Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Vai trò của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn đối với người thi hành án treo, án phạt cải tạo không giam giữ (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh hà tĩnh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 103 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

PHAN QUANG MU

VAI TRò CủA ủY BAN NHÂN DÂN Xã, PHƯờNG, THị TRấN
ĐốI VớI NGƯờI THI HàNH áN TREO, áN PHạT
CảI TạO KHÔNG GIAM GIữ
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

PHAN QUANG MU

VAI TRò CủA ủY BAN NHÂN DÂN Xã, PHƯờNG, THị TRấN
ĐốI VớI NGƯờI THI HàNH áN TREO, áN PHạT
CảI TạO KHÔNG GIAM GIữ
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)

Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS CAO TH OANH



H NI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Phan Quang Mậu


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng, sơ đồ
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA ỦY BAN NHÂN
DÂN XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN ĐỐI VỚI NGƢỜI THI HÀNH ÁN
TREO, ÁN PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ............................................. 6

1.1.
Khái niệm, đặc điểm và khái quát lịch sử lập pháp Luật hình sự
Việt Nam về vai trò của Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn đối
với ngƣời thi hành án treo, án phạt cải tạo không giam giữ ....................6
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về vai trò của Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị
trấn đối với ngƣời thi hành án treo .................................................................6
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về vai trò của Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị
trấn đối với ngƣời thi hành hình án phạt cải tạo không giam giữ ................10
1.1.3. Khái quát lịch sử lập pháp của Luật hình sự Việt Nam về vai trò của
Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn trong thi hành án treo và án phạt
cải tạo không giam giữ .................................................................................14
1.2.
Cơ sở lý luận và ý nghĩa của việc quy định vai trò Ủy ban nhân
dân xã, phƣờng, thị trấn trong quản lý, giáo dục ngƣời thi hành án
treo, án phạt cải tạo không giam giữ ........................................................17
1.2.1. Về chức năng, nhiệm vụ Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn đối với
quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội .................................................................17
1.2.2. Về bản chất pháp lý của việc quản lý, giám sát ngƣời thi hành án treo,
án phạt cải tại không giam giữ .....................................................................20
1.2.3. Ý nghĩa của quy định vai trò Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn
trong việc quản lý, giáo dục ngƣời thi hành án treo và án phạt cải tạo
không giam giữ.............................................................................................21
1.3.
Các cơ quan, tổ chức của Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn tham
gia quản lý, giáo dục ngƣời thi hành án treo và án phạt cải tạo không
giam giữ .......................................................................................................23


1.3.1. Công an cấp xã .............................................................................................23
1.3.2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở ...........24

1.3.3. Thôn, xóm, ấp, tổ dân phố............................................................................25
1.4.

Những yếu tố tác động đến vai trò của Ủy ban nhân dân xã,
phƣờng, thị trấn đối với ngƣời thi hành án treo và án phạt cải tạo
không giam giữ ...........................................................................................26

1.4.1. Việc tổ chức quyền lực nhà nƣớc .................................................................26
1.4.2. Điều kiện kinh tế- xã hội ..............................................................................26
1.4.3. Năng lực của cán bộ ở Ủy ban nhân dân cấp xã ..........................................27
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..........................................................................................28
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN ĐỐI VỚI
NGƢỜI THI HÀNH ÁN TREO, ÁN PHẠT CẢI TẠO KHÔNG
GIAM GIỮ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH .............................................. 29
2.1.

Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về vai trò của Ủy ban
nhân dân xã, phƣờng, thị trấn đối với ngƣời thi hành án treo và án
phạt cải tạo không giam giữ ......................................................................29
2.1.1. Quy định về vai trò Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn trong việc
quản lý, giáo dục ngƣời thi hành án treo ......................................................29
2.1.2. Quy định về vai trò Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn đối với
ngƣời thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ ........................................30
2.1.3. Quy định về trình tự, thủ tục và nội dung quản lý, giám sát ngƣời thi
hành án treo, án phạt cải tạo không giam giữ của Ủy ban nhân dân xã,
phƣờng, thị trấn ............................................................................................31
2.2.

Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về vai trò của Ủy ban


nhân dân xã, phƣờng, thị trấn đối với ngƣời thi hành án treo và án
phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh .........................35
2.2.1. Đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, xã hội và hoạt động chấp hành pháp luật
hình sự của tỉnh Hà Tĩnh có tác động đến vai trò cuả Ủy ban nhân dân
xã, phƣờng, thị trấn trong thi hành án ..........................................................35
2.2.2. Những kết quả đạt đƣợc về vai trò của Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị
trấn đối với ngƣời thi hành án treo và án phạt cải tạo không giam giữ
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ..............................................................................38


2.2.3. Một số tồn tại, hạn chế về vai trò của Ủy ban nhân dân, xã, phƣờng, thị
trấn đối với ngƣời thi hành án treo và án phạt cải tạo không giam giữ
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh .............................................................................47
2.2.4. Nguyên nhân tồn tại, hạn chế đến vai trò của Ủy ban nhân dân, xã,
phƣờng, thị trấn đối với ngƣời thi hành án treo và án phạt cải tạo
không giam giữ trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ...................................................52
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..........................................................................................61
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA ỦY BAN NHÂN
DÂN XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN ĐỐI VỚI NGƢỜI THI HÀNH
ÁN TREO, ÁN PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH HÀ TĨNH ................................................................................62
3.1.

Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao vai trò của Ủy
ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn đối với ngƣời thi hành án treo,
án phạt cải tạo không giam giữ .................................................................62

3.1.1. Đáp ứng với công cuộc đổi mới của đất nƣớc, xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập Quốc tế ...............................................62

3.1.2. Đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn và khắc phục những hạn chế,
tồn tại trong quá trình thực hiện thi hành án ................................................65
3.2.

Các giải pháp hoàn thiện và nâng cao việc áp dụng pháp luật về
vai trò của Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn đối với ngƣời thi
hành án treo và án phạt cải tạo không giam giữ .....................................67

3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về vai trò của Ủy ban nhân dân
xã, phƣờng, thị trấn đối với ngƣời thi hành án treo và án phạt cải tạo
không giam giữ.............................................................................................67
3.2.2. Tăng cƣờng việc giải thích, hƣớng dẫn pháp luật về vai trò, nhiệm vụ
của Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn đối với việc quản lý, giám
sát ngƣời thi hành án treo và án phạt cải tạo không giam giữ......................72
3.2.3. Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối vai trò của Ủy ban nhân dân xã,
phƣờng, thị trấn trong việc quản lý giám sát ngƣời thi hành án treo và
án phạt cải tạo không giam giữ ....................................................................74
3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đối với
việc thi hành án treo và án phạt cải tạo không giam giữ ..............................78


3.2.5. Nâng cao trách nhiệm của cán bộ chuyên môn, ngƣời đứng đầu Ủy ban
nhân dân xã, phƣờng, thị trấn và các tổ chức đoàn thể quần chúng
trong việc quản lý, giám sát ngƣời thi hành án treo và án phạt cải tạo
không giam giữ.............................................................................................79
3.2.6. Tăng cƣờng vai trò phối hợp giữa các chủ thể đối với Ủy ban nhân dân
xã, phƣờng, thị trấn trong việc quản lý, giáo dục ngƣời thi hành án
treo, án phạt cải cạo không giam giữ ...........................................................82
3.2.7. Tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát xử lý các vi phạm đối với vai
trò của UBND xã, phƣờng thị trấn trong quản lý, giáo dục ngƣời thi

hành án treo, án phạt cải cạo không giam giữ ..............................................84
3.2.8. Đảm bảo các điều kiện cần thiết về chế độ, chính sách cho Ủy ban
nhân dân xã, phƣờng, thị trấn để thực hiện việc quản lý, giáo dục
ngƣời thi hành án treo, án phạt cải cạo không giam giữ ..............................86
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3..........................................................................................88
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................91


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật Hình sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

THAHS:

Thi hành án hình sự

UBND cấp xã:

Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn

UBND:

Ủy ban nhân dân


XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ

Số hiệu

Tiên bảng, sơ đồ

Trang

Bảng 2.1: Tình hình thực tế thi hành án treo, cải tạo không giam giữ trên
địa bàn tỉnh Hà tĩnh từ năm 2011 - 2016

39

Bảng 2.2: Bảng thống kê số liệu tổng số ngƣời phải thi hành án treo, án
cải tạo không giam giữ hàng năm (từ 2011- 2016)
Sơ đồ 2.1: Trình tự, thủ tục thi hành án treo, cải tạo không giam giữ

41
33


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Công tác quản lý, giám sát ngƣời thi hành án treo, án phạt cải tạo không
giam giữ của Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn là nội dung cơ bản trong công

tác thi hành án hình sự đối với các loại án này, nhằm đƣa các bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trong thực tế. Thực hiện tốt công tác thi
hành án là một trong những hoạt động nhằm đảm bảo nguyên tắc pháp chế XHCN,
các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc, của tổ chức, cá nhân bị xâm hại, đƣợc
thực thi một cách nghiêm túc. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nƣớc ta rất quan
tâm đến công các thi hành án hình sự nên đã ban hành các chủ trƣơng nghị quyết để
lãnh đạo, chỉ chỉ đạo và hoàn thiện nhiều quy định của pháp luật để phù hợp với xu
thế phát triển của đất nƣớc và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, công tác thi hành hình
sự nói chung và thi hành án treo và án phạt cải tạo không giam giữ nói riêng vẫn
còn nhiều bất cập và hạn chế, cụ thể: Hệ thống các văn bản quy pháp pháp luật đã
đƣợc ban hành ở các thời điểm khác nhau dẫn đến nhiều quy định còn chồng chéo,
chƣa đồng bộ, nhiều nội dung quy định chƣa chi tiết, cụ thể nên gặp rất nhiều gặp
nhiều khó khăn, vƣớng mắc trong thực tiễn thi hành. Bên cạnh đó vai trò, trách
nhiệm của các cơ quan trong công tác thi hành án chƣa đƣợc phân công, phối hợp
chặt chẽ, đặc biệt là vai trò của Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn, mặt trận tổ
quốc và các đoàn thể quần chúng trong việc quản lý, giáo dục ngƣời thi hành án quy
định cụ thể nên hiệu quả, tác dụng trong thi hành án đạt thấp. Cơ chế giám sát, chế
tài cƣỡng chế đối với ngƣời bị kết án khi không chấp hành án chƣa nghiêm, thiếu
tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tái phạm. Mặt khác, hiện nay chƣa có một công
trình nghiên cứu chuyên sâu về vai trò, trách nhiệm của UBND xã, phƣờng thị trấn
trong việc quản lý, giám sát ngƣời thi hành án treo, cải tạo không giam giữ một cách
có hệ thống, toàn diện, sâu sắc và sát với thực tiễn.
Để nâng cao vai trò của UBND xã, phƣờng, thị trấn trong việc thi hành án
treo và án cải tạo không giam giữ nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của việc

1


xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN và hội nhập Quốc tế trong công tác thi hành
án theo tình thần nghị quyết Đại hội Đảng toàn Quốc lần thứ XII, Hiến pháp năm

2013, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
25/4/2005 của Bộ Chính trị về chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 với
các nội dung: Đề cao hiệu quả phòng ngừa, nâng cao tính hƣớng thiện trong việc xử
lý ngƣời phạm tội, giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải
tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm… Xác định rõ vai trò trách nhiệm
của UBND xã, phƣờng, thị trấn đối với ngƣời thi hành các hình phạt đƣợc cải tạo,
giám sát ngoài xã hội nhằm thực hiện nghiêm túc các bản án, quyết định của Tòa án.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn việc áp dụng các quy phạm pháp
phát luật nhằm sáng tỏ về mặt khoa học, đƣa ra phƣơng hƣớng, giải pháp để nâng
cao hiệu qủa của công tác quản lý, giám sát ngƣời thi hành án treo, án cải tạo không
giam giữ trong thời gian tới, bản thân tôi lựa chọn đề tài "Vai trò của UBND xã,
phường, thị trấn đối với người thi hành án treo, án phạt cải tạo không giam giữ
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật hình sự Việt Nam nói chung, trong đó có lĩnh vực về thi hành án
hình sự nói riêng và đặc biệt là việc thi hành án treo và án phạt cải tạo không giam
giữ trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu ở những mức độ, khía
cạnh và phƣơng diện khác nhau nhƣ: Tài liệu tập huấn chuyên sâu Luật Thi hành án
hình sự, Nxb Lao động, năm 2011, của GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh chủ biên; Giáo
trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, tái bản lần thứ 5, năm
2009, của tập thể tác giả do TS. Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên; Sách chuyên khảo:
Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb
Tƣ pháp, năm 2006, của tập thể tác giả do PGS.TS Võ Khánh Vinh - PGS.TS
Nguyễn Mạnh Kháng chủ biên. Ngoài ra còn có một số đề tài, báo cáo, công trình

2



nghiên cứu khoa học nhƣ: Một số vấn đề về hình phạt cải tạo không giam giữ, Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 5/1995 và Các căn cứ thi hành án, của Trần Văn Độ, Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 6/1998; Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình
sự ở nước ta hiện nay, của Nguyễn Trọng Hách, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số
5/2002; Thi hành án: Bất cập từ cơ quan pháp luật, của Nguyễn Khắc Bộ, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 7/2003. Đề tài khoa học: Luận cứ khoa học và thực tiễn
của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới,
của Bộ Tƣ pháp, Hà Nội, 2003; Thực trạng hình sự và những kiến nghị, của Nguyễn
Phong Hòa, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21/2006; Một số luận văn thạc sỹ nhƣ:
Hình phạt cải tạo không giam giữ theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, của Lê Thanh Hùng, Khoa luật Đại học Quốc gia,
năm 2014; Án treo thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương của Phạm Thanh
phƣơng, Khoa luật Đại học Quốc gia, năm 2014 và Một số vấn đề về thực tiễn thi
hành án treo, án cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định của Phạm Đức
Trung, Khoa luật Đại học Quốc gia, năm 2014. Tuy nhiên với nghiên cứu chuyên
sâu về vai trò UBND cấp xã đối với ngƣời thi hành án treo, án cải tạo không giam
giữ trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh một cách độc lập, đánh giá lý luận và tổng kết thực
tiễn nhằm đƣa ra các giải pháp cụ thể để việc thi hành án có hiệu quả hơn thì từ
trƣớc đến nay chƣa có một đề tài nào nghiên cứu và đề cập đến.
3. Nhiệm vụ của luận văn
Làm rõ một số lý luận và thực tiễn về vai trò của UBND xã phƣờng, thị trấn
đối với ngƣời thi hành án treo và án phạt cải tạo không giam giữ, nhằm góp phần
nâng cao công tác thi hành án hình sự và thực hiện nhiệm các vụ do pháp luật hình
sự Việt Nam quy định.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Về đối tƣợng: Luận văn nghiên cứu những các quy định của pháp luật về
vai trò của UBND xã, phƣờng, thị trấn đối với ngƣời thi hành án treo và án phạt cải
tạo không giam giữ; đồng thời so sánh, đối chiếu với những điểm mới của BLHS
2015. Từ đó liên hệ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, tìm ra nguyên nhân của


3


những tồn tại, hạn chế để đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng nhƣ các
giải pháp áp dụng một cách có hiệu quả trong thực tiễn.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề liên
quan đến vai trò của Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn đối với ngƣời thi hành án
treo và án phạt cải tạo không giam giữ trong pháp luật hình sự Việt nam trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh, từ năm 2011 đến 2016.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận là phƣơng
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và những chủ trƣơng,
đƣờng lối của Đảng về thi hành án thông qua các nghị quyết nhƣ: Đại hội Đảng toàn
quốc khóa VII, VIII, IX, X, XI và các chuyên đề gồm: Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 của Bộ Chính trị và
chính sách phát luật của nhà nƣớc về thi hành án hình sự.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phƣơng pháp nghiên
cứu khoa học pháp luật hình sự nhƣ: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học;
phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn;
thi hành án điển hình... Ngoài ra, trong quá trình thực hiện luận văn, đã tiếp thu có
chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu đã công bố, các đánh giá, tổng kết
của các cơ quan chuyên môn, các bài nghiên cứu về các vấn đề riêng biệt trong các
tạp chí chuyên đề và các vấn đề có liên quan đến nội dụng trong luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Về lý luận: Việc nghiên cứu luận văn góp phần hoàn thiện về lý luận về
thi hành án hình sự nói chung và thi hành án treo, án phạt cải tạo không giam giữ
nói riêng trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Cụ thể là làm rõ một số nội dung
về lý luận, thực tiễn của vai trò của UBND xã, phƣờng, thị trấn đối với ngƣời thi
hành án treo và án phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh nhằm chỉ

ra một số mâu thuẫn, bất cập, để tìm ra nguyên nhân, đề xuất giải pháp khắc phục,
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của phát luật hình sự về thi hành án
nói chung và vai trò của UBND xã phƣờng, thị trấn đối với ngƣời thi hành án treo
và án phạt cải tạo không giam giữ nói riêng trong thời gian tới.

4


6.2. Về thực tiễn: Việc nghiên cứu vấn đề này là cơ sở lý luận, có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập. Một số đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ
cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực
tiễn áp dụng pháp luật luật hình sự Việt Nam liên quan đến vai trò của UBND xã,
phƣờng, thị trấn đối với ngƣời thi hành án treo và án cải tạo không giam giữ, qua đó
góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án ở nƣớc ta trong thời gian tới.
7. Những điểm mới của đề tài
- Về lý luận và các quy định của pháp luật: Kết quả nghiên cứu của luận văn
nhằm giải quyết một số vấn đề về lý luận về vai trò của UBND xã, phƣờng, thị trấn
đối với ngƣời thi hành án treo, án phạt cải tạo không giam giữ. Đồng thời góp phần
hoàn thiện các nội dung về thi hành án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam
giữ trong mối quan hệ so sánh với một số chế định pháp luật khác.
- Về thực tiễn áp dụng: Việc nghiên cứu nội dung này sẽ sáng tỏ tình hình thực
tiễn về vai trò của UBND xã, phƣờng, thị trấn đối với ngƣời việc thi hành án treo, án
cải tạo không giam giữ trên địa bàn cả nƣớc nói chung và tỉnh Hà Tĩnh nói riêng; chỉ ra
những tồn tại, hạn chế về vai trò của UBND xã, phƣờng, thị trấn đối với thi hành án
treo, cải tạo không giam giữ cũng nhƣ những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn
chế đó. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất phƣơng
hƣớng và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án treo, án phạt cải tạo không giam giữ
trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền và cải cách tƣ pháp hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung của luận văn có 3 chƣơng gồm:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò của Ủy ban nhân dân xã, phƣờng,
thị trấn đối với ngƣời thi hành án treo và án phạt cải tạo không giam giữ.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn về vai trò của Ủy ban nhân
dân xã, phƣờng, thị trấn đối với ngƣời thi hành án treo, án phạt cải tạo không giam
giữ trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Chương 3: Giải pháp nhằm tăng cƣờng vai trò của Ủy ban nhân dân, xã,
phƣờng, thị trấn đối với ngƣời thi hành án treo và án phạt cải tạo không giam giữ
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA ỦY BAN
NHÂN DÂN XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN ĐỐI VỚI NGƢỜI THI HÀNH
ÁN TREO, ÁN PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và khái quát lịch sử lập pháp Luật hình sự Việt
Nam về vai trò của Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn đối với ngƣời thi
hành án treo, án phạt cải tạo không giam giữ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về vai trò của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn đối với người thi hành án treo
Án treo là một chế định pháp luật đƣợc quy định ở nhiều nƣớc trên thế giới,
tuy nhiên mỗi nƣớc đều quy định một cách khác nhau nhƣ: Luật hình sự của các
nƣớc Anh, Mỹ coi án treo là trƣờng hợp hoãn tuyên án kèm theo biện pháp bảo lãnh
hoặc biện pháp bảo đảm bằng tiền; Luật hình sự của Pháp và một số nƣớc coi án
treo là việc hoãn hoặc miễn chấp hành hình phạt; Trung Quốc lại coi án treo là biện
pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Ở nƣớc ta, chế định án treo đƣợc
quy định ngay từ những năm đầu khi Nhà nƣớc Việt nam dân chủ cộng hòa mới ra
đời, tại Sắc lệnh số 21 ngày 14/2/1946 của Chủ tịch nƣớc về tổ chức của Tòa án
quân sự thiết lập tại Bắc, Trung và Nam Bộ [12, tr. 2]. Đến Bộ luật hình sự 1985,

BLHS 1999 án treo đƣợc xác định án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù
có điều kiện [41]. Hiện nay chƣa có một định nghĩa cụ thể về án treo, nhƣng qua
nghiên cứu cho thấy nhiều tác giã thống nhất với quan điểm hƣớng dẫn, giải thích
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 01/2013/NQHĐTP ngày 06/11/2013, cụ thể: án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt
tù có điều kiện, đƣợc Tòa án áp dụng đối với ngƣời phạm tội bị phạt tù không quá 3
năm, căn cứ vào nhân thân của ngƣời phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy
không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù.
Về việc thi hành án treo cũng giống nhƣ THAHS là hoạt động tổ chức thi
hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo một trình tự thủ

6


tục do pháp luật THAHS quy định. Ngƣời phải thi hành án treo họ không phải cách
ly khỏi xã hội mà đƣợc giao cho cơ quan quân đội hoặc UBND cấp xã nơi cƣ trú tổ
chức quản lý, giám sát giáo dục và thực hiện việc thi hành án. Xuất phát từ tính
nhân đạo trong chế định án treo mà những ngƣời phải thi hành án không phải cách
ly khỏi xã hội, đƣợc cải tạo, giáo dục tại cộng đồng. Trong thời gian chấp hành án,
đƣợc gia đình, ngƣời thân và cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục tạo điều kiện cho
họ đƣợc cải tạo, học tập, lao động, đƣợc đối xử nhƣ những ngƣời bình thƣờng khác,
họ chỉ bị hạn chế một số quyền do pháp luật quy định. Phƣơng pháp thực hiện thi
hành án cũng chủ yếu bằng giáo dục thuyết phục, lấy việc cảm hóa, giáo dục động
viên, khuyến khích là chính, giúp ngƣời bị kết án nhận ra lỗi lầm, tự nguyện sửa
chữa, cải tạo thành ngƣời có ích.
Theo Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ thì việc
thi hành án treo là biện pháp nhằm tạo điều kiện cho ngƣời đƣợc hƣởng án treo làm
ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lƣơng của mình ngay trong môi trƣờng
xã hội bình thƣờng, dƣới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, đơn vị quân
đội, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc UBND xã, phƣờng, thị trấn nơi ngƣời đƣợc hƣởng
án treo làm việc, công tác, học tập hoặc cƣ trú và gia đình của ngƣời đó. Theo Luật

THAHS năm 2010, thi hành án treo là việc cơ quan, ngƣời có thẩm quyền theo quy
định của Luật này giám sát, giáo dục ngƣời bị phạt tù đƣợc hƣởng án treo trong thời
gian thử thách. Từ hai quy định trên cho thấy thi hành án treo có một số đặc điểm cụ
thể nhƣ sau:
Thứ nhất: Thi hành án treo là một bộ phận cấu thành của công tác THAHS,
là hoạt động hành chính - tƣ pháp của cơ quan, tổ chức, ngƣời có thẩm quyền mà
ở đây là do UBND cấp xã hoặc cơ quan quân đội thực hiện theo trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định để đƣa bản án, quyết định của Tòa án ra thực hiện trên thực
tế, bảo đảm lợi ích của Nhà nƣớc, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa.
Thứ hai: Thi hành án treo là một trong những hoạt động thi hành án phạt
không thực hiện việc giam giữ, xuất phát từ bản chất của chế định án treo trong

7


pháp luật hình sự Việt Nam, kết hợp giữa trừng trị và giáo dục; ngƣời chấp hành án
treo không bị cách ly hoàn toàn khỏi đời sống xã hội, quyền tự do thân thể của bị án
vẫn đƣợc đảm bảo, họ chỉ bị hạn chế một số quyền nhất định do pháp luật quy định
và nhận đƣợc sự quan tâm tạo điều kiện tối đa để làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự
hối cải, hoàn lƣơng của mình ngay trong môi trƣờng xã hội bình thƣờng, dƣới sự
giám sát, giáo dục của gia đình, UBND cấp xã và các cơ quan, tổ chức, đoàn thể xã
hội nơi ngƣời đƣợc hƣởng án treo công tác, cƣ trú. “Tính nhân đạo trong thi hành án
treo còn thể hiện ở phƣơng pháp thi hành án là lấy giáo dục thuyết phục, cảm hóa,
động viên, khuyến khích là chính, hạn chế việc áp dụng các biện pháp cƣỡng chế
hoặc mệnh lệnh hành chính, giúp ngƣời bị kết án nhận ra lỗi lầm, tự nguyện sửa
chữa, cải tạo thành ngƣời có ích cho xã hội” [10] và đƣợc thể hiện rất rõ tại Điều 65
Luật BLHS năm 2015.
Thứ ba: Thi hành án treo có ý nghĩa xã hội to lớn, thể hiện chính sách nhân
đạo của Đảng, Nhà nƣớc, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Tại Nghị quyết số

49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến
năm 2020 đề ra: "Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tƣ
pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hƣớng thiện trong việc xử lý ngƣời phạm
tội" [20, tr. 3]. Tại bộ các quy tắc chuẩn, tối thiểu của Liên hợp quốc về các biện
pháp không giam giữ, gọi là các quy tắc Tôkyô năm 1990, đƣợc Đại hội đồng Liên
hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết số 45/110 ngày 14/12/1990 khẳng định:
Các quốc gia thành viên phải xây dựng những biện pháp không
giam giữ trong hệ thống pháp luật của nƣớc mình nhằm đƣa ra các cách
lựa chọn khác, từ đó giảm sử dụng biện pháp cầm tù và nhằm tạo cơ sở
hợp lý cho những chính sách tƣ pháp hình sự, thông qua việc giám sát
các quyền con ngƣời, các yêu cầu công bằng xã hội cũng nhƣ nhu cầu
phục hồi của ngƣời phạm tội [28, tr. 759].
Thứ tư: Quá trình thi hành án treo diễn ra trong thời gian thử thách nhất định
do “Tòa án ấn định bằng hai lần mức hình phạt tù nhƣng không đƣợc dƣới 1 năm và

8


không quá 5 năm, thời điểm bắt đầu ngay từ sau khi Tòa án tuyên bản án, quyết
định sơ thẩm cho hƣởng án treo. Trong thời gian thử thách, nếu ngƣời đƣợc hƣởng
án treo lại phạm tội mới thì biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù bị xóa bỏ, ngƣời
đƣợc hƣởng án treo buộc phải chấp hành hình phạt tù trong bản án đã cho hƣởng án
treo trƣớc đó cộng với hình phạt của bản án về tội phạm mới thực hiện [41].
Thứ năm: Khác với các hình phạt tù, việc thi hành án treo không giao cho
một cơ quan chuyên trách thực hiện, thể hiện rất rõ chính sách xã hội hóa của Đảng
và Nhà nƣớc ta trong những năm gần đây. Trong đó, UBND cấp xã hoặc đơn vị
quân đội giữ vai trò là cơ quan trực tiếp đƣợc giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục
ngƣời chấp hành án. Sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan, đơn vị, tổ chức xã hội, Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể, cộng đồng dân cƣ và gia đình ngƣời bị kết án là điều
kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả của việc thi hành án treo. So với thi hành hình

phạt tù có thời hạn, tù chung thân, thì việc thi hành án treo đã góp phần làm giảm
bớt chi phí cho xã hội nhƣng vẫn đạt đƣợc hiệu quả xã hội cao. Đối với thi hành
hình phạt tù thì ngƣời chấp hành án sẽ bị mất các khoản thu nhập từ các công việc
mà họ có trƣớc khi phạm tội và mất đi nguồn thu nhập cũng nhƣ cơ hội tìm kiếm
việc làm trong thời gian bị cách ly khỏi xã hội; ngoài ra, chi phí hàng năm của Nhà
nƣớc cho công tác tổ chức thi hành hình phạt tù cũng rất lớn, bao gồm đầu tƣ cho hệ
thống cơ sở nhà giam, bộ máy cán bộ làm công tác quản lý, bảo vệ, y tế, thực hiện
chế độ chính sách, đảm bảo điều kiện ăn, mặc, sinh hoạt, y tế, giáo dục cho phạm
nhân... Mặc dù ở Việt Nam hiện nay chƣa có một công bố chính thức về ngân sách
dành cho việc thi hành hình phạt tù nhƣng dễ nhận thấy là gánh nặng rất lớn cho đất
nƣớc, trong khi điều kiện kinh tế của đất nƣớc chúng ta còn đang khó khăn. Còn thi
hành án treo, Nhà nƣớc chỉ mất chi phí phát sinh liên quan đến việc quản lý, giáo
dục ngƣời chấp hành án ở địa phƣơng, một phần chi phí hỗ trợ đào tạo, học nghề,
hƣớng nghiệp, khắc phục khó khăn... do đó sẽ giảm bớt đƣợc rất nhiều chi phí so
với thi hành hình phạt tù; mặt khác, ngƣời chấp hành án treo có điều kiện thuận lợi
để tìm kiếm việc làm và gia tăng thu nhập, đặc biệt có ý nghĩa đối với bị án là lao
động duy nhất trong gia đình.

9


Thứ sáu: Không chỉ ngƣời chấp hành hình phạt tù mới tái hòa nhập cộng
đồng, mà việc tạo điều kiện cho ngƣời chấp hành án treo hòa nhập cộng đồng là vấn
đề hết sức quan trọng, bởi lẽ về bản chất, ý nghĩa của thi hành án treo đã hàm chứa
nội dung nhằm tạo tối đa cho ngƣời bị kết án có điều kiện thuận lợi nhất để sớm tái
hòa nhập cộng đồng ngay từ sau khi tuyên án, chứ không phải sau khi chấp hành
xong án, nhƣ thi hành hình phạt tù. Do đó, việc thi hành án treo đòi hỏi phải gắn bó,
lồng ghép hết sức chặt chẽ giữa công tác giám sát, quản lý, giáo dục với tạo điều
kiện cho ngƣời bị kết án đƣợc tái hòa nhập cộng đồng. Đây là hai vấn đề có mối
quan hệ hữu cơ với nhau, nếu tái hòa nhập cộng đồng tốt sẽ tạo điều kiện, làm giảm

áp lực, khó khăn cho việc quản lý, giáo dục ngƣời hƣởng án treo, phòng ngừa họ tái
trở lại con đƣờng phạm tội và ngƣợc lại. “Ngƣời bị kết án treo có nhanh chóng tái
hòa nhập xã hội ngay sau khi bị kết án và có đƣợc điều kiện tốt nhất để cải tạo trở
thành ngƣời lƣơng thiện, có ích cho xã hội hay không, thì bản án, quyết định của
Tòa án và công tác THAHS mới đạt đƣợc đến đích cuối cùng” [30].
Nhƣ vậy, từ những đặc điểm trên cho thấy thi hành án treo là một hình thức
THAHS có tính nhân đạo sâu sắc, do UBND cấp xã, đơn vị quân đội phối hợp với
tổ chức xã hội, ngƣời có thẩm quyền thực hiện theo trình tự, thủ tục pháp luật quy
định, kết hợp chặt chẽ giữa trừng trị và giáo dục, khuyến khích, tạo điều kiện để
ngƣời chấp hành án treo tự lao động, học tập, cải tạo trở thành ngƣời lƣơng thiện và
nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng, xã hội trong môi trƣờng cuộc sống bình
thƣờng, nhằm đƣa bản án, quyết định của Tòa án ra thực hiện trên thực tế và đạt
đƣợc hiệu quả cao, bảo đảm đƣợc lợi ích của Nhà nƣớc, tổ chức và công dân, bảo vệ
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về vai trò của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn đối với người thi hành hình án phạt cải tạo không giam giữ
Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ là việc buộc ngƣời phạm tội phải
tự cải tạo dƣới sự giám sát của cơ quan nhà nƣớc hoặc tổ chức xã hội nơi họ làm
việc hoặc cƣ trú và phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Cũng nhƣ các chế định
về án treo, án cải tạo không giam giữ đƣợc Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa

10


quy định rất sớm và có sự kế thừa phát triển các quy định đó cho đến ngày nay, cụ
thể Luật nghĩa vụ quân sự đƣợc Quốc hội thông qua ngày 30/12/1981, có quy định:
Ngƣời nào đang ở lứa tuổi làm nghĩa vụ quân sự mà không chấp hành đúng những
quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi
tập trung huấn luyện thì tùy mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý bằng biện pháp hành
chính, bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai năm, hoặc bị phạt tù từ ba

tháng đến hai năm [36]. Tại Điều 6 Pháp lệnh Trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu,
làm hàng giả, kinh doanh trái phép năm 1982 có ghi: Ngƣời nào kinh doanh không
có giấy phép hoặc không đúng với nội dung đƣợc phép, trốn thuế, không niêm yết
giá, nâng giá cao hơn giá niêm yết, không đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, sử dụng
trái phép nhãn hiệu hàng hóa hoặc dùng thủ đoạn khác để lừa dối cơ quan nhà
nƣớc và ngƣời tiêu dùng thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai
năm, hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm và bị phạt tiền gấp ba lần trị giá hàng
phạm pháp [28]. Bộ luật Hình sự năm 1985 ghi nhận hình phạt cải tạo không giam
giữ là một trong những hình phạt chính. Tại Điều 24 BLHS 1985 và khoản 1, khoản
3, Nghị quyết 02/1986/NQ-HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao quy định hình phạt này đƣợc áp dụng với ngƣời phạm tội ít nghiêm
trọng. So với quy định trong BLHS năm 1985, quy định về cải tạo không giam giữ
theo BLHS năm 1999 có mở rộng diện áp dụng và tăng cƣờng nghĩa vụ, trách
nhiệm của ngƣời chấp hành án, phù hợp định hƣớng cải cách tƣ pháp và xu thế
chung hiện nay.
Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ là một bộ phận của THAHS đƣợc
cơ quan có thẩm quyền tổ chức thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định. Việc
thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ nhằm tạo điều kiện cho ngƣời kết án phạt
cải tạo không giam giữ lao động, học tập và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lƣơng của
mình ngay trong môi trƣờng xã hội bình thƣờng, dƣới sự giám sát, giáo dục của cơ
quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc UBND cấp xã nơi
ngƣời bị kết án cƣ trú và gia đình ngƣời đó. Ngƣời phải thi hành hình phạt cải tạo

11


không giam giữ không bị tƣớc tự do, không buộc phải cách ly khỏi gia đình, nơi
làm việc cũng nhƣ xã hội nói chung mà phải chịu sự giám sát, giáo dục của các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Ngƣời bị kết án phải thực
hiện nghĩa vụ báo cáo, tự kiểm điểm định kỳ và có thể phải nộp 5% đến 20% thu

nhập để sung quỹ nhà nƣớc. Thời hạn cải tạo không giam giữ từ 6 tháng đến 3 năm.
Hình phạt áp dụng đối với ngƣời phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, có
nơi làm việc hoặc nơi thƣờng trú rõ ràng và khi các điều kiện khác cho thấy họ có
thể tự cải tạo, giáo dục cải tạo ở ngoài xã hội. Giống với việc thi hành án treo là
không cách ly ngƣời bị kết án khỏi xã hội, nhƣng khác ở chỗ cải tạo không giam giữ
là hình phạt chính.
Trên cơ sở phân tích trên có thể đƣa ra khái niệm nhƣ sau: Thi hành phạt cải
tạo không giam giữ là việc thi hành hình phạt chính trong hệ thống hình phạt tù,
nhằm tạo điều kiện cho ngƣời bị phạt tù đƣợc cải tạo, học tập trong môi trƣờng xã
hội bình thƣờng để khuyến khích họ tích cực cải tạo nhanh chóng thành ngƣời có
ích cho xã hội; do cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội hoặc UBND cấp xã nơi ngƣời
bị thi hành án quản lý giáo dục giám sát việc thi hành án và đƣợc áp dụng đối với
ngƣời phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng đang có nơi làm việc
ổn định hoặc nơi thƣờng trú rõ ràng và xét thấy không cần phải cách ly họ ra khỏi
xã hội. Mặt khác theo quy định tại Điều 3 Luật THAHS năm 2010: "Thi hành án
phạt cải tạo không giam giữ là việc cơ quan, ngƣời có thẩm quyền theo quy định
của Luật này giám sát, giáo dục ngƣời chấp hành án tại xã, phƣờng, thị trấn và
khấu trừ thu nhập sung quỹ nhà nƣớc theo bản án đã có hiệu lực pháp luật" [42].
Đây là loại hình phạt đƣợc xử lý phù hợp với đƣờng lối tội phạm trong quá trình
xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN, thể hiện tại Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
2/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020, cụ thể:
"Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với
một số loại tội phạm" [20, tr.3].
* Về đặc điểm của thi hành án phạt cải tạo không giam giữ:
Một là: Thi hành hình phạt này ngƣời phải thi hành án không cần phải cách

12


ly khỏi xã hội mà đƣợc thi hành trong môi trƣờng bình thƣờng trƣớc sự giám sát

giáo dục của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phƣơng. Ngƣời phải thi hành án
đƣợc sinh hoạt bình thƣờng, đƣợc quyền tham gia lao động, đƣợc bố trí việc làm
trong những vị trí hợp lý, đƣợc trả công lao động và đƣợc hƣởng các chế độ xã hội
giống nhƣ họ đã tƣờng đƣợc hƣởng trƣớc khi bị kết án và phải thi hành án.
Hai là: Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là quá trình thi hành hình
phạt chính nên đồng thời còn bao gồm cả việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực
hiện sẽ thực hiện khấu trừ một phần thu nhập của ngƣời chấp hành án (từ 5% đến
20% thu nhập) mà Tòa án đã ấn định để sung quỹ nhà nƣớc, bên cạnh đó còn có thể
phải thi hành hình phạt bổ sung kèm theo bản án hoặc quyết định của Tòa án có
thẩm quyền (nếu có).
Ba là: Khác với hình phạt tù, thi hành án phạt cải tạo không giam giữ không
phải do một cơ quan tổ chức giám sát, cải tạo mà thầm quyền đƣợc giao quản lý,
giáo dục, cải tạo đối với ngƣời bị kết án ở đây là do các cơ quan, tổ chức nơi ngƣời
đó lao động, học tập hoặc chính quyền địa phƣơng (Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi cƣ
trú thực hiện. Hình phạt này thể hiện rất rõ chính sách xã hội hóa trong công tác thi
hành án của Đảng và nhà nƣớc ta trong những năm gần đây, đó là nâng cao sự phối
hợp giữa các cơ quan, tổ chức và gia đình trong là điều kiện cần thiết để nâng cao
hiệu quả thi hành án.
Bốn là: Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là quá trình hiện thực
hóa một trong những hình phạt chính nhƣng có tính nhân đạo sâu sắc, do cơ quan
không chuyên trách (Ủy nhân dân cấp xã, các cơ quan, tổ chức xã hội, ngƣời có
thẩm quyền) thực hiện theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định, kết hợp chặt chẽ
giữa trừng trị và giáo dục, khuyến khích, tạo điều kiện để ngƣời chấp hành án
phạt cải tạo không giam giữ tự lao động, học tập, rèn luyện trở thành ngƣời
lƣơng thiện và nhanh chóng tái hòa nhập xã hội trong môi trƣờng cuộc sống bình
thƣờng, nhằm đƣa bản án, quyết định của Tòa án ra thực hiện trên thực tế và đạt
đƣợc hiệu quả xã hội cao.

13



1.1.3. Khái quát lịch sử lập pháp của Luật hình sự Việt Nam về vai trò của
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn trong thi hành án treo và án phạt cải tạo
không giam giữ
* Khái quát lịch sử lập pháp của luật hình sự Việt Nam về vai trò của Ủy
ban nhân dân xã phường, thị trấn đối với người thi hành án treo
- Giai đoạn từ 1945 đến 1985: Án treo là chế định đƣợc hình thành rất sớm
trong Luật hình sự Việt Nam và đƣợc quy định lần đầu tiên tại Sắc lệnh số 33C của
Chủ tịch Chính phủ lâm thời nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành ngày
13/9/1945, sau đó đến Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 của Chủ tịch nƣớc Việt
Nam dân chủ cộng hòa về "tổ chức Tòa án quân sự". Tuy nhiên, để đảm bảo việc áp
dụng án treo đƣợc thống nhất ngày 01/12/1961 Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành
Thông tƣ 2308/NCPL về việc áp dụng chế độ án treo, theo đó án treo là "một biện
pháp hoãn hình có điều kiện, áp dụng chủ yếu đối với kẻ phạm tội nhẹ, bản chất
không nguy hiểm, xét không cần thiết phải thi hành ngay hình phạt tù, nhằm mục
đích khuyến khích họ tự nguyện lao động, cải tạo với sự giúp đỡ tích cực của xã
hội, đồng thời cảnh cáo họ nếu còn tiếp tục phạm tội trong thời gian thử thách, thì
tùy trƣờng hợp sẽ buộc phải chấp hành án cũ. Ngƣợc lại, nếu trong thời gian thử
thách họ không phạm tội gì mới, án trƣớc sẽ đƣợc xóa bỏ". Về thi hành án giai đoạn
này nhà nƣớc chƣa có một quy định cụ thể cơ quan, tổ chức nào có trách nhiệm
quản lý giáo dục những ngƣời đƣợc hƣởng án treo nhƣng với vai trò quản lý nhà
nƣớc, quản lý xã hội của chính quyền địa phƣơng, qua nghiên cứu cho thấy UBND
cấp xã đã tham gia quản lý ngay từ thi có các quy định nói trên. Mặt khác, khi
nghiên cứu về lịch sử thi hành án hình sự ở giai đoạn này cho thấy: Sắc lệnh số
13/SL, ngày 24/0l/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng
hòa về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên
cho tổ chức THAHS ở Việt Nam. Tại khoản 3, Điều 3 Sắc lệnh quy định, “Ban tƣ
pháp xã” có quyền thi hành những mệnh lệnh của thẩm phán cấp trên, bao gồm các
bản án, quyết định của Tòa án. Thông tƣ số 24-BK ngày 26/4/1949 của Bộ trƣởng
Bộ Tƣ pháp về việc thi hành án hình và hộ, đã xác định: Trách nhiệm THAHS là


14


của “chính quyền cấp xã”. Tuy, các văn bản trên chƣa quy định rõ, cụ thể là vai trò
của UBND cấp xã trong quản lý, giáo dục, cải tạo đối với ngƣời thi hành án treo
nhƣng đã quy định tƣơng đối rõ về vai trò trách nhiệm của UBND cấp xã trong thi
hành án hình sự.
- Giai đoạn từ năm 1985 đến nay
Năm 1985, Bộ luật hình sự đầu tiên của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã ra đời và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/1986 đã đánh dấu một
bƣớc trƣởng thành trong quá trình hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật Việt
Nam. Án treo đã kế thừa, phát triển theo Sắc lệnh số 21 và Thông tƣ số 2308NCPL. Ngày 21/12/1999 và đƣợc quy định tại Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985
với một nội dung khá đầy đủ và toàn diện. Vai trò của UBND cấp xã đối với ngƣời
thi hành án treo và án phạt cải tạo không giam giữ đã đƣợc quy định cụ thể tại
khoản 2, Điều 44: “Toà án giao ngƣời bị án treo cho cơ quan Nhà nƣớc hoặc tổ
chức xã hội nơi ngƣời đó làm việc hoặc thƣờng trú để theo dõi, giáo dục”.
Ngày 2/6/1988, Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông qua Bộ
luật tố tụng hình sự, tại Điều 227 BLTTHS năm 1988 đã quy định: “Cơ quan, tổ
chức có nhiệm vụ thi hành bản án và quyết định của Tòa án là chính quyền xã,
phƣờng, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi ngƣời bị kết án cƣ trú làm việc có trách
nhiệm theo dõi, giám sát việc cải tạo của những ngƣời đƣợc hƣởng án treo hoặc cải
tạo không giam giữ”.
Đến năm 1999, Bộ luật hình sự sửa đổi thì vai trò của của UBND cấp xã
trong quan quản lý giám sát ngƣời thi hành án đƣợc quy định tại khoản 2 Điều 60.
Ngày 30/10/2000 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2000/NĐ-CP, về việc
hƣớng dẫn thi hành án treo tại các Điều 1,2,3 đã quy định cụ thể về vai trò của
UBND cấp xã trong quản lý, giám sát đối với ngƣời thi hành án.
Năm 2010, Luật thi hành án hình sự đƣợc ban hành: Tại Điều 18 và Điều 65
đã nêu rõ: "Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về giám sát,

giáo dục ngƣời chấp hành án treo và Công an cấp xã tham mƣu, giúp Ủy ban nhân
dân cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật này".

15


Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 tại Điều 5 quy định: Giao
ngƣời đƣợc hƣởng án treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội giám sát,
giáo dục trong thời gian thử thách.
Bộ luật hình sự năm 2015: Vai trò của UBND cấp xã trong quản lý, giám sát
giáo dục đƣợc quy định cụ thể hơn. Tại khoản 2 Điều 65 ghi rõ:
Trong thời gian thử thách, Tòa án giao ngƣời đƣợc hƣởng án treo
cho cơ quan, tổ chức nơi ngƣời đó làm việc hoặc chính quyền địa
phƣơng nơi ngƣời đó cƣ trú để giám sát, giáo dục. Gia đình ngƣời bị kết
án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa
phƣơng trong việc giám sát, giáo dục ngƣời đó [44, Điều 65].
* Khái quát lịch sử lập pháp của luật hình sự Việt Nam về vai trò của Ủy ban
nhân dân, xã phường, thị trấn đối với người thi hành án phạt cải tạo không giam giữ
- Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước pháp điển
hóa lần thứ nhất, Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985: Hình phạt cải tạo không giam
giữ đƣợc đề cập lần đầu tiên trong Luật Nghĩa vụ quân sự đƣợc Quốc hội thông qua
ngày 30/12/1981 (Khoản 1 Điều 69). Tiếp theo đó, ngày 30/6/1982, tại Pháp lệnh
trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, một lần nữa
hình phạt cải tạo không giam giữ lại đƣợc đề cập tới. Cũng giống nhƣ án treo vai trò
của cơ quan quản lý giáo dục ngƣời thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ đƣợc
quy định chƣa rõ nét, trên thực tế việc này UBND xã, phƣờng, thị trấn đã thực hiện
việc quản lý, giám sát ngƣời thi hành án nhƣng do chƣa có các quy định cụ thể nên
hiệu quả chƣa cao, chƣa chặt chẽ.
- Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay
Theo Bộ Luật hình sự năm thì vai trò của UBND cấp xã trong quản lý, giáo

dục ngƣời thi hành án cải tạo không giam giữ đƣợc quy định rõ tại khoản 2 Điều 24:
“Toà án giao ngƣời bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan nhà nƣớc hoặc tổ
chức xã hội nơi ngƣời đó làm việc hoặc thƣờng trú để giám sát, giáo dục”. Năm
1999 khi sửa đổi Bộ Luật hình sự thì vai trò của UBND xã, phƣờng, thị trấn trong
quản lý giáo dục và thi hành án vẫn không thay đổi so với Bộ luật hình sự năm

16


×