Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản theo luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh thanh hóa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 111 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Lấ HNG THI

ĐồNG PHạM TRONG TộI CƯỡNG ĐOạT TàI SảN
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Lấ HNG THI

ĐồNG PHạM TRONG TộI CƯỡNG ĐOạT TàI SảN
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. NGUYN KHC HI

H NI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Hồng Thái


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỒNG PHẠM TRONG
TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM.......................................................................................... 8
1.1.

Nhận thức về đồng phạm và khái niệm đồng phạm trong tội

cưỡng đoạt tài sản .............................................................................. 8

1.1.1. Nhận thức về đồng phạm ..................................................................... 8
1.1.2. Khái niệm đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản ........................... 10
1.2.

Dấu hiệu pháp lý của tội cưỡng đoạt tài sản có đồng phạm
theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 ............... 17

1.2.1. Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản có đồng phạm.......................... 18
1.2.2. Mặt khách quan của tội cưỡng đoạt tài sản có đồng phạm ................ 19
1.2.3. Chủ thể của tội cưỡng đoạt tài sản có đồng phạm ............................. 23
1.2.4. Mặt chủ quan của tội cưỡng đoạt tài sản............................................ 24
1.3.

Trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với đồng phạm trong
tội cưỡng đoạt tài sản ....................................................................... 26

1.3.1. Trách nhiệm hình sự đối với đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản.... 26
1.3.2. Hình phạt đối với đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản ............... 30
Chương 2: THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN CÓ
ĐỒNG PHẠM TẠI TỈNH THANH HÓA .............................................33


2.1.

Một vài nét về tình hình kinh tế chính trị ảnh hưởng tới tội
cưỡng đoạt tài sản có đồng phạm trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ...... 33

2.2.


Tình hình giải quyết và những kết quả đạt được trong công
tác xét xử các vụ án cưỡng đoạt tài sản có đồng phạm tại tỉnh
Thanh Hóa......................................................................................... 37

2.3.

Một số tồn tại, hạn chế trong việc giải quyết các vụ án cưỡng
đoạt tài sản có đồng phạm tại tỉnh Thanh Hoá ............................. 45

2.4.

Một số nguyên nhân của tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến thực
tiễn xét xử tội cưỡng đoạt tài sản có đồng phạm tại Thanh Hóa ...... 55

2.4.1. Nguyên nhân về pháp luật .................................................................. 56
2.4.2. Nguyên nhân về áp dụng pháp luật .................................................... 65
Chương 3: KIẾN NGHỊ TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG CÁC QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ ĐỒNG
PHẠM ĐỐI VỚI TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN ........................ 71
3.1.

Sự cần thiết và căn cứ phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của
Bộ luật hình sự năm 2015 về đồng phạm đối với tội cưỡng đoạt
tài sản ................................................................................................. 71

3.2.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn áp dụng

các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về đồng phạm đối
với tội cưỡng đoạt tài sản................................................................. 78

3.3.

Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của BLHS
Việt Nam về đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản .................. 89

KẾT LUẬN .................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 98


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

TAND:

Tòa án nhân dân

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

THPT:

Trung học phổ thông

UBND:


Ủy ban nhân dân

VKS:

Viện kiểm sat

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Bảng 2.1. Thống kê các vụ án xét xử sơ thẩm đối với tội cưỡng đoạt
tài sản giai đoạn 2012-2016 trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Trang
37

Bảng 2.2. Thống kê các vụ án xét xử sơ thẩm đối với tội cưỡng đoạt
tài sản có đồng phạm giai đoạn 2011 -2016 trên địa bàn
tỉnh Thanh Hoá
Bảng 2.3. Bảng những loại người đồng phạm trong tội cưỡng đoạt
tài sản


38
39

Bảng 2.4. Bảng thống kê chế tài hình sự áp dụng đối với các bị cáo
đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản
Bảng 2.5. Bảng thống kê kết quả xét xử phúc thẩm đối với các bị cáo
trong các vụ án cưỡng đoạt tài sản có đồng phạm

40
44


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự Việt Nam ngày càng tiến bộ, đầy đủ và đáp ứng được
yêu cầu của thực tiễn trong việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản với tính chất là
quyền thiết thân quan trọng của mỗi cá nhân, tổ chức. Chương XIV Bộ luật
hình sự năm 1999 về “Các tội phạm xâm phạm sở hữu” và hiện nay là
Chương XVI Bộ luật hình sự năm 2015 chính là hành lang pháp lý, căn cứ
quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng xử lý những tội xâm phạm quyền
sở hữu tài sản, trong đó có tội cưỡng đoạt tài sản.
Tội phạm có thể do một người thực hiện, nhưng cũng có thể do hai
hoặc nhiều người cùng tham gia thực hiện. Khi những người phạm tội cùng
chung hành động và cùng cố ý thực hiện một tội phạm cụ thể thì sự kiện đó
gọi là đồng phạm. Như vậy khi có từ hai người trở lên cố ý cùng thực hiện
hành vi cưỡng đoạt tài sản thì đó được coi là vụ án đồng phạm đối với tội
cưỡng đoạt tài sản. Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của những vụ án
đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản bao giờ cũng tăng lên đáng kể so với
những vụ án được thực hiện bởi chủ thể đơn lẻ. Do vậy tính chất phức tạp của
loại án đồng phạm này cũng tăng hơn nhiều so với các án thông thường, đơn

lẻ khác. Chất lượng xử lý các loại án đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản
phản ánh hiệu quả đấu tranh chống và phòng ngừa hình thức phạm tội đối với
loại tội phạm này. Nhận thức được vấn đề quan trọng này, Tòa án nhân dân
các cấp tỉnh Thanh Hóa đã không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất
lượng giải quyết, xét xử các các vụ án đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài
sản, phấn đấu không để xảy ra việc kết án oan người không có tội và bỏ lọt tội
phạm, hạn chế tới mức thấp nhất các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ
quan của Thẩm phán, bảo đảm các quyết định của Tòa án đúng pháp luật, đầy

1


đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có sức thuyết phục cao, có tính khả thi tốt và được dư
luận xã hội đồng tình, ủng hộ và tăng cường hiệu quả giáo dục, cải tạo người
phạm tội, cũng như tăng cường công tác đấu tranh phòng và chống tội cưỡng
đoạt tài sản nói chung, tội cưỡng đoạt tài sản có đồng phạm nói riêng.
Thực tiễn xét xử tại Thanh Hóa cho thấy về cơ bản Tòa án nhân dân hai
cấp (cấp sơ thẩm và phúc thẩm) của tỉnh Thanh Hóa đã áp dụng pháp luật trong
việc định tội danh đúng và quyết định hình phạt chính xác đối với đồng phạm
trong tội cưỡng đoạt tài sản, nhưng vẫn còn một vài trường hợp áp dụng không
đúng, chưa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ phạm tội nói chung và đồng
phạm nói riêng nên dẫn đến quá trình định tội danh còn gặp khó khăn, hoặc
phân hóa trách nhiệm hình sự chưa chính xác, qua đó, ít nhiều đã làm giảm
hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội cưỡng đoạt
tài sản nói riêng, giảm uy tín của Tòa án cũng như chưa bảo đảm các quyền và
lợi ích của công dân.
Do đó, thực tiễn đã đòi hỏi cần có sự nghiên cứu cụ thể để có luận cứ
khoa học, kiến nghị những giải pháp góp phần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa và
bảo đảm áp dụng quy định về đồng phạm đối với tội cưỡng đoạt tài sản trong
Bộ luật hình sự Việt Nam. Hơn nữa, việc đánh giá quy định của Bộ luật hình

sự năm 2015 vừa được Quốc hội thông qua để đưa ra kiến nghị giải pháp thi
hành là yêu cầu quan trọng. Từ những căn cứ trên cho thấy việc lựa chọn đề
tài “Đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa)” làm đề tài luận văn thạc sĩ
luật học có tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta đã có các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp hoặc
gián tiếp về đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự Việt
Nam ở các góc độ khác nhau, chuyên sâu hoặc khái quát hóa đã được công bố
trên các sách, tạp chí, luận văn luận án, tiêu biểu là:
2


* Dưới góc độ sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình… liên
quan đến vấn đề định tội danh về tội cưỡng đoạt tài sản, có thể kể đến các
công trình sau: 1) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề lý luận về định
tội danh và hướng dẫn giải bài tập về định tội danh, Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội, 1999; 2) GS.TSKH. Lê Văn Cảm, PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Định
tội danh (Lý luận, Lời giải mẫu và 500 bài tập thực hành), Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2011; 3) PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, Chương VI - Các tội
xâm phạm sở hữu, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các
tội phạm), Tập thể tác giả do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003, 2007; 4) ThS. Đoàn Tấn Minh, Phương
pháp định tội danh và hướng dẫn định tội danh đối với các tội phạm trong Bộ
luật hình sự hiện hành, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010; 5) ThS. Đinh Văn Quế,
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm, Tập II - Các tội xâm
phạm sở hữu, Nxb. thành phố Hồ Chí Minh, 2002; v.v... Gần đây nhất, cuốn
sách chuyên khảo của PGS.TS. Cao Thị Oanh chủ biên, Các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2015 đã phân tích cả
nhóm tội phạm (trong đó có tội cưỡng đoạt tài sản) trong Bộ luật hình sự và

đánh giá thực tiễn xét xử.
* Dưới góc độ luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ luật học…, nói chung,
chỉ có một số công trình đề cập riêng lẽ đến vấn đề trách nhiệm hình sự, định
tội danh hoặc về tội cưỡng đoạt tài sản hoặc đấu tranh phòng, chống tội phạm
này như: 1) Nguyễn Ngọc Chí, Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
sở hữu, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội, 2000;
2) Đặng Thúy Quỳnh, Đấu tranh phòng, chống tội cướp giật tài sản ở nước ta
hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội, 2016; Y Phi
Kbuôr, Tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở sô liệu
thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa), Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016 v.v…
3


* Dưới góc độ bài viết, đề tài khoa học…, hiện nay, trên Tạp chí Tòa án
nhân dân và một số tạp chí khác cũng đăng nhưng chỉ mang tính chất đơn lẻ
và phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt của tội phạm, cũng
như định tội danh đối với từng vụ án cụ thể. Ví dụ: 1) GS.TS. Võ Khánh
Vinh, Về khái niệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản công dân
theo luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 3/1986; 2) TS. Phan Anh
Tuấn, Định tội danh trong trường hợp một hành vi thỏa mãn dấu hiệu của
nhiều cấu thành tội phạm, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2001; 3) Trần Văn
Hậu, Đặc điểm người bị hại trong các vụ phạm tội cưỡng đoạt tài sản dưới
hình thức “Đòi nợ thuê”, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, số 10/2014; 4)
TS.Nguyễn Khắc Hải (2007) “Đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức theo
pháp luật hình sự Liên bang Nga”, Tạp chí Khoa học – ĐHQG Hà Nội, Số
23/2007; 5) TS.Nguyễn Khắc Hải (2013), “Nhận diện tội phạm có tổ chức”,
Kỷ yếu hội thảo khoa học về sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999, Khoa Luật
ĐHQGHN; 6) Pháp luật hình sự Việt Nam trước thách thức của tội phạm có
tổ chức. Nguyễn Khắc Hải, Lê Hồng Thái, Trịnh Xuân Tùng. Tạp chí Khoa

học ĐHQGHN: Luật học, Tập 33, Số 1 (2017) v.v…
Như vậy, nghiên cứu cho thấy chỉ có một số công trình đề cập riêng lẽ
đến vấn đề trách nhiệm hình sự, phân tích dấu hiệu pháp lý hình sự và hình
phạt; việc định tội danh hoặc về tội cưỡng đoạt tài sản hoặc đấu tranh phòng,
chống tội phạm này chứ chưa có công trình nào đề cập trực tiếp đến đồng
phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam và trên một địa
bàn cụ thể là tỉnh Thanh Hóa. Do đó, việc nghiên cứu tội cưỡng đoạt tài sản
trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
giai đoạn 05 năm (2012 - 2016), đề xuất kiến nghị tiếp tục hoàn thiện Bộ luật
hình sự nước ta về tội phạm này trong các trường hợp đồng phạm, cũng như
các giải pháp bảo đảm thi hành là cần thiết.

4


3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất kiến nghị
tiếp tục hoàn thiện các quy định về đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản
theo Bộ luật hình sự năm 2015 và một số giải pháp bảo đảm áp dụng pháp
luật được thống nhất.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận, pháp lý và quy định
của Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật có liên quan
đến đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng
pháp luật hình sự và thực tiễn xét xử tội cưỡng đoạt tài sản có đồng phạm trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 05 năm (2012 - 2016), chỉ ra một số tồn tại,
hạn chế và các nguyên nhân cơ bản.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về giới hạn vấn đề nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về đồng

phạm theo quy định của Luật hình sự Việt Nam trong một tội phạm cụ thể đó
là tội cưỡng đoạt tài sản.
Về giới hạn không gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu
việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về đồng phạm trong việc xét
xử tội cưỡng đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Về giới hạn thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu trong
giai đoạn 05 năm từ 2012 - 2016.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về

5


chính sách hình sự; quan điểm, đường lối xử lý tội cưỡng đoạt tài sản nói
chung, và trường hợp đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản nói riêng.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp đặc thù của khoa học luật hình sự
như: phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu dựa trên những bản
án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh
Thanh Hóa để phân tích các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các
vấn đề tương ứng được nghiên cứu.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả còn đồng thời sử dụng các
phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từ vấn đề được đặt ra.
Các phương pháp tiếp cận được sử dụng đó là: phương pháp phân tích –
chứng minh, logic, phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích –
tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp lịch sử, liệt kê,... Đặc
biệt trong đó tác giả nhấn mạnh chú ý tới các phương pháp tổng hợp – hệ
thống, đối chiếu so sánh, lịch sử phân tích, thống kê, khảo sát thực tiễn,

phương pháp xã hội học,... để qua đó đưa ra được những kết luận khoa học
mang tính thuyết phục cao, đề xuất các phương án cụ thể sao cho phù hợp
nhằm hoàn thiện và hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật hình sự có
liên quan đến vấn đề đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
5.1. Ý nghĩa khoa học
Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân, cũng như phục vụ Hiến pháp
năm 2013 và các văn kiện của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, triển khai thi hành Bộ luật hình sự năm 2015, thì việc nghiên cứu để làm
sáng tỏ một số vấn đề lý luận, pháp lý một cách có hệ thống và tương đối toàn
diện về đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản ở cấp độ một luận văn thạc sĩ

6


luật học góp phần bổ sung vào kho tàng lý luận về tội phạm và hình phạt
trong luật hình sự Việt Nam nói chung, các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng đặc
biệt là Tòa án trong việc giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ
và đúng pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn là cơ sở để đưa ra những kiến nghị
tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến
đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản và nâng cao hiệu quả công tác phòng,
chống tội phạm này tại Tòa án nhân dân hai cấp cấp tỉnh Thanh Hóa, qua đó,
phòng, chống oan, sai, định tội danh và quyết định hình phạt không chính xác
và vi phạm pháp luật trong giải quyết vụ án hình sự.
Đặc biệt, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các sinh viên, học viên
cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành Luật hình sự - tố tụng hình sự và
Tội phạm học tại các cơ sở đào tạo luật trên cả nước.

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài
sản theo luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn xét xử tội cưỡng đoạt tài sản có đồng phạm tại
tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Kiến nghị tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự và giải pháp
bảo đảm áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về đồng phạm đối
với tội cưỡng đoạt tài sản.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỒNG PHẠM TRONG
TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Nhận thức về đồng phạm và khái niệm đồng phạm trong tội
cưỡng đoạt tài sản
1.1.1. Nhận thức về đồng phạm
Thực tiễn công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm cho thấy một tội
phạm có thể chỉ do một người thực hiện, nhưng cũng có thể do hai hoặc nhiều
người cùng tham gia thực hiện. Khi những người phạm tội cùng chung hành
động và cùng cố ý thực hiện một tội phạm cụ thể thì sự kiện đó gọi là đồng
phạm. Trong luật hình sự, đồng phạm là một hình thức phạm tội có những đặc
điểm riêng biệt. Chính những đặc điểm riêng biệt này làm cho cơ sở, phạm vi
và nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự trong đồng phạm có những yếu tố
khác biệt so với trường hợp phạm tội do một người độc lập thực hiện nên cần
có những quy định riêng về đồng phạm. Đồng phạm là trường hợp những
người phạm tội có sự bàn bạc thống nhất trước khi thực hiện tội phạm hoặc

mặc dù không có sự bàn bạc, thống nhất nhưng có sự tiếp nhận về mặt ý chí
giữa những người phạm tội để nhằm thực hiện tội phạm [13, tr.48].
Như vậy để xác định vụ án đồng phạm thì cần dựa vào các căn cứ
khách quan và các căn cứ chủ quan. Căn cứ khách quan gồm số lượng người
tham gia trong vụ án phải từ hai người trở lên mà hành vi của họ có tính liên
kết nhằm mục đích thực hiện tội phạm với hậu quả chung do vụ án đồng
phạm gây ra. Số lượng người phải có từ hai người trở lên và những người này
đều phải có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự theo quy định của Bộ luật Hình sự. Tính liên kết về hành vi thể hiện các
chủ thể phải cùng nhau thực hiện tội phạm. Hành vi của người đồng phạm này

8


liên kết chặt chẽ với hành vi của người đồng phạm kia và tất cả đều phải
hướng về một tội phạm, phải tạo điều kiện, hỗ trợ cho nhau để thực hiện một
tội phạm thuận lợi, tức là hành vi của người đồng phạm này là tiền đề cho
hành vi của người đồng phạm kia. Nguyên nhân dẫn đến hậu quả tác hại
chung của tội phạm là do hành vi của tất cả những người đồng phạm hợp nhất
tạo ra. Hậu quả của tội phạm trong đồng phạm là hậu quả chung do toàn bộ
những người đồng phạm gây ra. Hành vi của mỗi người đồng phạm đều là
nguyên nhân gây ra hậu quả chung ấy. Điều này thể hiện mối quan hệ nhân
quả trong vụ án đồng phạm. Căn cứ chủ quan chính là yếu tổ lỗi. Toàn bộ
những người đồng phạm đều phải có hình thức lỗi cố ý trong việc tham gia
thực hiện tội phạm. Họ đều nhận thức rõ hành vi của mình và của những
người đồng phạm khác là nguy hiểm cho xã hội. Mỗi người đồng phạm đều
thấy trước hành vi của mình và hành vi của người đồng phạm khác trong vụ
án đồng phạm là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hành vi của tất cả những
người đồng phạm khác là nguyên nhân dẫn đến hậu quả và mong muốn hoặc
có ý thức để mặc hậu quả xảy ra.

Đồng phạm có thể phân chia thành đồng phạm giản đơn, đồng phạm
phức tạp và phạm tội có tổ chức. Đồng phạm đơn giản là hình thức đồng phạm
không có sự thông mưu trước của những người cùng thực hiện tội phạm, tất cả
những người đồng phạm đều có vai trò là người thực hành. Đồng phạm phức
tạp là hình thức đồng phạm có sự phân công vai trò của những người cùng
tham gia thực hiện tội phạm, trong đó ngoài một hoặc một số người có vai trò
là người thực hành, còn có sự tham gia của những người đồng phạm khác như
người tổ chức, người xúi giục hoặc người giúp sức. Ở hình thức đồng phạm
phức tạp chỉ có một hoặc một số người đồng phạm (người đồng thực hành)
thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm. Phạm tội
có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người

9


cùng thực hiện tội phạm. Như vậy trong đồng phạm có tổ chức, giữa những
người cùng thực hiện tội phạm phải có sự câu kết chặt chẽ với nhau, có sự phân
công vai trò, nhiệm vụ cụ thể, có sự tính toán và chuẩn bị kỹ càng, chu đáo
trong việc cùng tham gia thực hiện tội phạm.
1.1.2. Khái niệm đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản
Bộ luật dân sự Việt Nam tại Điều 105 ghi nhận “Tài sản bao gồm vật,
tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và
động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình
thành trong tương lai” [38]. Tài sản là đối tượng tác động của tội cưỡng đoạt
tài sản phải thỏa mãn ba đặc trưng cơ bản sau đây:
a) Tài sản phải được thể hiện dưới dạng vật chất, có giá trị
và giá trị sử dụng; b) Tài sản phải có chủ sở hữu cụ thể với các quy
định có tính chất pháp lý thể hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản; và c)Tài sản phải có khả năng chuyển hóa được giữa
các chủ sở hữu với nhau [18, tr.245-247].

Trên cơ sở đặc điểm tài sản là đối tượng tác động của các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản, để đưa ra khái niệm tội cưỡng đoạt tài
sản cần nghiên cứu, phân tích và làm rõ một số khái niệm và đặc điểm của
hành vi chiếm đoạt.
Khái niệm "quản lý" có thể hiểu là "trông coi, giữ gìn và theo dõi việc
gì" [80, tr.1363], "chủ tài sản" được hiểu bao gồm chủ sở hữu tài sản hoặc
người được giao quản lý tài sản đó (thông qua giao dịch dân sự hoặc theo
quy định của pháp luật được giao nhiệm vụ quản lý tài sản). Theo đó, cụm từ
"chiếm đoạt tài sản" là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang
thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình [68, tr.366]; hoặc
"hành vi cố ý chuyển biến một cách trái pháp luật tài sản của người khác
thành tài sản của mình hoặc của một nhóm người hoặc cho người khác mà
mình quan tâm" [3, tr 230].
10


Hành vi chiếm đoạt tài sản bao hàm trong nó các yếu tố khách quan và
chủ quan. Về mặt khách quan, hành vi chiếm đoạt là hành vi làm cho chủ tài
sản (người là chủ sở hữu tài sản hoặc người có quyền quản lý tài sản) mất hẳn
khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và
tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt trái pháp luật tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là
quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có
tài sản đó, quá trình này xét về mặt pháp lý không làm cho chủ sở hữu mất
quyền sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền
cụ thể của quyền sở hữu. Bên cạnh đó, tài sản là đối tượng tác động của hành
vi chiếm đoạt đòi hỏi phải có đặc điểm là vẫn còn nằm trong sự chiếm hữu, sự
quản lý, kiểm soát của chủ tài sản. Nếu tài sản đã thoát ly khỏi sự chiếm hữu,
sự quản lý, kiểm soát của chủ tài sản (bị thất lạc) thì không còn là đối tượng
của hành vi chiếm đoạt. Chỉ khi tài sản còn đang do chủ tài sản chiếm hữu thì

mới có thể có hành vi chiếm đoạt, cũng như mới có hành vi làm mất khả năng
chiếm hữu của chủ tài sản. Về mặt chủ quan, chiếm đoạt là hành vi được
người phạm tội thực hiện có mục đích nên ở đây, lỗi của người có hành vi
chiếm đoạt là lỗi cố ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài
sản chiếm đoạt là tài sản đang có người quản lý nhưng vẫn mong muốn biến
tài sản đó thành tài sản của mình. Những trường hợp lầm tưởng là tài sản của
mình hoặc tài sản không có người quản lý đều không phải là trường hợp có
hành vi chiếm đoạt.
Theo Từ điển tiếng Việt "cưỡng đoạt" được định nghĩa là "chiếm đoạt
bằng lối cưỡng bức"; "cưỡng bức" là "dùng vũ lực hoặc thủ đoạn dồn người
khác vào thế bắt buộc phải làm, dù không muốn cũng không được" [19, tr.142].
Nội hàm của hành vi cưỡng đoạt tài sản trong khoa học luật hình sự về cơ bản
đã được thống nhất dù có các cách thể hiện khác nhau. "Tội cưỡng đoạt tài

11


sản là việc người phạm tội với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác
bằng thủ đoạn đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn uy hiếp tinh thần của chủ
sở hữu người quản lý tài sản hoặc người khác có liên quan" [18, tr.248].
"Cưỡng đoạt tài sản là tìm mọi cách làm cho người có tài sản hoặc người có
trách nhiệm về tài sản sợ hãi phải giao tài sản cho người phạm tội” Như vậy,
hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người
khác mà người phạm tội thực hiện là nhằm chiếm đoạt tài sản. Nếu hành vi đe
dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhưng
không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là tội cưỡng đoạt tài sản, mà
tùy từng trường hợp cụ thể mà người có hành vi phạm các tội như: bức tử;
cưỡng dâm hoặc cưỡng dâm trẻ em; cưỡng ép hôn nhân,... [37, tr.121]. "Tội
cưỡng đoạt tài sản là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy
hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản" [68, tr.378].

Từ những phân tích trên, trên phương diện khoa học luật hình sự Việt
Nam, khái niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau: Tội cưỡng đoạt
tài sản là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác gây tác động
mạnh đến ý chí của chủ sở hữu, người quản lý tài sản hoặc người khác có liên
quan nhằm chiếm đoạt tài sản, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và
đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý và được ghi nhận
trong Bộ luật hình sự.
Tội cưỡng đoạt tài sản thực chất là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc
có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm mục đích chiếm đoạt tài
sản. Hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác với mục đích bắt
người có tài sản lo sợ và phải tự nguyện chuyển giao tài sản cho người cưỡng
đoạt. Đặc trưng cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản là người phạm tội đã có
hành vi uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản bằng những thủ
đoạn đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho người có trách nhiệm

12


về tài sản lo sợ mà phải miễn cưỡng giao tài sản cho người phạm tội. Ngoài
ra, thực tiễn cho thấy, sau khi người có tài sản bị đe dọa sẽ dùng vũ lực và các
thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần thì người có tài sản do lo sợ sẽ ảnh hưởng đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm nên sẽ tự nguyện chuyển giao tài
sản cho người cưỡng đoạt nên vụ việc có thể sẽ không được các cơ quan chức
năng phát hiện, xử lý và dễ bị “ngụy trang” thành giao dịch dân sự nếu người
bị cưỡng đoạt tài sản không tố giác.
Đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản là trường hợp phạm tội do nhiều
người cùng tham gia thực hiện, có tính nguy hiểm cao cho xã hội, được thực
hiện với hình thức lỗi cố ý, trái quy định của pháp luật hình sự. Đồng phạm
trong tội cưỡng đoạt tài sản được quy định với mục đích xác định là một hình
thức phạm tội trong tội cưỡng đoạt tài sản, phân hóa trách nhiệm hình sự và

hình phạt của những người đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản.
Về mặt khoa học pháp lý hình sự có thể định nghĩa đồng phạm trong
tội cưỡng đoạt tài sản là việc hai hay nhiều người có năng lực trách nhiệm
hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự cố ý cùng tham gia vào việc thực
hiện hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác gây tác động mạnh
đến ý chí của chủ sở hữu, người quản lý tài sản hoặc người khác có liên quan
nhằm chiếm đoạt tài sản.
Từ định nghĩa trên cho thấy đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản thể
hiện ở những dấu hiệu khách quan và chủ quan của những người cùng tham
gia thực hiện tội phạm như sau:
Dấu hiệu khách quan thể hiện sự tham gia của hai người trở lên có đủ
điều kiện chủ thể của tội phạm. Hành vi của những người tham gia vào việc
phạm tội là cùng chung hành động. Người đồng phạm tham gia thực hiện tội
cưỡng đoạt tài sản với một trong bốn hành vi là: hành vi trực tiếp thực hiện,
hành vi tổ chức thực hiện, hành vi xúi giục người khác thực hiện tội và hành

13


vi giúp sức người khác thực hiện việc đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn uy
hiếp tinh thần gây tác động mạnh đến ý chí của chủ sở hữu, người quản lý tài
sản hoặc người khác có liên quan nhằm chiếm đoạt tài sản. Trong đó, hành vi
thực hiện tội cưỡng đoạt tài sản là hành vi cốt lõi trong mối liên hệ với các
hành vi đồng phạm khác. Những người đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài
sản tham gia thực hiện một tội phạm bằng ít nhất một trong bốn hành vi nêu
trên và chúng có mối liên kết thống nhất với nhau. Hành vi của mỗi người là
một khâu cần thiết cho hoạt động phạm tội chung, "nhằm thực hiện một tội
phạm nhất định và để đạt được một kết quả phạm tội thống nhất" [47, tr.196].
Hành vi của người này hỗ trợ, bổ sung và là điều kiện cho hành vi của người
khác, ảnh hưởng đến hành vi đó làm cho thay đổi và hiệu quả hơn. Như vậy

giữa những người đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản đã cùng chung
hành động hay liên hiệp hành động trong việc cùng thực hiện một tội phạm.
Hậu quả của tội cưỡng đoạt tài sản được thực hiện bằng hình thức đồng phạm
là kết quả chung do hoạt động của tất cả những người tham gia vào việc thực
hiện tội phạm mang lại. Hành vi của mỗi người đồng phạm có mối quan hệ
nhân quả và mức độ ảnh hưởng nhất định đến với hậu quả chung của tội
phạm. Trong đó, hành vi của người thực hành là nguyên nhân trực tiếp làm
phát sinh hậu quả của tội cưỡng đoạt tài sản, hành vi của những người đồng
phạm khác trong mối liên hệ với hành vi của người thực hành và thông qua
hành vi của người thực hành đóng góp vào việc làm phát sinh hậu quả của tội
phạm. "Hành vi của những người đồng phạm khác chỉ tạo ra khả năng phát
sinh hậu quả, muốn chuyển khả năng ấy thành hiện thực phải có hành vi của
người thực hành" [73, tr.148]. Khi những người đồng phạm trong tội cưỡng
đoạt tài sản đều là người thực hành, tức đồng phạm giản đơn, thì hành vi của
mỗi người đồng phạm đều là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả chung của tội
cưỡng đoạt tài sản. Trong trường hợp có sự phân công vai trò giữa những người

14


cùng thực hiện tội cưỡng đoạt tài sản, tức đồng phạm phức tạp, thì chỉ hành vi
của người thực hành là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả chung,
còn hành vi của những người đồng phạm khác thông qua người thực hành, là
nguyên nhân gián tiếp đưa đến hậu quả chung của tội phạm. Do vậy, việc xác
định quan hệ nhân quả giữa hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức với hậu quả
chung phải được xem xét trong mối quan hệ giữa những hành vi đó với hành
vi thực hành. Tội cưỡng đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự Việt Nam có cấu
thành hình thức, tức là hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc nên chỉ cần có
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của người phạm tội và việc thực hiện tội
phạm là có đồng phạm.

Dấu hiệu chủ quan chủ quan của đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài
sản thể hiện ở việc những những người đồng phạm có cùng nhận thức và
chung ý định phạm tội, tức là sự cùng cố ý của những người tham gia thực
hiện hành vi cưỡng đoạt tài sản. Nếu thiếu dấu hiệu này sẽ không có đồng
phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản mà chỉ là trường hợp nhiều người cùng
phạm tội này. "Sự cùng cố ý này thể hiện sự liên kết thống nhất về ý chí của
những người đồng phạm được thống nhất với nhau và hành động phạm tội
của mỗi người đều thống nhất trong sự chi phối chung của sự cùng cố ý
phạm tội" [12, tr. 255]. Mỗi người đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản
không chỉ cố ý tham gia vào việc thực hiện hành vi cưỡng đoạt tài sản của
mình mà còn nhận thức và mong muốn sự cố ý tham gia của những người
đồng phạm khác. Sự cùng cố ý này được thể hiện bằng lý trí và ý chí. Về lý
trí, sự cùng cố ý đòi hỏi mỗi người đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản
phải nhận thức hay thấy trước tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi cưỡng
đoạt tài sản của mình, biết được có người khác cùng thực hiện hành vi
cưỡng đoạt tài sản với mình. Tính chất hành vi phạm tội chung là hành vi
cưỡng đoạt tài sản được thể hiện trong hành vi của người trực tiếp thực hiện

15


hành vi cưỡng đoạt. Những người phạm tội cũng nhận thức được hậu quả
chung của hành vi cưỡng đoạt tài sản mà họ tham gia thực hiện. Nếu mỗi
người đồng phạm chỉ biết mình có hành vi cưỡng đoạt tài sản mà không biết
người khác cũng có hành vi này cùng với mình thì chưa thỏa mãn dấu hiệu
lỗi cố ý trong đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản nên không thể có đồng
phạm trong tội này. Do đó, hành vi xúi giục (ngụy trang), giúp sức bí mật
không thỏa mãn dấu hiệu chủ quan của đồng phạm. Người xúi giục, người
giúp sức một chiều phải chịu trách nhiệm hình sự độc lập về hành vi xúi
giục phạm tội hoặc giúp sức phạm tội của mình [48, tr.42-43]. Pháp luật hình

sự cũng chỉ đòi hỏi mỗi người đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản nhận
thức được hành vi được mô tả trong mặt khách quan của tội cưỡng đoạt tài sản
của người đồng phạm khác nhưng chỉ ở mức độ những nét cơ bản của hành vi
cưỡng đoạt tài sản vì phạm tội nói chung và phạm tội cưỡng đoạt tài sản nói
riêng khi có sự tham gia của nhiều chủ thể là hoạt động phức tạp cho nên mỗi
người phạm tội trong nhiều trường hợp sẽ không dễ để nhận thức tường tận sự
tham gia vào hành vi cưỡng đoạt tài sản của những người đồng phạm khác.
Do vậy mối liên hệ về mặt chủ quan giữa những đồng phạm trong tội cưỡng
đoạt tài sản được giới hạn ở mối liên hệ hai chiều giữa người thực hành với
những đồng phạm khác. Vì vậy, điều kiện để xác định đồng phạm trong tội
cưỡng đoạt tài sản không đòi hỏi phải tồn tại mối liên hệ chủ quan giữa những
người đồng phạm là người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức. Về ý
chí, những người đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản cùng mong muốn có
hoạt động chung là cưỡng đoạt tài sản và cùng mong muốn cho hành vi cưỡng
đoạt tài sản xảy ra. Như vậy những người đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài
sản đều có chung hình thức lỗi là lỗi cố ý trong mặt chủ quan của tội phạm.
Trong vụ án cưỡng đoạt tài sản có đồng phạm, tiếp nhận ý chí là một biểu
hiện của sự cùng cố ý tham gia thực hiện tội phạm này. Những người đồng

16


phạm tiếp nhận ý chí thông qua việc nhận thức được vụ việc cưỡng đoạt tài
sản, thỏa mãn dấu hiệu về mặt lý trí trong đồng phạm cưỡng đoạt tài sản và đã
quyết định lựa chọn cùng tham gia bằng hành động hoặc không hành động vào
vụ việc này. Cũng được coi là tiếp nhận ý chí nếu những người đồng phạm
trong tội cưỡng đoạt tài sản cho dù không bàn bạc, thỏa thuận với nhau nhưng
đã tự hiểu và cùng tham gia vào việc thực hiện hành vi cưỡng đoạt tài sản.
1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội cưỡng đoạt tài sản có đồng phạm theo
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999

Dấu hiệu pháp lý hay dấu hiệu cấu thành tội phạm "có tính chất đặc
trưng và điển hình cho loại tội phạm ấy, nó phản ánh đầy đủ bản chất và
dùng để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác" [6, tr.292]. Do đó, việc
làm rõ khái niệm và phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội cưỡng đoạt
tài sản được thực hiện bởi một chủ thể hay nhiều chủ thể qua bốn yếu tố cấu
thành tội phạm - khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ
thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
quan trọng, góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng định tội danh, quyết
định hình phạt và xét xử được cụ thể, chính xác và đúng pháp luật. Dấu hiệu
pháp lý hình sự của tội cưỡng đoạt tài sản là đặc điểm chung về mặt lập
pháp cụ thể của các thuộc tính điển hình và chủ yếu hơn cả, đặc trưng cho
tội cưỡng đoạt tài sản. Cũng như các tội phạm khác, tội cưỡng đoạt tài sản
cũng có đầy đủ bốn yếu tố cấu thành tội phạm - Khách thể của tội cưỡng
đoạt tài sản, mặt khách quan của tội cưỡng đoạt tài sản, chủ thể của tội
cưỡng đoạt tài sản, mặt chủ quan của tội cưỡng đoạt tài sản. Nói một cách
khác, mỗi tội phạm (trong đó có tội cưỡng đoạt tài sản) đều khác các tội
phạm khác về đặc điểm cấu trúc của bốn yếu tố cấu thành tội phạm, "nhưng
tất cả các tội phạm thuộc một tội danh đều có những đặc điểm chung về bốn
yếu tố đó. Những đặc điểm chung này được phản ánh trong các cấu thành
tội phạm cụ thể" [28, tr.54].
17


Theo Điều 135 BLHS năm 1999 thì tội cưỡng đoạt tài sản được ghi
nhận như sau: “Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy
hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ một năm
đến năm năm”. Điều 20 BLHS năm 1999 quy định “Đồng phạm là trường
hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”, do đó đồng
phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là trường hợp có hai người trở lên
cố ý cùng thực hiện hành vi cưỡng đoạt đoạt tài sản.

1.2.1. Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản có đồng phạm
Quyền sở hữu là một trong những khách thể được luật hình sự bảo vệ
trong nhiều điều luật. Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản cũng tương tự như
tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tức là cùng một lúc
xâm phạm đến hai khách thể (quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân) nhưng
mục đích chính là quan hệ sở hữu. Nếu có quan hệ nhân thân thì không phải
là những thiệt hại về thể chất (tính mạng, thương tật), mà chỉ có thể là những
thiệt hại về tinh thần (như sợ hãi, lo âu), tuy có ảnh hưởng đến sức khỏe của
nạn nhân nhưng không gây ra thương tích cho người bị hại; tính chất và mức
độ xâm phạm đến quan hệ nhân thân nói chung ít nghiêm trọng hơn so với tội
cướp tài sản hoặc tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
Như vậy, về yếu tố khách thể của tội phạm, tội cưỡng đoạt tài sản là
hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây
thiệt hại này phản ánh một cách đầy đủ nhất bản chất hành vi nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội. Trong đó, quan hệ sở hữu được hiểu là quan hệ xã
hội trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt được tôn trọng và bảo vệ,
hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu là những
hành vi xâm phạm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của chủ sở hữu.
Chủ thể thực hiện hành vi cưỡng đoạt tài sản bao giờ cũng nhằm vào tài sản
nhất định của chủ thể nhất định, không phân biệt là thuộc hình thức sở hữu nào.

18


×