Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Tiểu luận môn triết học đường lối cách mạng việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.85 KB, 48 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA SAU ĐẠI HỌC
--------

BÀI TẬP NHÓM TRIẾT HỌC
CHỦ ĐỀ : ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Người thực hiện:
Vũ Đăng Mạnh
Nguyễn Văn Đồng
Nguyễn Thị Hoàng Bảo
Anh
Hà Thị Nghị

Hà Nội, 2017

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA SAU ĐẠI HỌC


--------

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn:
TS. Lê Ngọc Thông
Nơi thực hiện: Đại học Kinh Tế Quốc
Dân.



Hà Nội, 2017

LỜI NÓI ĐẦU


Trước hết, chúng em xin được gửi lời cảm ơn tới thầy Lê
Ngọc Thông đã đưa ra chủ đề rất hay và hướng dẫn chúng em
cách làm tiểu luận này.
Triết học nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của
con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới
quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức,
giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt
với những môn khoa học khác bằng cách thức mà nó giải quyết
những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp
cận có hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó vào tính
duy lý trong việc lập luận.
Mặc dù chúng em đã cố gắng nhưng chắc chắn không thể
không còn những khiếm khuyết. Nên chúng em rất mong nhận
được ý kiến phê bình, nhận xét của thầy cô để em hoàn thiện
trong phương pháp luận và có thể báo cáo tốt hơn trong các
chuyên đề sau.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 01 tháng 12 năm 2017
Nhóm Học Viên

Nhóm trưởng: Vũ Đăng Mạnh


MỤC LỤC



ĐẶT VẤN ĐỀ
Trải qua hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới (từ Đại hội VI
đến hết nhiệm kỳ Đại hội X) và 20 năm (1991-2010) thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất
nước ta đã thu được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử
và một lần nữa chứng minh vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam.
Hiện nay, trong giai đoạn cách mạng mới, thế giới đã có nhiều
thay đổi và diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác, phát
triển và hội nhập vẫn là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo,
chiến tranh cục bộ, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt;
các yếu tố đe dọa an ninh, các nước lớn dùng mọi thủ đoạn tinh vi,
thậm chí cả hành động quân sự dưới mọi chiêu bài để can thiệp, lấn
lướt các quốc gia nhỏ, yếu thế và tội phạm công nghệ cao tiếp tục
gia tăng. Những vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh lương
thực, thiên tai, dịch bệnh,... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, không chỉ
còn là vấn đề của mỗi quốc gia mà muốn giải quyết được phải có sự
chung tay, góp sức của tất cả các nước trên thế giới. Song, chế độ
chính trị, lợi ích của mỗi nước lại khác nhau, số nước do Đảng Cộng
sản là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo không còn nhiều, trong
khi sự chia sẻ trên tinh thần đoàn kết, hy sinh giúp đỡ của các nước
có chế độ do Đảng Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo đối với nước ta
cũng đã thay đổi nhiều. Tuy xu hướng hòa bình, hữu nghị vẫn là
chính, nhưng việc tính toán để bảo vệ quyền lợi của mỗi quốc gia
cũng thay đổi. Quốc gia nào cũng có toan tính riêng trong bối cảnh
phức tạp hơn. Toàn cầu hóa, hội nhập và cách mạng khoa học - công
nghệ, nhất là công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, làm cho thời
gian như ngắn lại, không gian như nhỏ đi, thúc đẩy hình thành xã hội

thông tin và kinh tế tri thức. Quá trình cấu trúc lại nền kinh tế thế
giới và nền kinh tế của mỗi quốc gia diễn ra mạnh mẽ theo chiều
sâu, lấy chất lượng tăng trưởng làm mục tiêu. Trong khi đó, cạnh


tranh trên tất cả các lĩnh vực, cả ở thị trường tại mỗi quốc gia và thị
trường thế giới, giữa các nước ngày càng gay gắt. Đấu tranh giai cấp
và dân tộc vẫn diễn biến phức tạp. Khu vực Thái Bình Dương, trong
đó có Đông - Nam Á là khu vực phát triển năng động nhưng vẫn tồn
tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo
càng nóng bỏng. Trong nước, tuy đã có thành tựu và kinh nghiệm của
hơn 25 năm đổi mới, tạo ra thế và lực mới cho đất nước, nhưng
"nước ta vẫn phải đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau,
tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại.
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí còn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ
nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có diễn biến phức tạp.
Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện "diễn biến hòa bình", gây bạo
loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm
thay đổi chế độ chính trị ở nước ta".
Trong bối cảnh, thời cơ và thách thức đan xen như hiện nay, vai
trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng càng cực kỳ quan trọng và luôn là
nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới,
tự chỉnh đốn, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiền
phong để xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, có tầm trí
tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học...



PHẦN 1: KHÁI NIỆM “HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI”
Với tư cách là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, khái niệm hình thái kinh tế - xã hội dùng để chỉ xã hội ở từng giai
đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho
xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất
và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên
những quan hệ sản xuất ấy.
Các yếu tố cấu thành một hình thái kinh tế - xã hội:
-

Lực lượng sản xuất của xã hội ở một trình độ phát triển nhất định,

-

đóng vai trò là cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội đó.
Hệ thống quan hệ sản xuất được hình thành trên cơ sở thực trạng
phát triển của lực lượng sản xuất, đóng vai trò là hình thức kinh tế
của các lực lượng sản xuất đó; những quan hệ sản xuất này hợp
thành một cơ cấu kinh tế của xã hội, đóng vai trò là cơ sở hạ tầng

-

kinh tế của việc xác lập trên đó một kiến trúc thượng tầng nhất định.
Hệ thống kiến trúc thượng tầng được xác lập trên cơ sở hạ tầng kinh
tế, đóng vai trò là các hình thức chính trị, pháp luật, đạo đức, văn
hoá.... của các quan hệ sản xuất của xã hội.
PHẦN 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI



Theo Mac-Lênin: sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội
là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Luận điểm đó được phân tích ở các
nội dung chủ yếu sau:
Một: sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý
chí chủ quan của con người mà tuân theo các quy luật khách quan,
đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế - xã
hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, khoa học,... Trong đó, cơ bản nhất là quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuấtvà
quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Hai: nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của
lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... của
xã hội, suy đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ
sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội đó.
Ba: tạo ra tính đa dạng của lịch sử thế giới. Lịch sử thế giới
được tạo ra bởi lịch sử của các dân tộc, các quốc gia và do các điều
kiện cụ thể các dân tộc có những trạng thái sau đây:
-

Có dân tộc phát triển có dân tộc giữ nguyên trạng thái, có dân

-

tộc suy vong
Nếu cùng phát triển thì tốc độ phát triển khác nhau, trong cùng một

-

dân tộc các lĩnh vực có chiều hướng phát triển không giống nhau
Có dân tộc trải qua đầy đủ lần lượt các hình thái kinh tế xã hội, có

dân tộc bỏ qua một vài hình thái. Việt Nam là một ví dụ điển hình bỏ
qua một vài hình thái kinh tế xã hội (bỏ qua tư bản chủ nghĩa, chiếm
hữu lô lệ).
- Điều kiện bỏ qua một hình thái kinh tế xã hội:
• Hình thái kinh tế xã hội định bỏ qua đã lạc hậu, lỗi thời
• Phương thức sản xuất định đạt tới đã thành hiện thực trên


thế giới
Có sự giúp đỡ từ các nước có phương thức sản xuất tiến



bộ hơn
Giai cấp lãnh đạo đã nắm bắt được xu thế của thời đại.

PHẦN 3: GIÁ TRỊ KHOA HỌC VÀ CÁCH MẠNG CỦA HỌC THUYẾT


HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Vấn đề lựa chọn con đường phát triển của xã hội Việt
Nam
-

Các quan điểm khác nhau về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội

Công cuộc đổi mới ở nước ta đã diễn ra trong từng lĩnh vực của
đời sống xã hội từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX; đến năm 1986

công cuộc này diễn ra một cách toàn diện khi có chủ trương đổi mới
của Đảng tại Đại hội VI. Những thành công có được ngày hôm nay là
kết quả khởi phát từ quan điểm, đường lối chiến lược đúng đắn của
Đảng ta về công cuộc đổi mới đất nước.
Chủ nghĩa xã hội theo mô hình của Liên Xô, còn gọi là mô hình
Xô-viết, ra đời ở nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười, sau đó được
áp dụng trong toàn hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Trong quá
trình tồn tại và phát triển, chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết đã có một
chặng đường lịch sử vẻ vang, cũng như có sự đóng góp lớn lao đối
với sự phát triển của nhân loại. Song, đến những năm 80 của thế kỷ
XX, mô hình này đã xuất hiện những vấn đề về động lực phát triển,
dẫn đến sự khủng hoảng trong toàn bộ hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa.
Để thoát khỏi khủng hoảng, các nước xã hội chủ nghĩa đã áp
dụng một số giải pháp sau:
1- Duy trì mô hình Xô-viết và tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội
chủ nghĩa;
2- Thay đổi căn bản mô hình Xô-viết và từ bỏ mục tiêu xã hội
chủ nghĩa. Đó là giải pháp của Liên Xô và các nước Đông Âu
trước đây;
3- Thay đổi từng bước mô hình Xô-viết và tiếp tục thực hiện
mục tiêu xã hội chủ nghĩa bằng phương thức mới. Đó là giải
pháp của Trung Quốc và Việt Nam; đến nay Cu Ba cũng đang


thực hiện.
Thực tiễn gần 30 năm qua đã chứng minh giải pháp thứ ba tối
ưu hơn giải pháp thứ nhất và thứ hai.
- Quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản
Việt Nam khi bước vào công cuộc đổi mới

Trước hết, thực hiện công cuộc đổi mới có nghĩa là thay đổi
phương thức, chiến lược đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng không xa rời
mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà thực hiện mục tiêu ấy bằng phương
thức, chiến lược mới. Đây là quan điểm cơ bản nhất, là nền tảng cho
các quan điểm khác. Thực tế cho thấy, ở Liên Xô và các nước Đông
Âu trước đây, thực hiện cải tổ mà từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì
sẽ dẫn đến mất phương hướng và hỗn loạn.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì tất yếu
phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận
đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, vì đây là nhân tố tiên quyết để
thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình thực hiện cải tổ,
ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đã quyết định xóa bỏ Điều 6,
Hiến pháp Liên Xô về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực chất,
đó không chỉ là sự tước quyền lãnh đạo của Đảng về mặt pháp lý,
thừa nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, tạo điều kiện cho các
lực lượng chính trị khác vươn lên đoạt quyền, mà còn là sự từ bỏ mục
tiêu xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa và giữ
vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì tất yếu phải lấy chủ
nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, bởi chủ nghĩa Mác - Lê-nin
không chỉ là nền tảng tư tưởng của Đảng, mà còn là cơ sở để xây
dựng hệ tư tưởng của toàn xã hội và nhờ đó mới có thể thực hiện
được mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, nếu từ bỏ mục tiêu xã hội
chủ nghĩa thì tất yếu dẫn đến phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin và
tiếp nhận hệ tư tưởng tư sản, như Goóc-ba-chốp đã thực hiện trong
công cuộc cải tổ
ở Liên Xô trước đây.


Thứ tư, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với

Nhà nước và xã hội nói chung, nhất là đối với lực lượng vũ trang
(quân đội và công an). Đảng phải lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối và
trực tiếp lực lượng vũ trang. Bởi vì, nếu lực lượng vũ trang bị trung
lập hóa, chỉ có trách nhiệm bảo vệ độc lập chủ quyền và an ninh
quốc gia, không phụ thuộc vào đảng phái nào, thì thực chất là tước
quyền lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang. Cách thức này
đã được áp
dụng ở Liên Xô thời kỳ cải tổ.
Thứ năm, hội nhập quốc tế, nhưng độc lập về chính trị, giữ
vững chủ quyền quốc gia, tiếp tục thực hiện con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn gần 30 năm qua đã chứng minh đó là
quan điểm đúng đắn. Chúng ta đã làm bạn với nhiều nước trên thế
giới và thiết lập quan hệ ngày càng tốt đẹp, nhân dân ta giao lưu với
nhân dân các nước, lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta được các nước
trân trọng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước được cộng đồng
quốc tế đồng tình ủng hộ. Thực tiễn cũng cho thấy, việc thực hiện
công cuộc cải tổ của Liên Xô trước đây có sự chi phối và sao chép tư
tưởng chính trị từ bên ngoài, vì vậy đã gây nên sự sụp đổ chế độ
chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ sáu, công cuộc đổi mới cần có những bước đi thích hợp để
bảo đảm vừa đổi mới, vừa ổn định. Đổi mới phải bắt đầu từ lĩnh vực
kinh tế, sau đó đến đổi mới về chính trị. Ngay trong đổi mới kinh tế
cũng đi từ đổi mới lĩnh vực nông nghiệp rồi đến các lĩnh vực khác.
Trong đổi mới chính trị, việc xác định xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa đã tác động đến đổi mới toàn bộ hệ thống chính trị.
Nhờ vậy, gần 30 năm qua đất nước ta vừa ổn định, vừa phát triển.
Công cuộc cải tổ của Liên Xô trước đây đã thực hiện một cách cấp
thời, thiếu trình tự, cụ thể là: ban đầu đổi mới doanh nghiệp, rồi đến
100 ngày thực hiện tư nhân hóa, áp dụng nền dân chủ tư sản vào xã
hội Xô-viết,... Kết cục, dẫn đến hỗn loạn và sụp đổ chế độ chính trị xã hội xã hội chủ nghĩa.



Có thể khẳng định, sự đúng đắn của quan điểm, đường lối chiến
lược của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định sự thành công của
công cuộc đổi mới
nước ta gần 30 năm qua.
- Quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt
Nam hiện nay
Những quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt
Nam hiện nay và những năm tới vẫn phải dựa trên những quan điểm,
đường lối chiến lược ban đầu của thời kỳ đổi mới, song cần được phát
triển và hoàn thiện để đáp ứng những yêu cầu đặt ra từ thực tiễn.
Hơn nữa, những quan điểm, đường lối chiến lược đó phải luôn được
kiểm chứng qua thực tiễn gần 30 năm qua và
những năm tiếp theo.
Ngoài những thế lực thù địch tìm mọi cách phủ nhận, ngay
trong nội bộ ta cũng có một số người muốn xét lại những quan điểm,
đường lối chiến lược nói trên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những
người này cho rằng, nên từ bỏ mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa,
vì chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ở Liên Xô cũng như ở một loạt nước
Đông Âu, và cần trở lại thời kỳ dân chủ nhân dân, vì mục tiêu cơ bản
của chúng ta là đất nước giàu mạnh; nên từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin
vì đây là hệ là tư tưởng đã lỗi thời và ngay ở những nước sản sinh ra
hệ tư tưởng này người ta cũng đã từ bỏ nó; nên bỏ Điều 4, Hiến pháp
nước ta và thừa nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, bởi chỉ có
như vậy, xã hội ta mới thật sự dân chủ, mới chống được tham nhũng;
lực lượng vũ trang cần được trung lập hóa, chỉ có trách nhiệm bảo vệ
độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia, bởi có như vậy mới thể hiện
sự tiến bộ của xã hội dân chủ; cần đẩy nhanh cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước (thực chất là tư nhân hóa);…

Để góp phần khắc phục những quan điểm nêu trên, đồng thời
lý giải sự đúng đắn của quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng ta
hiện nay, cần làm rõ một số nội dung sau:
Một là, chúng ta xác định xây dựng và phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa (trước đây xác định trực tiếp bước vào
thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội) là


mục tiêu nhất quán, điều mà Đảng ta đã xác định từ khi bước vào
công cuộc đổi mới, cũng như cho hiện tại và mai sau. Nhưng, cần
làm rõ mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nước ta hướng tới. Dĩ
nhiên, chúng ta không hướng tới mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xôviết đã từng tồn tại, phát triển trong thế kỷ XX. Thực hiện công cuộc
đổi mới chính là chúng ta đang tìm mô hình phát triển của chủ nghĩa
xã hội trong hiện tại và tương lai. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã
ghi: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân
làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiên tiến phù hợp; có văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới".
Hai là, tiếp tục giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
không thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trong thế kỷ
XX, Việt Nam ở vị trí trung tâm của cơn lốc cách mạng giải phóng
dân tộc. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc lần đầu tiên thắng lợi ở một nước thuộc địa,
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trước Cách mạng Tháng Tám

năm 1945, ở Việt Nam, tất cả các lực lượng, xu hướng chính trị khác
đều tan rã, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam đứng vững và lãnh đạo
cách mạng đến thắng lợi. Do vậy, Đảng ta nắm quyền lãnh đạo cách
mạng là tất yếu lịch sử và trở thành đội tiên phong cách mạng, thực
chất là giới tinh hoa của dân tộc - một trong những nhân tố quyết
định vận mệnh của đất nước trong thế kỷ XX. Sang thế kỷ XXI, Đảng
ta vẫn là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, tiếp tục lãnh
đạo sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội


chủ nghĩa. Kinh nghiệm lịch sử trong một vài thập niên gần đây cho
thấy, một chế độ chính trị - xã hội đang thực hiện nhất nguyên chính
trị, do một đảng lãnh đạo mà chuyển sang thực hiện đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập thì rất có thể dẫn đến thảm họa “cốt nhục
tương tàn”. Song, để không dẫn đến đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập, điều cơ bản là Đảng ta phải thực sự là đội tiên phong cách
mạng, đủ sức lãnh đạo đưa Việt Nam trở thành một nước hùng cường
trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, trước hết
phải đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên hiện nay.
Ba là, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng trong Đảng, đồng thời là cơ sở để xây dựng hệ tư
tưởng của toàn xã hội. Xã hội hiện đại càng tiến hóa, càng phát triển
thì một số kết luận cụ thể nào đó của chủ nghĩa Mác - Lê-nin có thể
không còn hoàn toàn phù hợp trong mọi lúc, mọi nơi, mọi trường
hợp, song những giá trị cơ bản, căn cốt của học thuyết này ngày
càng được chứng minh rõ hơn, những dự báo của của các nhà kinh
điển ngày càng tiến gần đến chân lý hơn, sát thực hơn. Sự phát triển

của nhân loại nói chung và của dân tộc ta nói riêng trong thế kỷ XXI
không thể thiếu vắng tư tưởng của C. Mác. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới,
sẽ trường tồn cùng dân tộc. Ngay cả những giá trị khoa học và nhân
văn của các nhà tư tưởng trong lịch sử, tuy thời đại đã qua, nhưng
những nhân tố cốt lõi của chúng vẫn đóng vai trò quan trọng trong
sự phát triển tiếp theo của nhân loại. Hơn nữa, C. Mác, Ph. Ăngghen
và V.I. Lê-nin là những người giữ vai trò rất quan trọng trong việc
sáng lập ra Đảng Cộng sản nói chung và Quốc tế Cộng sản. Một
chính đảng cách mạng chân chính sẽ luôn trung thành với những
người sáng lập ra mình.
Bốn là, lực lượng vũ trang phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp,
toàn diện, tuyệt đối của Đảng Cộng sản. Quân đội nhân dân Việt
Nam và Công an nhân dân Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và


Đảng ta xây dựng và rèn luyện, là kết quả của quá trình đấu tranh
cách mạng: đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị và tiến tới đấu
tranh vũ trang giành chính quyền. Đấu tranh vũ trang là sự tiếp tục
của đấu tranh chính trị dưới hình thức mới. Sự ra đời của lực lượng vũ
trang là từ chính trị, chứ không phải từ phi chính trị. Đến nay, Đảng
ta đã trở thành Đảng cầm quyền, song các lực lượng thù địch và
những người ngộ nhận vẫn cho rằng, lực lượng vũ trang cần được
trung lập hóa, không thuộc sự lãnh đạo của Đảng. Điều này là phi lôgích, phi lịch sử và phi khoa học. Lý luận phổ thông của khoa học
chính trị cũng đã chỉ rõ: một giai cấp, một lực lượng xã hội hay một
cá nhân, để có thể giành, giữ và thực thi quyền lực, phải có sức
mạnh về bạo lực, vật chất hoặc trí tuệ, nói cách khác cần có "súng",
có "tiền" hoặc có tri thức, văn hóa. Tuy trí tuệ hay tri thức, văn hóa
ngày càng có vai trò quan trọng, nhưng bạo lực và vật chất, tài chính
vẫn là sức mạnh không thể thiếu trong điều kiện hiện nay. Trung lập

hóa lực lượng vũ trang là thủ đoạn được áp dụng để tước quyền lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô trước đây; ngày nay, một số người
lại muốn áp dụng thủ đoạn đó với Đảng ta.
Năm là, về quan hệ quốc tế, Văn kiện Đại hội XI đã khẳng định:
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì
lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu
mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(2). Như vậy, quan điểm
nói trên là tiếp tục và phát triển quan điểm của Đảng ta về quan hệ
quốc tế khi bước vào thời kỳ đổi mới, trong đó, làm rõ hơn hai nội
dung: đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Chúng ta tuyệt nhiên không đứng về


phía nước này để chống lại nước kia, càng không thể nhờ cậy nước
lớn này để chống lại nước khác.
Sáu là, bước vào công cuộc đổi mới cũng như hiện nay phải bảo
đảm cho đất nước vừa ổn định, vừa phát triển, do vậy, phải có bước
đi đúng cả trong lĩnh vực kinh tế và chính trị. Về kinh tế, chúng ta
đang tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, trong đó
có một nhiệm vụ quan trọng là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước,
song không phải thực hiện một cách tức thời, mà phải tiến hành từng
bước. Những bài học phải trả giá quá đắt về sự vội vàng mở quá
nhiều khu công nghiệp, đầu tư tràn lan, nhanh chóng xây dựng các
tập đoàn kinh tế,… đã làm tổn thất biết bao nguồn lực của đất nước.
Việc tái cấu trúc nền kinh tế không thể nóng vội, mà cần có tầm nhìn

chiến lược sâu sắc. Về chính trị, cơ bản là phát huy dân chủ, trước
hết là trong Đảng, trên cơ sở đó mở rộng ra toàn xã hội, song phải
thực hiện từng bước, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, bởi nếu tiến
hành vội vàng có thể dẫn đến hỗn loạn, không kiểm soát được.
Có thể khẳng định, những vấn đề nói trên là cốt lõi của những
quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng ta, đồng thời cũng là
những phương châm có tính nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ quá trình đổi
mới, nhưng mỗi giai đoạn lại được phát triển, hoàn thiện kịp thời để
giải quyết những nhiệm vụ mới.
- Tính tất yếu của quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Thời kỳ quá độ là thời kì lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi
lên CNXH cũng đều phải trải qua ngay cả đối với những nước có nền
kinh tế phát triển. Con đường phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam mà chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
đã lựa chọn là con đường phát triển rút ngắn theo phương thức quá
độ gián tiếp. Đó là con đường phát triển tất yếu khách quan, hợp quy
luật theo tiến trình phát triển lịch sử tự nhiên của Cách mạng Việt
Nam vì:


Thứ nhất là do bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ: thế giới bước vào
thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNXH. CNTB lúc đó là
xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay
bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là
giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa. CNTB không phải là tương lai của
loài người, nó không vượt qua những mâu thuẫn mà mâu thuẫn cơ
bản nhất là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất;
mâu thuẫn này càng ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc hơn;
CNXH mà con người đang vươn tới là hình thái kinh tế xã hội cao hơn
CNTB đó là xã hội vì sự nghiệp giải phóng con người, sự phát triển tự

do và toàn diện của loài người. Chúng ta quá độ thẳng lên CNXH
nghĩa là đi theo dòng chảy của thời đại nghĩa là đi theo quy luật tự
nhiên của lịch sử.
Thứ hai là do sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc của Đảng.
Ngay khi ra đời Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân
tộc là quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ. Từ sau khi Cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo đã thành công thì
chúng ta đã cởi bỏ được hai vòng xích, đã thoát khỏi cảnh một cổ hai
tròng, Đảng và Nhà nước thêm vững mạnh, nhân dân đã thêm niềm
tin vào Đảng, quyết tâm đi theo Đảng. Thành quả của cuộc Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân cần được giữ vững, cuộc sống vật
chất cũng như tinh thần của nhân dân phải được cải thiện, nâng cao
nhiều so với những năm chiến đấu hy sinh. Có hàng loạt vấn đề kinh
tế, xã hội và chính trị cần được giải quyết cấp bách sau khi Cách
mạng dân tộc dân chủ thành công. Nhưng điều đó không ngăn cản
việc tiến lên CNXH; hơn nữa, việc giải quyết nó chỉ có thể bằng con
đường xây dựng CNXH. Việc đưa miền Bắc tiến lên CNXH có ý nghĩa
rất lớn lao trong những năm đấu tranh giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước. Chính điều đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh
trong hội nghị cán bộ văn hoá ngày 30/10/1958 “ Miền Bắc tiến lên
CNXH để làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh thống nhất nước


nhà. Muốn đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định
phải xây dựng miền Bắc tiến lên CNXH”. Trong thời đại ngày nay chỉ
có độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mới đem lại nhiều lợi ích và
hạnh phúc thực sự cho toàn thể nhân dân lao động.
Vì những lẽ đó, Đảng tất yếu lãnh đạo toàn thể nhân dân lao
động tiến thẳng lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển TBCN.
- Mục tiêu tổng quát và những định hướng lớn của sự

nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (theo Cương
lĩnh bổ sung và phát triển năm 2011 và chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020)
a. Mục tiêu tổng quát
Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương,
đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng
lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được
giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng
lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.
b. Mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và
môi trường
* Về kinh tế
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước
(GDP) bình quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng
khoảng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người theo giá
thực tế đạt khoảng 3.000 USD.
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỉ trọng các ngành
công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản
phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt
khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo
chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông


nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững,
nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động; tỉ lệ lao động nông nghiệp
khoảng 30 - 35% lao động xã hội.
Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt

khoảng 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 - 3%/năm.
Thực hành tiết kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực.
Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện
đại. Tỉ lệ đô thị hoá đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn
mới khoảng 50%.
* Về văn hóa, xã hội
Xây dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, công bằng, văn
minh. Đến năm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm
trung bình cao của thế giới; tốc độ tăng dân số ổn định ở mức
khoảng 1%; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi; đạt 9 bác sĩ và 26 giường
bệnh trên một vạn dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; lao động
qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng lao động xã
hội; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,5- 2%/năm; phúc lợi xã hội, an
sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cộng đồng được bảo đảm. Thu
nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu
hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư. Xoá nhà ở
đơn sơ, tỉ lệ nhà ở kiên cố đạt 70%, bình quân 25 m2 sàn xây dựng
nhà ở tính trên một người dân.
Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đến năm
2020, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục, y tế đạt
trình độ tiên tiến, hiện đại. Số sinh viên đạt 450 trên một vạn dân.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia
đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí
tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ
pháp luật.
* Về môi trường


Cải thiện chất lượng môi trường. Đến năm 2020, tỉ lệ che phủ

rừng đạt 45%. Hầu hết dân cư thành thị và nông thôn được sử dụng
nước sạch và hợp vệ sinh. Các cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành
lập phải áp dụng công nghệ sạch hoặc trang bị các thiết bị giảm ô
nhiễm, xử lý chất thải; trên 80% các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện
có đạt tiêu chuẩn về môi trường. Các đô thị loại 4 trở lên và tất cả
các cụm, khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải
tập trung. 95% chất thải rắn thông thường, 85% chất thải nguy hại
và 100% chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn. Cải thiện và phục
hồi môi trường các khu vực bị ô nhiễm nặng. Hạn chế tác hại của
thiên tai; chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, nhất là
nước biển dâng.
c. Định hướng phát triển kinh tế- xã hội, đổi mới mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế
Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu
phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và
chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng,
hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm
là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc
đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng
nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản
phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; phát triển kinh tế tri
thức. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế
xanh.
(1) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là
tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển

đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.


Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm
cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế. Đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch và điều
hành phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, đồng thời thực hiện
tốt chính sách xã hội. Thực hiện hệ thống cơ chế và chính sách phù
hợp, đặc biệt là cơ chế, chính sách tài chính, tiền tệ nhằm nâng cao
chất lượng tăng trưởng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh
của nền kinh tế.
Chính sách tài chính quốc gia phải động viên hợp lý, phân phối
và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế-xã hội;
phân phối lợi ích công bằng. Tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ
thống thuế, cơ chế quản lý giá, pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát
độc quyền trong kinh doanh, bảo vệ người tiêu dùng, các chính sách
về thu nhập, tiền lương, tiền công. Thực hiện cân đối ngân sách tích
cực, bảo đảm tỉ lệ tích luỹ hợp lý cho đầu tư phát triển; phấn đấu
giảm dần bội chi ngân sách.
Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh
nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty.
Quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài; giữ mức nợ chính
phủ, nợ quốc gia và nợ công trong giới hạn an toàn. Tăng cường vai
trò giám sát ngân sách của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp.
Chính sách tiền tệ phải chủ động và linh hoạt thúc đẩy tăng
trưởng bền vững, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. Hình
thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng. Mở rộng
các hình thức thanh toán qua ngân hàng và thanh toán không dùng
tiền mặt. Điều hành chính sách lãi suất, tỉ giá linh hoạt theo nguyên
tắc thị trường. Đổi mới chính sách quản lý ngoại hối và vàng; từng

bước mở rộng phạm vi các giao dịch vốn; tăng cường kiểm tra, kiểm
soát tiến tới xoá bỏ tình trạng sử dụng ngoại tệ làm phương tiện
thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam . Tăng cường vai trò của Ngân
hàng Nhà nước trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ.


Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá. Kiện
toàn công tác thanh tra, giám sát hoạt động tài chính, tiền tệ.
Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, chính sách về đất đai bảo đảm
hài hoà các lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất, của người
giao lại quyền sử dụng đất và của nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi
để sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai cho sự phát triển; khắc
phục tình trạng lãng phí và tham nhũng đất đai.
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh và bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và
các tổng công ty. Sớm hoàn thiện thể chế quản lý hoạt động của các
tập đoàn, các tổng công ty nhà nước. Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước; xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh, đa sở
hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối. Phân định rõ
quyền sở hữu của Nhà nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp,
hoàn thiện cơ chế quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp. Tạo
điều kiện thuận lợi để kinh tế tập thể phát triển đa dạng, mở rộng
quy mô; có cơ chế, chính sách hợp lý trợ giúp các tổ chức kinh tế hợp
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, mở rộng thị trường, ứng dụng công
nghệ mới, tiếp cận vốn. Khuyến khích phát triển các loại hình doanh
nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn
hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần. Hoàn thiện cơ chế, chính
sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân theo quy hoạch và quy định
của pháp luật, thúc đẩy hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân,

khuyến khích tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Thu hút đầu tư nước ngoài có công nghệ hiện đại, thân thiện môi
trường và tăng cường sự liên kết với các doanh nghiệp trong nước.
Thực hiện Chương trình quốc gia về phát triển doanh nghiệp gắn với
quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp. Hỗ trợ phát triển mạnh các doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Tạo điều kiện để hình thành các doanh nghiệp
lớn, có sức cạnh tranh trên thị trường. Phát triển doanh nhân về số
lượng và năng lực quản lý, đề cao đạo đức và trách nhiệm xã hội.


Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật để tăng cường sự gắn bó giữa người
sử dụng lao động và người lao động.
Tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường.
Phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ theo hướng tự do hoá thương
mại và đầu tư. Phát triển thị trường tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh,
quy mô tăng nhanh, phạm vi hoạt động mở rộng, vận hành an toàn,
được quản lý và giám sát hiệu quả. Phát triển và kiểm soát có hiệu
quả thị trường chứng khoán. Phát triển lành mạnh, bền vững thị
trường bất động sản, ngăn chặn tình trạng đầu cơ; hoàn thiện cơ chế
vận hành sàn giao dịch bất động sản. Phát triển thị trường lao động,
khuyến khích các hình thức giao dịch việc làm. Phát triển nhanh thị
trường khoa học và công nghệ; khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động
khoa học và công nghệ theo cơ chế thị trường.
(2) Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện
đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh
Cơ cấu lại sản xuất công nghiệp cả về ngành kinh tế - kỹ thuật,
vùng và giá trị mới. Tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỉ trọng
giá trị nội địa trong sản phẩm. Phát triển có chọn lọc công nghiệp
chế biến, chế tác, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp năng
lượng, khai khoáng, luyện kim, hoá chất, công nghiệp quốc phòng.

Ưu tiên phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm có
khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu thuộc
các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, công
nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông, công nghiệp dược...
Phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ. Chú trọng phát triển công
nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, năng lượng sạch, năng
lượng tái tạo và vật liệu mới đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm
năng lượng, nguyên liệu. Từng bước phát triển công nghiệp sinh học
và công nghiệp môi trường. Tiếp tục phát triển phù hợp các ngành
công nghiệp sử dụng nhiều lao động.
Phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp và đẩy mạnh phát
triển công nghiệp theo hình thức cụm, nhóm sản phẩm tạo thành các


tổ hợp công nghiệp quy mô lớn và hiệu quả cao; hoàn thành việc xây
dựng các khu công nghệ cao và triển khai xây dựng một số khu
nghiên cứu cải tiến kỹ thuật và đổi mới công nghệ. Thực hiện phân
bố công nghiệp hợp lý trên toàn lãnh thổ, bảo đảm phát triển cân đối
và hiệu quả giữa các vùng.
Phát triển ngành xây dựng đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Nhanh chóng tiếp cận và làm chủ các công nghệ hiện đại, nâng cao
năng lực công nghiệp xây lắp đáp ứng yêu cầu xây dựng trong nước
và có khả năng cạnh tranh trong đấu thầu quốc tế. Phát triển mạnh
công nghiệp vật liệu xây dựng, nhất là vật liệu chất lượng cao, áp
dụng công nghệ mới.
(3) Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu
quả, bền vững
Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới để phát triển
sản xuất hàng hóa lớn với năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả
năng cạnh tranh cao. Tăng nhanh sản lượng và kim ngạch xuất khẩu

nông sản, nâng cao thu nhập và đời sống nông dân, bảo đảm vững
chắc an ninh lương thực quốc gia. Xây dựng mô hình sản xuất kinh
doanh phù hợp với từng loại cây, con. Khuyến khích tập trung ruộng
đất; phát triển trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp phù hợp về quy
mô và điều kiện của từng vùng. Gắn kết chặt chẽ, hài hoà lợi ích giữa
người sản xuất, người chế biến và người tiêu thụ, giữa việc áp dụng
kỹ thuật và công nghệ với tổ chức sản xuất, giữa phát triển nông
nghiệp với xây dựng nông thôn mới. Đổi mới cơ bản phương thức tổ
chức kinh doanh nông sản, trước hết là kinh doanh lúa gạo; bảo đảm
phân phối lợi ích hợp lý trong từng công đoạn từ sản xuất đến tiêu
dùng. Phát triển hệ thống kho chứa nông sản, góp phần điều tiết
cung cầu. Tiếp tục đổi mới, xây dựng mô hình tổ chức để phát triển
kinh tế hợp tác phù hợp với cơ chế thị trường. Kiểm soát chặt chẽ
việc chuyển đất nông nghiệp, nhất là đất trồng lúa sang sử dụng vào
mục đích khác đi đôi với việc bảo đảm lợi ích của người trồng lúa và
địa phương trồng lúa. Trên cơ sở quy hoạch vùng, bố trí cơ cấu cây


trồng, vật nuôi, mùa vụ và giống phù hợp với nhu cầu thị trường và
giảm thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh. Phát triển các hình thức bảo
hiểm phù hợp trong nông nghiệp. Đẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ hiện đại trong sản xuất, chế biến, bảo quản; ưu
tiên ứng dụng công nghệ sinh học để tạo nhiều giống cây trồng, vật
nuôi và quy trình sản xuất đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả
cao, tăng nhanh giá trị gia tăng trên một đơn vị đất canh tác. Hỗ trợ
phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao. Đẩy mạnh chăn nuôi
theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp, bảo đảm chất
lượng và an toàn dịch bệnh.
Phát triển lâm nghiệp bền vững. Quy hoạch và có chính sách
phát triển phù hợp các loại rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng

đặc dụng với chất lượng được nâng cao. Nhà nước đầu tư và có chính
sách đồng bộ để quản lý và phát triển rừng phòng hộ và rừng đặc
dụng, đồng thời bảo đảm cho người nhận khoán chăm sóc, bảo vệ
rừng có cuộc sống ổn định. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc
mọi thành phần kinh tế đầu tư trồng rừng sản xuất; gắn trồng rừng
nguyên liệu với công nghiệp chế biến ngay từ trong quy hoạch và dự
án đầu tư; lấy nguồn thu từ rừng để phát triển rừng và làm giàu từ
rừng.
(4) Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có
giá trị cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh
Phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các
khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng GDP là một hướng quan
trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm
lượng tri thức và công nghệ cao như du lịch, hàng hải, hàng không,
viễn thông, công nghệ thông tin, y tế. Hình thành một số trung tâm
dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Mở rộng thị trường nội
địa, phát triển mạnh thương mại trong nước; đa dạng hoá thị trường
ngoài nước, khai thác có hiệu quả các thị trường có hiệp định mậu
dịch tự do và thị trường tiềm năng, tăng nhanh xuất khẩu, giảm nhập


×