Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Vai trò của hội đồng nhân dân xã, thị trấn về phát triển kinh tế - xã hội trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.74 KB, 87 trang )

Lun vn thc s qun lý hnh chớnh cụng Dng Th Tỡnh Thng
Lời cảm ơn
Để hoàn thành luận văn, tôi đã nhận đợc sự động viên, giúp đỡ tận tình
và quý báu của các thầy, cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp trong và ngoài Học
viện chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Với tình cảm chân thành, tôi xin đợc bày tỏ lòng biết ơn tới Giáo s, Tiến
sĩ Đinh Văn Tiến - Phó giám đốc học viện tận tình hớng dẫn và giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban giám đốc cùng các giảng viên
của Học viện Hành chính Quốc gia đã tận tình giảng dạy, tạo điều kiện giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài tốt nghiệp.
Tụi xin chõn thnh cm n lónh o Ban cụng tỏc i biu ca y ban
thng v Quc hi, V cụng tỏc i biu - Vn phũng Quc hi cựng cỏc
ng nghip ó giỳp tụi trong quỏ trỡnh nghiờn cu, su tm hon thnh
lun vn
Với khả năng và thời gian nhất định, luận văn chắc chắn còn có những
thiếu sót. Tôi rất mong đợc đợc góp ý để hoàn thiện, có thể tiếp tục nghiên
cứu theo hớng đã chọn lên mức cao hơn và toàn diện hơn./.
Tác giả luận văn

Dơng Thị Tình Thơng
MC LC
PH LC
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. HĐ ND : Hội đồng nhân dân
2. UBND : Uỷ ban nhân dân
3. MTTQ : Mặt trận tổ quốc
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính quyền địa phương là một bộ phận quan trọng trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy Nhà nước là những cấu trúc quyền lực gắn liền với
người dân, gần dân và tác động ảnh hưởng trực tiếp đến các vấn đề dân chủ,
nhân quyền và cuộc sống của mỗi cộng đồng, mỗi nhóm xã hội, mỗi người
dân. Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân là Hai bộ phận cơ bản của chính
quyền địa phương ở nước ta. Trong giai đoạn hiện nay, thực trạng tổ chức,
hoạt động của Hội đồng nhân dân đặt ra nhiều vấn đề cần phải đi sâu nghiên
cứu đặc biệt là khi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
xây dựng và vận hành theo đúng quy luật khách quan của nó và nhà nước
pháp quyền xác lập được các cơ sở của mình trong bối cảnh nền kinh tế mới,
hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa.
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân,
vì dân ở nước ta hiện nay. Đảng ta đã xây dựng và ban hành nhiều nghị quyết
quan trọng, trong lĩnh vực cải cách bộ máy nhà nước nâng cao chất lượng
hoạt động và vai trò của chính quyền địa phương trong đó có HĐND xã, thị
trấn, tạo cơ sở quan trọng trong việc sửa đổi, bổ sung một số điều của hiến
pháp 1992(năm 2001), xây dựng luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban
nhân dân năm 2003 và các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Đặc biệt là
nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định nhiệm vụ “Con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phải phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”, “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”
1
. Tuy nhiên,
vai trò của Hội đồng nhân dân về phát triển kinh tế ở địa phương chưa phát
1
Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 - Khóa X.
1

Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
huy đầy đủ và thực chất chưa được cải cách đúng tầm với thực tiễn. Kể cả
việc mới ban hành luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm
2003 và nhiều văn bản, hội thảo cũng như các công trình nghiên cứu nhằm
đánh giá thực trạng, tìm giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động và vai trò
của hội đồng nhân dân trong việc thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của mình
được hiến pháp và luật quy định.Nhưng vẫn chưa đưa ra được những giải
pháp đổi mới mang tính đột phá để Hội đồng nhân dân thực sự là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, quyết định những vấn để quan trọng về phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương. Trong giai đoạn
đất nước đang trên đà đổi mới, hội nhập sâu rộng, và với nghị quyết của Đảng về
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Do đó vai trò của
HĐND xã, thị trấn trong việc quyết định những vấn đề về phát triển kinh tế ở địa
phương trong giai đoạn hiện nay càng quan trọng hơn bao giờ hết.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài:
Xuất phát từ tầm quan trọng của cấp chính quyền địa phương trong tổ
chức bộ máy Nhà nước nhất là vai trò của HĐND xã, thị trấn trong phát triển
kinh tế ở địa phương trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nên thời
gian gần đây, trong quá trình tìm kiếm những giải pháp đổi mới nâng cao hoạt
động của HĐND cấp xã, thị trấn, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về
chính quyền địa phương nói chung về HĐND nói riêng được triển khai trên
các bình diện và cấp độ khác nhau. Các kết quả nghiên cứu đã được công bố
dưới nhiều hình thức ấn phẩm có thể kể ra một cách chưa thật sự đầy đủ như:
+ Cuốn “Tổ chức chính quyền Nhà nước ở địa phương- Lịch sử và hiện
tại” của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung- NXB Đồng Nai 1997;
+ Cuốn “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở
Việt Nam hiện nay” do PGS.TS Lê Minh Thông và PGS.TS Nguyền Như
Phát chủ biên- NXB chính trị Quốc gia 2002;
2
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương

+ Cuốn “Những điểm mới trong quy chế hoạt động của HĐND năm
2005” của NXB chính trị Quốc gia năm 2005;
+ “Báo cáo khoa học về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân các cấp” của văn phòng quốc hội tháng năm 2003.
+ Kỷ yếu “Hội nghị toàn Quốc về hoạt động của HĐND và UBND” của
Ban Công tác đại biểu thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội năm 2010;
+ Cuốn “Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta thời kỳ
đổi mới” do PGS,TS Đinh Xuân Lý chủ biên – NXB chính trị Quốc gia năm
2010 Về cơ bản, kết quả nghiên cứu trong thời gian qua đã cung cấp những
căn cứ tư liệu rất quan quan trọng làm tiền đề cho việc đi sâu nghiên cứu và
đề xuất những kiến nghị cụ thể đối với việc kiện toàn tổ chức và hoạt động
của từng bộ phận thuộc chính quyền địa phương các cấp. Tuy nhiên, trong các
công trình nghiên cứu nói trên, vấn đề chính quyền địa phương thường được
nghiên cứu trên bình diện tổng thể, tập trung vào việc tìm kiếm mô hình tổng
thể về tổ chức chính quyền địa phương các cấp. Các vấn đề cụ thể liên quan
tới các bộ phận hợp thành thành quyền địa phương thường chỉ được xem xét
chung dưới góc độ xã hội, lịch sử hay hoạt động tác nghiệp thực tiễn của từng
bộ phận ít khi được nghiên cứu đồng thời.
Nhận thức được tầm quan trọng của các vấn đề nêu trên tôi đã chọn thực
hiện đề tài luận văn thạc sỹ “Vai trò của hội đồng nhân dân xã, thị trấn về
phát triển kinh tế - xã hội trong nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa” làm đề tài nghiên cứu cuối khóa cao học.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
a) Mục đích:
- Nêu ra cơ sở lý luận về phát triển kinh tế địa phương.
- Quá trình hình thành và phát triển chính quyền cấp xã, thị trấn.
- Thực trạng các vấn đề về tổ chức và hoạt động của HĐND xã, thị trấn.
3
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
- Đề xuất kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao vai trò của hội đồng nhân

dân xã, thị trấn trong việc phát triển kinh tế ở địa phương.
b) Nhiệm vụ nghiên cứu
- Vận dụng lý luận cơ bản về kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
vào thực tế sản xuất hàng hoá và nâng cao hiệu quả kinh tế ở mỗi địa phương.
- Nêu rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân xã, thị trấn
trong hệ thống chính quyền Nhà nước ở địa phương. Sự phát triển của hội
đồng nhân dân xã, thị trấn từ năm 1960 đến nay qua các định chế luật pháp.
Phân tích đánh giá thực trạng địa bàn tổ chức quản lý và hoạt động của chính
quyền xã, thị trấn. Tìm ra các nguyên nhân tồn tại trong tổ chức và hoạt động
của HĐND xã, thị trấn hiện nay.
- Phân tích làm nổi bật vai trò của Hội đồng nhân dân xã, thị trấn trong
việc phát triển kinh tế ở địa phương. Từ đó đề xuất một số giải pháp về quản
lý Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế trên địa bàn.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hình thành và phát triển của
Hội đồng nhân dân xã, thị trấn trong hệ thống chính quyền địa phương ở nước
ta.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
- Tình hình thực hiện vai trò của HĐND xã, thị trấn trong phát triển kinh
tế ở địa phương;
- Phân tích thực trạng hoạt động của HĐND xã, thị trấn trong việc quyết
định các vấn đề quan trọng ở địa phương;
- Tập trung vào việc xem xét, nghiên cứu vai trò hệ thống HĐND xã, thị
trấn trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời kỳ đổi mới.
b. Phạm vi nghiên cứu
- Tình hình hoạt động của Hội đồng nhân dân xã, thị trấn của Việt
4
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
Nam, từ đó đưa ra nhận xét chung về hoạt động của HĐND cấp xã, thị trấn.
5. Phương pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu và trình bày các nội dung mang tính lý luận và thực tiễn,
trong quá trình nghiên cứu, sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác
nhau, trong đó có các phương pháp thống kê toán học, phương pháp phân tích
tổng hợp, phân tích hệ thống, phương pháp dự báo.
6. Dự kiến đóng góp của đề tài
- Làm rõ vai trò của HĐND xã, thị trấn về lý luận và thực tiễn trong
việc phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương.
- Đề xuất một số các kiến nghị giải pháp cần thiết để nâng cao vị thế,
vai trò của hội đồng nhân dân xã, thị trấn nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả
hoạt động của cấp này đối với sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.
7. Ý nghĩa thực tiễn và điểm mới của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của luận văn được sử dụng làm tài liệu tham khảo
phục vụ quản lý, nghiên cứu để đổi mới và nâng cao vai trò HĐND xã, thị
trấn trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời kỳ đổi mới.
- Luận văn nghiên cứu đề tài với đối tượng là Hội đồng nhân dân xã, thị
trấn nhằm hướng đến xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp ngay tại xã, thị
trấn với nhiệm vụ cơ bản là thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và
mục lục, luận văn được trình bày thành 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở khoa học của sự hình thành và phát triển Hội đồng nhân
dân xã, thị trấn trong hệ thống chính quyền địa phương ở nước ta.
- Chương 2: Vai trò Hội đồng nhân dân xã, thị trấn đối với phát triển kinh tế
địa phương.
- Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị chủ yếu nhằm tăng cường hơn
nữa vai trò của Hội đồng nhân dân xã, thị trấn trong việc phát triển kinh tế ở
5
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
địa phương
Chương 1

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA SỰ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN XÃ, THỊ TRẤN
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
Ở NƯỚC TA
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN XÃ, THỊ TRẤN
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.1. Vị trí của hội đồng nhân dân các cấp trong bộ máy Nhà nước
Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, ngày
22/11/1945 chủ tịch Hồ chí Minh đã ký sắc lệnh số 63-SL đã quy định về tổ chức
chính quyền xã ở tiết 1 và tiết 2, chương I: “Điều thứ 2: Ở mỗi xã sẽ đặt một
HĐND có từ 15 đến 25 hội viên chính thức và từ 5 đến 7 hội viên dự khuyết
2
.
Một đạo nghị định của bộ trưởng Bộ nội vụ sẽ định rõ cách tính số hội
viên tùy theo dân số.
Điều thứ 12: Ở mỗi xã sẽ đặt một Ủy ban hành chính có 5 ủy viên
chính thức (một chủ tịch, 1 phó chủ tịch, 1 thư ký, 1 thủ quỹ và ủy viên) và 2
ủy viên dự khuyết
3
.
Điều thứ 13: Ủy ban hành chính xã do Hội đồng nhân dân xã bầu ra.
Lúc bầu sẽ bầu riêng Chủ tịch, phó chủ tịch, thư ký và ủy viên.
Điều thứ 14: Muốn ứng cử vào Ủy ban hành chính xã phải có chân
trong HĐND xã và phải biết đọc, biết viết
4
.
Qua các lần sửa đổi Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 và sau đó sửa
đổi luật tổ chức HĐND và UBND về chính quyền xã không mấy thay đổi.
Quyết định 112- HĐBT ngày 05/10/1981 ghi nhận tại điều 1”
5

Chính quyền
Nhà nước cấp xã bao gồm HĐND và UBND xã được nhân dân bầu ra theo
2
Dữ liệu Luật Việt Nam năm 2010 - Trung tâm tin học Văn phòng Quốc hội.
3
Cơ sở dữ liệu Luật Việt Nam năm 2010 - Trung tâm tin học Văn phòng Quốc hội
4
Cơ sở dữ liệu Luật Việt Nam năm 2010 - Trung tâm tin học Văn phòng Quốc hội
5
Sổ tay Đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1999.
6
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
Hiến pháp và pháp luật, là cơ quan quản lý ở xã. Chính quyền địa phương
nước ta là chính quyền của nhân dân do nhân dân bầu ra thông qua cơ quan đại
diện cho ý chí, nguyện vọng của mình là HĐND, HĐND bầu ra UBND. Như vậy
chính quyền địa phương ở nước ta gồm có 2 cơ quan là HĐND và UBND. Có
một số đặc điểm cơ bản và được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:
- Chủ quyền thuộc về nhân dân, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân.
- Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Thể hiện sự thống nhất cao của tính Nhà nước, các đơn vị hợp thành
chỉ là các đơn vị hành chính lãnh thổ (cấp tỉnh, huyện, xã) là những cấu trúc
không có chủ quyền quốc gia.
- Tập trung dân chủ mối quan hệ quyền lực giữa chính quyền Trung ương
và chính quyền địa phương mang tính chất trực thuộc, song song với việc phân
cấp quyền lực và trách nhiệm cho địa phương để tạo khả năng tự chủ.
- Pháp chế xã hội chủ nghĩa, quản lý Nhà nước bằng pháp luật. Nhà
nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở một hệ thống pháp luật thống nhất,
các văn bản pháp luật và không được trái với các đạo luật. Đảng lãnh đạo bộ

máy Nhà nước
Trong bộ máy Nhà nước, cơ quan do nhân dân trực tiếp thành lập ra
qua đầu phiếu phổ thông được gọi là cơ quan dân cử hay là cơ quan quyền lực
Nhà nước, bao gồm quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Hệ thống các cơ
quan này là nền móng, xương sống của bộ máy Nhà nước. Các cơ quan khác
của bộ máy Nhà nước đều bắt nguồn từ cơ quan quyền lực Nhà nước, do cơ
quan quyền lực Nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập. Hội đồng nhân
dân do nhân dân địa phương bầu ra, là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương nhưng nằm trong tổng thể bộ máy Nhà nước.
7
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
1.1.2 Sự phát triển của Hội đồng nhân dân trong quá trình lập hiến
Lịch sử xây dựng và phát triển chính quyền địa phương ở Việt Nam đã
trải qua bốn thời kỳ cơ bản, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội an ninh quốc phòng:
Thời kỳ thứ nhất (Thế kỷ X) Là thời kỳ đặt nền móng cho việc xây
dựng chính quyền địa phương của Nhà nước Phong kiến tự chủ; Thời kỳ thứ
hai (Từ thế kỷ X- XV) Là chính quyền địa phương trong thời kỳ xây dựng và
phát triển Nhà nước quân chủ trung ương tập quyền mạnh ở Việt Nam; Thời
kỳ thứ ba (Từ cuối thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XIV) Chính quyền địa phương
địa phương trong thời kỳ Nhà nước quân chủ trung ương tập quyền phân liệt,
suy yếu; giai đoạn thứ tư (Từ giữa thế kỷ XIV đến năm 1945) Chính quyền
địa phương trong thời kỳ Pháp thuộc. Trong cả bốn thời kỳ nói trên mặc dù tổ
chức bộ máy chính quyền địa phương có những sự khác biệt nhất định về
nguyên tắc tên gọi, cơ cấu tổ chức và địa vị pháp lý nhưng về cơ bản đã tồn
tại hai hình thức chủ yếu và được duy trì đồng thời với nhau trong suốt lịch sử
tổ chức bộ máy chính quyền địa phương trước cách mạng tháng tám.
Chính quyền địa phương từ cách mạng tháng tám đến nay được chia
thành bốn giai đoạn cho phù hợp với tình hình mới của đất nước:
1.1.2.1 Giai đoạn 1945-1960

- Sau Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, Đảng ta rất quan
tâm đến việc xây dựng, củng cố chính quyền từ Trung ương đến địa phương
nhằm xây dựng bộ máy thống nhất. Ngày 22/11/1945 Nhà nước ban hành Sắc
lệnh số 63/SL về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân của các cấp chính quyền thuộc vùng nông thôn, ngày 21/12/1945
ban hành Sắc lệnh số 77/SL về tổ chức và hướng dẫn của Hội đồng nhân dân
và Ủy ban hành chính các cấp ở thành phố. Theo quy định của Sắc lệnh số 63,
các tỉnh được chia thành 3 cấp chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Ở hai
8
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
cấp tỉnh và xã trong cơ cấu chính quyền nhân dân có hai cơ quan Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân còn cấp huyện chỉ có Ủy ban hành chính. Trong
khi đó Sắc lệnh số 77 quy định thành phố Hà Nội và các thành phố trực thuộc
các Kỳ được phân chia thành hai cấp: cấp thành phố và cấp khu phố. Ở cấp
thành phố cơ cấu chính quyền nhân dân gồm cơ quan Hội đồng nhân dân và
ủy ban hành chính, còn Khu phố chỉ có Ủy ban hành chính. Trong thời kỳ
kháng chiến, mô hình tổ chức hoạt động theo quy định như trên là hợp lý.
Mặc dù được tổ chức riêng hai hệ thống cơ quan nhưng Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân có mối quan hệ chặt chẽ, hoạt động của Ủy ban nhân dân có
vai trò quan trọng trong điều hành, quản lý xã hội. Hội đồng nhân dân có
quyền bầu ra Ủy ban hành chính nhưng thực hiện chức năng kiểm tra giám sát
hoạt động của Ủy ban hành chính chủ yếu do Ủy ban hành chính kỳ và chính
phủ thực hiện. Hội đồng nhân dân chỉ có quyền yêu cầu phán quyết đối với ủy
ban hành chính – tức là bỏ phiếu tín nhiệm; Hội đồng nhân dân chỉ được can
thiệp vào hoạt động của ủy ban hành chính kỳ hoặc bộ nội vụ khi cơ quan này
không tuân theo mệnh lệnh cấp trên. Như vậy hoạt động kiểm tra giám sát
của hội đồng nhân dân đối với Ủy ban hành chính có nhiều hạn chế, Ủy ban
hành chính ít chịu tác động của hội đồng nhân dân cung cấp mà chủ yếu chịu
tác động bởi cơ quan hành chính cấp trên.
Trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước, bộ máy chính quyền cũng có

sự thay đổi theo hướng hoàn thiện. Tổ chức bộ máy của cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương (hội đồng nhân dân) ngày càng được kiện toàn và
hoàn thiện. Hoạt động của hội đồng nhân dân cũng luôn được đổi mới, tăng
cường hoạt động ngày càng có hiệu lực. Hiến pháp năm 1945 và Luật tổ chức
chính quyền địa phương năm 1958 đã nâng cao vai trò, vị trí của hội đồng
nhân dân trong bộ máy nhà nước, trong đó quy định hội đồng nhân dân được
bầu và thành lập ở 2 cấp, cấp tỉnh và cấp xã thực hiện chức năng, nhiệm vụ là
9
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
quyết định những vấn đề thuộc địa phương mình bằng cách ra các nghị quyết
có tính chất bắt buộc phải thi hành đối với ủy ban hành chính. Hoạt động của
hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính có vai trò quyết định đến sự nghiệp
cách mạng lúc bấy giờ.
1.1.2.2 Giai đoạn 1960-1980
Kế thừa và phát triển những quy định pháp lý của Sắc lệnh 63, 77 và
Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức hội đồng nhân dân và
Ủy ban hành chính các cấp năm 1962 tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của hội
đồng nhân dân và ủy ban hành chính các cấp. Hiến pháp quy định hội đồng nhân
dân được bầu và thành lập ở cả ba cấp: tỉnh, huyện, xã. Điều 80 của Hiến pháp
quy định "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương và ủy
ban hành chính các cấp không chỉ là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
mà còn là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân địa phương"
6
. Hội đồng
nhân dân từng bước được tổ chức chặt chẽ và khẳng định tầm quan trọng, nhất là
thể hiện vị thế của mình trước ủy ban hành chính cùng cấp, thể hiện tính chất
quyền lực nhà nước của hội đồng nhân dân. Đây là bước tiến quan trọng trong
tiến trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước ở nước ta.
1.1.2.3 Giai đoạn 1980-1992
Trong giai đoạn này, quyền hạn của hội đồng nhân dân được tăng cường

trên tất cả những lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng … điểm
nổi bật là quy định về những bảo đảm về vật chất, tinh thần, những yêu cầu về
thông tin, tư liệu, đảm bảo nơi tiếp xúc cử tri và phương tiện đi lại … với mục
tiêu để đại biểu hội đồng nhân dân thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ do luật
định. Khi thành lập thường trực hội đồng nhân dân, đã đưa ủy ban nhân dân trở
lại đúng vị trí là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân thực hiện quản lý
kinh tế - xã hội ở địa phương. Đây là bước tiến rõ nhất phân định quyền hạn,
trách nhiệm giữa cơ quan quyền lực và cơ quan hành pháp ở địa phương.
6
Cơ sở dữ liệu Luật Việt Nam năm 2010 - Trung tâm tin học Văn phòng Quốc hội.
10
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
1.1.2.4 Giai đoạn 1992 đến nay
Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 1994 khẳng
định rất rõ về tổ chức hội đồng nhân dân ở 3 cấp, nhưng chỉ có cấp tỉnh và cấp
huyện mới thành lập các ban, Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân
dân còn bổ sung những quy định mới cụ thể hơn, thể hiện rõ tầm quan trọng
của hội đồng nhân dân trong việc quyết định sự phát triển của địa phương
trong mọi lĩnh vực, quyền của đại biểu hội đồng nhân dân cũng được tăng
cường, mở rộng hơn đó là quyền chất vấn, giám sát giữa hai kỳ họp hội đồng
nhân dân. Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003 tiếp
tục khẳng định tầm quan trọng và vị trí, tầm thế của hội đồng nhân dân cũng
như tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức của hội đồng nhân dân.
Như vậy, tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hội
đồng nhân dân các cấp luôn được Đảng, nhà nước quan tâm và từng bước
được hoàn thiện và tiếp tục cần được hoàn thiện hơn đảm bảo hội đồng nhân
dân thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho nhân
dân địa phương. Hiến pháp năm 1992(Sửa đổi năm 2001) thực hiện một bước
cải cách quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm
đáp ứng nhu cầu của quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế- xã hội, từ tập trung

bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên, sự thay đổi
mạnh mẽ diễn ra chủ yếu ở bộ máy Nhà nước ở trung ương. Về cơ bản mô
hình tổ chức các cấp chính quyền địa phương theo quy định trên không có sự
thay đổi nhiều so với giai đoạn trước.Bộ máy nhà nước là một hệ thống các
cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở được tổ chức theo nguyên tắc
thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ thực hiện các chức năng và nhiệm
vụ của nhà nước. Nhìn tổng quát, bộ máy nhà nước ta được tổ chức thành bốn
phân hệ giống như bộ máy nhà nước của các nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa có nền kinh tế thị trường, đó là:
11
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
+ Các cơ quan quyền lực nhà nước (cơ quan đại diện của nhân dân)
+ Các cơ quan lập pháp
+ Các cơ quan hành pháp
+ Các cơ quan tư pháp
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ghi rõ: “Hội
đồng nhân dân quyết nghị về những vấn đề thuộc địa phương mình. Những
quyết nghị ấy không được trái với chỉ thị của các cấp trên” (Điều 59 Hiến
pháp 1946)
7
và mối quan hệ này tiếp tục được quy định hoàn thiện hơn. Hiến
pháp 1992 quy định: “Hội đồng nhân dân chịu trách nhiệm trước nhân dân
địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên” (Điều 119)
8
; “Căn cứ vào hiến
pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, hội đồng nhân dân ra
quyết nghị về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh hiến pháp và
pháp luật ở địa phương, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm
tròn nghĩa vụ đối với cả nước” (Điều 120)
9

. Hội đồng nhân dân trực tiếp hoặc
gián tiếp thành lập các cơ quan nhà nước ở địa phương, có quyền giám sát các
cơ quan này và quyết định mọi mặt của đời sống xã hội tại địa phương, quyết
định về các lĩnh vực: kiểm tra, văn hóa, xã hội và đời sống khoa học; khoa
học, công nghệ và môi trường; quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo; thi hành pháp luật; xây
dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính. Hội đồng nhân
dân là cơ quan có vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng ở địa phương, là cầu nối
giữa việc thực hiện quyền lực của nhân dân địa phương và việc thực hiện các
quy định của cơ quan nhà nước cấp trên.
HĐND xã, thị trấn thể hiện quyền lực Nhà nước, thay mặt nhân dân
quyết định những biện pháp nhằm xây dựng và phát triển kinh tế xã hội ở địa
phương Khi HĐND xã, thị trấn quyết định UBND có trách nhiệm xây dựng
7
Cơ sở dữ liệu Luật Việt Nam năm 2010 - Trung tâm tin học Văn phòng Quốc hội.
8
Cơ sở dữ liệu Luật Việt Nam năm 2010 - Trung tâm tin học Văn phòng Quốc hội.
9
Cơ sở dữ liệu Luật Việt Nam năm 2010 - Trung tâm tin học Văn phòng Quốc hội.
12
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
kế hoạch và chỉ đạo thực hiện. Đảm bảo các nghị quyết của HĐND xã được
thực hiện thắng lợi.
Bàn về tầm quan trọng của chính quyền cấp xã, thị trấn Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ “cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành
chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi”
10
. Nếu cấp tỉnh là
cầu nối giữa nhà nước với nhân dân là nơi thể hiện rõ nét nhất việc nhân dân
trực tiếp thực hiện quyền dân chủ của mình. Trong hệ thống bộ máy nhà nước

ở nước ta, xã là cấp chính quyền cơ sỏ có vị trí, vai trò rất quan trọng, đó là
cấp cuối cùng, thấp nhất của hệ thống chính quyền nhà nước, là nơi chính
quyền gắn bó, tiếp xúc mật thiết với nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách
của nhà nước đều bắt nguồn từ cấp xã và cũng chính từ đây các chủ trương
chính sách của Đảng, nhà nước và chính phủ đi vào cuộc sống. Xã là nơi sinh
sống của phần lớn dân cư trong cả nước (khoảng 80%) và diện tích đất đai
cũng chiếm tỷ lệ lớn so với khu vực đô thị. Trong lịch sử phát triển của nước
ta, xã đã xuất hiện, hình thành với ý nghĩa là tổ chức hành chính cấp cơ sở.
Ngay từ thời kỳ đầu tiên, xã và hội đồng nhân dân xã đã rất được coi trọng, xã
có vị trí quan trọng trong hệ thống đơn vị hành chính lãnh thổ. Tổ chức cơ sở
bắt buộc là đơn vị xã, thị trấn và tổ chức bộ máy phải bao gồm hội đồng nhân
dân ngoài xã còn có đơn vị hành chính là khu phố (trực thuộc thành phố).
Hiến pháp 1980 quy định đơn vị hành chính phường (khu phố): “Huyện chia
thành xã và thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã;
quận chia thành phường. Các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập hội
đồng nhân dân và ủy ban nhân dân” (Điều 113)
11
.
Với ý nghĩa là cấp cơ sở, với những đặc trưng riêng biệt về địa bàn, văn
hóa tâm lý, cơ sở kinh tế - xã hội … xã, thị trấn có vai trò quan trọng trong hệ
thống các đơn vị cơ sở so với đơn vị hành chính phường và thị trấn. Hội đồng
nhân dân xã có nhiệm vụ, quyền hạn tập trung vào 3 chức năng chủ yếu sau:
- Chức năng quyết định: Hội đồng nhân dân căn cứ vào Hiến pháp, luật,
10
Hồ Chí Minh toàn tập. NXB Chính trị quốc gia 1995 tr371
11
Hiến pháp năm 1980
13
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nhu cầu và điều kiện cụ thể của

địa phương, trong phạm vi thẩm quyền theo quy định của pháp luật, quyết
định các chủ trương, biện pháp quan trọng nhằm xây dựng và phát triển kinh
tế - xã hội ở địa phương.
- Chức năng xây dựng chính quyền địa phương
- Chức năng giám sát
Như vậy, những lĩnh vực mà hội đồng nhân dân xã, thị trấn có quyền
quyết định đã bao trùm toàn bộ mọi vấn đề liên quan đến đời sống kinh tế - xã
hội, văn hóa, giáo dục, quốc phòng, an ninh của người dân địa phương và các
vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy nhà nước ở xã.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, là một
thiết chế hành động, hoạt động thường xuyên, thực hiện các chức năng
quản lý nhà nước ở địa phương. Hội đồng nhân dân không phải là cơ quan
quyền lực tối cao như Quốc hội trong phạm vi cả nước mà chỉ là cơ quan
quyền lực ở địa phương trong phạm vi đơn vị hành chính lãnh thổ. Hội
đồng nhân dân cũng không phải là cơ quan lập pháp mà là cơ quan quyết
định và bảo đảm thực hiện các chủ trương biện pháp để phát huy tiềm năng
của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về mọi mặt. Hội đồng
nhân dân theo luật định được ra nghị quyết về các biện pháp thi hành
nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương về kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và ngân sách, về quốc phòng, an ninh ở địa phương về biện
pháp ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân địa
phương, hoàn thành nhiệm vụ của cấp trên giao và làm tròn nghĩa vụ đối
với cả nước.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH VAI TRÒ CỦA HỘI
14
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
ĐỒNG NHÂN DÂN XÃ, THỊ TRẤN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XHCN.
1.2.1. Quan điểm của Đảng, nhà nước về hội đồng nhân dân
Thực tiễn kinh tế - xã hội ở nước ta cho thấy, mọi vấn đề của địa

phương đều liên quan chặt chẽ với nhau và cần phải được giải quyết trên cơ
sở kết hợp hài hòa các lợi ích nhà nước với dân cư và dân cư với nhau. Chính
quyền, cơ quan đại diện của dân thể hiện rõ nét hơn nhiệm vụ đảm bảo lợi ích
chung của nhân dân song song với nhiệm vụ triển khai pháp luật, chính sách
của nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Quá trình ra đời và phát triển hội
đồng nhân dân các cấp ở nước ta là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin về nhà nước và các cơ quan dân cử kiểu mới. Đảng Cộng sản Việt Nam
do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã quán triệt vận dụng đúng
đắn sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lê nin về xây dựng cơ quan dân cử.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chăm lo xây dựng nhà nước Việt Nam
của dân, do dân và vì dân. Sau khi Cách mạng tháng tám thành công, các cơ
quan dân cử từ trung ương đến cơ sở được thành lập với nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực của
mình thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của
dân”. Do vậy hội đồng nhân dân phải phục vụ cho lợi ích của nhân dân, đưa
ra giải pháp sát thực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nói chung và nâng
cao chất lượng cuộc sống của nhân dân nói riêng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chế định hội đồng nhân dân đã được tiếp tục
kế thừa và phát triển, thể hiện rõ nét và sâu sắc hơn trong các Hiến pháp nước
ta năm 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992. Chế định đó khẳng định và
làm rõ tính đại diện, tính quyền lực, nhiệm vụ quyền hạn và các mối quan hệ
của hội đồng nhân dân trong hệ thống chính trị, với nguyên tắc bất di bất
15
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
dịch: “Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện của nhân dân và là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương”. Những luận điểm đó là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt quá trình cải cách bộ máy nhà nước, phát huy vai trò cơ quan đại diện
của dân, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Đại hội X của

Đảng cũng đề ra phương hướng đổi mới hội đồng nhân dân, trong đó cần chú
ý: Thực hiện cải cách thể chế và phương thức hướng dẫn của nhà nước, kiện
toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của hội
đồng nhân dân các cấp. Hoàn thiện những quy định về bầu cử, ứng cử, về tiêu
chuẩn, cơ cấu các đại biểu hội đồng nhân dân trên cơ sở phát huy dân chủ, mở
rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mọi người. Hệ thống chính quyền ở cơ sở đã được Đảng rất
quan tâm, cùng với việc phát huy dân chủ ở cơ sở thì vai trò, vị trí của hội
đồng nhân dân xã, thị trấn càng được đề cao vì nó là thiết chế dân chủ đại
diện ở cơ sở, là hình thức dân chủ ở cơ sở duy nhất mang tính quyền lực nhà
nước, đại diện cho đông đảo mọi tầng lớp nhân dân.
1.2.2. Yêu cầu khách quan trong việc nâng cao vai trò, quyền hạn cụ thể
của hội đồng nhân dân xã, thị trấn.
Chính quyền cơ sở có hai chức năng chủ yếu, đó là quản lý hành chính
nhà nước và tự quản cộng đồng dân cư. Chính quyền cơ sở thực hiện các
nhiệm vụ của nhà nước theo phương thức ủy quyền hoặc phân cấp, theo
hướng đẩy mạnh phân cấp để phát huy tính chủ động, tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của chính quyền cơ sở trong quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực
kinh tế - xã hội ở cơ sở. Chính quyền hướng dẫn, kiểm tra và đáp ứng các yêu
cầu của nhân dân về sản xuất, cơ sở hạ tầng công cộng, đời sống văn hóa của
cộng đồng. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của chính quyền xã là tổ chức thực
hiện pháp luật trên địa bàn; tổ chức phát triển kinh tế – xã hội ở cơ sở như quy
16
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
hoạch, kế hoạch, phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, giáo dục, y tế, chính
sách xã hội, tài chính ngân sách, tổ chức cán bộ, hướng dẫn tổ chức các hoạt
động tự quản ở phạm vi xã, thị trấn và các thôn, xóm. Như vậy hội đồng nhân
dân và ủy ban nhân dân xã là các bộ phận hợp thành chính quyền cơ sở,
nhưng trọng tâm hoạt động của chúng ta lại hướng tới các giá trị ưu tiên
không giống nhau. Trong đó hội đồng nhân dân hướng tới chế độ tự quản và

ủy ban nhân dân hướng tới việc tổ chức thực thi công quyền. Vấn đề đặt ra là
phải quy định lại cơ cấu tổ chức của hội đồng nhân dân, thẩm quyền và
phương thức hoạt động để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ tự quản địa phương
với tư cách là cơ quan đại diện cho nhân dân địa phương quyết nghị các vấn
đề của riêng cơ sở trong khuôn khổ một đạo luật về chế độ tự quản nếu được
nghiên cứu, ban hành với mục đích nâng cao hơn nữa vai trò của hội đồng
nhân dân xã, thị trấn trong điều kiện nền kinh tế phát triển theo hướng kinh tế
thị trường có sự điều tiết của nhà nước là việc quan trọng trong chương trình
đổi mới, tăng cường nhà nước ta theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Về phương diện lý luận cũng như
thực tiễn, cách thức tổ chức quyền lực nhà nước ở cấp Trung ương quyết định
tính chất và mô hình chính thể của một quốc gia, còn cách thức tổ chức thực
thi quyền lực ở cơ sở quyết định hiệu quả và sức mạnh của nhà nước, chính
quyền cơ sở, đặc biệt là cơ quan đại diện cho nhân dân ở địa phương với các
đặc điểm của mình luôn là hình ảnh cụ thể của nhà nước trong nhận thức mỗi
người dân, Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (sửa đổi 1994)
mới chỉ quy định những nét khái quát chung nhất về tổ chức và hoạt động của
hội đồng nhân dân xã, thị trấn trong khi đó lại đưa ra khá cụ thể về tổ chức và
hoạt động của hội đồng nhân dân cấp tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương)
và hội đồng nhân dân cấp quận, huyện. Chính điều này trên thực tế đã làm
cho vai trò của hội đồng nhân dân xã, thị trấn bị hạn chế và tính hình thức của
17
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
hội đồng nhân dân ở cấp cơ sở ngày càng trở nên trầm trọng, khó khắc phục.
Sự thiếu vắng các quy định về một cấu trúc tổ chức cần thiết của hội đồng
nhân dân xã, thị trấn là kết quả của một nhận thức chưa thật đầy đủ, toàn diện
về vai trò quan trọng của hội đồng nhân dân cấp cơ sở. Điều này được thể
hiện trước hết từ sự quan niệm về sự đồng nhất ở tính chất, vai trò của hội
đồng nhân dân các cấp. Tức là quan niệm hội đồng nhân dân xã cũng chính là
hình ảnh thu nhỏ của hội đồng nhân dân cấp tỉnh và huyện. Quan niệm này

không thấy được tính chất đại diện, tính chất quyền lực của hội đồng nhân
dân xã, thị trấn có rất nhiều nét riêng biệt so với tính chất đại diện và quyền
lực của hội đồng nhân dân cấp tỉnh và huyện. Nét riêng biệt ở đây được xác
định bởi tính chất của một cấp chính quyền cơ sở, gắn liền với đời sống thực
tiễn, quan hệ trực tiếp với người dân, mọi hoạt động đều trực tiếp liên quan
ngay đến quyền và lợi ích cụ thể của người dân và tiếp nhận các phản hồi
cũng trực tiếp từ người dân và với các tình huống không thể dự đoán trước.
Mặt khác, tính đặc trưng của hội đồng nhân dân xã còn gắn liền với quyền tự
quản của các cộng đồng dân cư trên địa bàn, xét trên phương diện truyền
thống, lịch sử, chính quyền cơ sở (bao gồm hội đồng nhân dân và ủy ban nhân
dân) hoạt động và giải quyết các công việc hàng ngày của dân cư trên địa bàn,
không những chịu chi phối bởi các quy định của pháp luật mà còn chịu sự chi
phối của phong tục tập quán thậm chí cả những quy tắc bất thành văn mà các
nhà khoa học thường gọi dưới khái niệm “lệ làng”. Tồn tại nhận thức có tính
giản đơn về vai trò của chính quyền cơ sở còn xuất phát từ một thực tiễn pháp
lý ở nước ta là quyền lực tập trung ở các cấp trên và vận động theo quy luật
giảm dần, cấp cơ sở được xem là cấp ít quyền nhất. Do vậy cấu trúc tổ chức
của cấp chính quyền cơ sở thường được quy định không thật cụ thể và nhìn
chung là hết sức giản đơn. Tuy nhiên trong thực tế, cấp chính quyền cơ sở lại
là cấp phải gánh chịu nhiều trách nhiệm. Mọi nghĩa vụ trước nhà nước, mọi
18
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
nghĩa vụ trước dân làng, mọi sự động viên, khích lệ dân đều dồn lên vai
“chính quyền cơ sở”. Điều này dẫn đến một thực tế là quyền hạn, cấu trúc tổ
chức không đi liền với trách nhiệm, nghĩa vụ, kết quả sản xuất kinh doanh,
chính quyền cơ sở rất lúng túng và thiếu tính chủ động sáng tạo để vừa thực
hiện được “phép nước” vừa thực hiện được “lệ làng”, vừa đảm bảo lợi ích
quốc gia vừa thỏa mãn được lợi ích cộng đồng dân cư mà không phải bất kỳ
lúc nảo các loại lợi ích này cũng thống nhất được với nhau.
Nhận thức rõ yêu cầu nói trên, tại nghị quyết lần thứ 5 Ban chấp hành

Trung ương Đảng khóa X đã khẳng định: “Để phát huy vai trò của tổ chức
Đảng, chính quyền và đoàn thể ở cơ sở, yêu cầu hàng đầu là đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động và tổ chức nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của từng bộ phận và của cả hệ thống chính trị ở cấp cơ sở”
12
. Sau
hơn 20 năm đổi mới và phát triển chính quyền cấp xã, thị trấn đã tích cực thực
hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Nhìn chung đã đạt được những thành quả
quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, phát triển nền kiểm tra, làm thay đổi bộ
mặt nông thôn và thành thị, từ đó đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi
mới, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình xây
dựng chính quyền cấp xã trong tổ chức và hoạt động còn bộc lộ nhiều bất cập,
chưa nhận thức rõ vai trò của hội đồng nhân dân xã, thị trấn trong việc phát
triển kinh tế địa phương, chưa đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của
đông đảo nhân dân. Hội đồng nhân dân xã, thị trấn là cơ quan do nhân dân địa
phương bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương nhưng nằm trong
tổng thể bộ máy nhà nước, tuân thủ các quy định của cơ quan nhà nước cấp
trên; Hội đồng nhân dân tuân thủ các quy định, chịu sự giám sát, kiểm tra của
Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ, của hội đồng nhân dân và ủy ban
nhân dân cấp trên; Hội đồng nhân dân phải tuân thủ các văn bản, chịu sự giám
sát, kiểm tra, hướng dẫn của cơ quan cấp trên. Đồng thời, hội đồng nhân dân
12
Nghị quyết Trung ương 5 - Khóa X
19
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập các cơ quan nhà nước ở địa phương, có
quyền giám sát các cơ quan này và quyết định những vấn đề quan trọng ở địa
phương; Hội đồng nhân dân là cơ quan có vị trí, vai trò rất quan trọng ở địa
phương, là cầu nối giữa việc thực hiện quyền lực của nhân dân địa phương và
việc thực hiện các quy định của cơ quan nhà nước cấp trên; Hội đồng nhân

dân là một thiết chế hành động, hoạt động thường xuyên, thực hiện các chức
năng quản lý nhà nước ở địa phương. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyết
định và bảo đảm thực hiện các chủ trương biện pháp để phát huy tiềm năng
của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về mọi mặt; Hội đồng
nhân dân được ra nghị quyết về các biện pháp thi hành nghiêm chỉnh Hiến
pháp và pháp luật ở địa phương.
1.2.3. Một số khái niệm cơ bản về quản lý của nhà nước trong nền kinh tế
thị trường
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về thị trường. Ta có thể gặp một số
khái niệm phổ biến sau đây: Thị trường là sự biểu thị ngắn gọn quá trình mà
nhờ đó có các quyết định của các hộ gia đình về việc tiêu dùng những hàng
hóa khác nhau; các quyết định của các doanh nghiệp về việc sản xuất cái gì và
như thế nào; các quyết định của người lao động về làm việc bao lâu và cho ai
được điều hòa bởi sự điều chỉnh của giá cả; Thị trường là một tập hợp các dàn
xếp mà thông qua đó người bán và người mua tiếp xúc với nhau để trao đổi
hàng hóa dịch vụ thông qua giá cả; Thị trường là một khuôn khổ vô hình,
trong đó người này tiếp xúc với người kia để trao đổi một thứ gì đó khan hiếm
và thông qua đó họ cùng xác định giá và số lượng trao đổi.Như vậy, dù cho
định nghĩa các cách khác nhau, nhưng ta thấy điều chung nhất đối với các
thành viên tham gia thị trường là họ đều tìm cách tối đa hóa lợi ích của mình:
Người bán (hoặc người sản xuất muốn tối đa hóa lợi nhuận, người mua (hay
người tiêu dùng) muốn tối đa hóa sự thỏa mãn (lợi ích) thu được từ sản phẩm
họ mua. Đây chính là nguyên tắc hoạt động của cơ chế thị trường. Tuy nhiên
20
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
hoạt động thực tế của thị trường rất phức tạp, phụ thuộc vào số lượng, quy
mô, sức mạnh thị trường của những người bán và người mua. Khi nền kinh tế
thị trường không tự vươn tới điểm cân bằng (Cân bằng giữa tổng cung và
tổng cầu ) thì rất cần đến sự điều tiết của nhà nước. Khi nói tới quản lý nhà
nước trong nền kinh tế thị trường chúng ta nói tới vai trò của chính phủ, chính

phủ là người đề ra luật. Trong nền kinh tế thị trường, chính phủ có ba chức
năng kinh tế cơ bản: Hiệu quả; công bằng và ổn định: Chức năng hiệu quả
thực tế ở các nước có nền kinh tế thị trường có lúc cũng đã chịu thất bại thị
trường. Ở hệ thống kinh tế cạnh tranh, nhiều nhà sản xuất đơn giản không biết
được kỹ thuật sản xuất rẻ nhất, nên chi phí sản xuất không hạ xuống mức tối
thiểu được. Trong thực tế một doanh nghiệp có thể có lãi bằng cách giữ giá
cao cũng như bằng cách giữ mức sản xuất cao. Nhưng trong lĩnh vực khác có
rất nhiều tác động bên ngoài như ô nhiễm môi trường, độc hại đối với các
doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Trong mỗi trường hợp này, một thất
bại thị trường dẫn đến sản xuất không hiệu quả hoặc tiêu dùng không hiệu
quả. Do vậy rất cần đến sự can thiệp của chính phủ; Chức năng công bằng
nền kinh tế thị trường hoạt động có hiệu quả, luôn ở trên ranh giới khả năng
sản xuất, luôn chọn đúng số lượng hàng hóa công cộng và hàng hóa tư nhân
… Tuy nhiên hàng hóa thường đi theo người có tiền chứ không phải đi theo
người có nhu cầu lớn nhất. Hệ thống thị trường có thể gây ra sự bất bình đẳng
lớn. Sự phân phối thu nhập trong một hệ thống thị trường gây ra sự không
công bằng. Do vậy, để giảm bớt sự bất bình đẳng đó, cần có vai trò tích cực
của nhà nước: Chính phủ thông qua quốc hội để có thể sử dụng thuế (như
thuế thu nhập, thuế thừa kế … có tính chất phân phối lại thu nhập; Chức năng
ổn định là việc sử dụng một cách thận trọng quyền lực và tiền tệ của chính
phủ có ảnh hưởng lớn tới sản lượng, công ăn việc làm và giá cả của một nền
kinh tế. Quyền lực về tài chính của chính phủ là quyền đánh thức nền kinh tế
và chi tiêu. Quyền lực về tiền tệ bao hàm việc điều tiết tiền tệ và hệ thống
21
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công Dương Thị Tình Thương
ngân hàng để xác định mức lãi suất và điều kiện tín dụng. Tóm lại, ba vai trò
trên của chính phủ cho thấy: Chính phủ là người thúc đẩy hiệu quả, công bằng
và ổn định. Cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh
vực, trong khi đó Chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế,
chi tiêu và luật lệ. Như vậy cả thị trường và chính phủ đều có tính chất thiết

yếu trong điều hành một nền kinh tế và quản lý nhà nước là quản lý việc thực
hiện các chức năng cơ bản nói trên.Các nước khác nhau đã lựa chọn các hệ
thống kinh tế khác nhau để phát triển nền kinh tế của mình, để giải quyết
những vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào và sản xuất
cho ai? Những hệ thống kinh tế khác nhau đó là: Kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, kinh tế thị trường và kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Sau
đây xin giới thiệu cụ thể các mô hình kinh tế để làm nổi bật kinh tế thị trường
có sự quản lý của nhà nước: Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung
13
là việc
lựa chọn ba vấn đề kinh tế cơ bản đều do nhà nước thực hiện: nhà nước giao
chỉ tiêu pháp lệnh cho các ngành, các địa phương và cơ sở sản xuất kinh doanh.
Nhà nước tiến hành quốc hữu hóa, tập thể hóa, xóa bỏ tư nhân, nhà nước cấp
phát vốn và vật tư cho các ngành, các địa phương và cơ sở để thực hiện nhiệm
vụ sản xuất. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ phải giao nộp sản phẩm và tích lũy
cho nhà nước theo chỉ tiêu pháp lệnh nhà nước sử dụng chế độ phân phối bằng
hiện vật cho các cơ quan nhà nước, dùng chế độ tem phiếu để phân phối cho
người tiêu dùng. Ưu điểm quản lý được tập trung thống nhất và giải quyết được
những nhu cầu công cộng của xã hội, giải quyết được những vấn đề xã hội và
an ninh, hạn chế được phân hóa giàu nghèo và bất công xã hội, tập trung được
nguồn lực để giải quyết các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân.
Nhược điểm tập trung, quan liêu, bao cấp không thúc đẩy và kích thích
sản xuất phát triển, phân phối bình quân không xuất phát từ nhu cầu thị
trường, chủ quan, bộ máy quản lý cồng kềnh, quan liêu, kém hiệu lực; phân
13
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN - ĐH KTQD.
22

×