Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề bảo vệ môi trường trong sự nghiệp CNHHĐH đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.58 KB, 34 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình CNH - HĐH được đề ra tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa 7
(1994) đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo của đất nước ta, đưa nước ta từ một
nước nghèo nàn, lạc hậu lên một trong những nước phát triển trên thế giới. Qua
việc thực hiện chính sách của đảng, nền kinh tế nước ta phát triển vượt bậc và có
thành tựu đáng chú ý như là: nền kinh tế đã vượt qua giai đoạn suy giảm tốc độ
tăng trưởng, đạt mức tăng trưởng khá cao; chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh
của một số lĩnh vực và sản phẩm có chuyển biến. Cơ cấu của nền kinh tế tiếp tục
có bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa và từng bước hiện đại hóa.
Tiếp tục thực hiện có kết quả chủ trương giữ vững độc lập, tự chủ về kinh tế, có
tiến bộ đáng kể trong việc phát huy các nguồn nội lực của đất nước, của các
thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển; đồng thời tiếp tục mở rộng hội nhập
kinh tế quốc tế. Thể chế kinh tế tiếp tục được đổi mới, đang tiếp tục hình thành
và phát triển các loại thị trường. Và bên cạnh đó quá trình hội nhập kinh tế thế
giới ngày càng khẳng định vị trí Việt Nam trên trường quốc tế.
Bên cạnh những thành tựu đạt được của quá trình CNH - HĐH thì Việt
Nam vẫn còn gặp phải những vấn đề khó khăn về an sinh xã hội, trật tự xã hội…
Đặc biệt là vấn đề môi trường đã và đang là mối quan tâm của các nước trên thế
giới. Ở Việt Nam có những doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp cổ phần hay
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuy đã và đang làm cho nền kinh tế
nước ta phát triển nhưng họ cũng đang làm cho môi trường sống, sức khỏe của
chúng ta bị đe dọa, suy thoái môi trường và cũng có thể làm cho nền kinh tế phát
triển không bền vững. Ví dụ như trong tháng 7/2010 vụ việc công ty Vedan gây ô
nhiễm môi trường ở sông Thị Vãi – Đồng Nai và bị các cơ quan chức năng phát
hiện và xử lý. Công ty Vedan là một ví dụ điển hình về việc gây ô nhiễm môi
trường và trong thực tế còn nhiều trường hợp cũng ngày ngày đang gây ô nhiễm



2
cho môi trường chưa được các cơ quan chức năng phát hiện hoặc có biện pháp
xử lý chưa mang tính răng đe.
Do đó với mục tiêu phát triển một nền kinh tế bền vững, tiên tiến, sánh
kịp với các nước trên thế giới. Đảng ta đã đề ra một chủ trương chính sách phát
triển kinh tế gắn liền với BVMT trong các lần đại hội của Đảng. Kế thừa tư
tưởng của Đại Hội X về đảm bảo an ninh môi trường và tại Đại hội XI vừa diễn
ra Đảng cũng đã nhấn mạnh vấn đề đảm bải an ninh môi trường do đó Đảng đã
đưa ra quan điểm: “BVMT là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội
và của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô
nhiễm với khôi phục và BVMT sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất
sạch, tiêu dùng sạch” [3, tr.78]. Điều này cho thấy, quan điểm của Đảng ta về vấn
đề môi trường đã có sự đổi mới và mở rộng hơn trước. Đẩy mạnh công tác
nghiên cứu, dự báo và ứng phó với sự biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên
nhiên. Tăng cường quản lý, bảo vệ và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên
quốc gia. Như vậy để tuyên truyền vấn đề đảm bao an ninh môi trường và từ
những thực trạng tình hình ô nhiễm môi trường ở Việt Nam để đưa ra một số
biện pháp giải quyết do đó tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam về vấn đề BVMT trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước” để
nghiên cứu. Qua việc nghiên cứu đề tài giúp tác giả có thể giúp giải quyết một
phần nào về công tác BVMT trong quá trình CNH – HĐH và nâng cao được ý
thức của người dân về BVMT, đó là ý nghĩa thực tiễn rút ra từ việc nghiên cứu
đề tài. Còn về ý nghĩa lý luận của đề tài có thể phần nào khắc phục thêm những
vấn đề mà Đảng đã đề ra nhưng việc ứng dụng vào thực tiễn chưa hợp lý.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề BVMT trong quá
trình phát triển kinh tế của đất nước.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu và làm rõ quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam tại Đại hội IX, X và XI về vấn đề BVMT, đề tài chỉ ra những vấn đề cần



3
quán triệt vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn hiện nay
và vai trò của lực lượng CAND trong việc BVMT.
4. Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung:
+ Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề BVMT trong sự
nghiệp CNH - HĐH và đưa ra một số dự báo.
+ Đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc BVMT theo quan
điểm của Đảng và trách nhiệm, nhiệm vụ của lực lượng CAND.
- Nhiệm vụ nghiêm cứu: nghiên cứu quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam về vấn đề BVMT trong CNH – HĐH đất nước.
- Không gian: Việt Nam.
- Thời gian: Từ năm 2001 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Quan điểm của Đảng về đường lối phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể
như: nghiên cứu lí luận, tổng kết thực tiễn, phân tích, so sánh, lịch sử, logic…
6. Bố cục:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận chia làm 2 chương:
Chương 1: Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề
BVMT trong quá trình CNH - HĐH đất nước.
Chương 2: Giải pháp nâng cao hiệu quả việc BVMT theo quan điểm
của Đảng và trách nhiệm của lực lượng CAND.


4

Chương 1

Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề bảo vệ môi trường
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
1.1. CNH và HĐH – sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam
1.1.1. Khái niệm CNH-HĐH
Từ cuối thế kỉ thứ XVIII đến nay, trong lịch sử đã diễn ra các loại công
nghiệp hoá khác nhau : Công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa và công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa. Các loại công nghiệp hoá này, xét về mặt lực lượng sản xuất, khoa
học và công nghệ là giống nhau. Song chúng có sự khác nhau về mục đích, về
phương thức tiến hành, về sự chi phối của quan hệ sản xuất thống trị. Công
nghiệp hoá diễn ra ở các nước khác nhau, vào những thời điểm lịch sử khác
nhau, trong những điều kiện KT - XH khác nhau, do vậy nội dung khái niệm có
sự khác nhau.
Theo nghĩa hẹp, công nghiệp hóa được hiểu là quá trình chuyển dịch từ
nền kinh tế trong đó nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo sang nền kinh tế công
nghiệp là chủ đạo. Theo nghĩa rộng, công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch từ
kinh tế nông nghiệp (hay tiền công nghiệp) sang kinh tế công nghiệp, từ xã hội
nông nghiệp sang xã hội công nghiệp, từ văn minh nông nghiệp sang văn minh
công nghiệp. Người ta cũng phân biệt "CNH cổ điển" theo kiểu nước Anh và
châu Âu hai thế kỷ trước với "công nghiệp hoá kiểu mới" có kết hợp với tin học
hóa, toàn cầu hóa kinh tế và kinh tế tri thức.
Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, hiện đại hóa là quá trình chuyển biến
từ tính chất truyền thống cũ sang trình độ tiên tiến, hiện đại. Về ý nghĩa kinh tế,
hiện đại hóa được giải thích là quá trình chuyển dịch căn bản từ xã hội truyền
thống sang xã hội hiện đại, bắt đầu từ thế kỷ XVII đến nay và vẫn còn chưa kết
thúc. Có người chia quá trình hiện đại hóa thành hai giai đoạn: Hiện đại hóa lần


5
thứ nhất tương ứng với thời kỳ công nghiệp hóa cổ điển, và hiện đại hóa lần thứ

hai tương ứng với thời kỳ tri thức hóa.
Ở nước ta, hiện nay thường dùng cụm từ CNH - HĐH với cách hiểu là
"công nghiệp hóa và hiện đại hóa gắn kết với nhau trong cùng một quá trình,
ngay từ đầu và suốt trong các giai đoạn phát triển". Ở đây, công nghiệp hóa được
hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ giới hạn ở khía cạnh kinh tế, mà còn cả về mặt
xã hội, văn hóa. Hiện đại hóa hiểu theo nghĩa thông dụng, thời gian chỉ là thứ
nguyên so sánh. Nói cách khác, chúng ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa,
song không hoàn toàn như công nghiệp hóa kiểu cổ điển, chỉ chú ý phát triển
công nghiệp để tăng cao tỷ trọng công nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội, mà
đồng thời phát triển công nghệ, thực hiện tin học hóa, từng bước phát triển kinh
tế tri thức, nghĩa là thực hiện "công nghiệp hóa kiểu mới" hay nói như văn kiện
Đại hội IX công nghiệp hóa theo hướng hiện đại.
Tuy nhiên, theo nghĩa chung, khái quát nhất, công nghiệp hoá là quá trình
biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp.
Căn cứ vào các văn kiện của Đảng và Nhà nước, CNH ở nước ta có
những đặc điểm là CNH gắn kết với HĐH trong suốt các giai đoạn phát triển,
vừa mang tính chất công nghiệp hóa về kinh tế - xã hội, vừa có tính chất hiện đại
hóa về công nghệ ở mức tương ứng. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực hiện
theo cách rút ngắn thời gian để sớm có thể đuổi kịp các nước trong vùng và trên
thế giới. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thể hiện định hướng xã hội chủ nghĩa,
thực hiện công bằng xã hội, cân đối giữa phát triển kinh tế và xã hội. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng phát triển bền vững, ngoài chính sách xã hội
còn quan tâm bảo vệ và cải thiện môi trường. Trong thực hiện CNH, HĐH coi
giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là nền tảng và động lực của sự phát
triển; coi trọng CNH, HĐH trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nhất là trong
giai đoạn đầu của quá trình phát triển.
Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại
về công nghiệp hoá vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta hiện nay, Đảng ta



6
nêu ra quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá như sau : Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất
kinh doanh, dịch vụ và quản lý KT - XH, từ sử dụng sức lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện,
phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Quan niệm nêu trên cho thấy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nước ta phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong
quá trình phát triển. Quá trình ấy, không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp mà
còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn
bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng kĩ thuật và công nghệ hiện đại. Quá trình ấy
không chỉ tuần tự trải qua các bước cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, mà còn
sử dụng kết hợp thủ công truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi
nhanh vào hiện đại ở những khâu có thể và mang tính quyết định.
1.1.2. Ý nghĩa của việc thực hiện CNH-HĐH đối với sự phát triển của
nền KT - XH Việt Nam
Việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước có tác
dụng về nhiều mặt.
- CNH- HDH, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại và cơ cấu kinh
tế mới tạo điều kiện biến đổi về chất lượng sản xuất, tăng năng suất lao động,
tăng sức chế ngự của con người với thiên nhiên, tăng trưởng kinh tế và phát triển
kinh tế, do đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân; góp phần quyết
định tới thắng lợi cuả xã hội mới của nước ta.
- CNH- HĐH tạo đIều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò
kinh tế của nhà nước, nâng cao năng lực tích luỹ cuả đất nước và tạo công ăn
việc làm cho người lao động.
- Mỗi bước phát triển mới của cơ sở vật chất- kỹ thuật do quá trình công
nghiệp hoă đem lại sẽ tạo ra những đIều kiện mới cho việc xây dựng nền văn hoá
mới, thủ tiêu tình trạng lạc hậu về xã hội, tạo thuận lợi cho sự phát triển tự do



7
toàn diện của con người- nhân tố trung tâm của thời đại, đưa đất nước đến trình độ
văn minh cao hơn.
- CNH- HĐH góp phần cung cấp và đảm bảo cho quốc phòng cac yếu tố
vật chất- kỹ thuật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để thực hiện tốt nhiệm vụ giữ
gìn an ninh, chủ quyền cuả đất nước.
- CNH- HĐH tạo nhiều khả năng cho nước ta trong việc tham gia vào
phân công lao động và hợp tác quốc tế, do đó tận dụng được sức mạnh trong
nước và sức mạnh kinh tế quốc tế.
Chính vì những tác dụng to lớn, tích cực, toàn diện đã nêu trên, từ đại hội
III đến nay, Đảng ta luôn khẳng định vị trí hết sức quan trọng của CNH- HĐH
trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta. Đồng thời, qua mỗi lần đại hội
Đảng ta lại nhận thức sâu thêm và cụ thể hoá thêm nhiệm vụ này cho thích hợp
với điều kiện và hoàn cảnh của đất nước ta trong những thời kỳ. Trong hội nghị
Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đại Hội VII, Đảng ta còn nêu rõ: “ Đây là
nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới. CNH- HĐH
là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh, giữ
được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và định hướng
XHCN”.
1.2. Tầm quan trọng của việc BVMT trong quá trình CNH-HĐH
ở Việt Nam
Muốn phát triển bền vững thì trong phát triển phải tính đến yếu tố môi
trường. Sự phân tích của tác giả theo 3 vấn đề tác động đến môi trường để chúng
ta lựa chọn, xem xét cả trên bình diện quốc tế, quốc gia, vùng lãnh thổ và từng
địa phương. Suy cho cùng thì mỗi chúng ta cần phấn đấu cho một môi trường
trong sạch, cho sự phát triển bền vững của cả chúng ta và các thế hệ mai sau.
Môi trường tự nhiên và sản xuất xã hội quan hệ khăng khít, chặt chẽ, tác
động lẫn nhau trong thế cân đối thống nhất: Môi trường tự nhiên (bao gồm cả tài

nguyên thiên nhiên) cung cấp nguyên liệu và không gian cho sản xuất xã hội. Sự
giàu nghèo của mỗi nước phụ thuộc khá nhiều vào nguồn tài nguyên: Rất nhiều


8
quốc gia phát triển chỉ trên cơ sở khai thác tài nguyên để xuất khẩu đổi lấy ngoại
tệ, thiết bị công nghệ hiện đại,... Có thể nói, tài nguyên nói riêng và môi trường
tự nhiên nói chung (trong đó có cả tài nguyên) có vai trò quyết định đối với sự
phát triển bền vững về KT - XH ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương vì:
Thứ nhất, môi trường không những chỉ cung cấp “đầu vào” mà còn chứa
đựng “đầu ra” cho các quá trình sản xuất và đời sống.
Hoạt động sản xuất là một quá trình bắt đầu từ việc sử dụng nguyên,
nhiên liệu, vật tư, thiết bị máy móc, đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật khác, sức lao
động của con người để tạo ra sản phẩm hàng hóa. Những dạng vật chất trên
không phải gì khác, mà chính là các yếu tố môi trường.
Các hoạt động sống cũng vậy, con người ta cũng cần có không khí để
thở, cần có nhà để ở, cần có phương tiện để đi lại, cần có chỗ vui chơi giải trí,
học tập nâng cao hiểu biết,... Những cái đó không gì khác là các yếu tố môi
trường.
Như vậy chính các yếu tố môi trường (yếu tố vật chất kể trên - kể cả sức
lao động) là “đầu vào” của quá trình sản xuất và các hoạt động sống của con
người. Hay nói cách khác: Môi trường là “đầu vào” của sản xuất và đời sống.
Tuy nhiên, cũng phải nói rằng môi trường tự nhiên cũng có thể là nơi gây ra
nhiều thảm họa cho con người (thiên tai), và các thảm họa này sẽ tăng lên nếu
con người gia tăng các hoạt động mang tính tàn phá môi trường, gây mất cân
bằng tự nhiên.
Ngược lại môi trường tự nhiên cũng lại là nơi chứa đựng, đồng hóa “đầu
ra” các chất thải của các quá trình hoạt động sản xuất và đời sống. Quá trình sản
xuất thải ra môi trường rất nhiều chất thải (cả khí thải, nước thải, chất thải rắn).
Trong các chất thải này có thể có rất nhiều loại độc hại làm ô nhiễm, suy thoái,

hoặc gây ra các sự cố về môi trường. Quá trình sinh hoạt, tiêu dùng của xã hội
loài người cũng thải ra môi trường rất nhiều chất thải. Những chất thải này nếu
không được xử lý tốt cũng sẽ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.


9
Vấn đề ở đây là phải làm thế nào để hạn chế được nhiều nhất các chất
thải, đặc biệt là chất thải gây ô nhiễm, tác động tiêu cực đối với môi trường.
Thứ hai, môi trường liên quan đến tính ổn định và bền vững của sự phát
triển KT - XH.
Phát triển KT - XH là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và
tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã
hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân
cũng như của cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát
triển có mối quan hệ chặt chẽ: Môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát
triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.
Trong hệ thống KT - XH, hàng hóa được di chuyển từ sản xuất đến lưu
thông, phân phối và tiêu dùng cùng với dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng
lượng, sản phẩm, chất thải. Các thành phần đó luôn luôn tương tác với các thành
phần tự nhiên và xã hội của hệ thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn đó.
Tác động của con người đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có lợi là cải
tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho quá trình cải tạo đó,
nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo.
Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển
KT - XH thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên - đối tượng của sự phát
triển KT - XH hoặc gây ra các thảm họa, thiên tai đối với các hoạt động KT - XH
trong khu vực.
Ở các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế khác nhau có các xu hướng
gây ô nhiễm môi truờng khác nhau. Ví dụ:
- Ô nhiễm do dư thừa: 20% dân số thế giới ở các nước giàu hiện sử dụng

80% tài nguyên và năng lương của loài người. Sản xuất công nghiệp phát triển
mạnh, hoạt động của quá nhiều các phương tiện giao thông vận tải đã tạo ra một
lượng lớn chất thải độc hại vào môi trường (đặc biệt là khí thải). Hiện nay việc
có được mua bán hay không quyền phát thải khí thải giữa các nước đang là đề tài
tranh luận chưa ngã ngũ trong các hội nghị thượng đỉnh về môi trường, các nước


10
giàu vẫn chưa thực sự tự giác chia sẻ tài lực với các nước nghèo để giải quyết
những vấn đề có liên quan tới môi trường.
- Ô nhiễm do nghèo đói: Mặc dù chiếm tới 80% dân số thế giới, song chỉ
sử dụng 20% tài nguyên và năng lượng của thế giới, nhưng những người nghèo
khổ ở các nước nghèo chỉ có con đường duy nhất là khai thác tài nguyên thiên
nhiên (rừng, khoáng sản, đất đai,...) mà không có khả năng hoàn phục. Diễn đàn
hợp tác Á - Âu (ASEM) về môi trường họp vào tháng 1/2002 tại Trung Quốc đã
cho rằng nghèo đói là thách thức lớn nhất đối với công tác BVMT hiện nay. Do
vậy, để giải quyết vấn đề môi trường, trước hết các nước giàu phải có trách
nhiệm giúp đỡ các nước nghèo giải quyết nạn nghèo đói.
Như vậy, để phát triển, dù là giàu có hay nghèo đói đều tạo ra khả năng
gây ô nhiễm môi trường. Vấn đề ở đây là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ
giữa phát triển và BVMT. Để phát triển bền vững không được khai thác quá mức
dẫn tới hủy hoại tài nguyên, môi trường; thực hiện các giải pháp sản xuất sạch,
phát triển sản xuất đi đôi với các giải pháp xử lý môi trường; bảo tồn các nguồn
gen động vật, thực vật; bảo tồn đa dạng sinh học; không ngừng nâng cao nhận
thức của nhân dân về BVMT,...
Thứ ba, môi trường có liên quan tới tương lai của đất nước, dân tộc.
Như trên đã nói, BVMT chính là để giúp cho sự phát triển kinh tế cũng
như xã hội được bền vững. KT - XH phát triển giúp chúng ta có đủ điều kiện để
đảm bảo an ninh quốc phòng, giữ vững độc lập chủ quyền của dân tộc. Điều đó
lại tạo điều kiện ổn định chính trị xã hội để KT - XH phát triển. BVMT là việc

làm không chỉ có ý nghĩa hiện tại, mà quan trọng hơn, cao cả hơn là nó có ý
nghĩa cho tương lai. Nếu một sự phát triển có mang lại những lợi ích kinh tế
trước mắt mà khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi trường, làm
cho các thế hệ sau không còn điều kiện để phát triển mọi mặt (cả về kinh tế, xã
hội, thể chất, trí tuệ con người...), thì sự phát triển đó phỏng có ích gì! Nếu hôm
nay thế hệ chúng ta không quan tâm tới, không làm tốt công tác BVMT, làm cho


11
môi trường bị hủy hoại thì trong tương lai, con cháu chúng ta chắc chắn sẽ phải
gánh chịu những hậu quả tồi tệ.
Nhận thức rõ điều đó, trong bối cảnh chúng ta bước vào thời kỳ CNH HĐH đất nước, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt
Nam đã ra Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998 về “Tăng cường công tác
BVMT trong thời kỳ CNH - HĐH đất nước”. Ngay những dòng đầu tiên, Chỉ thị
đã nêu rõ: “BVMT là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm
vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xóa đói giảm nghèo ở mỗi
nước, với cuộc đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ trên phạm vi toàn thế giới”. Như
vậy BVMT có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với sự nghiệp phát triển của đất nước.
Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” không
thể thực hiện được nếu chúng ta không làm tốt hơn nữa công tác BVMT.
Tuy còn có nhiều khó khăn về kinh tế, song Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều chủ trương, chính sách tích cực về công tác BVMT như: Xây dựng hệ
thống pháp luật về BVMT ngày càng hoàn thiện; xây dựng hệ thống bộ máy
quản lý nhà nước về môi trường từ trung ương đến địa phương; tăng cường đào
tạo cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ quản lý về môi truờng; đầu tư nhiều
chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội có ý nghĩa về BVMT, và
26/6/2002, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 82/2002/QĐ-TT về việc thành
lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ BVMT Việt Nam.
Tuy nhiên, trên thực tế cũng phải thừa nhận rằng còn nhiều điều bất cập
trong công tác BVMT mà chúng ta chưa làm được: Môi trường vẫn từng ngày,

từng giờ bị chính các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của chúng ta làm cho ô
nhiễm nghiêm trọng hơn, sự phát triển bền vững vẫn đứng trước những thách
thức lớn lao. Điều này đòi hỏi mọi người, mọi nhà, mọi địa phương trong cả
nước phải thường xuyên cùng nhau nỗ lực giải quyết, thực hiện nghiêm chỉnh
Luật BVMT. Có như vậy chúng ta mới có thể hy vọng vào một tương lai với môi
trường sống ngày càng trong lành hơn.


12
1.3. Những quan điểm cơ bản của Đảng cộng sản Việt Namvề vấn đề
BVMT trong quá trình CNH - HĐH đất nước
Tại các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng thì Đảng ta đã đưa ra
những quan điểm cơ bản về vấn đề BVMT trong quá trình CNH – HDH đất
nước. Tại kỳ đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IX đã khẳng định:
“phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội và BVMT”.[1, tr.162]. “Phát triển kỉnh tế - xã hội gắn
chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường
nhân tạo và môi trường thiên nhiên giữ gìn đa dạng sinh học. chủ động phòng
tránh và hạn chế tác động xấu của thiên tai, của sự biến động khí hậu bất lợi và
tiếp tục giải quyết hậu quả chiến tranh còn lại đối với môi trường. bảo vệ và cải
tạo môi trường là trách nhiệm của toàn xã hooij tăng cường quản lý nhà nước đi
đôi với nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi người dân. Chủ động gắn kết yêu
cầu caie thiện môi trường trong mỗi quy hoạch kế hoạch, chương trình và dự án
phát triển kinh tế - xã hội, coi yêu cầu về môi trường là một tiêu chí quan trọng
đánh giá các giải pháp phát triển.” [1, tr.164]. “Tập trung thu hút vốn FDI váo
các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao; tiếp tục nghiên cứu đề án
xây dựng khu kinh tế mở để đưa vào kế hoạch 5 năm. Thu hút và sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Định hướng trong 5 năm
tới dành khoảng 15% vốn ODA vào các ngành nông nghiệp, thủy lợi, lâm
nghiệp, thủy sản, kết hợp mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn, xóa đói

giảm nghèo; khoảng 25 % cho ngành năng lượng và công nghiệp; khoảng 25%
cho các ngành giao thông, cấp thoát nước và đô thị. Coi trọng phát triển nguồn
nhân lực, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học , công nghệ và BVMT.”[1,
tr.290]. “Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ và cải thiện
môi trường theo hướng phát triển bền vững; tiến tới bảo đảm cho mọi người dân
đều được sống trong môi trường có chất lượng tốt về không khí, đất, nước, cảnh
quan và các nhân tố môi trường tự nhiên khác đạt chuẩn mực tối thiểu do Nhà
nước quy định. Trước mắt, tập trung giải quyết tình trạng suy thoái môi trường ở


13
các khu công nghiệp, các khu dân cư đông đúc, chật chội ở các thành phố lớn và
một số vừng nông thôn. Kiểm soát ô nhiễm và ứng cứu sự cố môi trường do
thiên tai lũ lụt gây ra; có kế hoạch cải tạo, khắc phục sự cố ô nhiễm môi trường
trên các dòng sông, hồ ao, kênh mương... Thực hiện các dự án về cải tạo, BVMT,
xây dựng vườn quốc gia, khu rừng cấm, trồng cây xanh, giữ gìn đa dạng sinh
học, bảo tồn các nguồn gen dui truyền, xây dựng các công trình làm sạch môi
trường” [1, tr. 301,302].
Tại đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X cũng đã kế thừa tư
tưởng và phát triển thêm về vấn đề BVMT và đại hội cũng đã nhấn mạnh: “Bảo
vệ và sử dụng có hiêu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.
Chủ động phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn.” [2, tr.31]. “Công tác BVMT
đạt những kết quả bước đầu. Hoạt động điều tra cơ bản vệ môi trường được duy
trì; việc ngăn ngừa và khắc phục ô nhiễm môi trường có tiến bộ; đã ban hành
một số chính sách BVMT. Lĩnh vực khí tượng, thủy văn đã được chú ý nhiều
hơn, hiện đại hóa thêm một bước” [2, tr. 155,156]. “Đưa tỉ lệ che phủ rừng lên 42
-43%. 95% dân cư thành thị và 75% dân cư ở nông thôn được sử dụng nước
sạch. 100% các cơ sở sản xuất mới xây dựng phải áp dụng công nghệ sạch hoặc
được tran bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên 50% các cơ sở sản
xuất, kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường; 100% số đô thị loại 4 và tất cả

các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải; 90% chất thải
rắn thông thường, 80% chất thải nguy hại, 100% chất thải y tế được thu gom và
xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường ” [2, tr.190]. “Củng cố hệ thống hồ, đập, đê, kè
ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ động phòng chống lụt
bão và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, BVMT nước.” [2, tr.194]. “Nâng cao sức
cạnh tranh, hàm lượng khoa học công nghệ và tỉ trọng giá trị tăng thêm, giá trị
nội địa trong sản phẩm công nghiệp và xây dựng. Phát triển công nghiệp và xây
dựng gắn với phát triển dịch vụ, phát triển đô thị và BVMT.” [2, tr. 196]. “Xử lý
tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hoá với BVMT, bảo
đảm phát triển bền vững.” [2, tr.222].


14
Tại đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI đã khẳng định:
“BVMT là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa vụ của
mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm
với khôi phục và BVMT sinh thái.” [3, tr.78]. “Phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ
yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều
sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền
vững. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản
xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều
chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức
cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; phát triển kinh tế
tri thức. Gắn phát triển kinh tế với BVMT, phát triển kinh tế xanh.” [3, tr.107].
“Hình thành cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện
đại là một đột phá chiến lược, là yếu tố quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã
hội và cơ cấu lại nền kinh tế. Tập trung rà soát và hoàn chỉnh quy hoạch xây
dựng kết cấu hạ tầng trong cả nước và trong từng vùng, nhất là giao thông, thủy

điện, thủy lợi, bảo đảm sử dụng tiết kiệm các nguồn lực và hiệu quả kinh tế, xã
hội, BVMT.” [3, tr.117]. “Nâng cao ý thức BVMT, gắn nhiệm vụ, mục tiêu
BVMT với phát triển kinh tế-xã hội. Đổi mới cơ chế quản lý tài nguyên và
BVMT. Đưa nội dung BVMT vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình, dự án. Các dự án đầu tư xây dựng
mới phải bảo đảm yêu cầu về môi trường. Thực hiện nghiêm ngặt lộ trình xử lý
các cơ sở gây ô nhiễm môi trường. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về BVMT; xây
dựng chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa, xử lý các hành vi vi phạm. Khắc phục suy
thoái, BVMT và cân bằng sinh thái, nâng cao chất lượng môi trường. Thực hiện
tốt chương trình trồng rừng, ngăn chặn có hiệu quả nạn phá rừng, cháy rừng;
tăng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên. Quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu
quả tài nguyên đất, nước, khoáng sản và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác.


15
Hạn chế và tiến tới không xuất khẩu tài nguyên chưa qua chế biến. Chú trọng
phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. Thực hiện sản xuất và tiêu
dùng bền vững; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng
sạch. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác BVMT, phát triển các dịch vụ môi trường,
xử lý chất thải.” [3, tr. 136,137].
Từ các quan điểm của Đảng qua các kỳ đại hội Đảng cho thấy được
những vấn đề sau liên quan đến vấn đề BVMT:
 Mục tiêu: Trong giai đoạn CNH – HĐH đất nước và quá trình hội
nhập kinh tế thế giới thì nước ta luôn đối mặt với những thách thức lớn trên
nhiều lĩnh vực nhưng đặc biệt là vấn đề BVMT và vấn đề bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên phải đặt lên hàng đầu. Và có thể đưa ra một số mục tiêu như sau:
Tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong các cấp ủy đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân về
trách nhiệm, ý thức BVMT.

Tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong
lĩnh vực BVMT. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật
nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn đầy đủ Luật BVMT, Luật Đa dạng sinh học; sửa
đổi, bổ sung các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ Luật Hình sự. Quy
định các chế tài xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về BVMT.
Đẩy mạnh xã hội hoá công tác BVMT, có cơ chế, chính sách
khuyến khích cá nhân, tổ chức, cộng đồng tham gia BVMT. Xây dựng và phát
triển lực lượng tình nguyện viên BVMT.
Tăng đầu tư và sử dụng đúng mục đích, hiệu quả nguồn chi thường
xuyên từ ngân sách cho sự nghiệp môi trường, khuyến khích các tổ chức, cá
nhân trong nước và ngoài nước đầu tư BVMT.
Hợp tác chặt chẽ với các nước láng giềng và các nước trong khu
vực để giải quyết các vấn đề môi trường liên quốc gia. Tham gia tích cực vào các
hoạt động quốc tế và khu vực vì môi trường; thực hiện đầy đủ các cam kết quốc


16
tế, chương trình, dự án song phương và đa phương về BVMT phù hợp với lợi ích
quốc gia.
 Lực lượng: Tại các kỳ đại hội Đảng thì Đảng ta luôn đề cập đến vấn
đề BVMT là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mọi công
dân. Do đó, không chỉ các cấp, các ngành mới có trách nhiệm BVMT mà mọi
công dân phải có ý thức và trách nhiệm BVMT vì môi trường sống xung quanh
chúng ta.
 Phương hướng: Các cấp ủy đảng, các đảng đoàn, ban cán sự đảng chỉ
đạo quán triệt sâu sắc nội dung Chiến lược trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,
các cấp, các ngành và tăng cường sự lãnh đạo, tạo sự thống nhất cả về nhận thức
và hành động trong việc triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược. Đảng đoàn
Quốc hội chỉ đạo việc xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và giám sát việc
thực hiện Chiến lược. Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo xây dựng và tổ chức

thực hiện chương trình hành động, các chiến lược, quy hoạch phát triển ngành,
sản phẩm, vùng lãnh thổ bảo đảm phát huy lợi thế và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực của đất nước. Chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả ba khâu đột phá
chiến lược, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, kế
hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm, hằng năm, các chương trình quốc gia và
đặc biệt là chương trình BVMT. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.


17

Chương 2
Giải pháp nâng cao hiệu quả việc bảo vệ môi trường theo quan điểm
của Đảng và trách nhiệm của lực lượng công an nhân dân
2.1. Thực trạng và một số dự báo về tình hình BVMT ở Việt Nam
2.1.1. Thực trạng môi trường ở Việt Nam
Trong những năm vừa qua vấn đề môi trường nổi cộm là các vấn đề
mang tính bền vững như bất cập trong quản lý chất thải rắn nguy hại, công nghệ
khử độc môi trường, xử lý các cơ sở gây ô nhiễm, sự xâm lấn của sinh vật ngoại
lai đe dọa đa dạng sinh học…vẫn là các vấn đề đáng lo ngại nhất.
Một là, Chất thải nguy hại: xử lý thấp so với thải ra
Theo kết quả khảo sát của tổng cục môi trường vào tháng 9.2009 đối với
35/64 tỉnh thành, phố trực thuộc trung ương, tổng số lượng chất thải nguy hại
(CTNH) phát sinh là 984.405 tấn/năm. Có khoảng 37.000 tấn hóa chất dùng
trong nông nghiệp bị tịch thu đang được lưu giữ.
Cũng năm 2009, lượng chất thải nguy hại được thu gom, xử lý bởi các
đơn vị do tổng cục môi trường cấp phép là hơn 100.000 tấn, Th.S Nguyễn Thành
Yên, trưởng phòng chất thải nguy hại, cục quản lý Chất thải & cải thiện môi
trường cho biết.
Tính tới tháng 10.2010, mới chỉ có 36 cơ sở xử lý CTNH đã được cấp

phép. Chủ yếu là các công nghệ thiêu đốt (lò đốt tĩnh hai cấp), đồng xử lý trong
lò nung xi măng, chôn lấp, công nghệ hóa rắn (bê tông hóa)... chỉ đáp ứng yêu
cầu của khách hàng, chứ chưa có công nghệ chuyên biệt hoá xử lý cho từng loại
CTNH riêng biệt.
Theo thứ trưởng bộ TN&MT Bùi Cách Tuyến, trong thời gian tới sẽ
hướng để thành lập các doanh nghiệp vừa vận chuyển, vừa xử lý. Bởi nếu vận
chuyển không thôi thì các đơn vị vận chuyển thường đấu thầu giá thấp, lấy một
số chất thải có lợi, còn lại mang đi chôn không đúng quy định. Các đơn vị vận


18
chuyển thuần túy sẽ bị hạn chế dần, sau một thời gian không chuyển qua xử lý
thì sẽ bị rút giấy phép.
Ngoài ra, về chủ trương vĩ mô sẽ dự định thực hiện ba nhà máy xử lý rác
thải nguy hại hiện đại ở ba vùng. Vấn đề kinh phí đang nhờ Nhật hoặc Hàn Quốc
thông qua vốn ODA giúp, công nghệ cao sẽ giúp việc xử CTNH dễ hơn.
Tính đến tháng 10.2010, có 439 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng phải hoàn thành việc xử lý gây ô nhiễm. Kiểm tra 9 tháng đầu năm 2010:
lập 113 biên bản vi phạm hành chính, đề nghị xử phạt từ 9-15 tỷ đồng các đơn vị.
Bộ TN&MT tiếp tục giám sát việc khắc phục hậu quả: xử lý chất thải của công ty
TNHH nhà máy tàu biển Huyndai-Vinashin, việc chôn lấp bột màu đen của công
ty TNHH Sao Mai Xanh, công ty giấy Bãi Bằng, công ty Miwon – Phú Thọ…
Hai là, Đa dạng sinh học bị “tấn công” toàn diện
Với tính đa dạng sinh học cao, Việt Nam đã được công nhận là một trong
các quốc gia cần ưu tiên cho bảo tồn toàn cầu. Tuy nhiên, theo PGS.TS Lê Xuân
Cảnh, viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật, do có sự thay đổi nhanh về kinh tế,
xã hội và tăng trưởng dân số nên mô hình tiêu thụ của người dân thành thị cũng
đã thay đổi. Những thay đổi lớn đó đã dẫn tới việc khai thác quá mức tài nguyên
thiên nhiên tới mức độ nguy hiểm tại nhiều vùng trên cả nước như khai thác
trầm, săn bắt động vật quý hiếm, khai thác sâm Ngọc Linh…

Hội động thực vật Việt Nam cho biết, tổng số loài động thực vật hoang
dã đang bị đe dọa là 882 loài. Đặc biệt, có tới chín loài động vật, hai loài lan hài
được cho là đã tuyệt chủng ngoài tự nhiên. Chỉ tính riêng từ năm 2000-2003 số
lượng động vật hoang dã mà cơ quan chức năng tịch thu, xử lý do săn bắt, vận
chuyển, buôn bán bất hợp pháp trong toàn quốc là 311.686 kg và 90. 565 cá thể
sống.
Ngoài ra, Việt Nam có hàng nghìn công trình hồ chứa, đập, trạm bơm
tiêu, các kè, đập đã làm thay đổi nơi cư trú, cấu trúc của các thành phần thủy
sinh, nhiều loài thủy sinh vật bị ảnh hưởng và tạo điều kiện thuận lợi cho các loại


19
ngoại lai xâm nhập vào hệ sinh thái sông. Diện tích rừng ngập mặn hiện chỉ còn
gần 155.300 ha giảm 100.000 ha so với năm 1990 và ngày càng giảm nhanh.
Trong khi đó, việc nhập các giống mới, có năng suất cao đã làm suy giảm
cả về diện tích lẫn nguồn gen của cây trồng bản địa. Các loại như ốc bươu vàng,
chuột hải ly…20 năm qua đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới hệ sinh thái.
Các chuyên gia cũng nhấn mạnh, các kỹ thuật đánh bắt mang tính hủy
diệt như dùng chất nổ, sốc điện để đánh bắt cá đang được dùng tràn lan cả trong
nội địa và duyên hải như hiện nay còn đe dọa tới hơn 80% rạn san hô của Việt
Nam.
Như vậy, trong các kỳ đại hội Đảng lần thứ IX, X, XI thì Đảng ta đều đề
cập đến vấn đề BVMT nhưng trong thời gian vừa qua thì có một số nội dung về
BVMT là được hiện tốt và bên cạnh đó cũng có một số nội dung thực hiện chưa
được thực hiện hoặc thực hiện một cách cho qua ko thực hiện đến nơi đến chốn:
 Những mặt đã làm được trong việc quán triệt quan điểm của Đảng về
vấn đề BVMT: Trong thời gian vừa qua, Đảng ta đã sửa đổi luật về vấn đề
BVMT và đã có hiệu lực tốt. Bên cạnh đó, các cấp đã luôn tuyên truyền vấn đề
BVMT là trách nhiệm của toàn dân, phát triển các dịch vụ thu gom, vận chuyển,
tái chế, xử lý chất thải và các dịch vụ khác BVMT với sự tham gia của mọi thành

phần kinh tế. Hình thành các loại hình tổ chức đánh giá, tư vấn, giám định,
chứng nhận về BVMT; thành lập doanh nghiệp dịch vụ môi trường đủ mạnh để
giải quyết các vấn đề môi trường lớn, phức tạp của đất nước. Từng bước thực
hiện việc thu phí, ký quỹ BVMT, buộc bồi thường thiệt hại về môi trường. Có cơ
chế, chính sách hỗ trợ về vốn, khuyến khích về thuế, trợ giá đối với hoạt động
môi trường. Xây dựng và triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về
khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường; chương trình mục tiêu quốc gia ứng
phó với biến đổi khí hậu trong thời gian tới, dự báo kịp thời các diễn biến của
biến đổi khí hậu, lồng ghép các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu trong
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển theo hướng thích ứng với biến
đổi khí hậu; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực về môi trường. Nghiên cứu xây


20
dựng các luận cứ khoa học phục vụ hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước về BVMT. Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, dự báo, cảnh báo về tài
nguyên, môi trường; nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ khoa học
và công nghệ về BVMT, xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, sự cố môi trường
và biến đổi khí hậu. Hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường.
Tăng cường sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học, năng lượng sạch, năng
lượng ái tạo, các sản phẩm thân thiện với môi trường. Nâng cao năng lực của các
cơ quan nghiên cứu, hiện đại hóa trang thiết bị, kỹ thuật phục vụ nghiên cứu,
đánh giá về môi trường. Tăng cường công tác bảo tồn thiên nhiên và đa dạng
sinh học, bảo vệ rừng và môi trường biển. Nâng cao vị thế của nước ta trên các
diễn đàn khu vực và toàn cầu về môi trường. Tranh thủ tối đa nguồn hỗ trợ tài
chính, kỹ thuật từ các nước, các tổ chức quốc tế và cá nhân cho công tác BVMT.
 Những mặt chưa làm được trong việc quán triệt quan điểm của Đảng
về vấn đề BVMT: Nhận thức về BVMT và phát triển bền vững của nhiều cấp ủy,
lãnh đạo các cấp, các ngành, doanh nghiệp và nhân dân chưa đầy đủ; ý thức
BVMT nhìn chung còn thấp. Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống tổ

chức quản lý nhà nước về BVMT còn chậm, không đồng bộ. Đội ngũ cán bộ
quản lý môi trường còn thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực và trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ. Trình độ khoa học - công nghệ BVMT, xử lý, giải quyết
ô nhiễm môi trường còn thấp. Nguồn vốn đầu tư và chi thường xuyên cho
BVMT chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều địa phương còn sử dụng kinh phí sự
nghiệp môi trường cho các mục đích khác hoặc sử dụng không hiệu quả. Trang
thiết bị phục vụ công tác bảo vệ môi trường còn thiếu và lạc hậu. Nhiều nơi
trong chỉ đạo, điều hành chỉ quan tâm tới các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, coi nhẹ
các yêu cầu BVMT; có biểu hiện buông lỏng công tác quản lý nhà nước, thiếu
kiên quyết trong việc xử lý vi phạm pháp luật về BVMT; chưa giải quyết dứt
điểm các điểm nóng, bức xúc về ô nhiễm môi trường. Tình trạng vi phạm pháp
luật về BVMT diễn ra khá phổ biến. Nhiều vi phạm có tổ chức, tinh vi, một số
hành vi có dấu hiệu tội phạm. Ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng với tính chất


21
và mức độ ngày càng nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn về kinh tế và ảnh hưởng
xấu đến sức khỏe, đời sống của nhân dân. Những hạn chế, yếu kém nói trên cùng
với tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu và hội nhập quốc tế đặt ra cho công
tác BVMT nhiều thách thức lớn cả trước mắt và lâu dài.
2.1.2. Dự báo tình hình môi trường ở Việt Nam trong thời gian tới
Xuất phát từ những trở ngại, khó khăn do cả những nguyên nhân chủ
quan lẫn nguyên nhân khách quan đó, theo tôi trong thời gian tới sẽ xảy ra một
số biểu hiện tiêu cực cũng như những khó khăn của cơ quan chức năng liên quan
đến BVMT:
Một là, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Các nhân tố đó cũng là
một trong những nguyên nhân gây ra các bệnh về đường hô hấp của con người.
Và nghiêm trọng hơn nữa la nguyên nhân gây ra các bệnh ung thư. Và có thể gây
viêm thận, cao huyết áp vĩnh viễn, liệt, tai biến lão nếu nặng có thể gây tử vong.
Bệnh sạm da, mất sắc tố da, cahi cứng da, và rối loạn tuần hoàn ngoại biên là các

triệu chứng do tiếp xúc thường xuyên với asen. Ung thư da và nhiều ung thư nội
tạng cũng do vậy. Các bênh như tim mạch cũng được phát hiện có liên quan đến
thức ăn, nước uống có asen và do tiếp xúc với asen. Trong nghiên cứu số người
dân uống nước có nồng độ asen cao cho thấy, tỷ lệ ung thư gia tăng theo liều
lượng asen và thời gian uống nước. Không những vậy, vấn đề ô nhiễm tiếng ồn
hiện nay cũng làm cho mọi người khó chịu, đau đầu dai dẳng, người nặng nề mỏi
mệt, dễ cau kỉnh, trí nhớ giảm, giảm sức tập trung chu y, giảm khả năng làm
việc, người hay bị va mồ hoi, giấc ngủ bị rối loạn. Nói chung đó là những triệu
chứng suy nhược thần kinh, đặc biệt là hệ thần kinh thực vật. Còn có những loai
tiếng ồn mạnh như là tiếng bom nổ, tiếng súng lớn,... có thể gây rách màng nhĩ,
xo đẩy lệch các xương nhỏ ở tai giữa, làm tổn thương cả tai trong, máu chảy ra
ngoài tai, gây đau nhức dữ dội. Đó là những hậu quả do ô nhiểm môi trường đem
lại đối với cuộc sống và sức khỏe của con người.
Hai là, ảnh hưởng tới các sinh vật trong tự nhiên và môi trường sống của
chúng. Ô nhiễm nước ảnh hưởng trực tiếp đến các sinh vật nước, đặc biệt là vùng


22
sông, do nước chịu tác động của ô nhiễm nhiều nhất. Nhiều loài thuỷ sinh do hấp
thụ các chất độc trong nước, thời gian lâu ngày gây biến đổi trong cơ thể nhiều
loài thuỷ sinh, một số trường hợp gây đột biến gen, tạo nhiều loài mới, một số
trường hợp làm cho nhiều loài thuỷ sinh chết. Và gây ra ô nhiễm môi trường
nước đặc biệt nghiêm trọng là hiện tượng thủy triều đỏ và thủy triều đen. Hiện
tượng thủy triều đen là tình trạng chất lượng nước hồ giảm đột ngột nghiêm
trọng và tình trạng cá chết hàng loạt trong nhiều ngày kể từ thập niên 1970. Hiện
tượng này được các nhà khoa học gọi tên là “thủy triều đen”. Phân tích các mẫu
nước hồ lấy từ nhiều nước trên thế giới cho thấy hiện tượng “thủy triều đen”
thường xảy trong hồ nước vào mùa thu. Khi đó, chất hữu cơ dưới đáy hồ bắt đầu
phân hủy dưới tác dụng của các vi sinh vật, làm thiếu ôxy dưới đáy hồ, giảm
hàm lượng pH và tăng nồng độ các gốc axít kali nitrat. Chu kỳ này làm tăng tình

trạng thiếu ôxy trong nước và lây lan hợp chất sunfua, biến nước hồ có màu đen
và mùi hôi. Trong quá trình thay đổi chất lượng nước, các hoạt động của con
người như thải chất thải công nghiệp và sinh hoạt vào hồ cũng có thể tạo ra “thủy
triều”. Thủy triều đỏ là khi gặp những môi trường thuận lợi như điều kiện nhiệt
độ, sự ưu dưỡng của vực nước... các loài vi tảo phát triển theo kiểu bùng nổ số
lượng tế bào, làm thay đổi hẳn màu nước. Các nhà khoa học gọi đó là sự nở hoa
của tảo hay “thuỷ triều đỏ”. Thuỷ triều đỏ phá vỡ sự cân bằng sinh thái biển, gây
hại trực tiếp đối với sinh vật và con người. Một số loài vi tảo sản sinh ra độc tố.
Vì vậy, con người có thể bị ngộ độc do ăn phải những sinh vật bị nhiễm độc tố vi
tảo. Đó là một số hậu quả mà ô nhiễm môi trường gây ra cho con người, thiên
nhiên và còn nhiều hậu quả khác nữa cũng gây ô nhiễm môi trường nhưng ở mức
độ chưa làm phá hủy hoặc để lại hậu quả nặng nề cho môi trường quanh ta.
Ba là, tình trạng ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay càng ngày càng
diễn ra nghiêm trọng và có diễn biến phức tạp, một trong những nguyên nhân
gây ô nhiễm môi trường thì có một số doanh nghiệp có mục đích kinh doanh
không chính đáng hoặc lợi dụng sự quen biết, lợi dụng chính sách ưu tiên, mở
rộng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam để có những hành vi xâm hại


23
đến môi trường. Ngoài ra tình trạng mua bán, vận chuyển động vật và sản phẩm
động vật hoang dã cũng đang và sẽ tiềm ẩn nhiều vi phạm và ngày càng nghiêm
trọng hơn.
2.2. Một số giải pháp nhằm quán triệt quan điểm của Đảng về
BVMT trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước
Từ những quan điểm của Đảng qua các kì đại hội Đảng lần thứ IX, X, XI
thì Đảng ta đã có một số giải pháp để BVMT trong sự nghiệp CNH - HĐH đất
nước:
 Tổ tuyên truyền việc nhận thức về BVMT và phát triển bền vững của
nhiều cấp ủy, lãnh đạo các cấp, các ngành, doanh nghiệp và nhân dân. Đưa việc

tuyên truyền dần trở thành ý thức tự nguyện của mọi công dân về việc bảo vệ môi
trường.
 Xây dựng được đội ngũ quản lý có đủ về năng lực và trình độ chuyên
môn nghiệp vụ.
 Ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại vào công tác BVMT,
xử lý, giải quyết ô nhiễm môi trường. Tranh thủ các nguồn đầu tư từ nước ngoài
để trang bị các thiết bị phục vụ công tác BVMT tiên tiến và hiện dại hơn.
 Kiên quyết xử lý về các hành vi, hành động xam hại đến môi trường.
Ban hành một số luật về môi trường. Tăng xử lý hành chính về tội phạm môi
trường và đối với một số hành động xâm hại đến môi trường có thể để lại hậu quả
cho tương lai thi truy cứu trách nhiệm hình sự.
 Phải tiếp tục quán triệt các quan điểm của Đảng tại các địa phương chỉ
quan tâm tới các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, coi nhẹ các yêu cầu BVMT; có biểu
hiện buông lỏng công tác quản lý nhà nước, thiếu kiên quyết trong việc xử lý vi
phạm pháp luật về BVMT.
 Hiện nay,các tội phạm về môi trường ngày càng gia tăng và tội phạm về
môi trường có hành vi ngày càng tinh vi hơn. Vì vậy đòi hỏi các ngành có chức
năng phải có đủ năng lực và thiết bị hỗ trợ cho công tác BVMT.
 Tăng cường phát triển một số ngành kinh tế gắn với việc BVMT


24
Phát triển knh tế rừng
Lâm nghiệp là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù bao gồm tất cả các
hoạt động gắn liền với sản xuất hàng hoá và dịch vụ từ rừng như các hoạt động
bảo vệ, gây trồng, khai thác, vận chuyển, sản xuất, chế biến lâm sản và các dịch
vụ môi trường có liên quan đến rừng; đồng thời ngành lâm nghiệp có vai trò rất
quan trọng trong việc BVMT, bảo tồn đa dạng sinh học, xoá đói, giảm nghèo,
đặc biệt cho người dân miền núi, góp phần ổn định xã hội và an ninh quốc
phòng.

+ Quan điểm phát triển
- Phát triển lâm nghiệp đồng bộ từ quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng
hợp lý tài nguyên, từ trồng rừng, cải tạo rừng và làm giàu rừng đến khai thác chế
biến lâm sản, dịch vụ môi trường, du lịch sinh thái...
- Phát triển lâm nghiệp để có đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế,
xoá đói giảm nghèo và BVMT.
- Quản lý, sử dụng và phát triển rừng bền vững là nền tảng cho phát triển
lâm nghiệp.
- Phát triển lâm nghiệp phải trên cơ sở đẩy nhanh và làm sâu sắc hơn chủ
trương xã hội hóa nghề rừng, thu hút các nguồn lực đầu tư cho bảo vệ và phát
triển rừng.
+ Mục tiêu đến năm 2020
Thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 16,24 triệu ha
đất quy hoạch cho lâm nghiệp; nâng tỷ lệ đất có rừng lên 42 - 43% vào năm
2010 và 47% vào năm 2020; đảm bảo có sự tham gia rộng rãi của các thành phần
kinh tế và tổ chức xã hội vào phát triển lâm nghiệp nhằm đóng góp ngày càng
tăng vào phát triển KT - XH, BVMT sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học và cung
cấp các dịch vụ môi trường, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống
cho người dân nông thôn miền núi và giữ vững an ninh quốc phòng.
+ Nhiệm vụ bảo đảm ổn định về môi trường


25
- Bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học nhằm đóng góp
có hiệu quả cho phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển và đô thị, giảm nhẹ
thiên tai, chống xói mòn, giữ nguồn nước, BVMT sống và tạo nguồn thu từ các
dịch vụ môi trường (phí môi trường, giảm khí thải CO2, du lịch sinh thái...).
- Nâng độ che phủ rừng lên 42 - 43 % vào năm 2010 và lên 47% vào năm
2020.
- Đến năm 2010, trồng 0,25 triệu ha rừng phòng hộ và đặc dụng.

- Giảm đến mức thấp nhất các vi phạm vào tài nguyên rừng, hạn chế canh
tác nương rẫy.
Phát triển kinh tế biển
Mục tiêu thực hiện chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 là phấn đấu
đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển; làm giàu từ biển, phát triển toàn
diện các ngành, nghề biển gắn với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát
triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn. Phấn đấu đến năm
2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 53 - 55% GDP, 55 - 60% kim ngạch xuất
khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện đáng kể đời sống
của nhân dân vùng biển và ven biển.
Để xây dựng một nền khoa học kinh tế biển hiện đại, một quốc gia mạnh
về biển với tầm nhìn dài hạn, Việt Nam cần phải triển khai hàng loạt các giải
pháp nghiên cứu về biển, cả chiến lược, chính sách lẫn khoa học - công nghệ,
bao gồm:
- Một là, phát triển mạnh giao thông vận tải biển để đáp ứng nhu cầu
xuất, nhập khẩu hàng hoá : Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
giao thông vận tải biển. Hệ thống cảng của nước ta gồm cảng biển và cảng sông
với khoảng trên 90 cảng lớn nhỏ và được phân bố tương đối đều dọc theo bờ
biển từ Bắc vào Nam. Hệ thống cảng biển Việt Nam được chía thành 6 nhóm: 1)
Nhóm cảng biển phía bắc; 2) Nhóm cảng biển Bắc Trung Bộ; 3) Nhóm cảng biển
Trung Trung Bộ; 4) Nhóm cảng biển Nam Trung Bộ; 5) Nhóm cảng vùng Đông
Nam Bộ; và 6) Nhóm cảng đồng bằng sông Cửu Long. Cùng với hệ thống cảng,


×