Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 168 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THU HƢỜNG

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA
DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THU HƢỜNG

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA
DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC

Chuyên ngành

: Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật

Mã số

: 62 38 01 01

Người hướng dẫn khoa học:



TS. DƢƠNG THANH MAI
PGS.TS. NGUYỄN THỊ BÁO

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận án chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.

Tác giả

Trần Thu Hƣờng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC
NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN ................................................................... 8
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài ...................................8
1.2. Tình hình nghiên cứu của nước ngoài có liên quan đến đề tài ..........................18
1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài và những vấn đề đặt ra
cần tiếp tục nghiên cứu .....................................................................................23
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ
HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP ..................... 29
2.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp ...............................................................................................29
2.2. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và các yếu tố ảnh hưởng đến việc
hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở
Việt Nam hiện nay ............................................................................................53
2.3. Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở một số
nước trên thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam .....................................63
Chƣơng 3: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG
PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP
Ở VIỆT NAM....................................................................................................................................... 72

3.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về xã hội hóa dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam .........................................................72
3.2. Thực trạng pháp luật xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở
Việt Nam hiện nay ............................................................................................78

Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY........................................................................................................................ 113

4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực
tư pháp ở Việt Nam hiện nay ........................................................................113
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực
tư pháp ở Việt Nam hiện nay .........................................................................120
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ................................................................................................................ 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 152


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BĐGTS

: Bán đấu giá tài sản

GATS

: Hiệp định thương mại dịch vụ

GĐTP

: Giám định tư pháp

QLNN

: Quản lý nhà nước

QPPL

: Quy phạm pháp luật

TGPL

: Trợ giúp pháp lý

THADS

: Thi hành án dân sự

XHCN


: Xã hội chủ nghĩa

XHHDVC

: Xã hội hóa dịch vụ công

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cung cấp dịch vụ công là một trong những chức năng cơ bản của Nhà nước
nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân và cộng đồng, bảo đảm
ổn định và công bằng xã hội. Hiện nay, xã hội hóa việc cung cấp dịch vụ công trở
thành một xu hướng phổ biến của các nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi
nhằm đa dạng hóa, tăng nguồn cung ứng và nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ nhu
cầu, lợi ích chung của xã hội, cộng đồng và của người dân. Yêu cầu căn bản của quá
trình XHHDVC là nhà nước trực tiếp thực hiện một số loại dịch vụ công quan trọng
và thông qua các cơ chế cụ thể để dần chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công này
cho các chủ thể khác, đồng thời, chịu trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ chất lượng của
việc cung ứng các dịch vụ công này.
Ở Việt Nam, XHHDVC là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, được
triển khai thực hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và là một trong những
trọng tâm trong thực hiện cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, XHHDVC trước hết được

thực hiện trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe của nhân dân (Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII), sau đó, được mở rộng đến các
vấn đề chính sách xã hội (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII). Đến nay,
XHHDVC đã được triển khai trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, là một trong
những trọng tâm trong thực hiện cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 được Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua đã xác định quan điểm phát triển: “hoàn thiện
thể chế để tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng và phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ; huy động và
sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển” [42, tr.101]. Chương trình tổng
thể cải cách nền hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo Nghị
quyết số 30c/NQ-CP đặt ra nhiệm vụ: “Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về
xã hội hóa theo hướng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời


sống vật chất và tinh thần của nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia
cung ứng các dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh” [29, tr.2].
Trong lĩnh vực tư pháp, XHHDVC được xác định là nhiệm vụ chiến lược quan
trọng trong thực hiện cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 2/6/2006 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã chỉ rõ: “thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp”.
Đồng thời, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2006 của Bộ Chính trị về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng 2020 cũng xác
định xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng, giám
định, cảnh sát tư pháp...) theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu
đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp; thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ
các hoạt động bổ trợ tư pháp; kết hợp quản lý nhà nước với tự quản của các tổ chức
xã hội nghề nghiệp.
Thực hiện định hướng chiến lược cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, các văn
bản trong các lĩnh vực tư pháp như Luật luật sư, Luật công chứng, Luật thi hành án

dân sự, Luật giám định tư pháp, Luật trợ giúp pháp lý, Luật phổ biến giáo dục pháp
luật, Luật đấu giá tài sản... đang ngày càng khẳng định xu hướng XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp như xác định luật sư là một nghề, hoạt động chuyên nghiệp; hình
thành Liên đoàn luật sư là tổ chức tự quản của luật sư trong toàn quốc; hệ thống Văn
phòng công chứng được thành lập bên cạnh Phòng công chứng của Nhà nước; từng
bước hình thành Hội công chứng thực hiện chức năng tự quản đối với những người
hành nghề công chứng ở các địa phương; huy động các nguồn lực xã hội tham gia
vào hoạt động TGPL; cho phép thành lập các tổ chức GĐTP ngoài công lập đối với
các lĩnh vực về tài chính, xây dựng, di vật, cổ vật; chế định thừa phát lại đã được
chính thức thực hiện trong phạm vi cả nước. Các văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý
cho việc XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, góp phần vào việc nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng
như bảo đảm và phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân.
Tuy nhiên, pháp luật về XHHDVC cũng đang cho thấy có những bất cập, hạn
chế cần được nghiên cứu, hoàn thiện so với yêu cầu XHHDVC nói chung và trong


bối cảnh thực hiện cải cách pháp luật, cải cách tư pháp. Quy định về thực hiện xã hội
hóa được điều chỉnh trong các văn bản ở các cấp độ hiệu lực, ngành, lĩnh vực khác
nhau dẫn đến có những mâu thuẫn, khoảng trống và khó khăn nhất định trong áp
dụng. Pháp luật cũng chưa điều chỉnh đầy đủ, toàn diện các vấn đề phát sinh trong
thực hiện xã hội hóa như bảo đảm tính xã hội, không vì mục đích lợi nhuận của việc
cung cấp dịch vụ công, chưa có các cơ chế, chính sách khuyến khích phù hợp với đặc
thù của các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp… Quy định về trách nhiệm của các
chủ thể trong cung cấp dịch vụ công trong điều kiện xã hội hóa còn chưa đầy đủ, cụ
thể, đặc biệt là trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm chất lượng dịch vụ công nên
thực tế triển khai có lúng túng và chưa đạt được kết quả như mong muốn. Việc tổng
kết thực tiễn thi hành và nghiên cứu lý luận về pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực
tư pháp chưa được quan tâm thực hiện đúng mức nên dẫn đến những khó khăn, lúng
túng, thiếu cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách dài hạn và hoàn thiện pháp

luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Pháp luật là nền tảng của Nhà nước pháp quyền và pháp luật trong Nhà nước
phải bảo đảm quyền tự do, dân chủ, bảo đảm công bằng và công lý trong xã hội. Yêu
cầu cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là hoàn thiện
hệ thống pháp luật. Trong quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp hiện nay, pháp
luật phải tạo hành lang pháp lý ổn định, khả thi cho sự tham gia bình đẳng của các
chủ thể trong xã hội trong cung cấp dịch vụ công có chất lượng, bảo đảm cho người
dân ngày càng dễ dàng hơn trong tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ công, cũng như góp
phần hoàn thành các nhiệm vụ cải cách tư pháp, thực hiện và bảo vệ pháp luật. Pháp
luật không phải chỉ thể hiện cam kết của Nhà nước trước xã hội về việc bảo đảm
quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân khi tham gia cung cấp dịch vụ công mà còn thể
hiện cam kết của Nhà nước trước người dân về việc cung cấp dịch vụ công có chất
lượng dù trong bối cảnh Nhà nước không tham gia trực tiếp vào việc cung cấp dịch
vụ công, gắn với các mục tiêu, nhiệm vụ cải cách pháp luật, cải cách tư pháp.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Hoàn thiện
pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện
nay” là đề tài nghiên cứu luận án tiến sỹ luật học nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý


luận, thực tiễn trong hoàn thiện pháp luật và đưa ra những kiến nghị, đề xuất cho
việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn, từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay đáp ứng yêu cầu thực hiện cải cách hành chính,
cải cách tư pháp của Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ
- Thực hiện tổng quan các vấn đề nghiên cứu có liên quan đến đề tài để chỉ ra
những vấn đề luận án có thể kế thừa và xác định các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.

- Phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung điều chỉnh của pháp luật và xác
định các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện cũng như yếu tố ảnh hưởng đến việc
hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp; đồng thời ở một mức độ
nhất định, nghiên cứu pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trên thế giới
và chỉ ra những giá trị tham khảo đối với Việt Nam.
- Nghiên cứu tổng quan quá trình phát triển của pháp luật về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp, trọng tâm từ năm 2001 đến nay; phân tích, đánh giá thực
trạng pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay để rút ra
những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân.
- Phân tích, đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay theo yêu cầu cải cách hành
chính, chiến lược hoàn thiện pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, Luận án nghiên cứu
những vấn đề lý luận, thực tiễn của pháp luật và hoàn thiện pháp luật về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.


3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, ở Việt Nam hiện nay, pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được tiếp cận khá rộng, bao gồm nhiều hoạt động
khác nhau, có thể là các hoạt động trực tiếp liên quan đến thực hiện quyền tư pháp
(xét xử) nhưng cũng có thể là những hoạt động bổ trợ tư pháp và hành chính tư pháp.
Trong phạm vi giới hạn của Luận án, với mục đích đóng góp các đề xuất cho
việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phù hợp yêu cầu cải
cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Luận án tập trung
nghiên cứu và đề xuất các giải pháp đối với việc hoàn thiện pháp luật XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp được xác định theo Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính

trị ngày 2/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới
và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020.
- Về thời gian, Luận án nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp và tập trung nghiên cứu, đánh giá về
tình hình, kết quả hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong giai đoạn từ năm 2001
đến nay (là giai đoạn bắt đầu thực hiện các nhiệm vụ XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp theo Nghị quyết số 08-NQ/TW).
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó vận
dụng linh hoạt, tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để
thấy được tiến trình hình thành, phát triển của pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp ở Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu khoa học đã được
sử dụng phù hợp với yêu cầu nghiên cứu từng nội dung của luận án như phương
pháp phân tích, tổng hợp; luật học so sánh; thống kê, khảo sát văn bản; phương
pháp quy nạp, diễn dịch. Cụ thể như sau:
- Chương 1: Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa các tài
liệu, công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố để làm rõ các nội dung, kết


quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài, xác định những vấn đề cần tiếp tục nghiên
cứu của luận án.
- Chương 2: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa,
phương pháp quy nạp, diễn dịch để phân tích, luận giải, khái quát các phạm trù có
tính lý luận về pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Chương này cũng sử
dụng phương pháp luật học so sánh để tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước trong
hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
- Chương 3: Sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích để hệ
thống, luận giải, làm rõ thực trạng pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở

Việt Nam hiện nay.
- Chương 4: Sử dụng phương pháp quy nap, diễn dịch, tổng hợp, phân tích
để luận giải và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh
vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên tiếp cận chung về hoàn thiện
pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Luận án có những
điểm mới sau:
- Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu trước đó, Luận án đã đưa ra được
khái niệm, phân tích và làm sáng tỏ bốn đặc điểm, ba nội dung điều chỉnh và vai trò
quan trọng của pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp
- Luận án đã xây dựng bảy tiêu chí hoàn thiện pháp luật, xác định năm yếu tố
ảnh hưởng đến việc hoàn trình hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp.
- Luận án đã phân tích và chỉ ra kinh nghiệm của một số nước trong hoàn thiện
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm kinh nghiệm hoàn thiện nhóm
các quy định về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công; về thực hiện XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp; về quy định quản lý cung cấp dịch vụ công.
- Luận án đã phân tích, làm rõ được những vấn đề cơ bản của quá trình hình thành
và phát triển của pháp luật Việt Nam về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.


- Luận án nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống và chỉ ra được những
kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực
tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án xác định được các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận, kết quả nghiên cứu của Luận án cung cấp thêm các thông tin lý
luận hoàn thiện pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong điều kiện cải cách

hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Về thực tiễn, Luận án là công trình đầu tiên tiếp cận và nghiên cứu chung
liên quan đến pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp một cách có hệ thống
và toàn diện. Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tham khảo đối với các cơ
quan có thẩm quyền trong xây dựng, hoạch định chính sách, xây dựng, hoàn thiện
và tổ chức thi hành pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp nói chung và từng
dịch vụ công cụ thể. Luận án còn có thể là tài liệu tham khảo, phục vụ cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy pháp luật XHHDVC nói chung và trong lĩnh vực tư pháp nói
riêng.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận án gồm có
04 chương và 10 tiết.


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƢỚC LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc về hoàn thiện pháp luật về xã hội
hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp nói chung
Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một trong những
nội dung được quan tâm nghiên cứu dưới các hình thức Đề tài, Hội thảo khoa học,
luận án, luận văn và các bài viết theo từng nội dung cụ thể.
Về các đề tài, hội thảo khoa học, Đề tài khoa học cấp Bộ về “Đổi mới quản lý
Ngành Tư pháp - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [93] do TS Nguyễn Ngọc Hiến
làm chủ nhiệm và bảo vệ năm 1996 đã đưa ra nhiều nội dung liên quan đến định
hướng phát triển tổ chức và hoạt động cho Ngành Tư pháp trên những nhóm nhiệm
vụ cơ bản của Ngành trong giai đoạn đến năm 2005 và sau năm 2005. Đề tài đề cập

nhiều nội dung đổi mới QLNN gắn với hoàn thiện pháp luật đối với hoạt động luật
sư, tư vấn pháp luật, GĐTP phù hợp với chủ trương xã hội hóa, kết hợp quản lý nhà
nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp. Năm 2006, Đề án khoa học
của Bộ Tư pháp về Chiến lược xây dựng và phát triển ngành Tư pháp thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đề cập đến vấn đề XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp,
tuy nhiên mô hình quản lý dịch vụ công mới chỉ được đề cập đến ở phần kiến nghị và
chưa gắn với các đề xuất cụ thể về nội dung, cách thức, phương pháp, phạm vi điều
chỉnh của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Đề tài khoa học “Hoàn thiện khung pháp luật về xã hội hóa cung ứng dịch vụ
công ở Việt Nam” do TS Nguyễn Văn Quang làm chủ nhiệm năm 2010 đã tập trung
nghiên cứu khía cạnh pháp lý của vấn đề xã hội hóa cung ứng dịch vụ công [72].
Một trong những kết quả nghiên cứu quan trọng của Đề tài là xác định khung pháp
luật về xã hội hóa cung ứng dịch vụ công bao gồm quy định về quản lý nhà nước


đối với việc XHHDVC và quy định điều chỉnh các hoạt động XHHDVC. Đề tài
nhấn mạnh quan điểm bảo đảm các dịch vụ công đều phải được điều chỉnh bằng
pháp luật, mọi chủ thể bình đẳng trong việc yêu cầu, sử dụng và thụ hưởng dịch vụ
công, bảo đảm cho mọi tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện theo quy định của pháp
luật được tham gia cung ứng dịch vụ công và vai trò của nhà nước đối với việc cung
ứng dịch vụ công. Đề tài cũng đưa ra các phương thức pháp lý chuyển giao cung
ứng dịch vụ công trong quá trình XHHDVC thông qua việc thành lập và cho phép
hoạt động các đơn vị cung ứng dịch vụ công ngoài công lập, ký kết hợp đồng để
cung ứng dịch vụ công. Từ đó khẳng định hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa cung
ứng dịch vụ công nhằm tạo ra môi trường pháp lý đồng bộ, hoàn chỉnh để điều
chỉnh hiệu quả hoạt động cung ứng dịch vụ công của mọi thành phần tham gia là
giải pháp quan trọng thúc đẩy xã hội hóa cung ứng dịch vụ công ở nước ta. Có thể
nói, với ý nghĩa là một trong những nghiên cứu tập trung vào vấn đề pháp luật về
XHHDVC ở Việt Nam, Đề tài đã cung cấp nhiều luận cứ quan trọng cho nghiên cứu
sinh khi nghiên cứu đề tài của mình, đặc biệt là những vấn đề lý luận chung và khung

pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Đề tài khoa học cấp Bộ về “Mô hình quản lý dịch vụ công của Ngành Tư
pháp” do Ths Dương Bạch Long là chủ nhiệm đề tài năm 2014 [99]. Đề tài đã thực
hiện rà soát pháp luật hiện hành để nhận diện các dịch vụ công và tập trung nghiên
cứu dịch vụ hành chính công trong ngành Tư pháp. Đề tài xác định được mô hình
quản lý dịch vụ công trên cơ sở tiếp cận từ chủ thể quản lý dịch vụ hành chính công,
bao gồm mô hình quản lý một cấp, hai cấp, nhiều cấp và liên tịch quản lý. Đây là
các nội dung có giá trị tham khảo đối với nghiên cứu sinh khi xác định phạm vi và
nội dung pháp luật quy định về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Tuy nhiên, do
nghiên cứu về mô hình quản lý nên vấn đề pháp luật chỉ được đề cập từ khía cạnh là
nguyên nhân của những hạn chế trong quản lý các dịch vụ công và khi khuyến nghị
các giải pháp đổi mới mô hình quản lý dịch vụ công của ngành Tư pháp.
Về các hội thảo khoa học, chương trình nghiên cứu, trong năm 2006, Viện
Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp đã tổ chức Hội thảo khoa học cấp Bộ về Dịch vụ
công trong ngành Tư pháp. Hội thảo bước đầu đặt ra vấn đề về nhận diện các dịch


vụ công trong ngành Tư pháp. Kết quả của Hội thảo được biên tập và phát hành
dưới dạng số thông tin Khoa học pháp lý chuyên đề: “Nhận diện và một số giải
pháp nâng cao hiệu quả quản lý, chất lượng dịch vụ công trong ngành Tư pháp”
[92]. Với quan điểm dịch vụ công hiện diện trong hầu hết các lĩnh vực quản lý nhà
nước của Bộ và rất phong phú, đa dạng, Báo cáo kết quả hội thảo đề cập đến kết
quả xã hội hóa hoạt động công chứng, TGPL, THADS, giao dịch bảo đảm, đào tạo,
nghiên cứu khoa học pháp lý… Bên cạnh một số vấn đề đã được phân tích và đi đến
kết luận thì Hội thảo cũng thống nhất còn nhiều vấn đề vướng mắc liên quan đến
việc xác định loại hình dịch vụ công để phân định với hoạt động QLNN và tiếp tục
xác định các nội dung, giải pháp về xây dựng pháp luật về xã hội hóa hoạt động
THADS, nghiên cứu và đào tạo pháp luật.
Trung tâm nghiên cứu hỗ trợ phát triển cộng đồng, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) khảo sát, xây dựng và

công bố Báo cáo Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) [43].
Báo cáo bao gồm những chỉ số đo lường đối với hoạt động công chứng, chứng thực
trên cơ sở pháp luật, thông qua các tiêu chí về thông tin rõ ràng về thủ tục cần làm;
phí được niêm yết công khai; công chức có trình độ nghiệp vụ; được đối xử hợp lý;
không có quá nhiều giấy tờ và được hẹn ngày trả kết quả rõ ràng; nhận được kết quả
như lịch hẹn; hài lòng với kết quả nhận được. Các tiêu chí này cho phép đánh giá
tương đối toàn diện về việc cung cấp dịch vụ công chứng, chứng thực - một trong
những dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Nhưng do kết quả khảo sát là ý kiến trực
tiếp của người dân về việc thực hiện và cung cấp dịch vụ nên không có những đánh
giá về mức độ hoàn thiện của pháp luật.
Cùng với chỉ số PAPI, trong giai đoạn từ năm 2012, Bộ Nội vụ tiến hành
đánh giá kết quả thực hiện cải cách hành chính ở các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (cấp tỉnh) thông qua việc đánh giá và công
bố Chỉ số cải cách hành chính (Par index) trong Báo cáo kết quả xác định Par index
năm của Bộ Nội vụ [11]. Chỉ số cho phép đánh giá kết quả thực hiện cải cách hành
chính của các Bộ, ngành theo các nội dung bao gồm: điều hành cải cách hành chính;
xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế thuộc phạm vi quản lý của Bộ; cải cách thủ


tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng
cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức; đổi mới cơ chế tài chính đối với cơ
quan hành chính và đơn vị sự nghiệp; hiện đại hóa hành chính. Việc đo lường và
công bố Chỉ số cải cách hành chính cũng cho thấy mức độ hoàn thiện của pháp luật
về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thông qua chỉ số đánh giá đối với các Bộ,
ngành có liên quan, trực tiếp là Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, do đây là các chỉ số được
đánh giá chung nên khó rút ra được các nhận định, đánh giá về pháp luật XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp.
Về công trình nghiên cứu luận án tiến sĩ, tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong
luận án “Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính” [8] tiếp
cận dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính với ý nghĩa là một bộ phận trong dịch

vụ công trên cơ sở phân biệt tính chất và tác dụng của dịch vụ công (khác với cách
phân biệt về hình thức dịch vụ cụ thể; chủ thể cung ứng dịch vụ công; chi phí của
người sử dụng) để thấy những đặc thù của dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính.
Khác với các dịch vụ công khác, dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính ra đời là
kết quả của quá trình chuyển đổi cách thức giải quyết yêu cầu của cá nhân, tổ chức,
gắn với tiến trình cải cách hành chính nhà nước và phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội trong nền kinh tế thị trường. Pháp luật về dịch vụ công trong lĩnh
vực hành chính thể hiện cam kết của nhà nước về bảo đảm cung cấp các dịch vụ
công cho công dân và là công cụ để quản lý nhà nước. Trong nghiên cứu của mình,
tác giả cũng đề cập đến các dịch vụ công chứng, TGPL và coi đây là các dịch vụ công
trong lĩnh vực hành chính và từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật để thực
hiện xã hội hóa đối với các dịch vụ này. Luận án có giá trị tham khảo về phương pháp
luận cho nghiên cứu sinh khi tiếp cận, nghiên cứu và kiến nghị giải pháp hoàn thiện
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa đối với
một số dịch vụ công cụ thể trong lĩnh vực tƣ pháp
Bên cạnh các nghiên cứu về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp nói chung,
trong thời gian qua, nhiều nghiên cứu về xã hội hóa đối với một số dịch vụ công


trong từng lĩnh vực hoạt động cụ thể đã được thực hiện. Khái quát một số kết quả
nghiên cứu như sau:
* Trong lĩnh vực luật sư: Luật sư là một trong những chế định pháp luật liên
quan đến XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu, các cơ quan QLNN cũng như hoạt động thực tiễn. Đây có thể coi là một
trong những lĩnh vực điển hình trong nghiên cứu về xã hội hóa với hai xu hướng
nhu cầu chuyển giao từ nhà nước cho xã hội thực hiện với đội ngũ luật sư tư và nhu
cầu về sự tham gia trực tiếp của nhà nước trong cung cấp dịch vụ luật sư với việc
hình thành chế định luật sư công.
Trong sách “Một số vấn đề về luật sư và nghề luật sư” của TS Nguyễn Văn

Tuân [82], thông qua việc nghiên cứu, cung cấp thông tin về quá trình xây dựng,
hoàn thiện pháp luật luật sư, tác giả đã cho thấy một quá trình hình thành và phát
triển nghề luật sư ở Việt Nam trước năm 1945 và từ năm 1945 đến nay. Lịch sử
phát triển nghề luật sư cho thấy quá trình chuyển giao mạnh mẽ các công việc do
Nhà nước đang thực hiện cho xã hội thực hiện trên cơ sở hình thành một đội ngũ
luật sư hoạt động chuyên nghiệp, phát triển tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư
theo hướng kết hợp giữa QLNN và tự quản của luật sư, chuyển giao nhiều công
việc quản lý hành nghề của luật sư sang cho tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư.
Tác giả Nguyễn Văn Thảo trong Đề tài“Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
hoàn thiện pháp luật về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở
Việt Nam” [90] khẳng định vai trò của luật sư trong đời sống xã hội và yêu cầu tạo
hành lang pháp lý thích hợp để chính quy hóa, chuyên nghiệp hóa nghề luật sư, tạo
điều kiện để nghề luật sư hội nhập khu vực và quốc tế. Công trình nghiên cứu này
có giá trị tham khảo cho nghiên cứu sinh khi đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật
đối với việc hành nghề và vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong quản lý
hành nghề khi thực hiện xã hội hóa, chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp cho các tổ chức ngoài Nhà nước thực hiện.
Cùng với quan điểm phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về luật sư và hành
nghề luật sư để tạo điều kiện cho sự phát triển của luật sư ở Việt Nam, tác giả Phan
Trung Hoài trong Luận án tiến sỹ với chủ đề “Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện


pháp luật về luật sư ở Việt Nam hiện nay” [56] nhấn mạnh quan điểm cơ bản cho
việc hoàn thiện pháp luật luật sư đó là phải tạo được một môi trường pháp lý rộng
rãi cho tổ chức và hoạt động luật sư phát triển, đáp ứng ngày càng tăng nhu cầu tư
vấn pháp luật của nền kinh tế thị trường, phát huy dân chủ, bảo vệ công lý và công
bằng xã hội.
* Trong lĩnh vực công chứng: Tiếp sau lĩnh vực luật sư, xã hội hóa công
chứng là một trong những nội dung được quan tâm nghiên cứu trong tổng thể về
hoàn thiện pháp luật công chứng và được coi là một trong những định hướng, giải

pháp cho việc nâng cao chất lượng hoạt động công chứng. Kỷ yếu Hội thảo cấp Bộ
“Xã hội hóa hoạt động công chứng sau gần 5 năm triển khai Luật công chứng”[96]
bao gồm tập hợp các bài viết đánh giá pháp luật xã hội hóa công chứng theo Luật
công chứng cùng với thực tiễn triển khai tại một số địa phương. Hội thảo đề cập
những ưu điểm, hạn chế của pháp luật về xã hội hóa công chứng và khẳng định xã hội
hóa công chứng là chủ trương đúng đắn nhưng thể chế cho việc xã hội hóa hoạt động
công chứng trong Luật công chứng còn khá hạn chế. Để xã hội hóa đạt hiệu quả hơn,
Hội thảo đề nghị cần có nghiên cứu về mức độ xã hội hóa phù hợp tại từng vùng, miền
gắn với nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công chứng của các cơ sở công lập trên
quan điểm lưu ý cần tránh tình trạng biến tướng từ xã hội hóa thành tư nhân hóa.
Luận án thạc sỹ luật học “Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay” [55]
của tác giả Nguyễn Phương Hoa đã nghiên cứu toàn diện về vấn đề xã hội hóa công
chứng, trong đó tác giả cũng khẳng định hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa công
chứng là một giải pháp cho việc thực hiện xã hội hóa công chứng.
Trong bài viết“Yêu cầu và thách thức của xã hội hóa công chứng” [69], tác
giả Võ Đình Nho lưu ý công chứng là hoạt động vừa mang tính hành chính nhà
nước và vừa mang tính chất dịch vụ công nên việc xã hội hóa đặt ra nhiều vấn đề
cần giải quyết nhưng đó là xu thế tất yếu. Nêu lên một đặc thù khác trong xã hội
hóa công chứng, Ths Nguyễn Hoàng Anh trong bài “Xã hội hóa hoạt động công
chứng - Từ ý tưởng đến thực tiễn”[2] đã khẳng định xã hội hóa công chứng là một
bước đi tiên phong trong xã hội hóa các lĩnh vực hoạt động tư pháp pháp - xưa nay
vẫn được coi như lãnh địa riêng của công quyền. Tác giả nhấn mạnh quan điểm


không thể quan niệm việc xã hội hóa hoạt động công chứng đơn giản như các lĩnh
vực giáo dục, y tế vì đây là việc ủy quyền của nhà nước. Từ đó, tác giả đưa ra các
kiến nghị không nên tồn tại hai mô hình công chứng nhà nước và công chứng tư,
hoàn thiện pháp luật cho phép thành lập văn phòng công chứng.
* Trong lĩnh vực giám định tư pháp:
PGS.TS Nguyễn Tất Viễn trong sách “Đổi mới tổ chức, hoạt động giám định

tư pháp”[87], chuyên đề Đổi mới tổ chức và hoạt động giám định tư pháp trong
quá trình cải cách tư pháp trong sách Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt
Nam [88] và chuyên đề “Giám định tư pháp” trong sách Cải cách tư pháp ở Việt
Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền [28]. Các công trình này đã
nghiên cứu về quá trình phát triển của hoạt động GĐTP, tổ chức GĐTP trong một
số lĩnh vực của Việt Nam từ năm 1945; nghiên cứu một số vấn đề lý luận, những
bất cập của hoạt động GĐTP và bước đầu đưa ra những kiến nghị khắc phục, trong
đó có kiến nghị nội dung thực hiện xã hội hóa và xây dựng khuôn khổ pháp lý cho
việc xã hội hóa hoạt động GĐTP.
Trong bối cảnh đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động GĐTP, Đề tài khoa học cấp
Bộ về “Xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp” do TS Nguyễn Mạnh Đạt làm chủ nhiệm [97] hay Hội thảo khoa học cấp Bộ
về “Hoạt động giám định tư pháp ở Thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và khả năng
xã hội hóa” do tác giả Võ Như Hoa làm chủ nhiệm [22]… đã đề cập trực tiếp đến
vấn đề xã hội hóa trong lĩnh vực GĐTP phục vụ cho việc nghiên cứu, xây dựng
Luật giám định tư pháp. Các đề tài này xác định quan điểm xã hội hóa hoạt động
giám định tư pháp là quá trình đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động GĐTP,
theo đó Nhà nước kết hợp việc tập trung đầu tư cho các tổ chức GĐTP ở các lĩnh
vực giám định có nhu cầu lớn và thường xuyên với việc huy động, thú hút các cá
nhân, tổ chức có đủ điều kiện tham gia theo quy định của pháp luật tham gia vào
hoạt động GĐTP ở các lĩnh vực không thành lập tổ chức GĐTP nhằm đáp ứng cho
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và đáp ứng nhu cầu xã hội trong điều kiện kinh tế
thị trường. Từ đó Đề tài đưa ra đề xuất thí điểm thực hiện xã hội hóa, thành lập các
công ty thực hiện giám định tại Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Có thể


nói, việc nghiên cứu xã hội hóa GĐTP được đề cập khá toàn diện trong các đề tài
này, trong đó có vấn đề về pháp luật. Các nghiên cứu có giá trị tham khảo, giúp cho
nghiên cứu sinh đưa ra các định hướng hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp.

* Trong lĩnh vực thi hành án dân sự:
Đề tài khoa học “Xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự - một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” cùng do tác giả Nguyễn Đức Chính làm chủ nhiệm [89] và Đề tài
khoa học cấp Bộ về “Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại”
cùng do tác giả Nguyễn Đức Chính làm chủ nhiệm [94] là những công trình nghiên
cứu của ngành Tư pháp về xã hội hóa hoạt động THADS thông qua việc hình thành
chế định thừa phát lại. Qua hai công trình này, tác giả nghiên cứu cơ sở lý luận và
thực tiễn cho việc xã hội hóa hoạt động THADS và từ đó đề xuất về chế định thừa
phát là hình thức của xã hội tham gia vào hoạt động THADS. Một điểm lưu ý chung
là nói đến THADS là nói đến sự thực thi quyền lực tư pháp của Nhà nước nhưng
trong hoạt động THADS, có những hoạt động không cần phải sử dụng quyền lực tư
pháp và đây là địa hạt để xã hội hóa nhằm giảm bớt khối lượng công việc đang quá
tải của các cơ quan THADS. Đặc biệt, xã hội hóa hoạt động THADS sẽ thể hiện đậm
nét hơn tính dân chủ, nhân dân của Nhà nước, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế
thị trường với nguyên tắc coi trọng và đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Đề tài khoa học cấp Bộ về “Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới
hoạt động thi hành án tại Việt Nam trong giai đoạn mới”[95] do TS Nguyễn Đình
Lộc làm chủ nhiệm đã đề cập đến giải pháp hoàn thiện pháp luật để thực hiện xã hội
hóa hoạt động thi hành án, bao gồm THADS và hình sự. Nội dung xã hội hóa được
thực hiện bằng cách giao một số hoạt động nghiệp vụ có tính hành chính, kỹ thuật
cho tổ chức, công dân thực hiện việc thi hành án dưới sự quản lý của Nhà nước. Đó là
việc giám sát người bị án treo, cải tạo không giam giữ, quản chế, tống đạt các loại
giấy tờ, quyết định liên quan đến thi hành án, xác minh tài sản... Mức độ xã hội hóa
tùy thuộc vào tính chất của từng loại án. Trong trường hợp xã hội hóa hoạt động thi
hành án hình sự thì cần thiết kế mô hình hợp tác, cộng tác hiệu quả giữa nhà nước và
xã hội để bảo đảm mục đích của hình phạt có tính răn đe, phòng ngừa.


Sau khi Quốc hội thông qua thí điểm thực hiện chế định Thừa phát lại năm
2011, số Chuyên đề về Thừa phát lại [74] đã tập hợp một loạt các bài viết nghiên

cứu về lý luận và thực tiễn thực hiện chế định Thừa phát lại. Trong “Quan điểm
khoa học, chính trị - pháp lý về Thừa phát lại trong tiến trình cải cách tư pháp, cải
cách hành chính ở Việt Nam” [71], TS Dương Thanh Mai tổng hợp những kết quả
nghiên cứu khoa học và chính trị, pháp lý liên quan đến chế định Thừa phát lại. Bài
viết đề cập đến quan điểm coi THADS có bản chất là một hoạt động nghề nghiệp
mang tính pháp lý hành chính, có những đặc trưng của một loại dịch vụ công có thể
xã hội hóa, chuyển công việc THADS (toàn bộ hay từng phần) đang do cơ quan
THADS nhà nước trực tiếp thực hiện sang cho các cá nhân, tổ chức phi nhà nước
thực hiện. Cũng trong số chuyên đề này, Ths Lê Xuân Hồng đã nêu lên những kết
quả và hạn chế trong thực hiện thí điểm thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh
trong bài viết “Từ nhu cầu xã hội, đến chủ trương và kết quả bước đầu của việc
thực hiện thí điểm thừa phát lại”[58]. Khi đề cập đến pháp luật về thừa phát lại, tác
giả cho rằng hoạt động thừa phát lại được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật
thuộc nhiều lĩnh vực nhưng bản thân các quy định này lại chưa đầy đủ, không đồng
bộ và thiếu cụ thể. Luật thi hành án dân sự cũng như các luật tố tụng có liên quan
(như bộ luật tố tụng dân sự, luật tố tụng hành chính...) chưa có quy định cụ thể gắn
với hoạt động của Thừa phát lại như bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, chi phí
tống đạt giấy tờ…và do đó đặt ra yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật để tạo
cơ sở pháp lý thực hiện xã hội hóa hoạt động THADS.
* Đối với lĩnh vực trợ giúp pháp lý:
TGPL là loại hình dịch vụ công rất đặc thù trong lĩnh vực tư pháp với việc
cung cấp các dịch vụ cho đối tượng được TGPL không thu phí. Từ đặc thù này,
Luận án tiến sỹ luật học của Tác giả Tạ Thị Minh Lý về “Điều chỉnh pháp luật về
trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới” [66]… đã đưa ra quan điểm
về vai trò nòng cốt của Nhà nước trong TGPL cùng với việc khuyến khích sự tham
gia của các chủ thể trong hoạt động TGPL. Đây cũng là quan điểm của tác giả Lê
Thị Phương Hoa trong “Xã hội hoá hoạt động trợ giúp pháp lý, nhìn từ góc độ xã
hội hoá dịch vụ công” [54].



Cùng với sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội gắn với sư gia tăng khả
năng cung cấp dịch vụ TGPL cũng như yêu cầu ngày càng cao của các đối tượng
được TGPL, đặc biệt với sự thông qua Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai
đoạn 2015-2025 (ban hành kèm theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 1/6/2016 của
Thủ tướng Chính phủ), vấn đề xã hội hóa TGPL lại thu hút sự quan tâm nghiên cứu
về cách thức, nội dung và phạm vi xã hội hóa. Tham khảo loạt bài viết trên Cổng
thông tin điện tử của Bộ Tư pháp về TGPL như “Bàn về vai trò nòng cốt của nhà
nước trong hoạt động Trợ giúp pháp lý của Việt Nam hiện nay” của Ths Đào Dư
Long [64], “Kết quả 10 năm xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực trợ
giúp pháp lý (2005-2015) và định hướng, nhu cầu hoàn thiện pháp luật giai đoạn
2016-2020” [82] và “Một số bất cập của Luật Trợ giúp pháp lý trong so sánh kinh
nghiệm nước ngoài về trợ giúp pháp lý”[83] của Thanh Trịnh cho thấy bên cạnh
quan điểm tiếp tục khẳng định TGPL là trách nhiệm của Nhà nước và vai trò nòng
cốt của Nhà nước trong hoạt động TGPL thì các tác giả cũng thấy cần thiết phải có
sự điều chỉnh về vai trò nòng cốt của Nhà nước cho phù hợp. Thay vì trực tiếp thực
hiện các hoạt động TGPL như hiện nay, Nhà nước có thể đóng vai trò cung cấp
nguồn lực, điều phối, quản lý nguồn lực để bảo đảm sự công bằng trong tiếp cận và
chất lượng dịch vụ TGPL cung cấp cho người dân. Đồng thời, các tác giả cũng đề
cập đến định hướng hoàn thiện pháp luật theo hướng tăng cường sự tham gia của
luật sư trong hoạt động TGPL và cơ chế để các Trợ giúp viên TGPL hiện nay có vị
thế, vai trò ngang bằng với các luật sư, qua đó bảo đảm cung cấp các dịch vụ TGPL
có chất lượng đến người dân.
* Trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản
Liên quan đến chủ đề XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, một số nghiên cứu
cũng đã được thực hiện đối với các hoạt động BĐGTS, chứng thực, phổ biến, giáo
dục pháp luật…Đề tài khoa học cấp Bộ “Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài
sản nhằm thúc đẩy thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam” do TS Võ Đình Toàn làm chủ nhiệm [25]. Đề tài đã đánh giá một cách toàn
diện, có hệ thống về pháp luật BĐGTS ở Việt Nam và đưa ra nhu cầu và định
hướng để hoàn thiện pháp luật BĐGTS ở Việt Nam nhằm thúc đẩy thể chế nền kinh



tế thị trường định hướng XHCN. Theo quan điểm của các tác giả thì hoạt động bán
BĐGTS lại bổ trợ rất thường xuyên cho hoạt động thi hành án và xử lý vi phạm
hành chính. Đề tài khẳng định quan điểm trong hoàn thiện pháp luật BĐGTS là vừa
phải bảo đảm sự quản lý có hiệu quả của Nhà nước và vừa đồng thời phải xã hội
hóa mạnh mẽ hoạt động BĐGTS. Mặc dù vậy, do đặt vấn đề chung trong hoàn thiện
pháp luật BĐGTS nên Đề tài chưa đi sâu làm rõ các nội dung xã hội hóa hoạt động
bán đấu giá trên cơ sở quan điểm mang tính nguyên tắc trong hoàn thiện pháp luật
BĐGTS nêu trên.
Trong bài viết “Xây dựng Luật đấu giá tài sản đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp”, tác giả Đỗ Hoàng Yến đã nêu những bất cập, hạn chế của pháp luật hiện
hành về BĐGTS và đưa ra một số định hướng xây dựng Luật đấu giá tài sản [102].
Theo đó, bên cạnh bổ sung các quy định để tạo cơ sở pháp lý và củng cố hoạt động
của các doanh nghiệp BĐGTS thì Luật cũng cần bao gồm các quy định về việc
chuyển đổi mô hình hoạt động của Trung tâm dịch vụ BĐGTS trực thuộc Sở Tư
pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm thực hiện chủ trương xã hội
hóa và góp phần chuyên nghiệp hóa hoạt động nghề nghiệp đấu giá tài sản.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA NƯỚC NGOÀI LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.2.1. Tình hình nghiên cứu của nƣớc ngoài về hoàn thiện pháp luật về
xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp nói chung
Năm 1998, Ngân hàng Thế giới công bố sách về Báo cáo về tình hình phát
triển kinh tế thế giới năm 1997 [111]. Báo cáo nghiên cứu một cách toàn diện về vai
trò của Nhà nước trong thế giới mới theo các khía cạnh thực hiện quyền lực nhà
nước cũng như trách nhiệm cung cấp các dịch vụ cần thiết cho xã hội của nhiều
quốc gia trên thế giới. Một phần lớn của Báo cáo tập trung bàn về Nhà nước, Nhà
nước nên làm gì, làm thế nào và có thể làm thế nào để đạt được kết quả tốt hơn
trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Báo cáo đưa ra các khuyến nghị để
cải cách các nhà nước trên thế giới, tập trung vào các hoạt động của Nhà nước sao

cho tương ứng với khả năng của mình. Nhiều Nhà nước tìm cách làm quá nhiều
việc dù họ chỉ có ít nguồn lực và khả năng. Điều tốt hơn là nên tập trung sức vào
các hoạt động cốt lõi có tầm quan trọng then chốt đối với phát triển, tăng cường các


thiết chế công cộng và điều đó sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Các
thông tin trong báo cáo giúp nghiên cứu sinh xác định những vấn đề lý luận về cung
cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp và nội dung hoàn thiện pháp luật liên quan
chuyển giao các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cho khu vực ngoài nhà nước
thực hiện và chính sách bảo đảm công bằng trong tiếp cận các dịch vụ công này
trong điều kiện xã hội hóa.
Tác giả Clause Henry trong bài viết Dịch vụ công và sự cạnh tranh trong
lĩnh vực dịch vụ công ở Liên minh Châu Âu đăng trên International Advances
Economic Research Journal số tháng 8/1997 đã khẳng định tiếp cận dịch vụ công
được coi là quyền cơ bản của tất cả người dân. Do đó, nhằm đáp ứng yêu cầu của
dân chúng, một số dịch vụ công được cung cấp trên cơ sở ba nguyên tắc cơ bản là
bảo đảm tính liên tục, tính bình đẳng và tính toàn cầu (tính có thể thay đổi ở mỗi quốc
gia). Tất cả các quốc gia trong Liên minh Châu Âu phải tôn trọng những nguyên tắc
này. Tuy nhiên, pháp luật của Liên minh Châu Âu cũng không thể bảo đảm sự hưởng
thụ các dịch vụ như nhau của công dân các quốc gia thành viên. Liên minh khuyến
khích các quốc gia thành viên tiến hành thương lượng để hoàn thiện pháp luật trên cơ
sở hòa hợp các dịch vụ với nhau để nâng cao quyền hưởng thụ dịch vụ của dân
chúng. Các quốc gia có thể kết hợp với nhau để cung cấp dịch vụ không biên giới đến
dân cư ở những khu vực tiếp giáp biên giới.
Các tác giả Martine Lombard - giáo sư trường Đại học Tổng hợp Pantheon
Assas Paris II và Gilles Dumont giáo sư trường Đại học Luật và Kinh tế Limoges
trong cuốn Pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp [61] đã trình bày những kiến
thức cơ bản về dịch vụ công như khái niệm, các nguyên tắc, các yếu tố cấu thành,
mô hình cung cấp dịch vụ. Khái niệm dịch vụ công mà các tác giả đưa ra là sự kết
hợp giữa những yếu tố về mặt tổ chức thể hiện đây là những dịch vụ trực tiếp hoặc

gián tiếp do các cơ quan nhà nước thực hiện và những yếu tố nội dung thể hiện đây
là dịch vụ công bao giờ cũng nhằm phục vụ lợi ích chung”. Hai tác giả cũng nhấn
mạnh pháp luật về dịch vụ công vừa bao gồm các quy định của pháp luật hành
chính, vừa có các quy định của pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, công
nghiệp. Đặc biệt các tác giả khẳng định có sự ảnh hưởng của pháp luật Liên minh


Châu Âu đến pháp luật của các quốc gia thành viên về dịch vụ công nhưng pháp
luật các quốc gia thành viên có những quy định độc lập về dịch vụ công phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh của từng nước. Lý do là tại mỗi quốc gia tính chất, đặc
điểm, phạm vi các dịch vụ công khác nhau, cùng với truyền thống xây dựng và tổ
chức thực hiện pháp luật khác nhau nên pháp luật dịch vụ công của mỗi quốc gia
phản ánh những điểm riêng biệt đó. Các luận điểm này giúp cho nghiên cứu sinh về
phương pháp luận trong việc đề xuất các hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp gắn với điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị đặc thù của Việt Nam.
Trong một nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD),
chuyên đề “Quy định về dịch vụ công của các quốc gia OECD-Các vấn đề cần được
thảo luận” đã đề cập đến khung pháp luật về dịch vụ công của các nước OECD
[107], tập trung vào việc cung cấp các dịch vụ hạ tầng công cộng như nước, kiểm
soát chất thải, giao thông công cộng… Theo đó, khung pháp luật cung cấp dịch vụ
công bao gồm các nhóm quy định gia nhập thị trường, kiểm soát giá cả, quản lý
chất lượng dịch vụ công được cung cấp. Mục đích hoàn thiện khung pháp luật là
bảo đảm việc cung cấp các dịch vụ công một cách hiệu quả, tiết kiệm, an toàn và
đáp ứng đủ điều kiện trên nguyên tắc duy trì nguyên tắc cạnh tranh trong cung cấp
dịch vụ công. Nghiên cứu cũng nêu lên mô hình cơ quan quản lý dịch vụ công phải
bảo đảm được tính chuyên môn và độc lập trong quản lý. Mô hình bao gồm cơ quan
trung ương, cấp tỉnh hoặc các tổ chức phi chính phủ. Cơ quan trung ương sẽ có
trách nhiệm giám sát toàn bộ thị trường, giải quyết các vấn đề về giá cả và liên kết
giữa các doanh nghiệp chi phối. Các cơ quan cấp tỉnh hoặc các tổ chức phi chính phủ
sẽ kiểm soát việc cung cấp dịch vụ công, giải quyết các khiếu nại của khách hàng và hỗ

trợ cho điều phối quan hệ của các cộng đồng tại địa phương. Công trình đã gợi mở cho
nghiên cứu sinh những vấn đề liên quan đến định hướng hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Cũng trong phạm vi của OECD, năm 2011, Báo cáo nghiên cứu về dịch vụ
công với chủ đề “Cùng nhau thực hiện các dịch vụ công tốt hơn - hợp tác đối tác
với xã hội và công dân” đặt lại vấn đề cung cấp dịch vụ công truyền thống trong
môi trường kinh tế - xã hội mới [108]. Nghiên cứu đưa ra giả thuyết thu hút sự tham


×