Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam (LA tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 172 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

_________________

HÀ NGỌC ANH

PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ Ở
VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
_________________

HÀ NGỌC ANH

PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Luật Kinh tế - Mã số: 62.38.01.07

Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. PHẠM TRÍ HÙNG
2. TS. NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận án là trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong luận án chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AEC

Cộng đồng kinh tế ASEAN

CQCT

Cơ quan cạnh tranh

EU

Liên minh châu Âu

HCCT

Hạn chế cạnh tranh

HĐCT

Hội đồng cạnh tranh


KTTT

Kinh tế thị trường

LCT

Luật Cạnh tranh

OECD

Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế

PLCT

Pháp luật cạnh tranh

QLCT

Quản lý cạnh tranh

TTKT

Tập trung kinh tế

UNCTAD

Diễn đàn Thương mại và phát triển Liên Hiệp Quốc


MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

1.

Tính cấp thiết của đề tài

1

2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

7

2.1.

Mục đích nghiên cứu

7

2.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

7

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


8

3.1.

Đối tượng nghiên cứu

8

3.2.

Phạm vi nghiên cứu

8

4.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

9

5.

Những điểm mới của luận án

9

3.

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA


LUẬN ÁN

11

1.1.

Tổng quan tình hình nghiên cứu

11

1.1.1.

Tình hình nghiên cứu ở trong nước

12

1.1.2.

Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

20

1.1.3.

Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu

28

Cơ sở lý thuyết, phương pháp nghiên cứu và phương pháp

tiếp cận

36

1.2.1.

Cơ sở lý thuyết

36

1.2.2.

Phương pháp nghiên cứu

40

1.2.3.

Phương pháp tiếp cận

41

1.3

Kết cấu của luận án

42

1.2.


Kết luận Chương 1

43

CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ VÀ PHÁP

LUẬT KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ

44

Khái quát về tập trung kinh tế

44

2.1.1.

Khái niệm, đặc điểm của tập trung kinh tế

44

2.1.2.

Phân loại tập trung kinh tế

57

2.1.


Cơ sở lý luận của pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế


60

Bản chất kinh tế - pháp lý của hoạt động tập trung kinh tế của
doanh nghiệp

60

2.2.2.

Vai trò bảo vệ cạnh tranh, kiểm soát tập trung kinh tế của Nhà nước

64

2.2.3.

Chính sách cạnh tranh và mục tiêu của kiểm soát tập trung kinh tế

68

2.2.4.

Tác động của tập trung kinh tế đến cạnh tranh

72

Tổng quan về pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế

78


2.3.1.

Khái niệm, đặc điểm của pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế

78

2.3.2.

Nội dung pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế

81

2.2.
2.2.1.

2.3.

Kết luận Chương 2

87

CHƯƠNG 3 QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC TẬP TRUNG

KINH TẾ, PHẠM VI VÀ NGƯỠNG KIỂM SOÁT TẬP
TRUNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM

88

Hình thức tập trung kinh tế


88

Quy định về hình thức tập trung kinh tế trong Luật Cạnh tranh
năm 2004

88

Những bất cập của quy định về hình thức tập trung kinh tế trong
Luật Cạnh tranh năm 2004

90

Phạm vi kiểm soát tập trung kinh tế

91

3.2.1.

Quy định pháp luật về phạm vi kiểm soát tập trung kinh tế

91

3.2.2.

Những bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về phạm vi kiểm soát tập trung kinh tế

92

Ngưỡng kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam


96

3.3.1.

Tiêu chí xác định hành vi tập trung kinh tế không phải thông báo

96

3.3.2.

Ngưỡng thông báo tập trung kinh tế

97

3.3.3.

Kinh nghiệm của một số quốc gia tiêu biểu trong việc xác định
“ngưỡng thông báo” tập trung kinh tế

103

Đề xuất hoàn thiện pháp luật về hình thức, phạm vi và
ngưỡng kiểm soát tập trung kinh tế

108

Về hình thức tập trung kinh tế

108


3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.2.

3.3.

3.4.
3.4.1.


3.4.2.

Về phạm vi kiểm soát tập trung kinh tế

111

3.4.3.

Về ngưỡng kiểm soát tập trung kinh tế

114

Kết luận Chương 3

121

CHƯƠNG 4 CƠ QUAN THỰC HIỆN KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH


TẾ VÀ THỦ TỤC KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ

122

Cơ quan thực hiện kiểm soát tập trung kinh tế

122

Quy định pháp luật về cơ quan thực hiện kiểm soát tập trung
kinh tế

122

Những bất cập về cơ quan thực hiện kiểm soát tập trung kinh tế

123

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế

128

4.2.1.

Quy định pháp luật về thủ tục thông báo tập trung kinh tế

128

4.2.2.

Xử lý hồ sơ thông báo tập trung kinh tế


129

Đánh giá tác động về kinh tế trong thẩm định Hồ sơ thông
báo tập trung kinh tế

131

4.3.1.

Mục tiêu đánh giá tác động về kinh tế

131

4.3.2.

Kinh nghiệm của một số quốc gia về tiêu chí đánh giá tác động
của vụ tập trung kinh tế

132

Các bước đánh giá tác động về kinh tế

137

Đề xuất hoàn thiện pháp luật về cơ chế thực hiện kiểm soát
tập trung kinh tế

146


4.4.1.

Đối với cơ quan kiểm soát tập trung kinh tế

146

4.4.2.

Đối với thủ tục thông báo tập trung kinh tế

149

4.4.3.

Đối với thẩm định tác động trong hồ sơ tập trung kinh tế

151

4.1.
4.1.1.
4.1.2.
4.2.

4.3.

4.3.3.
4.4.

Kết luận Chương 4


155

KẾT LUẬN

156


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với tư cách là một trong những bộ phận nền tảng cấu thành thể chế pháp lý của
nền kinh tế thị trường (KTTT) hiện đại, pháp luật cạnh tranh (PLCT) đã khẳng định
được vị trí và vai trò trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Yêu cầu hoàn thiện PLCT
đã giành được sự chú ý đặc biệt của Đảng và Nhà nước, sự hậu thuẫn mạnh mẽ trong
cộng đồng các doanh nghiệp, sự ủng hộ và đồng thuận của các tầng lớp nhân dân. Kể
từ sau khi Luật Cạnh tranh (LCT) năm 2004 được ban hành, hệ thống PLCT đã hình
thành từng bước, đồng bộ và phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể
khẳng định rằng, việc ban hành LCT 2004 đã nhanh chóng và kịp thời thể chế hoá,
hiện thực và cụ thể hoá chủ trương xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp
pháp, văn minh, phục vụ cho việc phát triển đất nước, kiểm soát độc quyền trong kinh
doanh, chống lại các biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, sau hơn 12
năm, PLCT vẫn chưa thực sự thể hiện được hết vai trò và nhiệm vụ to lớn của chúng
- là công cụ pháp lý quan trọng của Nhà nước để điều tiết kinh tế vĩ mô trong nền
KTTT. Từ khi thành lập Cục Quản lý cạnh tranh (QLCT) và Hội đồng cạnh tranh
(HĐCT) cho đến nay, số lượng vụ việc tập trung kinh tế (TTKT) được điều tra, xử lý
vi phạm các vụ việc không nhiều, chủ yếu dừng lại ở việc tham vấn, xem xét hồ sơ
thông báo TTKT và cho tiến hành TTKT1. Điều này mâu thuẫn với thực tiễn TTKT
đang diễn ra rất phổ biến, phạm vi ngày càng rộng và có chiều hướng diễn biến rất
phức tạp; các doanh nghiệp trong và ngoài nước coi đây là cách thức đầu tư hiệu quả

nhất trong việc tiết kiệm nguồn lực, thâm nhập thị trường, giảm thiểu các rào cản gia
nhập thị trường cũng như nhằm gia tăng nguồn lực và sức mạnh thị trường của các
doanh nghiệp.
Trong bối cảnh đó, sự cần thiết và cấp bách nghiên cứu về pháp luật kiểm soát
TTKT ở Việt Nam dựa trên các cơ sở lý luận và thực tiễn sau:
Thứ nhất, Việt Nam đang trong quá trình xây dựng nền KTTT theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh
tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường, các chủ thể thuộc các thành phần kinh
tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật2. Trong bối cảnh này, việc xây
dựng chính sách cạnh tranh với mục tiêu là bảo vệ cạnh tranh, bảo đảm môi trường

1
2

Xem các Báo cáo hoạt động thường niên của Cục QLCT, Bộ Công thương, đặc biệt từ năm 2010 đến nay.
Điều 51, 52 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2013.


2

cạnh tranh công bằng, lành mạnh mà trong đó có pháp luật kiểm soát TTKT là một
yêu cầu cấp bách.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh
bạch của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế là một trong những nội dung
quan trọng đã được đề cập đến trong Đại hội lần thứ XI và các Nghị quyết của Đảng3,
nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc hoàn thiện
PLCT với vai trò được coi là trụ cột của pháp luật kinh tế công, là “Hiến pháp” của
thị trường là yêu cầu cần thiết trong giai đoạn hiện nay4. Việc sửa đổi LCT 2004 được
coi là một vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
giai đoạn 2011-20205.

Thứ ba, xu thế toàn cầu hóa của nền kinh tế thế giới và bối cảnh Việt Nam mở
cửa thị trường, nhiều nhà đầu tư nước ngoài, tập đoàn đa quốc gia đã đầu tư vào Việt
Nam thông qua hình thức sáp nhập, mua lại doanh nghiệp. Thực tiễn hơn 12 năm thi
hành LCT đã và đang cho thấy nhiều hành vi phản cạnh tranh diễn ra bên ngoài lãnh
thổ quốc gia, nhưng lại có tác động tới môi trường cạnh tranh trong nước. Trước thực
trạng này, nhiều quốc gia đã đối phó bằng cách mở rộng phạm vi áp dụng của LCT,
điều này được thực hiện trên cơ sở của nguyên tắc “tác động ảnh hưởng của hành vi”
(effect doctrine), qua đó giúp cho cơ quan cạnh tranh (CQCT) có khả năng kiểm soát
các hành vi phản cạnh tranh xuyên biên giới từ đó góp phần bảo vệ thị trường trong
nước6. Bên cạnh đó hoạt động TTKT nói chung và sáp nhập, mua lại nói riêng cũng
tiềm ẩn nguy cơ hình thành các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh và có thể gây ảnh
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr.37.
4
Xem: Lê Ngọc Thạch (2013), Một số bất cập của PLCT hiện hành, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, truy cập
tại địa chỉ: ngày 03/8/2016.
5
Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Cục QLCT (VCA) Việt Nam đã ký kết biên bản thỏa thuận cho Dự
án cải thiện khuôn khổ pháp lý cho luật và chính sách cạnh tranh, trong đó có nội dung quan trọng là giúp Cục QLCT
thực hiện sửa đổi LCT để luật phù hợp trong bối cảnh các hoạt động kinh tế ngày càng gia tăng như hoạt động sáp
nhập và mua lại. Xem Q. Hùng, Nâng cấp luật và chính sách cạnh tranh Việt Nam, truy cập tại website:
ngày 21/7/2016.
6
Tại Hoa Kỳ, học thuyết này được ghi nhận tại các Đạo luật Sherman và Clayton, sau đó được khẳng định lại
và xác lập một cách vững chắc bởi Đạo luật Cải thiện các Vấn đề Cạnh tranh trong Thương mại Quốc tế
(Foreign Trade Antitrust Improvements Act) năm 1982; Hướng dẫn về Thực thi Luật chống Độc quyền đối với
các giao dịch quốc tế (Antitrust Enforcement Guidelines to International Operations) của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ,
trong đó khẳng định quyền tài phán của CQCT Hoa Kỳ đối với các giao dịch có ảnh hưởng “trực tiếp, đáng kể
và có thể dự đoán được một cách hợp lý” (direct, substantial and reasonably foreseeable effect) đến thị trường
Hoa Kỳ, bao gồm các hoạt động mua bán và sáp nhập, và các hoạt động xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ. Xem Bộ

Công thương (2017), Báo cáo Kinh nghiệm quốc tế, Tài liệu kèm theo Dự thảo trình tại phiên họp thứ 14 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội khóa XIV, tháng 9/2017. Truy cập tại địa chỉ
/>ndex=2&TaiLieuID=2812 ngày 18/10/2017.
3


3

hưởng đến môi trường cạnh tranh. Khung pháp lý kiểm soát TTKT còn nhiều khiếm
khuyết và việc áp dụng pháp luật kiểm soát TTKT còn nhiều vướng mắc (về đối tượng
kiểm soát, phạm vi kiểm soát, ngưỡng kiểm soát TTKT), thiếu tiêu chí đánh giá tính
HCCT của hành vi TTKT. Thực tiễn đó, đặt ra vấn đề phải xem xét một cách thấu
đáo, xác định những cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật kiểm soát TTKT, đặc
biệt làm rõ ranh giới giữa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và bảo vệ cạnh tranh.
Thứ tư, năm 2015 có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với Việt Nam trong quá
trình hội nhập quốc tế, đó là việc thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Mục
tiêu của AEC là tạo dựng một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất cho các quốc
gia thành viên, thúc đẩy dòng chu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, và
lao động có tay nghề trong khối7. Chính sách cạnh tranh đã được coi là một lĩnh vực
ưu tiên hàng đầu trong việc tạo lập một thị trường chung và một cơ sở sản xuất
chung trong ASEAN8. Việc hoàn thiện pháp luật kiểm soát TTKT đối với Việt Nam
hiện nay có ý nghĩa quan trọng. Bởi lẽ, việc tham gia vào AEC dẫn đến PLCT quốc
gia cần phải hài hòa hoặc tương đồng với PLCT của các quốc gia khác. Tất cả được
thực hiện trên cơ sở một chính sách cạnh tranh đồng bộ. Do đó, hội nhập AEC sẽ
tạo cơ hội cho việc kiểm soát hiệu quả các hành vi TTKT diễn ra tại Việt Nam hoặc
ở nước ngoài (khu vực ASEAN) có tác động đến thị trường Việt Nam, tạo khung
pháp lý cho các hoạt động đầu tư thông qua hình thức TTKT của doanh nghiệp các
quốc gia trong cộng đồng AEC. Pháp luật về kiểm soát TTKT của Việt Nam hiện
tại dựa chủ yếu vào tiêu chí thị phần, do đó, vấn đề cốt lõi quan trọng đối với Việt
Nam khi hội nhập ASEAN là hoàn thiện cách xác định thị phần và sử dụng thị phần

trong kiểm soát TTKT. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu pháp luật kiểm soát
TTKT gắn với hội nhập khu vực, gắn với tìm hiểu kinh nghiệm chính sách cạnh
tranh của mô hình tương tự như AEC là cần thiết và cấp bách.

AEC được hình thành với 4 trụ cột được tuyên bố bao gồm: (i) thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất; (ii)
một khu vực kinh tế cạnh tranh; (iii) một khu vực phát triển đồng đều; và (iv) hội nhập với nền kinh tế toàn
cầu. Để đạt mục tiêu xây dựng một khu vực kinh tế cạnh tranh, AEC đang hướng vào 4 hoạt động chính gồm:
chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và phát triển cơ sở hạ tầng. Xem
Ban Chỉ đạo Liên ngành Hội nhập quốc tế về kinh tế, Các mục tiêu cơ bản của AEC. Tài liệu truy cập tại địa
chỉ:
/>8
Hà Thị Thanh Bình, Xây dựng thị trường chung trong Cộng đồng kinh tế ASEAN và vấn đề xác định thị
trường liên quan theo PLCT Việt Nam, Hội thảo Quốc tế về “Các thể chế pháp lý của Cộng đồng kinh tế
ASEAN: tác động đối với pháp luật thương mại và đầu tư Việt Nam” do trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
tổ chức, tháng 12 năm 2016.
7


4

Thứ năm, việc xây dựng và thực thi pháp luật kiểm soát TTKT9 là để thực hiện
các mục tiêu của chính sách kiểm soát TTKT10. Trong chính sách công cũng bao hàm
cả chính sách về bảo đảm an ninh quốc gia, trong đó có an ninh kinh tế. Hiện tại, mục
tiêu cốt lõi của chính sách kiểm soát TTKT của Việt Nam mới chỉ nhằm đảm bảo
hoạt động TTKT không hoặc không tiềm ẩn nguy cơ gây ra tác động tiêu cực tới hoạt
động cạnh tranh trên thị trường, mục tiêu bảo đảm an ninh kinh tế trong kiểm soát
TTKT chưa được tính đến. Vì vậy cần nghiên cứu bổ sung các tiêu chí xem xét các
vụ TTKT nhằm hướng đến mục tiêu này.
Thứ sáu, vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp, bao gồm các hình thức TTKT đã được
quy định trong pháp luật về doanh nghiệp kể từ sau khi Việt Nam tiến hành đổi mới,

xây dựng những nền móng cho KTTT11 và tiếp tục được đề cập, hoàn thiện bởi các đạo
luật về doanh nghiệp12. Kể từ sau khi LCT 2004 ra đời, đặc biệt khi Việt Nam chính
thức là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, các hoạt động TTKT đã bắt đầu
khởi sắc, hoạt động TTKT tại Việt Nam tăng trưởng mạnh13. Xu thế chủ đạo vẫn là làn
9

Xem thêm: Hà Ngọc Anh (2011), Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế và an ninh kinh tế của Việt Nam, Tạp
chí Khoa học an ninh, Số 21.
10
Ở mỗi quốc gia, chính sách kiểm soát TTKT là một bộ phận trong tổng thể các chính sách của Chính phủ,
bao gồm chính sách công, chính sách kinh tế nói chung và chính sách cạnh tranh nói riêng. Xem: Cục Quản lý
cạnh tranh, Báo cáo tập trung kinh tế Việt Nam. Theo B. Guy Peter, “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động
của Nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân”. (Trích theo:
Đặng Ngọc Lợi (2008), Chính sách công ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 12).
Rõ ràng pháp luật kiểm soát TTKT như công cụ của chính sách cạnh tranh, chính sách công trực tiếp hay gián
tiếp có ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống của mọi công dân.
11
Cụ thể là Luật Công ty năm 1990. Các đạo luật về chủ thể kinh doanh của Việt Nam giai đoạn này cũng đã
lần lượt ghi nhận các hình thức tổ chức lại doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 tại Điều 20
có quy định việc sáp nhập là một trong những giải pháp tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước. Tương tự, Luật
Hợp tác xã năm 1997 tại Điều 44 đã ghi nhận quyền hợp nhất các hợp tác xã với nhau. Tuy nhiên, các quy định
kể trên mới chỉ đơn giản là việc ghi nhận các quyền cơ bản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc thành viên của
công ty trong việc thực hiện các hoạt động nhằm tái cơ cấu, cấu trúc lại doanh nghiệp và vấn đề này được nhìn
nhận thuần túy dưới góc độ pháp luật về doanh nghiệp mà không nhìn nhận vấn đề sáp nhập, hợp nhất doanh
nghiệp dưới góc độ PLCT. Ngoài ra, các quy định về trình tự, thủ tục để thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất
cũng chưa được các luật này quy định cụ thể.
12
Luật Doanh nghiệp năm 1999 (thay thế Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty năm 1990) đã có những
bước phát triển mới trong việc ghi nhận khá đầy đủ về các giải pháp tổ chức lại công ty, trong đó có hai hình thức
cơ bản liên quan đến vấn đề TTKT là sáp nhập và hợp nhất công ty. Một điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm

1999 là đã có các quy định về chuyển nhượng vốn, mua bán cổ phần, phát hành cổ phần, cổ phiếu đặt nền móng
cho việc hình thành khung pháp lý về TTKT, mặc dù vẫn đang được xem xét dưới góc độ pháp luật về doanh
nghiệp. Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng đã có quy định
cụ thể cũng như lộ trình, thủ tục thực hiện các biện pháp tổ chức lại, chuyển đổi sở hữu đối với công ty nhà nước.
Các quy định này gắn liền với hoạt động TTKT như sáp nhập, hợp nhất, khoán, cho thuê, bán toàn bộ hoặc một
phần công ty nhà nước (Chương VII, Chương VIII Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003).
13
Nếu như ở những giai đoạn đầu tiên, các giao dịch TTKT chủ yếu diễn ra tại thị trường nội địa thì ở giai đoạn
2012 – 2016, một số doanh nghiệp Việt Nam cũng bắt đầu thực hiện các thương vụ ở nước ngoài (ví dụ Vinamilk,
Viettel, FPT…). Tổng quy mô giao dịch giai đoạn 2009 - 2014 đạt khoảng 18 tỷ đô la Mỹ. Số thương vụ được
công bố trong các năm từ 2006 đến 2010 có xu hướng tăng ổn định, cụ thể năm 2006 (38 vụ), 2007 (108 vụ),
2008 (146 vụ), 2009 (295 vụ), 2010 (345 vụ). Giá trị các thương vụ cũng tăng mạnh kể từ năm 2005 và năm 2007


5

sóng mua lại các doanh nghiệp trong nước của các tập đoàn đa quốc gia nước ngoài.
Các doanh nghiệp tham gia TTKT thuộc mọi thành phần kinh tế, từ doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân, liên doanh đến doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài14.
Ở giai đoạn đầu vụ việc chủ yếu là TTKT theo chiều ngang15. Từ 2012 đến nay đã xuất
hiện thêm các hình thức TTKT khác như: (i) TTKT theo chiều dọc (vertical mergers)
nhằm kiểm soát nguồn cung, nguyên vật liệu cho hoạt động sản xuất kinh doanh16; (ii)
TTKT dạng tổ hợp (conglomerate) để mở rộng lĩnh vực kinh doanh17; (iii) sáp nhập để
tái cấu trúc hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn18; hoặc (iv) thâu tóm gián
tiếp19. Các vụ TTKT cũng ngày càng gia tăng về số lượng và quy mô20 cũng như tính
đạt mức gần 1,7 tỷ USD nhưng đã giảm sút trong 2 năm 2008 và 2009. Mặc dù vậy, so với các nước khác trong
khu vực thì quy mô giao dịch TTKT tại thị trường Việt Nam tương đối nhỏ. Xem thêm: Vũ Bá Phú (2011), “Các
vấn đề chống tập trung kinh tế qua hoạt động M&A”, Tổng hợp Tài liệu Diễn đàn M&A Việt Nam 2011. Tài liệu
truy cập tại địa chỉ: />14
Trên thực tế những giao dịch lớn và chủ yếu là đến từ các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp dẫn đầu trong các

ngành, lĩnh vực kinh doanh tại Việt Nam và các tập đoàn đa quốc gia trên thế giới. Trong các lĩnh vực diễn ra
hành vi TTKT, lĩnh vực bán lẻ và ngành hàng tiêu dùng là những lĩnh vực luôn có hoạt động M&A diễn ra sôi
nổi với nhiều thương vụ mua bán, sáp nhập có giá trị giao dịch lớn. Tiếp đó là lĩnh vực hàng tiêu dùng thiết
yếu và lĩnh vực năng lượng.
15
Mặc dù vậy, thời kỳ này cũng đã xuất hiện các vụ mua bán, sáp nhập theo chiều dọc. Đồng thời, nếu ở giai đoạn
trước đó, các vụ TTKT nhìn chung ở mức độ giản đơn với đặc điểm chủ yếu là các thương vụ thâu tóm một phần
hoặc toàn bộ doanh nghiệp và có rất ít các vụ việc có mức độ phức tạp cao hơn như hợp nhất (hình thức đòi hỏi trình
độ quản lý và hợp tác, phối hợp cao giữa các bên tham gia). Cũng ở giai đoạn trước đây, có rất nhiều vụ M&A dưới
hình thức đầu tư tài chính, mua cổ phần để trở thành đối tác chiến lược hoặc kỳ vọng vào sự tăng giá cổ phiếu (nhắm
đến lợi ích tài chính đơn thuần) chứ chưa nhắm đến thâu tóm để khống chế sở hữu và điều hành công ty.
16
Vụ sáp nhập giữa giữa Công ty cổ phần Mirae Fiber (Mirae Fiber) có vốn điều lệ 103,8 tỷ đồng, mã niêm
yết trên thị trường chứng khoán là KMF vào Công ty cổ phần Mirae (Mirae) có vốn điều lệ 132,8 tỷ đồng, mã
niêm yết trên thị trường chứng khoán là KMR, vụ sáp nhập này diễn ra vào cuối năm 2009. Sau khi tiếp nhận
đầy đủ thông tin và nghiên cứu vụ việc, Cục QLCT đã trả lời trường hợp này được phép tiến hành sáp nhập.
Sau khi sáp nhập, cổ phiếu của Mirae Fiber được chuyển đổi thành cổ phiếu của Mirae với tỷ lệ đã được hai
bên thống nhất, Mirae Fiber chấm dứt hoạt động, toàn bộ cổ phiếu của Marie được niêm yết bổ sung trên Sàn
giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, KMF hủy niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Xem Cục QLCT, Bộ Công thương (2013), “Báo cáo tập trung kinh tế Việt Nam 2012”, tr.33.
17
Tiêu biểu cho trào lưu này là vụ ICA giành quyền kiểm soát công ty Thuận Phát, theo đó, ICA là công ty
chiếm thị phần lớn trên thị trường các sản phẩm chăm sóc sức khỏe của nam giới, trong khi đó công ty Thuận
Phát đã có vị trí trên thị trường sản xuất nước mắm và các loại gia vị, Masan Food - Mỏ than Núi Pháo…
18
Ví dụ vụ TTKT giữa Unilever quốc tế - Unilever Việt Nam, Kinh Đô - Kinh Đô miền Bắc, Vinpearl Land Vinpearl Hội An - Vinpearl Đà Nẵng…
19
Ví dụ trường hợp Eximbank tuyên bố nắm giữ trên 50% quyền biểu quyết của Sacombank nhưng lại thông
qua các công ty con/công ty liên kết hoặc được ủy quyền từ các cổ đông khác của Sacombank.
20

Xét về quy mô, khoảng 80% các thương vụ TTKT được công bố có giá trị tương đối nhỏ (dưới 20 triệu
USD). Ở giai đoạn trước 2010 có thể thấy có hai loại thương vụ chiếm ưu thế: một là các giao dịch quy mô
nhỏ dưới 5 triệu USD (chiếm khoảng 30% - 35% số vụ) và hai là, các giao dịch có quy mô ở mức trung bình
(khoảng 20 triệu USD/thương vụ, chiếm 50% - 55% tổng số vụ). Nếu năm 2012, giá trị trung bình của một
thương vụ đạt khoảng 10 triệu USD, năm 2013 tăng lên trên 15 triệu USD, sang 2014 lại giảm xuống còn 8,7
triệu USD. Tuy nhiên, đã ngày càng xuất hiện nhiều thương vụ có giá trị lớn (từ 100 triệu USD trở lên) và được
nhận định là đang gia tăng. Điều này có thể được lý giải bởi một số nguyên nhân như sau: (i) trước đây, khi
muốn thâm nhập thị trường Việt Nam thông qua hình thức M&A, các nhà đầu tư nước ngoài cần thận trọng
thăm dò tình hình cụ thể của nền kinh tế nói chung, cũng như thị trường mà họ đang hướng tới. Do đó, họ chỉ
bỏ vốn mua lại một công ty có quy mô trung bình hoặc một lượng cổ phần không lớn của một công ty lớn. Sau


6

đa dạng21. Cục QLCT đã thụ lý một số vụ việc thông báo TTKT và cũng đã có nhiều
vụ việc tham vấn về TTKT trước và trong quá trình các doanh nghiệp thực hiện
TTKT22. Thực tiễn TTKT tại Việt Nam hơn 12 năm qua đã cho thấy sự cần thiết cấp
bách phải hoàn thiện các quy định về kiểm soát TTKT nhằm theo kịp sự phát triển và
đa dạng của hoạt động TTKT tại Việt Nam trong tương lai.
Thứ bảy, sau hơn 12 năm thi hành, LCT 2004 đã bộc lộ những bất cập liên quan
đến vấn đề kiểm soát TTKT ở Việt Nam.
Một là, quy định về ngưỡng thông báo kiểm soát hoạt động TTKT, Điều 18 của
LCT 2004 hiện chỉ căn cứ vào tiêu chí thị phần kết hợp là bất khả thi. Thực tiễn thi
hành LCT 2004 cho thấy, với quy định về thị phần, việc tự xác định thị phần của
mình trên thị trường liên quan là rất khó thực hiện tại Việt Nam. Từ đó, các doanh
nghiệp gặp rất nhiều khó khăn để biết mình có thuộc ngưỡng bị cấm hoặc phải thông
báo TTKT hay không.
Hai là, LCT 2004 mới chỉ xem xét TTKT theo chiều ngang, tức là TTKT giữa
các doanh nghiệp trên thị trường liên quan cùng một cấp độ kinh doanh. Tuy nhiên,
thực tế vẫn tồn tại những giao dịch TTKT theo chiều dọc23 và TTKT dạng hỗn hợp24.

Ba là, tại Việt Nam trong thời gian qua cũng đã chứng kiến một số vụ mua bán,
sáp nhập có giá trị giao dịch lớn được thực hiện bên ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng
lại có tác động tới thị trường Việt Nam25. Tuy nhiên, PLCT Việt Nam hiện lại chưa
có đầy đủ cơ sở pháp lý vững chắc và đầy đủ nhằm điều chỉnh các loại hành vi như
một thời gian nhất định, khi đã có một chiến lược kinh doanh dài hạn và nhìn thấy tiềm năng ở thị trường Việt
Nam, nhà đầu tư nước ngoài sẽ xúc tiến thực hiện những thương vụ M&A có giá trị lớn hơn để có thể thực
hiện được chính sách của riêng mình; (ii) trong những năm gần đây, một số doanh nghiệp, tập đoàn trong nước
cũng đã trưởng thành, lớn mạnh đủ tiềm lực kinh tế để thực hiện mua lại các doanh nghiệp khác, thậm chí kể
cả mua lại doanh nghiệp nước ngoài. Số lượng các vụ M&A do doanh nghiệp trong nước tiến hành với giá trị
trên 50 triệu USD cũng đang gia tăng mạnh. Xem: tlđd 9, tr.20 - 21.
21
Đáng chú ý là trong số các vụ việc thông báo và tham vấn TTKT tới Cục QLCT có nhiều vụ việc TTKT lớn,
diễn ra ở nước ngoài, nhưng các doanh nghiệp này có hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, như PepsiCo Suntory; A.P Moller - Maersk - A/S CMA CgM - S.A MSC Mediterranean Shipping Company SA…
22
Theo báo cáo TTKT thì cho tới nay, Cục QLCT đã phê chuẩn tất cả các vụ việc TTKT được thông báo và có 01 vụ
việc thuộc trường hợp bị cấm nhưng đáp ứng điều kiện cho hưởng miễn trừ theo quy định của LCT. Trong số vụ việc
TTKT đã được Cục QLCT xem xét nêu trên, các vụ việc TTKT theo hình thức sáp nhập và mua lại doanh nghiệp
chiếm đa số. Trong năm 2012, Cục QLCT đã tiếp nhận 03 hồ sơ TTKT và tham vấn một số vụ việc.
23
Giữa các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường thuộc các cấp độ khác nhau nhưng bổ trợ cho nhau, ví dụ
giữa thị trường sản xuất và thị trường cung cấp nguyên liệu, giữa thị trường sản xuất và thị trường phân phối.
Xem OECD (1993), Glossary of Industrial Organisation Economics and Competition Law, tài liệu truy cập tại
địa chỉ: ngày 22/02/2016.
24
Giữa các doanh nghiệp hoạt động trên các thị trường sản phẩm khác nhau và giữa chúng không có mối quan
hệ theo chiều dọc. Xem OECD (1993), tlđd 23.
25
Chẳng hạn như vụ Tập đoàn Abbott mua lại Công ty dược phẩm CFR; Tập đoàn Boehringer Ingelheim
International mua lại Sanofi SA trong lĩnh vực thuốc thú y; Tập đoàn Central Group (Thái Lan) mua lại Hệ thống
siêu thị Big C tại Việt Nam…Xem Bộ Công thương, ‘Tờ trình Chính phủ về Dự án LCT (sửa đổi) ngày 07/7/2017.



7

vậy. Do đó, nhiệm vụ bảo vệ cạnh tranh, chống lại những tác động của các hành vi
có hại đối với cạnh tranh tại thị trường Việt Nam chưa được thực thi đầy đủ. Vì vậy,
việc mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với dạng TTKT xuyên biên giới như vậy là cần
thiết nhằm bảo vệ cạnh tranh trên thị trường Việt Nam. Phạm vi điều chỉnh mở rộng
cũng phù hợp với xu hướng PLCT của các quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật
Bản, Pháp, Đức, Trung Quốc, Canada…
Vì những lý do nêu trên, để đóng góp hoàn thiện cơ sở lý luận và pháp luật về
kiểm soát TTKT, tác giả chọn đề tài “Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt
Nam” làm luận án Tiến sĩ luật học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án có mục đích nghiên cứu: làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về TTKT,
kiểm soát TTKT và pháp luật về kiểm soát TTKT; phân tích, đánh giá thực trạng quy
định pháp luật về kiểm soát TTKT và thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát TTKT
ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật
về kiểm soát TTKT ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu, luận án đặt ra một số nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Một là, nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về kiểm soát
TTKT và pháp luật về kiểm soát TTKT, bao gồm: (i) khái niệm, hình thức, bản chất
của TTKT; (ii) cơ sở lý luận của sự cần thiết phải kiểm soát TTKT; (iii) các luận cứ
và mục tiêu của chính sách và pháp luật kiểm soát TTKT; (iv) mối liên hệ của pháp
luật kiểm soát TTKT với các lĩnh vực pháp luật có liên quan.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống quy định pháp luật về kiểm soát
TTKT và thực tiễn áp dụng về kiểm soát TTKT ở Việt Nam hiện nay dựa trên các nội
dung: đối tượng, phạm vi, ngưỡng thông báo TTKT, tiêu chí đánh giá tác động của

vụ TTKT, cơ quan thực hiện kiểm soát TTKT, thủ tục thông báo TTKT, xử lý hồ sơ
thông báo TTKT, điều tra xử lý vi phạm quy định pháp luật về TTKT.
Ba là, nghiên cứu pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật kiểm soát TTKT của
một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm, phục vụ
cho các luận cứ đề xuất hoàn thiện pháp luật kiểm soát TTKT ở Việt Nam, trong đó đóng
góp những luận cứ cho các đề xuất nhằm hoàn thiện Dự thảo LCT (sửa đổi).


8

Bốn là, xây dựng hệ thống các giải pháp chung, kiến nghị cụ thể hoàn thiện quy
định pháp luật kiểm soát TTKT ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, góp phần vào các giải
pháp cụ thể hoàn thiện Dự thảo LCT (sửa đổi).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là (i) các quan điểm, các lý thuyết nghiên cứu
về TTKT, kiểm soát TTKT; (ii) quy định của pháp luật Việt Nam về kiểm soát TTKT;
quy định pháp luật về kiểm soát TTKT cũng như thực tiễn áp dụng tại một số quốc gia
trên thế giới như Hoa Kỳ, Liên bang Nga, Nhật Bản, Trung Quốc và một số quốc gia
trong Liên minh châu âu (EU), ASEAN để đối chiếu, so sánh và rút ra bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu các quy định pháp luật về kiểm soát TTKT ở Việt Nam
trong PLCT và một số quy định pháp luật chuyên ngành có liên quan như pháp luật
về doanh nghiệp, đầu tư, ngân hàng, viễn thông, chứng khoán... Luận án cũng nghiên
cứu quy định của pháp luật về kiểm soát TTKT của một số quốc gia trên thế giới như
Hoa Kỳ, Canada, Liên bang Nga, Nhật Bản, Trung Quốc và một số quốc gia trong
EU, ASEAN. Những vấn đề này sẽ được trình bày, phân tích lồng ghép trong các nội
dung nghiên cứu tương ứng.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu: luận án tập trung vào hai vấn đề trọng tâm của

kiểm soát TTKT là phạm vi, ngưỡng kiểm soát TTKT; cơ quan kiểm soát TTKT và
đánh giá tác động kinh tế của TTKT. Do đó, luận án không đi sâu vào thủ tục điều
tra, xác định vi phạm về TTKT, cơ chế và thủ tục miễn trừ đối với hành vi TTKT bị
cấm và đặc biệt là các biện pháp chế tài áp dụng đối với vi phạm về TTKT, bởi lẽ các
biện pháp chế tài không thuộc về nội dung và thủ tục kiểm soát TTKT. Hơn nữa, các
biện pháp chế tài đối với hành vi TTKT vi phạm LCT 2004 cũng được áp dụng cho
các hành vi HCCT khác, do đó không cần thiết phải nghiên cứu sâu và riêng biệt
trong luận án.
Về thời gian, luận án tập trung nghiên cứu các vụ việc thực tiễn tại Việt Nam
kể từ năm 2012 đến nay. Mặc dù LCT 2004 chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng
7 năm 2005, tuy nhiên như đã trình bày, luận án nghiên cứu từ thời điểm thực tiễn
Việt Nam xuất hiện nhiều biểu hiện TTKT mới, đồng thời Bộ Công thương tiến hành
báo cáo TTKT lần thứ hai (năm 2012), trong đó nêu ra những vấn đề cần quan tâm
trong kiểm soát TTKT ở Việt Nam trong tình hình mới.


9

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Một là, luận án góp phần nghiên cứu những vấn đề lý luận về TTKT và pháp
luật kiểm soát TTKT, trong đó giải quyết được những vấn đề lý luận cốt lõi như: đặc
điểm, phân loại, bản chất TTKT, tác động của TTKT đối với nền kinh tế nói chung
và môi trường cạnh tranh, cơ sở lý luận của hoạt động kiểm soát TTKT của Nhà nước.
Hai là, luận án làm rõ thực trạng các quy định pháp luật, phân tích những bất cập
và chỉ ra những hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật kiểm soát TTKT ở Việt Nam.
Ba là, luận án nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật kiểm soát TTKT ở một số quốc
gia tiêu biểu để tiếp thu nhằm giải quyết những bất cập của pháp luật Việt Nam.
Bốn là, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cung cấp những nội dung, thông tin
quan trọng, tin cậy, có giá trị về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho việc hoàn thiện
quy định pháp luật kiểm soát TTKT ở Việt Nam.

Năm là, luận án có giá trị tham khảo, phục vụ cho công việc nghiên cứu, giảng dạy và
học tập chuyên sâu về pháp luật kiểm soát TTKT, đặc biệt trong bối cảnh sửa đổi LCT 2004.
5. Những điểm mới của luận án
Luận án sẽ là công trình nghiên cứu đánh giá chuyên sâu, toàn diện về pháp luật
kiểm soát TTKT ở Việt Nam. Cụ thể, luận án có những điểm mới quan trọng sau đây:
Thứ nhất, đây là công trình đánh giá toàn diện tổng quan các nghiên cứu, quan
điểm, cách tiếp cận về TTKT và kiểm soát TTKT ở Việt Nam và trên thế giới.
Thứ hai, đây là công trình nghiên cứu toàn diện, làm sâu sắc các vấn đề lý luận
về TTKT trong đó phân tích làm rõ bản chất, vai trò của TTKT. Những vấn đề này
được tiếp cận ở góc độ mới không chỉ xem TTKT như một hoạt động của doanh
nghiệp làm gia tăng nguy cơ lạm dụng sức mạnh thị trường mà còn nghiên cứu về
các tác động tích cực cũng như tiêu cực mà nó đem lại.
Thứ ba, đây là công trình nghiên cứu ở cấp độ tiến sĩ, phân tích, đánh giá toàn bộ
cơ chế kiểm soát TTKT ở Việt Nam, bao gồm các quy định pháp luật về kiểm soát
TTKT và thực thi kiểm soát TTKT của Việt Nam hiện hành. Đặc biệt luận án có sự
phân tích chuyên sâu những hạn chế, bất cập của việc áp dụng các quy định này về mặt
lý luận cũng như thực tiễn, chỉ ra những vấn đề cần phải bổ sung, hoàn thiện trong LCT
2004. Về cấu trúc, luận án được thiết kế theo hướng hiện đại, giải quyết một cách cụ
thể, trực diện từng vấn đề nghiên cứu và bằng các kiến nghị, giải pháp cụ thể.
Thứ tư, đây là công trình nghiên cứu nhằm mục đích là hoàn thiện pháp luật kiểm
soát TTKT ở Việt Nam dựa trên cơ sở nghiên cứu vận dụng và đề xuất áp dụng tư duy
kinh tế, cách tiếp cận kinh tế - luật trong việc phân tích đánh giá tác động đối với cạnh


10

tranh của vụ TTKT, trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị mang tính đột phá,
mang bản sắc và cách tiếp cận kinh tế. Do đó khác với các cách tiếp cận và giải quyết
vấn đề truyền thống, đề xuất đáng chú ý nhất của luận án là xây dựng cơ chế kiểm soát
TTKT không còn xoay quanh tiêu chí thị phần như trước đây - vốn đem lại bất cập

trong việc áp dụng LCT trong việc kiểm soát hoạt động TTKT ở Việt Nam, góp phần
vào việc đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia thông qua kiểm soát hoạt động TTKT.


11

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Với tính cách là công cụ pháp luật can thiệp vào cơ cấu kinh tế, ngay từ khi hình
thành, pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh (HCCT) phải được xây dựng trên một
chính sách cạnh tranh26 cụ thể và chi tiết. Vì được hình thành trên những chính sách
cạnh tranh khác nhau nên tiêu chuẩn pháp lý miễn trừ cho các hành vi TTKT trong
các nền kinh tế khác nhau cũng có sự khác biệt nhất định. Chẳng hạn, nếu tiêu chuẩn
miễn trừ cho các hành vi TTKT của pháp luật Hoa Kỳ là các tiêu chuẩn hiệu quả kinh
tế (Rule of Reason)27 thì tiêu chuẩn này của EU còn nhằm vào việc cải thiện khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khắc phục khủng hoảng, khuyến khích
bảo lưu và phát triển văn hóa…
Trên thế giới, mặc dù pháp luật về chống HCCT đã tồn tại và phát triển hơn 100
năm, kể từ những năm 70 của thế kỷ XX, các quy định về chống HCCT trong các ngành
kinh tế điều tiết28 mới có những bước đột phá thực sự29. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học và công nghệ, phạm vi các ngành kinh tế có điều tiết đã được giảm đáng
kể, điều này đã góp phần quan trọng cho việc cải thiện môi trường cạnh tranh30.
Mặc dù tự do hóa, phi điều tiết là xu hướng không thể đảo ngược, song việc điều
tiết trong một số ngành kinh tế ở các nền KTTT31 hiện nay vẫn còn là yêu cầu khách
quan. Trong bối cảnh đó, việc xây dựng cơ chế pháp luật riêng cho các hoạt động TTKT
trong các ngành kinh tế cần điều tiết vẫn là nhu cầu thực tế và thường xuyên.

Một số trường phái kinh tế đã thể hiện quan điểm trong việc xây dựng chính sách cạnh tranh là: Trường phái
tân tự do (trường phái Freiburg); Mô hình chính sách cạnh tranh theo hình thái Oligopoly mở rộng của

Kantzenbach; Trường phái tân cổ điển; Trường phái Chicago về vấn đề chống Trust...
27
Gordon Bootie (2015), The Need for Discreation in the Application of Competition Law, International
Harmonization of Competition Law, Martinus Nijhoff Publishers, Netherlands.
28
Đây là những ngành kinh tế có đặc điểm là gắn liền với việc cung cấp và đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của
xã hội (liên quan đến “quốc kế, dân sinh”), đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn, thời gian thu hồi vốn rất lâu và có liên
quan đến những vấn đề hệ trọng của quốc gia như an ninh, quốc phòng… Do đó, Nhà nước có thể độc quyền
hoặc hạn chế các thành phần kinh tế khác tham gia, đồng thời Nhà nước quản lý giá cả, điều tiết cung cấp dịch
vụ, thậm chí có thể tiến hành quốc hữu hóa khi cần thiết… Xem OECD, tlđd 23, tr. 62, 73.
29
David Pender (2006) - Tư vấn thường trú của Ủy ban thương mại Liên bang Hoa Kỳ tại ASEAN, Bài phát biểu tại
Tọa đàm về mối quan hệ giữa cơ quan QLCT và cơ quan điều tiết ngành tại Việt Nam, ngày 23/08/2006 tại Hà Nội.
30
Ở Hoa Kỳ trong một thập kỷ từ 1980 đến 1990 đã loại bỏ hoàn toàn các ngành điều tiết là hàng không và
vận tải. Việc xóa bỏ các quy định điều tiết trong ngành vận tải đã làm tăng phúc lợi cho người tiêu dùng tại
Hoa Kỳ trên 50 tỷ USD. Ở châu Âu, việc tiến hành phi điều tiết cũng được thực hiện mạnh mẽ trong thập kỷ
90 trong các ngành đường sắt, viễn thông và năng lượng… Xem OECD (1999), Regulatory Reform in the
United States: Government Capacity to Assure High Quality Regulations, tài liệu truy cập tại địa chỉ
< ngày 14/12/2017.
31
Tại Hoa Kỳ vẫn tồn tại 5 ngành kinh tế điều tiết: Viễn thông, Bảo hiểm, Điện lực, Ngân hàng, Vận tải (hành khách).
26


12

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, cho đến những năm cuối của thế kỷ XX mới có công trình nghiên
cứu đầu tiên liên quan đến LCT. Đó là đề tài “Các giải pháp kiểm soát độc quyền và

chống cạnh tranh không lành mạnh trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở Việt
Nam” do Viện Nghiên cứu Thị trường giá cả thuộc Ban Vật giá chính phủ thực hiện
năm 1996. Cũng trong năm này, Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
xuất bản cuốn sách “Về cạnh tranh, chống cạnh tranh bất hợp pháp và kiểm soát độc
quyền” của Đặng Vũ Huân. Năm 1998, có công trình nghiên cứu về PLCT do Bộ Tư
pháp chủ trì thực hiện thuộc Dự án VIE/94/003 - Tăng cường năng lực pháp luật tại
Việt Nam. Năm 2001, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương thuộc Bộ Kế
hoạch và Đầu tư thực hiện đề tài “Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh
tranh và kiểm soát độc quyền tại Việt Nam”. Cũng trong năm này, Viện Nghiên cứu
Nhà nước và pháp luật thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam thực hiện đề tài “Cạnh
tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay”. Đó đều là các công
trình nghiên cứu được thực hiện trước khi ban hành LCT 2004 nhằm mục đích khảo
sát và cung cấp những luận cứ, tiền đề cho việc đưa ra khuyến nghị xây dựng PLCT
ở Việt Nam. Trong giai đoạn này chưa xuất hiện những công trình nghiên cứu mang
tính chuyên biệt về kiểm soát TTKT.
Sau khi LCT được ban hành năm 2004, số lượng các công trình nghiên cứu về
lĩnh vực LCT tăng lên đáng kể. Trong đó, pháp luật về chống HCCT nói chung và
pháp luật kiểm soát TTKT nói riêng đã xuất hiện và được thể hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau, như: đề tài nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo, sách tham khảo,
luận văn, luận án, bài viết tạp chí, bài tham luận tại hội thảo khoa học, tiêu biểu là
các công trình sau đây:
 Nhóm các luận văn, luận án
Phạm Thị Ngoan (2010), Luận văn Thạc sỹ luật học “Kiểm soát tập trung kinh
tế theo quy định của pháp luật Việt Nam”, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Luận văn trình bày những vấn đề lý luận chung về TTKT và kiểm soát bằng pháp luật
đối với TTKT, phân tích, đánh giá thực trạng PLCT kiểm soát các hành vi TTKT ở
Việt Nam trong mối quan hệ so sánh với PLCT ở một số nước trên thế giới, đưa ra
phương hướng và một số giải pháp pháp lý nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát
TTKT để đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ với các quy định của pháp luật hiện hành
về cạnh tranh và hài hòa với pháp luật quốc tế. Mặc dù vậy, do giới hạn của một luận

văn thạc sĩ, tác giả chưa đi sâu vào những vấn đề lý luận về TTKT cũng như kiểm


13

soát TTKT. Những nghiên cứu so sánh cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu về
các quy định pháp luật của một số quốc gia tiêu biểu mà chưa tập trung phân tích sâu
về nội dung và cơ sở lý luận của các quy định này.
Huỳnh Văn Hiếu (2010), Luận văn Thạc sỹ luật học “Tập trung kinh tế dưới hình
thức mua lại doanh nghiệp theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam”, Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn chỉ tập trung xem xét một hình thức TTKT là mua
lại doanh nghiệp từ góc độ PLCT. Như vậy, tác giả chỉ mới nghiên cứu một hình thức
TTKT và chưa tiếp cận vấn đề từ góc độ lý luận về TTKT và kiểm soát TTKT.
Vũ Thị Ngọc Hà (2013), Luận văn Thạc sỹ luật học “Pháp luật về kiểm soát tập
trung kinh tế ở Việt Nam hiện nay”, Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Luận văn
trình bày những vấn đề lý luận chung về TTKT và pháp luật về kiểm soát TTKT; thực
trạng quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật kiểm soát TTKT ở Việt
Nam hiện nay; đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát
TTKT ở Việt Nam, trong đó nhấn mạnh cần nâng cao vai trò của cơ quan QLCT, của
các cơ quan hữu quan, năng lực, tính chuyên nghiệp của các thể chế hỗ trợ hoạt động
TTKT; đào tạo đội ngũ chuyên gia về lĩnh vực sáp nhập, hợp nhất và mua lại. Cách
tiếp cận này nhìn chung không mới và việc nghiên cứu TTKT và pháp luật kiểm soát
TTKT chủ yếu nhìn từ góc độ xem đây là một hoạt động nằm trong nhóm các hành
vi HCCT, trong khi đó, về bản chất TTKT là một hoạt động nhằm tăng cường sức
mạnh thị trường và khả năng gây HCCT của vụ việc TTKT cần phải được xem xét
và đánh giá bằng sự tiếp cận kinh tế học kết hợp với tư duy kinh tế.
Nguyễn Quốc Điền (2014), Luận văn Thạc sỹ luật học “Kiểm soát tập trung
kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2004”, Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Luận
văn trình bày những vấn đề lý luận chung về TTKT; kiểm soát TTKT theo LCT 2004;
phân tích thực trạng TTKT và kiểm soát TTKT tại Việt Nam; từ đó đưa ra nguyên

tắc hoàn thiện pháp luật về kiểm soát TTKT và một số giải pháp cụ thể, trong đó nhấn
mạnh nâng cao năng lực của CQCT; cơ chế phối hợp giữa cơ quan nhà nước có liên
quan, đẩy mạnh tuyên truyền về PLCT nói chung, pháp luật kiểm soát TTKT nói
riêng cho cộng đồng doanh nghiệp. Luận văn này có cách tiếp cận tương tự như luận
văn của tác giả Vũ Thị Ngọc Hà, tuy nhiên cũng đã giới thiệu và phân tích bước đầu
về thực trạng TTKT tại Việt Nam cho đến năm 2014. Mặc dù vậy, luận văn thiếu một
sự đột phát trong cách tiếp cận về khái niệm TTKT, do đó các kiến nghị, giải pháp
chưa đi theo hướng tiếp cận mới mẻ hơn.


14

Luận án tiến sĩ của Trần Thăng Long “Áp dụng Luật Cạnh tranh đối với các
doanh nghiệp độc quyền nhà nước - Một nghiên cứu so sánh” (The Application of
Competition Law to Anti - Competitive Behaviours of State Monopolies - A
Comparative Perspective, bảo vệ tại trường đại học La Trobe, Australia, năm 2011)32.
Luận án đã đề cập một cách khái quát các vấn đề lý luận về độc quyền và doanh
nghiệp độc quyền nhà nước, thực trạng các doanh nghiệp độc quyền nhà nước ở Việt
Nam và xác định những nguyên tắc cơ bản trong việc áp dụng LCT để điều chỉnh đối
với các doanh nghiệp độc quyền nhà nước. Chương 8 của luận án nghiên cứu về kiểm
soát TTKT áp dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước độc quyền, tuy nhiên luận án
cũng đã có những phân tích về cơ chế kiểm soát TTKT ở Việt Nam và chỉ ra những
bất cập của cơ chế này, bao gồm việc xác định thị phần, thị phần kết hợp, nhấn mạnh
đến vai trò và sự độc lập của CQCT trong việc kiểm soát TTKT. Tuy nhiên, luận án
không tập trung đi sâu nghiên cứu riêng về từng hành vi HCCT, trong đó có TTKT
và cũng chưa nghiên cứu nhiều về các vụ việc thực tiễn về TTKT ở Việt Nam.
Như vậy, cho đến nay chưa có luận án Tiến sĩ luật học nào nghiên cứu chuyên
sâu về pháp luật kiểm soát TTKT.
 Nhóm các công trình chuyên khảo
Chuyên đề nghiên cứu về hành vi TTKT, đề tài nghiên cứu “Thể chế cạnh tranh

tại Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường tại Việt Nam” do Lê Viết
Thái, Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Thương mại thực hiện năm 2005. Nghiên
cứu này chỉ ra rằng, trong kinh tế học và trong khoa học pháp lý, khái niệm TTKT ở
Việt Nam được xem xét chủ yếu như tập trung công nghiệp hay thị trường và cũng
có những cách tiếp cận khác nhau, trong đó, có tiếp cận cơ bản về TTKT với tư cách
là quá trình gắn liền với việc hình thành và thay đổi của cấu trúc thị trường. Đây được
hiểu là quá trình mà số lượng các doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường sẽ
bị giảm đi do kết quả của các hành vi sáp nhập, hoặc thông qua sự tăng trưởng nội
sinh của doanh nghiệp bằng việc mở rộng năng lực sản xuất. Đây là công trình nghiên
cứu đầu tiên ở Việt Nam đề cập chuyên sâu về hành vi TTKT. Mặc dù vậy, các nghiên
cứu mới dừng lại ở mức độ tiếp cận và đặt vấn đề trong bối cảnh xây dựng nền KTTT
tại Việt Nam.

32

Tran Thang Long (2011), The Application of Competition Law to Anti - Competitive Behaviours of State
Monopolies - A Comparative Perspective, PhD Thesis, La Trobe University. Tài liệu truy cập tại địa chỉ:
ngày 02/04/2016.


15

Sách chuyên khảo “Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không
lành mạnh ở Việt Nam” của tác giả Đặng Vũ Huân, xuất bản năm 2004, trong đó đưa
ra tổng quan những định hướng ban đầu trong quá trình xây dựng PLCT, trong đó có
đề cập sơ bộ các nội dung của pháp luật kiểm soát TTKT. Tuy nhiên, đây không phải
là nghiên cứu chuyên sâu về TTKT và kiểm soát TTKT. Những phân tích của nghiên
cứu này về kiểm soát TTKT cũng đã được thể hiện trong các quy định của LCT 2004.
Sách chuyên khảo “Luật Cạnh tranh của Pháp và Liên minh châu Âu” của tác
giả Nguyễn Hữu Huyên xuất bản năm 2004 đã giới thiệu chung về LCT của Pháp và

EU với những khái niệm cơ bản và có nội dung liên quan về TTKT. Từ trang 80 đến
trang 88, tác giả đã giới thiệu khái quát về khái niệm TTKT (định nghĩa, tiêu chí của
một vụ TTKT, xác định ngưỡng kiểm soát TTKT), tác động của TTKT đến cạnh tranh
trên thị trường, thủ tục kiểm soát TTKT, chế tài áp dụng trong điều chỉnh pháp luật
về TTKT ở Pháp. Tác giả cũng dành chương IV từ trang 170 đến trang 180 để giới
thiệu về TTKT theo pháp luật EU với những kinh nghiệm thú vị cho Việt Nam về các
tiêu chí xác định quyền kiểm soát, phân tích tác động kinh tế trong TTKT...
Sách chuyên khảo “Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam” của các tác giả Lê Danh
Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn xuất bản năm 2006. Sách này đã giới
thiệu một cách tổng quan về cạnh tranh, chính sách cạnh tranh và PLCT nhằm mục
đích cung cấp những kiến thức cơ bản cho các doanh nghiệp, các nhà quản lý kinh tế
và các nhà nghiên cứu về cạnh tranh. Trong sách có chương riêng về pháp luật kiểm
soát TTKT, bước đầu phân tích bản chất của TTKT, nguyên nhân và tác động của
TTKT đối với thị trường cạnh tranh. Do tài liệu này là tài liệu nghiên cứu thiên về
giáo trình LCT nên vấn đề TTKT và kiểm soát TTKT chỉ là một nội dung được đề
cập mà chưa phải là một nghiên cứu chuyên sâu.
Sách chuyên khảo “Kiểm soát tập trung kinh tế - Kinh nghiệm quốc tế và thực
tiễn tại Việt Nam”33 do Cục QLCT, Bộ Thương mại ấn hành đã giới thiệu một cách
có hệ thống các nội dung của hoạt động TTKT và vấn đề kiểm soát hoạt động có tầm
ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh phần tổng quan
về kiểm soát TTKT, cuốn sách giới thiệu những vấn đề kỹ thuật về kiểm soát TTKT,
kinh nghiệm kiểm soát TTKT tại Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Liên bang Nga…Các
nghiên cứu này có giá trị tham khảo quan trọng trong việc nghiên cứu, hoàn thiện các

Cục QLCT, Bộ Thương mại (TS. Đinh Thị Mỹ Loan chủ biên) (2007), Kiểm soát tập trung kinh tế - Kinh
nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
33


16


quy định của LCT 2004 về kiểm soát TTKT. Tuy nhiên, phần tổng quan về kiểm soát
TTKT không phải là nội dung nghiên cứu trọng tâm của tài liệu này và vấn đề TTKT
chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và đi từ cơ sở lý luận của vấn đề.
Cục QLCT, Bộ Công thương đã có các báo cáo về TTKT tại Việt Nam kể từ
năm 2009 đến nay. Đáng chú ý là Báo cáo TTKT Việt Nam năm 2012 đã khái quát
thực trạng hoạt động TTKT tại Việt Nam giai đoạn 2009 - 2011; giới thiệu kinh
nghiệm quốc tế về kiểm soát TTKT, nêu một số vấn đề trong thực thi quy định về
kiểm soát TTKT ở Việt Nam với ba nhóm vấn đề chính là môi trường pháp lý, bất
cập khi sử dụng thị phần làm tiêu chí đánh giá vụ việc TTKT, biện pháp khắc phục
chưa thực sự phù hợp và nêu một số khuyến nghị liên quan đến phạm vi và hình thức
TTKT cần kiểm soát, về ngưỡng kiểm soát TTKT, về đánh giá tác động cạnh tranh,
về hoàn thiện quy trình thông báo TTKT... Báo cáo TTKT Việt Nam năm 2014 của
Cục QLCT, Bộ Công thương khái quát thực trạng hoạt động TTKT tại Việt Nam giai
đoạn 2012 - 2014; giới thiệu các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành, các vụ
việc tham vấn và thông báo tới Cục QLCT; một số vụ việc điển hình và định hướng
kiểm soát TTKT thời gian tới. Trong Báo cáo thường niên từ năm 2012 đến 2016 của
Cục QLCT, Bộ Công thương, trong mục Thực thi pháp luật và chính sách cạnh tranh,
kiểm soát các hoạt động TTKT có nêu một số vụ việc TTKT cụ thể Cục QLCT đã
tiếp nhận hồ sơ thông báo và tham vấn. Trong Báo cáo rà soát các quy định của LCT
2004 và Báo cáo tóm tắt rà soát các quy định của PLCT do Cục QLCT công bố năm
2012 có chứa đựng các nội dung quan trọng liên quan đến pháp luật kiểm soát TTKT
như tổng quan về PLCT tại Việt Nam, tổng quan về chính sách và quy định về kiểm
soát TTKT, quy định và thực tiễn hoạt động TTKT ở Việt Nam, một số vấn đề trong
thực thi pháp luật và kiến nghị... Tuy nhiên, báo cáo rà soát chưa làm rõ được những
vướng mắc cụ thể trong quá trình áp dụng pháp luật về kiểm soát TTKT trong các
ngành kinh tế điều tiết ở Việt Nam; thị phần, đánh giá tác động của TTKT và bỏ các
quy định về miễn trừ có gì khác nhau ở các ngành kinh tế nói chung và các ngành
kinh tế điều tiết nói riêng?
Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Bộ (năm 2012) do TS. Phạm Trí Hùng làm Chủ

nhiệm “Pháp luật điều chỉnh sáp nhập, mua lại ở Việt Nam”. Đề tài này tập trung
phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về sáp nhập và mua lại doanh nghiệp, pháp
luật điều chỉnh sáp nhập mua lại doanh nghiệp, thực trạng pháp luật và thực trạng áp
dụng tại Việt Nam, tổng hợp kinh nghiệm của các nước để đưa ra những đề xuất hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh sáp nhập, mua lại ở Việt Nam. Mặc dù vậy, đề tài chỉ tập


17

trung nghiên cứu việc điều chỉnh hai hình thức TTKT phổ biến là sáp nhập, mua lại
từ các góc độ pháp luật khác nhau như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, LCT. Ngoài
ra, nghiên cứu này chưa phân tích TTKT từ góc độ kinh tế học và kiểm soát TTKT
kết hợp tư duy kinh tế và pháp lý cũng như được thực hiện khi Luật Doanh nghiệp
2005 và Luật Đầu tư 2005 đang có hiệu lực.
Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Trường (năm 2012) do TS. Phạm Trí Hùng làm
Chủ nhiệm “Pháp luật cạnh tranh Liên bang Nga và những bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam” bên cạnh phần giới thiệu chung có dành riêng một chương để giới thiệu
về kiểm soát TTKT theo PLCT Liên bang Nga, phân tích và rút ra một số bài học
kinh nghiệm cho việc xây dựng và hoàn thiện PLCT Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên
cứu này mới chỉ dừng lại ở thực tiễn và cách tiếp cận về kiểm soát TTKT của một
quốc gia là Liên bang Nga.
Đề tài Nghiên cứu khoa học sinh viên (năm 2015) “Pháp luật Hoa Kỳ về kiểm
soát tập trung kinh tế theo chiều dọc và hỗn hợp - Kinh nghiệm cho Việt Nam” của
nhóm tác giả Trần Ngọc Chính, Nguyễn Thục Anh, Nguyễn Công Danh, Nguyễn Tài
Tuệ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã giới thiệu những vấn đề cần
chú trọng để bảo đảm tính hiệu quả trong xây dựng hệ thống kiểm soát TTKT; khảo
sát chi tiết quy trình đánh giá vụ việc TTKT, quy trình phân tích hiệu quả kinh tế
trong phân tích vụ việc TTKT và đưa ra một số đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt
Nam. Nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở thực tiễn và cách tiếp cận về kiểm soát
TTKT của Hoa Kỳ ở một phạm vi tương đối hạn chế.

Sách tham khảo “Về trường phái kinh tế học pháp luật” của Viện Khoa học
pháp lý, Bộ Tư pháp. Sách này đã trình bày về trường phái kinh tế học pháp luật và
cách tiếp cận của trường phái này như một phương pháp nghiên cứu mới, có trong đó
có giới thiệu những vấn đề chung, lược sử quá trình hình thành và phát triển của
trường phái và nội dung cơ bản, các thiết chế sinh hoạt của trường phái kinh tế học
pháp luật. Trong sách tham khảo này đã có ghi nhận rằng việc kết hợp giữa lý luận
pháp luật với lý luận kinh tế cho tới những năm 60 của thế kỷ XX vẫn chỉ dừng lại ở
phạm vi tương đối hẹp, đó là lĩnh vực PLCT và các quy định của Chính phủ điều tiết
nền kinh tế (như thuế, giấy phép kinh doanh…). Đây vốn là các lĩnh vực mà những
thuật ngữ nền tảng của nó như thị trường, thị phần, quyền lực thị trường, cạnh tranh,
hiệu quả... là những thuật ngữ nền tảng của lĩnh vực kinh tế học. Ngoài ra, kinh tế
học pháp luật đã thực sự trở thành trường phái lý luận pháp luật ở nhiều quốc gia trên
thế giới. Trải qua quá trình hình thành và phát triển, trường phái này đã xác định được


18

tương đối rõ đối tượng và phương pháp nghiên cứu riêng với hệ thống phạm trù, khái
niệm khá đặc trưng. Nghiên cứu này đã cung cấp những nền tảng lý luận bước đầu
cho việc nghiên cứu TTKT và kiểm soát TTKT trên cơ sở kết hợp những luận thuyết
và tư duy kinh tế học và pháp lý.
Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Trường do TS. Phạm Trí Hùng làm Chủ nhiệm
“Ứng dụng trường phái kinh tế học pháp luật trong nghiên cứu, giảng dạy pháp luật
cạnh tranh”. Đề tài đã tiếp tục giới thiệu trường phái kinh tế học pháp luật, khả năng
ứng dụng trường phái này trong nghiên cứu, giảng dạy PLCT, làm rõ các vấn đề chung
và vấn đề cụ thể của PLCT từ góc độ các lý luận và phương pháp của trường phái kinh
tế học pháp luật. Nghiên cứu đã phân tích các khái niệm quan trọng của LCT liên quan
đến kiểm soát TTKT từ góc độ kinh tế học như thị trường, cấu trúc thị trường, mức độ
tập trung thị trường, rào cản đối với thị trường…Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, việc đánh
giá tác động cạnh tranh thường được các CQCT đánh giá trong các khuôn khổ thị

trường có ý nghĩa về mặt kinh tế (thị trường liên quan). Thị trường liên quan được xác
lập thông qua hai tiêu chí: sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm là đối tượng của giao dịch
(thị trường sản phẩm liên quan) và khu vực địa lý nơi giao dịch đó diễn ra (thị trường
địa lý liên quan). Đặc biệt là nghiên cứu đã chỉ ra cách thức mà các CQCT của các
nước ứng dụng phân tích kinh tế trong đánh giá tác động cạnh tranh của vụ việc TTKT
theo chiều ngang, chiều dọc và hỗn hợp. Đây là nền móng quan trọng góp phần củng
cố hướng nghiên cứu của luận án là hướng đến việc ứng dụng kết hợp tư duy kinh tế
và pháp lý trong việc phân tích, đánh giá tác động kinh tế của vụ việc TTKT.
 Nhóm các bài báo nghiên cứu
Tác giả Bùi Xuân Hải (2003) trong bài “Về mục tiêu và phạm vi điều chỉnh của
Luật Cạnh tranh”, Tạp chí Khoa học pháp lý (số 4) đã xác định các mục tiêu của LCT
trong nền KTTT ở nước ta; đưa ra phương pháp luận và ý kiến cụ thể về phạm vi điều
chỉnh của LCT. Tuy nhiên, bài viết này chỉ đề cập một nội dung quan trọng là cơ sở
cho sự hình thành và vận hành của PLCT Việt Nam và chưa đi vào nghiên cứu cụ thể
về pháp luật kiểm soát TTKT.
Tác giả Nguyễn Ngọc Sơn (2005) trong bài “Xác định thị trường liên quan theo
Luật Cạnh tranh 2004”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (số 11) đã phân tích vấn đề xác
định thị trường liên quan để làm căn cứ xác định thị phần và các chủ thể là đối thủ
cạnh tranh của nhau trên thị trường liên quan, trên cơ sở này để xác định đối tượng
và ngưỡng TTKT. Bài viết cũng đã chỉ ra những hạn chế và bất cập của các quy định
pháp luật về xác định thị trường liên quan và thị phần. Đây là những cơ sở lý luận


×