách tín dụng: ............................................................................ 75
3.1.4. Các ngân hàng cần đặt máy scan tại các đơn vị để yêu cầu các đơn vị

scan chứng từ bản gốc về Hội sở để kiểm tra và để việc kiểm tra hồ sơ
chứng từ được nghiêm ngặt trước khi thực hiện giải ngân........................... 76
3.1.5. Các ngân hàng thường đưa ra chỉ tiêu và các mục tiêu để phấn đấu
chung mà không đưa ra giới hạn chấp nhận rủi ro trên từng mục tiêu cụ
thể. ........................................................................................................................ 77
3.1.6. Các ngân hàng thương mại cần quản lý và kiểm soát rủi ro theo hướng:
phân chia các cấp độ để quản trị và kiểm soát rủi ro và đưa ra các hình
thức để quản trị rủi ro........................................................................................ 78
3.1.7. Các ngân hàng nên sử dụng mục tiêu thu lợi nhuận từ lãi để đánh giá
một cách đầy đủ rủi ro của các sản phẩm tín dụng. ...................................... 83

3


3.1.8. Các ngân hàng nên sử dụng mục tiêu độ nhạy lãi suất và mục tiêu độ
lệch kì hạn để quản trị rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất. ...................... 84
3.1.9. Các giải pháp khác: ........................................................................................... 85
3.2.

Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ............................................................. 86

3.3.

Đối với các tổ chức kiểm toán ............................................................................. 88

3.4.

Về phía Chính phủ.................................................................................................. 88

KẾT LUẬN CHUNG ...................................................................................................90

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................................92
Phụ lục: Cơ cấu thu nhập trong một số NHTM.

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ALCO: Ban quản lý tài sản nợ, tài sản có
ATM: máy rút tiền tự động.
NH: Ngân hàng.
TMCP: Thương mại cổ phần.
TP HCM: thành phố Hồ Chí Minh.
ABB: Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình.
ACB: Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu.
EAB: Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á.
EIB: Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam.
FCB: Ngân hàng thương mại cổ phần Đệ Nhất.
HDB: Ngân hàng thương mại cổ phần phát triển nhà TP Hồ Chí Minh.
GDB: Ngân hàng thương mại cổ phần Gia Định.
OCB: Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông.
PNB: Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam
NAB: Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Á.
NVB: Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt.
SCB: Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn.
SGB: Ngân hàng thương mại cồ phần Sài Gòn Công Thương.
STB: Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín
TBB: Ngân hàng thương mại cổ phần Thái Bình Dương.
VAB: Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á

5



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tình hình dư nợ của các Ngân hàng TMCP đến 30/06/2008.
Bảng 2.2: Nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại thành phố Hồ Chí
Minh qua các năm.
Bảng 2.3: Tình hình hoạt động của các Ngân hàng TMCP TP HCM.

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tăng trưởng của Việt Nam so với Châu Á và thế giới.
Biểu đồ 2.2: Biểu đồ lạm phát ở Việt Nam năm 2008.
Biểu đồ 2.3: Hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam năm 2008.
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu dư nợ Ngân hàng/ Tổng dư nợ của các Ngân hàng tính đến cuối
năm 2007.
Biểu đồ 2.5: Tỷ lệ Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ đến 30/06/2008 của các NH TMCP.
Biểu đồ 2.6: Một số ngân hàng TMCP TP Hồ Chí Minh có tổng tài sản lớn.
Biểu đồ 2.7: Tổng tài sản của các Ngân hàng TMCP TP HCM.
Biểu đồ 2.8: Biểu đồ cơ cấu huy động vốn của các Ngân hàng TMCP TP HCM.
Biểu đồ 2.9: Đồ thị lãi suất huy động USD, vàng và VNĐ kì hạn 3 tháng trong 6
tháng đầu năm 2008.
Biểu đồ 2.10: Diễn biến tỷ giá USD/VNĐ trong 5 năm qua cho đến ngày 3/10/2008.

6


LỜI MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài:
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và sự gia tăng mạnh mẽ các


hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tạo nên xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế
như một tất yếu của thời đại. Nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng
cũng không nằm ngoài tác động của tiến trình này. Đặc biệt đối với ngành ngân
hàng là một ngành có độ nhạy cảm rất cao. Hoạt động của nó là loại hình hoạt động
dịch vụ có hàm lượng chất xám cao sẽ đặc biệt chịu tác động. Ảnh hưởng của quá
trình hội nhập mang đến cho ngành ngân hàng những lợi ích nhưng cũng đầy thách
thức. Rõ thấy nhất đó là cạnh tranh trên thị trường của ngành ngân hàng Việt Nam
ngày càng cao, nhất là từ sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), các ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, đặc biệt
với các ngân hàng nước ngoài. Trên bình diện rộng hơn, sâu hơn, đòi hỏi các ngân
hàng phải không ngừng sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể đứng
vững trên thị trường.
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống của người dân ngày càng được
nâng cao, sự hiểu biết ngày càng được mở rộng, do đó, nhu cầu sử dụng các dịch vụ
ngân hàng càng phổ biến. Và trong điều kiện nền kinh tế cạnh tranh gay gắt như
hiện nay, để phục vụ tốt khách hàng, các ngân hàng còn phải không ngừng tung ra
những sản phẩm mới mang tính đặc thù riêng cho ngân hàng mình. Bên cạnh việc
phát hiện ra nhu cầu khách hàng để có những sản phẩm phù hợp, các ngân hàng còn
phải hiểu rõ những sản phẩm do mình cung cấp, vừa đảm bảo phục vụ tốt khách
hàng, vừa đảm bảo an toàn trong hoạt động.
Đảm bảo an toàn trong hoạt động là nhân tố quyết định sự sống còn của một
ngân hàng. Vì ngân hàng là ngành kinh doanh có độ nhạy cảm rủi ro cao nhất trên
thị trường, chỉ cần một biến động nhỏ trong nền kinh tế đều có thể ảnh hưởng đến
hoạt động của ngân hàng. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam có nhiều biến động
như hiện nay, lạm phát tăng cao trong những tháng đầu năm ngân hàng nhà nước áp
dụng chính sách thắt chặc tiền tệ và hàng loạt các ngân hàng lớn trên thế giới bị

7



thua lỗ, bị phá sản, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nước diễn ra gay gắt,
hoạt động ngân hàng ngày càng trở nên khó khăn hơn, nhiều rủi ro hơn. Để đảm bảo
cho hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định và bền vững, các ngân hàng cần nhận
biết được những loại rủi ro có thể tác động đến hoạt động của ngân hàng, để từ đó,
có những biện pháp phòng ngừa, tạo điều kiện cho ngân hàng phát triển bền vững.
Từ những đặc điểm nêu trên và với kiến thức đã học được tại trường Đại học
kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh cùng với thực tiễn công tác, nghiên cứu, tôi quyết
định chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh
doanh tại các Ngân hàng thương mại cổ phần - Thành phố Hồ Chí Minh”.
2.

Mục tiêu nghiên cứu:
Từ những vấn đề nghiên cứu trong phần lý thuyết, luận văn đi sâu vào phân

tích thực trạng quản trị rủi ro trong hoạt động tại các Ngân hàng thương mại cổ
phần Thành phố Hồ Chí Minh, qua đó làm cơ sở đề ra một số giải pháp nhằm hạn
chế các rủi ro nói trên.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài này là đánh giá thực trạng quản trị

rủi ro trong hoạt động kinh doanh tại các Ngân hàng thương mại cổ phần thành phố
Hồ Chí Minh, sự cần thiết phải có một phương pháp quản lý rủi ro đúng đắn nhằm
hạn chế, ngăn chặn những tổn thất có thể xảy ra cho chính ngân hàng và cho nền
kinh tế. Và thông qua đó, đưa ra một số tồn tại trong quá trình quản trị rủi ro ở các
Ngân hàng thương mại cổ phần thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đưa ra một số giải
pháp cụ thể nhằm hạn chế rủi ro trong quá trình hoạt động của các ngân hàng này.
4.


Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp chung được thực hiện xuyên suốt luận văn là xem xét và giải

quyết các vấn đề có liên quan trong mối liên hệ, trong trạng thái vận động và phát
triển. Thực trạng hoạt động cũng như những mặt hạn chế trong việc quản trị rủi ro
của các Ngân hàng thương mại cổ phần thành phố Hồ Chí Minh được phân tích,
đánh giá, có gắn với việc nghiên cứu hoàn cảnh và điều kiện của nền kinh tế nước

8


ta. Bên cạnh đó, một số phương pháp khác cũng được sử dụng trong luận văn như
phương pháp nghiên cứu dữ liệu thứ cấp và phương pháp nghiên cứu dữ liệu sơ cấp.
Phương pháp nghiên cứu dữ liệu thứ cấp được sử dụng để nghiên cứu những
vấn đề cơ bản về quản trị rủi ro. Dữ liệu được thu thập chủ yếu từ sách báo, từ các
tổ chức, thông tin thương mại, được dùng làm căn cứ đánh giá hoạt động của các
Ngân hàng thương mại cổ phần thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đưa ra hệ thống giải
pháp ở phần sau.
Phương pháp nghiên cứu dữ liệu sơ cấp nhằm thu thập và phân tích các thông
tin liên quan đến thực trạng hoạt động và quản trị rủi ro trong các Ngân hàng
thương mại cổ phần thành phố Hồ Chí Minh. Dữ liệu sơ cấp được thu thập chủ yếu
qua các báo cáo thống kê, báo cáo tài chính, báo cáo thường niên của các Ngân
hàng này.
5.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Đề tài nhằm khẳng định tầm quan trọng của việc quản trị rủi ro trong hệ thống

các Ngân hàng thương mại cổ phần thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện

nay. Kinh doanh tiền tệ là một hoạt động đầy rủi ro và không thể tránh khỏi rủi ro.
Vì vậy, việc quản trị rủi ro là nhu cầu tất yếu cho hoạt động ngân hàng trong bối
cảnh hiện tại.
Kết quả phân tích các mặt hoạt động cũng như cách thức quản trị rủi ro đang
diễn ra tại các Ngân hàng thương mại cổ phần thành phố Hồ Chí Minh được nêu lên
trong luận văn phản ánh đúng thực tế đang diễn ra. Các giải pháp được đưa ra cũng
dựa trên sự phân tích này, vì vậy, có thể nghiên cứu áp dụng cho từng chủ thể trong
nền kinh tế, giúp cho các Ngân hàng này, đặc biệt là các Ngân hàng có qui mô
tương đối nhỏ có thể nhận ra các rủi ro đang tồn tại và khắc phục để hoạt động ngân
hàng trong nền kinh tế ngày càng an toàn, lành mạnh, tạo được lợi thế cạnh tranh
trong nền kinh tế hội nhập.
6.

Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu, mục lục, doanh mục tài liệu tham

khảo, phần nội dung của luận văn gồm 3 chương:

9


¾

Chương I: Lý luận chung về quản trị rủi ro và các loại rủi ro trong hoạt
động ngân hàng.

¾

Chương II: Nêu ra thực trạng việc nhìn nhận và quản trị các loại rủi ro
trong các ngân hàng thương mại cổ phần thành phố Hồ Chí Minh.


¾

Chương III: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh
doanh tại các ngân hàng thương mại cổ phần – Thành phố Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay.

10


CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT
ĐỘNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại:
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Theo từ điển Wikipedia,
“Ngân hàng” là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát
triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình
ngân hàng khác.
“Ngân hàng thương mại cổ phần” là các ngân hàng hoạt động kinh doanh,
thương mại theo mô hình cổ phần và tuân theo các luật riêng của Chính phủ và các
quy chế, quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi hoạt động. Gọi là ngân
hàng thương mại cổ phần để phân biệt với các ngân hàng thương mại nhà nước và
ngân hàng thương mại liên doanh và chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài
tại Việt Nam.
1.1.2. Phân loại Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại được phân loại theo các tiêu chí sau:
-


Theo hình thức sở hữu: ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng thương
mại quốc doanh, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ..

-

Theo tính chất kinh doanh: ngân hàng bán lẽ, ngân hàng bán buôn

-

Theo quan hệ trong tổ chức: ngân hàng hội sở, ngân hàng chi nhánh cấp 1,
cấp 2, phòng giao dịch.

-

Theo không gian địa lý: ngân hàng thương mại đô thị, ngân hàng thương
mại nông thôn.

11


1.1.3. Các hoạt động kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng thương mại
Chính vì Ngân hàng thương mại là những trung gian tài chính, do đó, hoạt
động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các
dịch vụ thanh toán. Nhìn chung, các hoạt động chủ yếu trong một ngân hàng thương
mại gồm có:
-

Hoạt động huy động vốn: nhận tiền gửi của các cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ

chức tín dụng khác; phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ
có giá khác để huy động vốn, vay vốn, và các hình thức huy động vốn khác


-

Hoạt động tín dụng: cho vay cá nhân, cho vay các tổ chức kinh tế, các tổ
chức tín dụng khác với thời hạn cho vay ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn.

-

Bảo lãnh: thực hiện các loại bảo lãnh trong nước hay ngoài nước như bảo
lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh hoàn tiền ứng trước, …

-

Chiết khấu: chiết khấu và tái chiết khấu các giấy tờ có giá, thương phiếu, ..

-

Cho thuê tài chính: ngân hàng thương mại được phép hoạt động cho thuê tài
chính thông qua công ty cho thuê tài chính cho mình lập ra.

-

Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: ngân hàng thương mại được
phép mở tài khoản cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có nhu cầu
thanh toán, từ đó, ngân hàng thực hiện các dịch vụ như cung cấp các
phương tiện thanh toán, thanh toán trong và ngoài nước, thu hộ, chi hộ cho
khách hàng, ….


-

Các hoạt động khác: góp vốn mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh
doanh ngoại hối, ủy thác và nhận ủy thác (như quản lý tài sản), tư vấn tài
chính, bảo quản vật quý giá, cung ứng dịch vụ bảo hiểm, …

12


1.2. Lý luận chung về quản trị rủi ro
Bất kỳ ngành kinh doanh nào mang lại siêu lợi nhuận đều phải đối mặt với nhiều
nguy cơ rủi ro trong đó ngành ngân hàng không là ngoại lệ: rủi ro ở góc độ vĩ mô
như lạm phát tăng, nền kinh tế suy thoái, … hay rủi ro ở góc độ vi mô như sự cạnh
tranh ngày càng tăng, hệ thống công nghệ thông tin, rủi ro trong giao dịch thương
mại, rủi ro chính trị, thiên tai hay bất kì rủi ro nào vẫn còn đang tiềm ẩn. Rủi ro và
lợi nhuận luôn tỷ lệ nghịch với nhau: rủi ro cao, lợi nhuận cao và ngược lại (“high
risk, high return”). Ông Walter Wriston, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng
Giám đốc Ngân hàng CitiGroup 1970 – 1984 đã từng nói: “Các ngân hàng kinh
doanh bằng chính việc quản lý rủi ro. Thuần nhất và đơn giản, đó chính là nghề
ngân hàng”.
Thật vậy, hoạt động ngân hàng hàm chứa những rủi ro rất lớn, không có rủi ro thì
không có lợi nhuận “No risk – No Return”. Đôi khi sự thành công mang đến những
khoản lợi nhuận khổng lồ và niềm lạc quan vô bờ bến cho nhà lãnh đạo, và cũng
chính điều này đôi khi các nhà lãnh đạo lại không nhìn thấy nhiều mối nguy hiểm
đang dần dần xâm nhập vào hoạt động của họ. Vấn đề là làm thế nào để ngân hàng
nhận diện được rủi ro, chấp nhận nó và tìm cách kiểm soát nó. Người hiểu rõ rủi ro
luôn nắm phần thắng trong tay. Do đó, trong cuộc sống hay trên thương trường, ai
hiểu biết về rủi ro nhiều hơn thì đó là người chiến thắng.
Vậy rủi ro là gì? Và tại sao việc quản trị rủi ro trong ngân hàng lại là cần thiết?

1.2.1. Khái niệm về rủi ro:
Rủi ro là khả năng gặp nguy hiểm có thể phát sinh từ một vài tiến trình hay một
vài sự kiện. Ngoài ra, theo Webster, rủi ro là khả năng bị thua lỗ hoặc tổn thất. Nói
cách khác khi đầu tư mà không thể chắc chắn về lợi nhuận thu được đó chính là rủi
ro.
Theo nhiều nhà phân tích, rủi ro chỉ phát sinh khi có một sự không chắc chắn
về mất mát sẽ xảy ra (uncertainty about the occurrence of a loss). Với khái niệm về
rủi ro này, nếu có chuyện mất mát mà đã có chủ định từ trước thì không phải là rủi
ro, nếu những tổn thất xảy ra mà không được mong đợi thì đó mới là rủi ro.

13


Ví dụ như trong đầu tư chứng khoán, rủi ro chính là sự thay đổi liên tục của giá
cả chứng khoán. Nói cách khác khi đầu tư vào thị trường chứng khoán, không ai có
thể chắc chắn về lợi nhuận thu được. Nhưng cho dù quyết định đầu tư hay gửi tiết
kiệm, chúng ta luôn phải đối mặt với những rủi ro. Bạn có thể cất tiền trong nhà
nhưng bạn vẫn phải chấp nhận rủi ro mất trắng nếu nhà bạn cháy. Bạn có thể gửi
tiền vào ngân hàng nhưng sức mua của đồng tiền có thể giảm do ảnh hưởng của lạm
phát khiến giá trị thực tế của đồng tiền bạn nhận được sau đó còn thấp hơn cả khi
gửi tiền vào.
Hoặc để có được lợi nhuận càng lớn từ danh mục đầu tư, rủi ro phải chấp nhận
càng lớn. Gửi tiền tiết kiệm tuy ít có rủi ro nhưng ngược lại tiền lãi nhận được cũng
không đáng kể.
Một cách khái quát nhất, có thể hiểu “rủi ro là những biến cố không mong đợi
xảy ra, gây mất mát thiệt hại tài sản, thu nhập của ngân hàng trong quá trình hoạt
động”.
.Rủi ro là không thể tránh khỏi nhưng có thể kiểm soát được. Kiểm soát rủi ro
tức là việc người ta có thể tăng tối đa lợi nhuận trong khi đó giảm thiểu rủi ro. Làm
được như vậy có nghĩa là đã có một lợi nhuận hợp lý với một mức rủi ro chấp nhận

được. Vậy như thế nào là rủi ro chấp nhận được? Mỗi nhà đầu tư có một quan điểm
khác nhau. Tuy nhiên, một quan niệm chung được nhiều nhà đầu tư thống nhất đó là
khi chúng ta không phải tỉnh giấc lúc nửa đêm và lo lắng về quyết định đầu tư của
mình. Để làm được điều này cần phải quản trị tốt rủi ro.
1.2.2. Quản trị rủi ro là gì?
Có rất nhiều khái niệm về quản trị rủi ro và cho đến nay vẫn chưa có sự thống
nhất. Có nhiều trường phái nghiên cứu về rủi ro và quản trị rủi ro và từ đó, họ đưa
ra các quan điểm về quản trị rủi ro cũng khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, quan
điểm sau đây được nhiều người tán đồng hơn cả.
Quản trị rủi ro là một tiến trình mà các nhà lãnh đạo thỏa mãn được tất cả các
nhu cầu bằng việc xác định những rủi ro chủ yếu, có một phương pháp đo lường rủi

14


ro một cách dễ hiểu và nhất quán, lựa chọn rủi ro nào để giảm thiểu, rủi ro nào nên
tảng, và cũng từ đó, xây dựng các quy trình quy chế để kiểm soát hậu quả của rủi ro.
Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng còn là việc theo dõi quá trình sử
dụng vốn của ngân hàng. Nhiệm vụ chủ yếu là kiểm soát các loại rủi ro phát sinh
cũng như đưa ra các giải pháp xử lý rủi ro hiệu quả nhất.
Hay nói cách khác, quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa
học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, phân tích, kiểm soát, phòng ngừa
và giảm thiểu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro.
1.2.3. Sự cần thiết phải quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
Rủi ro trong kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tế thị
trường luôn luôn là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Do hoạt động ngân hàng
có tính nhạy cảm cao, ảnh hưởng mạnh đến sự ổn định kinh tế - xã hội. Nếu có tin
đồn về một ngân hàng nào đó đang gặp rủi ro, lâm vào tình trạng thiếu khả năng
thanh toán, có nguy cơ hoặc thực sự đi đến phá sản, điều này dễ gây tâm lý hoảng
loạn, khiến mọi người đổ xô đi rút tiền gửi của mình thật nhanh để tránh bị tổn thất,

và chính điều này lại mang đến nguy cơ gây đổ vỡ, những tổn thất về tài sản không
những cho chính ngân hàng đó mà còn ảnh hưởng đến toàn hệ thống ngân hàng, ảnh
hưởng đến nền kinh tế quốc gia.
Rủi ro xảy ra khiến cho ngân hàng bị thua lỗ, và thậm chí có thể dẫn đến phá
sản, ảnh hưởng đến tất cả những người gửi tiền vào ngân hàng, các doanh nghiệp
không được đáp ứng đủ nhu cầu vốn, … từ đó dẫn đến nền kinh tế bị suy thoái, giá
cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, … gây rối loạn trật tự xã hội, kéo theo sự
sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng khác trong nước và trong khu vực.
Lịch sử hoạt động ngân hàng trên thế giới và hiện tại đã chứng kiến không ít
các ngân hàng lớn bị phá sản, mà hậu quả của nó thậm chí không giới hạn trong
phạm vi một quốc gia mà lan ra cả nhiều nước trong khu vực hay toàn cầu.
Cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ tại châu Á năm 1997 đã làm cho nhiều ngân
hàng, tổ chức tài chính của các nước trong khu vực bị phá sản. Nhiều ngân hàng nhỏ

15


ở Thái Lan, Nhật Bản, Indonesia, Philippin... đã phải sáp nhập hoặc bị các ngân hàng
lớn mua lại, nhiều công ty tài chính, môi giới chứng khoán đã bị phá sản.
Ở Việt Nam, vào những năm 1989- 1990, cũng đã xảy ra tình trạng người dân
đổ xô đi rút tiền gửi tại các quỹ tín dụng, gây ra sự đổ vỡ hàng loạt các quỹ tín
dụng. Đây là lần đổ vỡ đầu tiên có tính dây chuyền của các tổ chức tín dụng Việt
Nam khi chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổ vỡ đã gây tổn thất lớn cho các quỹ tín dụng
và hệ thống ngân hàng, người gửi tiền và nền kinh tế nói chung, đặc biệt đã ảnh
hưởng không nhỏ đến lòng tin của người gửi tiền, mà chúng ta đã phải mất một thời
gian dài mới lấy lại được.
Gần đây nhất là hàng loạt các ngân hàng lớn và các công ty tài chính lớn ở Mỹ,
Châu Âu liên tục tuyên bố phá sản, bị mua lại, bị sáp nhập. Thị trường tài chính thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang đứng trước nguy cơ lâm vào khủng

hoảng.
Trong vài năm gần đây, không ít lần Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải can
thiệp để cứu vãn tình thế và khôi phục hoạt động cho một số ngân hàng thương mại
cổ phần, vì những lý do khác nhau, có nguy cơ bị lâm vào tình trạng mất khả năng
thanh toán. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện tại, nền kinh tế toàn cầu đang suy thoái,
hàng loạt các ngân hàng lớn trên thế giới bị thua lỗ, tuyên bố phá sản, bị sáp nhập.
Từ đầu năm 2008, các ngân hàng thương mại Việt Nam gặp khó khăn không nhỏ
trong vấn đề thanh khoản. Ngân hàng nhà nước áp dụng hàng loạt các chính sách
thắc chặt tiền tệ, tình hình huy động khó khăn, thị trường chứng khoán trầm lắng,
các Ngân hàng thương mại đứng trước nguy cơ rủi ro rất cao.
Nếu những tổn thất do rủi ro trong hoạt động tín dụng gây ra ở mức kiểm soát
được thì việc xử lý tương đối dễ dàng trong giới hạn cho phép của quỹ dự phòng bù
đắp rủi ro của các tổ chức tín dụng. Nhưng khi tổn thất lớn, vượt quá khả năng xử lý
của mình thì vấn đề sẽ trở nên nghiêm trọng, gây hậu quả khó lường không những
cho chính tổ chức tín dụng đó, mà còn cho cả những tổ chức tín dụng và doanh

16


nghiệp khác có liên quan, ảnh hưởng tới quyền lợi người gửi tiền và cuối cùng, ảnh
hưởng tới toàn bộ nền kinh tế, và là nguy cơ tiềm ẩn cho khủng hoảng tài chính.
Với vai trò trung gian trên thị trường tài chính, ngân hàng thực hiện chức năng
“đi vay để cho vay”. Vì thế, ngân hàng gánh chịu rủi ro từ cả hai phía: Người đi vay
và người cho vay. Đứng trên giác độ là người đi vay, rủi ro tín dụng xảy ra khi
người gửi tiền rút trước hạn; còn đứng trên giác độ là người cho vay, rủi ro tín dụng
xảy ra khi người vay hoàn trả tiền vay không đúng với hợp đồng tín dụng đã ký kết
với ngân hàng. Và bên cạnh đó, ngân hàng còn gặp không ít nhưng rủi ro khác.
Từ thực tế có những thảm họa tài chính đã xảy ra trong các định chế tài chính
và phi tài chính đã cho thấy sự cần thiết ngân hàng phải quản trị nhiều loại rủi ro
khác nhau. Các rủi ro tài chính hầu như không còn là hiện tượng gì mới mẻ, nó

nhanh chóng gây ra các vấn đề cho chính ngân hàng cũng như các bên liên quan.
Các ngân hàng cần thiết phải quản trị đồng bộ các rủi ro. Các ngân hàng và các định
chế tài chính khác cần đáp ứng các điều kiện về đo lường rủi ro. Tuy nhiên, cũng sẽ
rất sai lầm khi cho rằng các thủ tục này là lý do duy nhất và quan trọng nhất để tạo
nên một hệ thống quản trị rủi ro mang tính khoa học cao. Các lãnh đạo cần một
phương pháp đo lường rủi ro đáng tin cậy để có thể hoạt động với mức rủi ro tốt
nhất. Trên cơ sở đó, tính toán mức độ giới hạn lỗ có thể xảy ra sao cho việc thanh
khoản trở nên nhanh chóng. Một cơ chế để kiểm soát và giám sát rủi ro là cần thiết,
từ đó, tạo nên động cơ chấp nhận rủi ro một cách thận trọng và khôn ngoan.
1.2.4. Một số rủi ro chủ yếu trong hoạt động ngân hàng
Các rủi ro trong ngành ngân hàng luôn tương tác lẫn nhau, từ rủi ro này có thể
dẫn đến rủi ro kia và ngược lại. Sau đây là các rủi ro thường gặp trong hoạt động
ngân hàng:
1.2.4.1.

Rủi ro thanh khoản

Rủi ro thanh khoản là rủi ro do ngân hàng mất khả năng thanh toán các khoản
nợ đến hạn. Đối với một ngân hàng đang hoạt động bình thường, ngân hàng đó có
đủ khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn. Khi ngân hàng lâm vào tình
trạng thanh khoản kém, ngân hàng này sẽ bắt đầu đối mặt với những rắc rối, đầu

17


tiên là họ không thể huy động được vốn cả trên thị trường bán lẽ lẫn bán buôn. Rủi
ro này thường thấy ở các ngân hàng không có khả năng tài trợ cho hoạt động tại đơn
vị mình từ ngày này qua ngày khác.
Trong ngân hàng, vấn đề thanh khoản là một vấn đề cực kì quan trọng, và
chính điều này là yếu tố để phân biệt ngân hàng với các định chế tài chính khác.

Khách hàng khi gửi tiền ở ngân hàng, họ luôn tin rằng họ có thể rút tiền ra vào bất
kì thời điểm nào họ muốn, bất kể món tiền đó đến hạn hay chưa đến hạn. Do đó,
nếu có bất kì một tin đồn nào gây bất lợi về khả năng thanh toán của ngân hàng, hầu
như bất kì ai có tiền gửi ở ngân hàng đều muốn đến rút, và chính điều này lại gây ra
việc mất khả năng thanh khoản của ngân hàng. Nếu không có sự hỗ trợ của các
ngân hàng khác và đặc biệt là Ngân hàng Trung Ương bơm một lượng tiền lớn cho
ngân hàng, ngân hàng sẽ nhanh chóng mất khả năng chi trả vì trong một thời gian
ngắn như vậy, không ngân hàng nào tự xoay sở kịp.
Để giảm thiểu rủi ro này, hầu hết các ngân hàng phải giữ nhiều những loại tài
sản mang tính thanh khoản cao để dễ dàng chuyển thành tiền mặt, ví dụ như: tiền
mặt, trái phiếu chính phủ, các khoản đầu tư ngắn hạn, … Các ngân hàng đều biết
rằng giữ nhiều loại tài sản thanh khoản cao thì lợi nhuận cũng thấp. Chính vì vậy,
các ngân hàng khi hoạt động luôn duy trì một sự chênh lệch nhất định trong kì hạn:
lấy một phần tiền gửi huy động kì hạn ngắn để tài trợ cho các khoản vay có kì hạn
dài hơn. Hầu như các ngân hàng làm được đều này vì họ luôn có một khoản dự trữ
nhất định. Nếu loại bỏ chênh lệch kì hạn sẽ đảm bảo được tính thanh khoản và thậm
chí loại bỏ được rủi ro thanh khoản, bởi vì các khoản tiền gửi được đầu tư vào
những tài sản có kì hạn tương đương thì đó là những tài sản có mức độ rủi ro thấp
và lợi nhuận cũng thấp. Tuy nhiên, các ngân hàng lại luôn tìm cách đạt được mức
lợi nhuận tối ưu. Họ đóng vai trò như một tổ chức tài chính trung gian, và chưa bao
giờ tuân thủ đúng như vậy. Họ luôn dàn xếp sao cho lợi nhuận đạt được là tối ưu
nhất.
Trong kinh tế vĩ mô có nói rằng, miễn là không có sự thay đổi trong vấn đề
thanh khoản trong nền kinh tế, một khách hàng chỉ rút tiền khi đến hạn. Nếu ngân
hàng cứ khăng khăng làm sao cho các kì hạn này khớp đúng với nhau, sự cạnh tranh

18


giữa các ngân hàng trên thị trường sẽ chứng minh rằng, ngân hàng nào mang tiền

đầu tư tiếp sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn ngân hàng cứ khăng khăng giữ cho nguồn
tiền huy động được nhàn rỗi.
Ở mức độ kinh tế vi mô, hồ sơ đến hạn của các khoản nợ ngân hàng được
cho là trên thực tế có khả năng trả được, bởi vì một vài khoản tiền gửi cho xu
hướng dài hơn kì hạn ban đầu, chỉ có một phần trên tổng tiền gửi là được rút
đúng ngày thỏa thuận. Mục tiêu của ngân hàng là tối đa hóa lợi nhuận, nâng
cao giá trị của cổ đông, hầu như tất cả các ngân hàng luôn chấp nhận một mức
độ chênh lệch nhất định trong kì hạn.
1.2.4.2.

Rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng là rủi ro xảy ra khi các đối tác, các khách hàng không thực hiện
các cam kết theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Như vậy, đây là rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng,
biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không
đúng hạn cho ngân hàng. Có thể nói rằng, rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các
mối quan hệ mà trong đó, ngân hàng là chủ nợ, người đi vay mất khả năng chi trả
hoặc trả nợ không đúng hạn, diễn ra trong quá trình ngân hàng cho vay, chiết khấu,
cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán. Đây là loại rủi ro liên quan đến chất
lượng tín dụng.
Nếu căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được chia thành
các loại sau:

19


Rủi ro tín dụng

Rủi ro giao

dịch

Rủi ro
lựa chọn

-

Rủi ro
đảm bảo

Rủi ro danh
mục

Rủi ro
nghiệp vụ

Rủi ro
nội tại

Rủi ro
tập trung

Rủi ro giao dịch (Transaction risk):
Rủi ro giao dịch là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân

phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh
giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính là: rủi ro lựa chọn, rủi ro đảm
bảo và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân
tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có

hiệu quả để ra quyết định cho vay
+ Rủi ro đảm bảo phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều
khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm
bảo, cách thức đảm bảo và mức cho vay trên trị giá của tài sản đảm
bảo.
+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và
hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro
và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề.
-

Rủi ro danh mục (Portfolio risk):

20


Rủi ro danh mục là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân
phát sinh là do những hạn chế trong việc quản lý danh mục cho vay của ngân hàng
và được chia thành hai loại: rủi ro nội tại (Intrinsic risk) và rủi ro tập trung
(Concentration risk).
+

Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang
tính riêng biệt bên trong mỗi chủ thể đi vay, hoặc ngành, lĩnh vực kinh
tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn
của khách hàng vay.

+

Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung quá nhiều vốn để
cho vay đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp

hoạt động trong cùng một ngành, một lĩnh vực kinh tế; hoặc trong
cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có
rủi ro cao.

1.2.4.3.

Rủi ro thị trường:

Rủi ro thị trường là rủi ro lỗ do giá cả trên thị trường thay đổi. Rủi to thị
trường bao gồm rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro giá cổ phiếu, rủi ro giá
trái phiếu.
Rủi ro thị trường (rủi ro giá cả) thông thường có liên quan tới các công cụ
được giao dịch trên thị trường xác định, và có các kỹ thuật được sử dụng để đánh
giá rủi ro. Giá trị của mỗi công cụ sẽ là một chức năng của giá cả, trái phiếu, thời
gian, lãi suất và các nhân tố khác. Nếu một ngân hàng đang nắm giữ các công cụ tài
chính, như vốn chủ sở hữu, trái phiếu, những điều này nằm trong rủi ro thị trường
hay rủi ro giá cả, và rủi ro xảy ra khi giá của các công cụ tài chính này thay đổi đột
ngột.
Rủi ro thị trường hệ thống:
Rủi ro này xảy ra khi có sự dịch chuyển về giá đối với các công cụ trên thị
trường, ví dụ như có sự thay đổi trong chính sách kinh tế. Rủi ro thị trường không
hệ thống tăng trong tình hình giá cả của một công cụ dịch chuyển ra khỏi mức
chung so với các công cụ tương tự. Ví dụ như khi chính phủ thông báo tài chính

21


đang thiếu hụt nghiêm trọng có thể làm cho chỉ số giá cổ phần rớt xuống và gây ra
sự sụt giảm chung trong tất cả các chỉ số.
Đối với một ngân hàng có thể gặp các rủi ro thị trường liên quan tới:

ƒ Vốn chủ sở hữu
ƒ Hàng hóa
ƒ Tiền tệ
ƒ Các chứng khoán nợ
ƒ Các công cụ nợ phái sinh (Hợp đồng tỷ giá kì hạn, giao sau, quyền chọn)
Vì vậy, rủi ro thị trường bao gồm một tập hợp rất lớn các rủi ro khác. Hai loại
rủi ro thị trường thường thấy là rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá hối đoái. Nếu tỷ giá
hối đoái biến động, việc thừa hay thiếu ngoại hối cũng đưa ngân hàng vào rủi ro hối
đoái. Trong trường hợp này, trên thị trường ngọai hối, giá của các đồng tiền liên
quan được gọi là tỷ giá hối đoái. Một ngân hàng hoạt động trên toàn cầu sẽ có nhiều
đồng tiền giao dịch khác nhau. Rủi ro hối đoái phát sinh từ việc các đồng tiền biến
động theo chiều hướng bất lợi ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngoại hối cho
chính ngân hàng hay thay mặt cho khách hàng của mình thực hiện. Ví dụ như khi
một ngân hàng thừa đồng USD mà giá trị đồng USD lại giảm so với các đồng tiền
khác, ngân hàng này sẽ bị lỗ. Các ngân hàng cam kết trong các giao dịch giao ngay,
kì hạn hay hoán đổi với một số lượng lớn có thể chịu một sự thay đổi lớn trong từng
phút một. Sự chênh lệch giữa tiền tệ và kì hạn là yếu tố cần thiết của việc kinh
doanh – nếu phán đoán tốt về sự chênh lệch này, ngân hàng có thể kiếm được lợi
nhuận lớn và quản trị được rủi ro.
Nếu tỷ giá của 2 loại ngoại tệ là cố định, sẽ không có rủi ro hối đoái. Từ sau
chiến tranh thế giới thứ II cho đến cuối thập niên 70, các nước đều áp dụng chế độ
tỷ giá cố định. Một vài quốc gia như Hồng Kông hay Argentia cố định đồng tiền
của quốc gia theo đồng USD. Nhưng không may thay, Argentia không thành công,
họ tuyên bố không thể thanh toán các khoản nợ nước ngoài vào năm 2001. Với xu
hướng tiến tới một đồng tiền chung, các quốc gia trên thế giới hướng đến chế độ tỷ
giá hối đoái cố định.

22



Mặc dù khi áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định thì không xảy ra rủi ro tỷ
giá, các nhà đầu tư và ngân hàng có thể bất ngờ gặp những rủi ro rất lớn nếu một
trong những đồng tiền ấy bị giảm giá.
Nhìn chung, chỉ có một cách để loại trừ rủi ro hối đoái là thông qua một đồng
tiền chung, tiêu biểu có đồng tiền chung Châu Âu.
Rủi ro lãi suất: rủi ro lãi suất là một dạng giống với rủi ro giá cả, bởi vì lãi
suất chính là “giá cả” của đồng tiền, hay nói cách khác, đó là chi phí cơ hội cho việc
nắm giữ tiền. Rủi ro phát sinh khi lãi suất có sự chênh lệch nhau. Các ngân hàng
thường thu xếp sự chuyển đổi cho tài sản, nghĩa là giữ tài sản có và tài sản nợ có sự
khác biệt nhau về số tiền và kì hạn. Mục tiêu truyền thống của ban quan lý tài sản
nợ - tài sản có trong một ngân hàng là quản trị về rủi ro lãi suất.
1.2.4.4.

Rủi ro vận hành:

Rủi ro vận hành được định nghĩa như sau: “Đó là những rủi ro gây ra thiệt hại
trực tiếp hay gián tiếp do sự không cân xứng, sự không tuân thủ các quy trình trong
nội bộ, do hành động của con người, hệ thống kỹ thuật hoặc bởi các tác động bên
ngoài có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của ngân hàng”.
Có nhiều định nghĩa về rủi ro vận hành, nhưng quan trọng hơn là phải tìm ra
được phương pháp đo lường loại rủi ro này. Có một số dạng rủi ro vận hành chủ yếu
như sau:
Vốn vật chất (Physical Capital): bao gồm sự tổn thất tài sản, sự sụp đổ trong
các ngành thương mại, lỗi hệ thống, việc quản trị hệ thống quy quy chế không đồng
bộ. Lỗi kỹ thuật cũng gây ra rủi ro này, ở đây nói đến hệ thống máy tính ở ngân
hàng. Hệ thống máy tính bị hỏng có thể phá hủy cả ngân hàng. Hầu hết các ngân
hàng trên thế giới đều có hai hệ thống song song với nhau để lưu trữ dữ liệu trong
cùng thời gian, và hệ thống dự phòng được đặt ở một nơi bí mật để đề phòng những
bất trắc có thể xảy ra.
Sự kiện 9/11 làm cả hệ thống ngân hàng và các định chế tài chính khác ở Mỹ

bị phá hủy hoàn toàn, nếu không có hệ thống dự phòng thì các ngân hàng không thể
hoạt động trở lại ngay được. Nhìn chung, mất mát các tài sản vật chất, ví dụ như trụ

23


sở làm việc sẽ gây ra rủi ro vận hành. Về vấn đề này các ngân hàng có thể mua bảo
hiểm đề phòng hỏa hoạn hay các thảm họa khác có thể xảy ra mà không cần để
dành một khoản tiền đáng kể để khôi phục lại.
Con người (Human Capital): đây là loại rủi ro phát sinh do lỗi của con người
gây ra, đó là việc tuân thủ quy trình quy chế, sức khỏe của người lao động, sự an
toàn đối với người lao động hay sự gian lận bên trong ngân hàng do con người gây
ra. Ví dụ như một nhân viên nhằm lẫn trong việc ghi thêm nhiều số 0 trên lệnh
chuyển tiền hay ủy nhiệm thu. Hoặc một ngân hàng bị phạt trong việc vi phạm các
nguyên tắc, hoặc nhân viên trong ngân hàng có hành vi gian lận.
Luật pháp: rủi ro luật pháp phát sinh chủ yếu khi ngân hàng bị kiện. Hành
động này có thể do chính nhân viên trong ngân hàng gây ra. Có vô số trường hợp
ngân hàng bị kiện tụng chỉ vì sự bực tức của các khách hàng doanh nghiệp, họ yêu
cầu bồi thường vì đã cho họ lời tư vấn sai khi kí kết hợp đồng hoặc tư vấn về bán
sản phẩm.
Gian lận: rủi ro gian lận có thể xảy ra bên trong hoặc bên ngoài ngân hàng.
Một cá nhân có được một khoản tiền phi pháp (tiền ăn cắp) cũng ảnh hưởng đến
ngân hàng. Nhân viên trong ngân hàng gian lận để làm lợi cho bản thân.
Việc phân loại rủi ro vận hành như trên, có thể thấy các nhân tố cấu thành rủi
ro vận hành không độc lập với nhau. Việc gian lận bên trong nội bộ ngân hàng có
thể do con người gây ra. Nếu một nhân viên bị kiện ra tòa vì vi phạm pháp luật thì
đó vừa là rủi ro con người và rủi ro luật pháp. Rủi ro thanh toán cũng có thể do rủi
ro vận hành gây ra. Rủi ro vận hành sẽ kéo theo rủi ro thanh khoản. Nếu việc không
tuân thủ chặt chẽ trong quy trình cấp tín dụng sẽ kéo theo rủi ro tín dụng. Do đó,
việc định lượng rủi ro vận hành là điều hết sức khó khăn.

1.2.4.5.

Rủi ro vốn:

Rủi ro vốn của ngân hàng chỉ rằng bao nhiêu giá trị tài sản có thể giảm trước
khi vị trí của những người ký thác và các chủ nợ bị đặt vào thế nguy hiểm, có nghĩa
là vốn chủ sở hữu của ngân hàng không đủ bù đắp cho các khoản ký thác vào ngân
hàng khi gặp rủi ro trong họat động.

24


×