Tải bản đầy đủ (.pdf) (186 trang)

Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 186 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

QUẢN THỊ NGỌC THẢO

NGUY£N T¾C THÈM PH¸N Vµ HéI THÈM XÐT Xö §éC LËP
Vµ CHØ TU¢N THEO PH¸P LUËT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

QUẢN THỊ NGỌC THẢO

NGUY£N T¾C THÈM PH¸N Vµ HéI THÈM XÐT Xö §éC LËP
Vµ CHØ TU¢N THEO PH¸P LUËT
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 62 38 01 04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí
2. PGS.TS Nguyễn Tất Viễn

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi,
có sự hỗ trợ của các bạn bè, đồng nghiệp. Các số liệu nêu
trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận án chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Quản Thị Ngọc Thảo


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ..........................................................................................8
1.1.

Tình hình nghiên cứu trong nước .....................................................................8

1.2.

Tình hình nghiên cứu nước ngoài ...................................................................14


1.3.

Những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu ........................................18

Kết luận Chương 1 .....................................................................................................20
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC THẨM
PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO
PHÁP LUẬT TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................................22
2.1.

Nguồn gốc và khái niệm nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật .........................................................................22

2.2.

Ý nghĩa của việc quy định nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật...................................................................27

2.3.

Đặc điểm và nội dung của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật tố tụng hình sự ........................30

2.4.

Các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện nguyên tắc Thẩm
phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .........................48

2.5.


Quy định của luật tố tụng hình sự một số quốc gia về nguyên tắc Thẩm
phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .........................59

Kết luận Chương 2 .....................................................................................................67


Chương 3: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGUYÊN TẮC THẨM
PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO
PHÁP LUẬT TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG ...............................................................................68
3.1.

Lịch sử lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam về nguyên tắc Thẩm phán và
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .......................................68

3.2.

Đánh giá việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003, giai đoạn 2006-2015 .....................................................................86

3.3.

Đánh giá về các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện nguyên tắc
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ...................98

3.4.

Thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử từ phía Hội thẩm ...............................120


Kết luận Chương 3 ...................................................................................................124
Chương 4: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC
THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN
THEO PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ ......................125
4.1.

Yêu cầu khách quan bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .......................................................125

4.2.

Các giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .....................................................133

4.3.

Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán, Hội
thẩm trong quá trình xét xử vụ án hình sự ....................................................141

Kết luận Chương 4 ...................................................................................................147
KẾT LUẬN .............................................................................................................148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN.......................................................................................................151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................152
PHỤ LỤC ................................................................................................................166


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
QPPL:


Quy phạm pháp luật

TTHS:

Tố tụng hình sự

TAND:

Tòa án nhân dân

THTT:

Tiến hành tố tụng

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên bảng, biểu đồ

Bảng 3.1. Thống kê số lượng, tỉ lệ vụ án bị hủy, sửa


Trang
87

Biểu đồ 3.1. So sánh số lượng vụ án bị hủy, sửa, giám đốc
thẩm, tái thẩm trên tổng số vụ án đã xét xử

88

Biểu đồ 3.2. Diễn biến tỉ lệ vụ án bị hủy, sửa

88

Biểu đồ 3.3. Tương quan tỉ lệ về lí do hủy, sửa vụ án

89


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Đề tài
Tư pháp là hiện thân của công lý. Để công lý được đảm bảo và thực thi, tư
pháp cần phải được độc lập. Đó là một định đề được thừa nhận chung trong lịch sử
tư pháp của nhân loại. Trong xu hướng hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay,
độc lập trong hoạt động xét xử nói chung và trong tố tụng hình sự nói riêng đã được
ghi nhận trong Hiến pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới, không phụ thuộc
vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước.
Ở Việt Nam, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, hệ thống tư pháp
thực dân phong kiến bị xóa bỏ, hệ thống tư pháp của chính quyền dân chủ nhân dân
được thiết lập, nguyên tắc độc lập của Tòa án được ghi nhận từ rất sớm. Các bản

Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013 cũng như các sắc
lệnh, các đạo luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án đều ghi nhận nguyên tắc này.
Trong tiến trình cải cách tư pháp, nguyên tắc độc lập xét xử đã trở thành một trong
những nội dung được quan tâm nhất. Tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới đã chỉ rõ: “Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” [23, tr.2]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/06/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định nhiệm vụ đảm
bảo tính độc lập của Tòa án và các chức danh tư pháp trong hoạt động tố tụng,
hướng đến mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét
xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [25, tr.2].
Triển khai các nghị quyết nói trên, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ
trương, chính sách và giải pháp nhằm xác định rõ hơn vị thế, vai trò của Tòa án,
hoàn thiện một bước cơ cấu tổ chức, thẩm quyền của hệ thống Tòa án, tăng cường
1


năng lực cho đội ngũ Thẩm phán nhằm hướng tới thực hiện đúng đắn nguyên tắc
độc lập xét xử, nhất là trong quá trình xét xử các vụ án hình sự, đảm bảo mọi phán
quyết của Hội đồng xét xử phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa,
trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những
người tham gia tố tụng khác, vì xét xử các vụ án hình sự không chỉ liên quan đến tài
sản, quyền nhân thân mà còn liên quan cả đến tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của con người. Do vậy, để có được một bản án khách quan, nghiêm
minh, đúng pháp luật cần đến rất nhiều yếu tố, trong đó việc tuân thủ nguyên tắc
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (sau đây gọi là
nguyên tắc độc lập xét xử) có ý nghĩa quyết định.

Vấn đề có ý nghĩa quan trọng như vậy nhưng trong thực tiễn việc thực hiện
nguyên tắc độc lập xét xử chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cải cách tư pháp
về bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Các công trình nghiên cứu về tư pháp
tuy nhiều nhưng vẫn còn để ngỏ một số vấn đề quan trọng mà thực tiễn tư pháp hình
sự đặt ra đối với nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật trong luật TTHS. Những năm qua, có một số công trình nghiên cứu của
các tác giả về nguyên tắc độc lập xét xử nhưng thường khai thác ở khía cạnh chung,
từ góc độ tổ chức quyền lực tư pháp và hoạt động của Tòa án. Nguyên tắc độc lập
xét xử thường được xem xét với tính cách là một nguyên tắc hiến định, chung cho
tất cả các loại hình tố tụng tư pháp (tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành
chính). Tuy vậy, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống,
toàn diện, chuyên biệt về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam. Mặt khác, trong thực tiễn nhận thức
về nguyên tắc này trong các cơ quan và công chức nhà nước, kể cả công chức hoạt
động trong lĩnh vực tư pháp chưa thật đầy đủ; hoặc nhận thức được nhưng do những
lý do khách quan và chủ quan đã không thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Điều đó
không chỉ ảnh đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người mà còn làm
suy giảm niềm tin vào công lý.

2


Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, hội nhập về pháp luật và tư pháp ngày càng
sâu rộng đòi hỏi hệ thống tư pháp của nước ta dần tiến đến các tiêu chuẩn của một
nền tư pháp hiện đại, đủ khả năng bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ công lý, quyền con
người, quyền công dân như Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định, nhằm thúc đẩy thực
hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Điều đó vừa là nhu cầu tự thân của đổi mới hệ thống tư pháp, vừa là yêu cầu chung
để xây dựng nền tư pháp tiến bộ, văn minh trong Nhà nước pháp quyền hiện đại. Việc

nghiên cứu sâu và đầy đủ hơn nữa về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật, nhất là trong luật TTHS Việt Nam sẽ góp thêm cơ sở
lý luận và thực tiễn để tạo lập một cơ chế pháp lý phù hợp, bảo đảm thực hiện có hiệu
quả nguyên tắc này trong thực tiễn. Với những lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài
“Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
ở cấp độ luận án tiến sĩ là rất cần thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích
Mục đích của luận án là làm rõ cơ sở lý luận của nguyên tắc Thẩm phán và
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam; đánh
giá việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật trong thực tiễn tư pháp hình sự; đề xuất các giải pháp bảo đảm thực
hiện nguyên tắc này theo yêu cầu cải cách tư pháp.
* Nhiệm vụ
Để thực hiện mục tiêu nêu trên, luận án đề ra những nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận của việc quy định nguyên tắc Thẩm phán
và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam;
tính tất yếu của nguyên tắc này trong thể chế tư pháp với các mô hình tố tụng hình
sự khác nhau; khái niệm, đặc điểm, nội dung, các yếu tố ảnh hưởng đến nguyên tắc
độc lập xét xử.
Thứ hai, nghiên cứu các quy định pháp luật về nguyên tắc Thẩm phán và
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam từ
3


trước Cách mạng Tháng Tám đến nay. Đánh giá thực tiễn thực hiện nguyên tắc này
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Thứ ba, đề xuất, luận chứng các yêu cầu, giải pháp bảo đảm thực hiện
nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong
luật TTHS Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
* Đối tượng nghiên cứu: là các vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên tắc
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS
Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu: luận án tập trung xác định và giới hạn nghiên cứu
đối với những yếu tố cơ bản nhất, cần thiết nhất tác động, ảnh hưởng đến việc thực
hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự theo Bộ luật TTHS năm 2003. Từ đó đề
xuất những giải pháp nhằm đảm bảo khắc phục những bất cập, hạn chế khi áp dụng
nguyên tắc này.
Về không gian nghiên cứu: luận án chỉ tập trung nghiên cứu ở Việt Nam.
Tuy nhiên, để phục vụ cho việc so sánh, đối chiếu cơ sở pháp lý và thực tiễn về
nguyên tắc này ở Việt Nam, luận án có tìm hiểu các quan niệm, quy định pháp luật
quốc tế về nguyên tắc độc lập xét xử.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Một số nguyên lý, quy luật và phạm trù của chủ
nghĩa duy vật biện chứng được vận dụng để nghiên cứu luận án. Thông qua đó làm
rõ mối tương quan giữa yêu cầu của pháp luật về độc lập xét xử và khả năng hiện
thực để thực hiện các yêu cầu đó. Đồng thời xem xét các hiện tượng phát sinh trong
quá trình thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử trong mối liên hệ hữu cơ với các yếu
tố như chính sách hình sự, thể chế pháp lý, nhân lực, cơ sở vật chất bảo đảm cho
hoạt động tư pháp độc lập.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận án gồm:
4


- Phương pháp phân tích được dùng để xác định mối liên hệ giữa cái chung
(độc lập xét xử của tư pháp nói chung) với cái riêng (độc lập xét xử trong các thủ
tục tố tụng tư pháp hình sự, dân sự, hành chính) và cái đặc thù (độc lập xét xử trong

các vụ án hình sự) để chia nhỏ các vấn đề nghiên cứu một cách chi tiết, đầy đủ
những biểu hiện cụ thể của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam.
- Phương pháp tổng hợp để tóm lược một cách khái quát tất cả những vấn đề
nhỏ đã được chia ra để nghiên cứu. Trên cơ sở đó xây dựng khái niệm về nguyên
tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật sau khi đã
phân tích các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra xã hội học được vận dụng trong quá trình khảo sát
thực tế, nhận định, đánh giá về việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam.
- Phương pháp hệ thống được dùng nghiên cứu về quá trình hình thành, phát
triển của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật trong luật TTHS nước ta trước Cách mạng tháng Tám đến nay, trên cơ sở đó rút
ra những nhận xét về tính thống nhất của việc quy định nguyên tắc này trong pháp
luật TTHS, phù hợp với hệ thống pháp luật và điều kiện cụ thể của nước ta trong
mỗi thời kỳ lịch sử.
- Phương pháp so sánh được dùng khi đánh giá sự khác biệt hoặc tương đồng
giữa các QPPL về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật của các quốc gia theo các hệ thống pháp luật và các mô hình TTHS
khác nhau. Đồng thời cũng dùng để so sánh các QPPL hình sự Việt Nam ở giai
đoạn lịch sử này với giai đoạn lịch sử khác.
- Phương pháp lịch sử cụ thể xem xét các quy định của pháp luật về nguyên
tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật
TTHS ở từng giai đoạn lịch sử nhất định để bảo đảm tính khách quan, tránh việc
áp đặt duy ý chí khi đánh giá về lịch sử pháp luật nói chung, lịch sử pháp luật
TTHS nói riêng.

5



- Hướng tiếp cận của luận án:
Tiếp cận dưới góc độ pháp lý hình sự và TTHS: Trên cơ sở lý luận và lịch sử
về nhà nước, các học thuyết tổ chức quyền lực nhà nước về mô hình TTHS là cơ sở
quan trọng để xem xét, nghiên cứu về nội dung, ý nghĩa và các yếu tố tác động đến
việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật trong luật TTHS Việt Nam.
Tiếp cận hệ thống: phân tích và đánh giá các nội dung và các yếu tố bảo đảm
thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử trong một thể thống nhất.
Tiếp cận liên ngành: có sự phối hợp của nhiều ngành khoa học xã hội nhân
văn như luật học so sánh, xã hội học, khoa học lịch sử, chính trị học...
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án đã khái quát sự hình thành và phát triển của tư tưởng độc
lập xét xử như là một giá trị chung, tiến bộ của nhân loại, đã được ghi nhận thành một
nguyên tắc pháp lý quan trọng trong các đạo luật cơ bản của nhiều quốc gia, qua đó
xác định tính chất đặc trưng của nguyên tắc độc lập xét xử trong luật TTHS.
Thứ hai, luận án đã đưa ra khái niệm về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam; phân tích nội
dung của nguyên tắc này trong xét xử vụ án hình sự.
Thứ ba, luận án xác định được các yếu tố phổ quát và yếu tố đặc thù ảnh
hưởng đến việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật trong luật TTHS Việt Nam.
Thứ tư, trên cơ sở đánh giá thực trạng áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Bộ luật TTHS năm 2003,
đưa ra các giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tình hình mới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả của luận án góp phần làm rõ, phát triển và bổ sung cơ sở lý luận
của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

6



trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS, làm cơ sở cho các hoạt động
xây dựng pháp luật TTHS, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
- Kết quả nghiên cứu của luận án dùng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy và
học tập tại các cơ sở đào tạo Luật.
- Kết quả nghiên cứu luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các
cơ quan lập pháp và các cơ quan THTT trong lĩnh vực tư pháp, là nguồn tham khảo
đối với việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS. Đồng thời góp phần tạo nhận thức
đúng đắn cho cán bộ có chức danh tư pháp, cán bộ trong các tổ chức Đảng, đoàn thể
và các cơ quan nhà nước về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật của Tòa án, khắc phục những hiện tượng can thiệp vào hoạt
động xét xử, gây áp lực đối với Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử nói chung, xét
xử các vụ án hình sự nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm bốn
chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2: Những vấn đề lý luận về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét
xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật tố tụng hình sự.
Chương 3: Các quy định pháp luật về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật tố tụng hình sự Việt Nam và
thực tiễn áp dụng.
Chương 4: Các giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử vụ án hình sự.

7


Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Nguyên tắc độc lập xét xử được quy định ngay từ Sắc lệnh số 13/SL ngày
24/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về
tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán: “Mỗi Thẩm phán xử án quyết định
theo pháp luật và lương tâm của mình. Không quyền lực nào được can thiệp trực
tiếp hay gián tiếp vào công việc xử án” [118, tr.428]. Nguyên tắc này tiếp tục quy
định tại Hiến pháp năm 1946 và các bản Hiến pháp sau này. Tuy nhiên, trong hoạt
động tư pháp những năm đầu kháng chiến đã phát sinh một số vấn đề cần được
nghiên cứu làm rõ đối với việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử. Điều này được
thể hiện qua cuộc tranh luận gay gắt trên Báo Sự Thật của Đảng Cộng sản Đông
Dương trong các năm 1947, 1948 giữa học giả Quang Đạm và một số cán bộ tư
pháp về độc lập của Tòa án, qua đó làm sáng tỏ một số nội dung mới của nguyên tắc
này trong thể chế của Nhà nước dân chủ nhân dân.
Khi công cuộc đổi mới bắt đầu, cải cách tư pháp mà trọng tâm là hoạt động
xét xử và bảo đảm cho Tòa án độc lập đã được nghiên cứu nhiều hơn so với giai
đoạn trước. Tuy nhiên, việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
mới chỉ dừng lại ở mức độ ban đầu, mang tính khái lược, chủ yếu ở giáo trình Luật
TTHS của các cơ sở đào tạo; Bình luận khoa học các điều luật của Bộ luật TTHS,
sách chuyên khảo mà chưa có những nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về nguyên
tắc này. Các công trình nghiên cứu giai đoạn này có một phần nội dung trực tiếp đề
cập đến nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật như: cuốn Bình luận khoa học Bộ luật TTHS năm 1988 của Viện Khoa học
pháp lý (NXB Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999) [114]; Bình luận khoa học Bộ
luật TTHS năm 2003 do PGS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên (NXB Công an nhân dân

8



năm 2004) [125] chỉ ra cơ sở của việc quy định nguyên tắc này trong Bộ luật TTHS
là xuất phát từ nguyên tắc Hiến định về tổ chức và hoạt động của Tòa án; Bình luận
khoa học Bộ luật TTHS năm 2003 của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, NXB
Chính trị Quốc gia năm 2005 [117] đã có sự phân tích sâu hơn nguyên tắc này. Bên
cạnh đó có một số Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của các cơ sở đào tạo luật ở bậc
đại học như: Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, năm 2001 do PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí chủ biên [14]; Giáo trình Luật TTHS
Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2011 do PGS.TS Hoàng Thị Minh
Sơn chủ biên [78] đều phân tích các nguyên tắc của luật TTHS và cụ thể là nguyên
tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, ghi nhận đó
là một nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư pháp; về nội dung, nguyên tắc độc lập
xét xử của Tòa án được đề cập theo cách giải thích tại sao phải thực hiện sự độc lập
này và các biện pháp đảm bảo cho Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật. Như vậy, các cuốn Bình luận khoa học Bộ luật TTHS và các giáo trình
luật TTHS, sách chuyên khảo mới chỉ giới thiệu ở mức độ rất khái quát mà chưa
bàn một cách toàn diện nội dung của nguyên tắc độc lập xét xử trong luật TTHS.
Sau này, các cuốn sách chuyên khảo có nội dung liên quan nhiều đến nguyên tắc
độc lập xét xử như: cuốn sách do GS.TSKH. Đào Trí Úc chủ biên: “Hệ thống tư
pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,
2002 [97]. Cuốn sách đã đề cập đến các khái niệm cơ bản như hệ thống tư pháp,
cơ quan tư pháp, vai trò trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp; vai trò của
cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong hệ thống tư pháp; các nguyên tắc và điều
kiện đổi mới hệ thống tư pháp, xác định độc lập xét xử là một trong những mục
tiêu quan trọng của cải cách tư pháp. Cuốn sách do GS.TSKH. Lê Cảm và PGS.TS.
Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004 [6]. Cuốn sách là
kết quả của hội thảo khoa học về chủ đề cải cách tư pháp do Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội tổ chức, bao gồm nhiều bài viết của các nhà khoa học về quyền
lực tư pháp, về thủ tục tố tụng tư pháp, về mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực tư

pháp, hành pháp, lập pháp và những phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động

9


của các cơ quan tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN,
trong đó xác định độc lập xét xử là nguyên tắc cơ bản nhất của tư pháp trong Nhà
nước pháp quyền XHCN, nêu được một số hạn chế trong thực hiện nguyên tắc này
và kiến nghị giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử trong điều kiện
cải cách tư pháp. Cuốn “Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền” do PGS.TS.
Nguyễn Đăng Dung chủ biên, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2004 [16]. Cuốn sách lần đầu
tiên nêu khái niệm thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, thể chế tư pháp với
việc thực hiện các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền và các loại hình thể chế tư
pháp với một số mô hình tổ chức tư pháp đặc trưng trên thế giới. Tác giả cũng đã
nêu và phân tích quá trình hình thành và phát triển của hệ thống Tòa án và những
vấn đề đặt ra cho cải cách tư pháp ở Việt Nam. Điểm nhấn của công trình này là nêu
và phân tích được độc lập tư pháp là một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà
nước pháp quyền, đề xuất một số biện pháp thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử
trong tình hình hiện nay. Cuốn sách của TS. Tô Văn Hòa: “Tính độc lập của Tòa án
- nghiên cứu pháp lý về các khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam
và các kiến nghị đối với Việt Nam”, NXB Lao động, Hà Nội, 2007 [36], bàn về một
số đặc trưng của hoạt động xét xử ở các nền tư pháp theo hệ thống pháp luật khác
nhau. Đồng thời nêu những giá trị chung của tư pháp đó là nguyên tắc độc lập của
Tòa án như là một nguyên tắc không thể thiếu trong tổ chức thực hiện quyền tư
pháp ở các nhà nước đương đại. Tác giả cũng phân tích về nguyên tắc độc lập xét
xử trong pháp luật Việt Nam, nêu ra giới hạn thời gian của nguyên tắc, sự bảo đảm
hiến định, các biện pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử nói chung đối
với các loại thủ tục tố tụng tư pháp, tính độc lập của cá nhân Thẩm phán... và đưa ra
một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn nguyên tắc này. Cuốn sách của LS.TS.
Lưu Tiến Dũng “Độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam”, NXB Tư

pháp, Hà Nội, 2012 [20] đã làm rõ các cơ sở khoa học của độc lập xét xử, nhiều
công trình nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau nhưng đều có một kết luận thống
nhất rằng độc lập xét xử là thuộc tính không thể thiếu được của bất kỳ nền tư pháp
nào. Sự độc lập đó có thể theo chiều ngang hoặc chiều dọc, nhưng dù theo chiều
nào thì bản lĩnh, sự kiên định và năng lực toàn diện của Thẩm phán vẫn là các yếu

10


tố quyết định cho sự độc lập của họ khi xét xử. Tác giả cũng nêu vai trò quan trọng
của độc lập xét xử trong một Nhà nước pháp quyền và những yếu tố cơ bản bảo
đảm độc lập xét xử. Thông qua việc đánh giá thực trạng các cơ sở hiến định và pháp
luật về độc lập xét xử nhìn từ góc độ tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước và
thực tiễn thi hành, nhận thức rõ vai trò quan trọng của độc lập xét xử trong một Nhà
nước pháp quyền bảo đảm thực thi quyền con người, tác giả đã đưa ra các giải pháp
nhằm tăng cường độc lập xét xử trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN và công cuộc cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta. Cuốn sách “Cải cách tư
pháp vì một nền tư pháp liêm chính” do GS.TSKH. Đào Trí Úc và PGS.TS. Vũ
Công Giao chủ biên, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014 [101] đã đề cập một số
vấn đề lý luận về bản chất, đặc điểm, các nguyên tắc chủ đạo của quyền tư pháp, về
tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, về tính độc lập như là một đặc trưng cơ bản
nhất của quyền tư pháp, về vị trí trung tâm của Tòa án trong cải cách tư pháp ở Việt
Nam trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Đồng thời cũng nêu các
giải pháp bảo đảm sự liêm chính của tư pháp để Tòa án được độc lập. Cuốn “Độc
lập tư pháp ở Việt Nam và tiêu chí đánh giá” do GS.TS Lê Hồng Hạnh và TS. Đặng
Công Cường chủ biên, NXB Hồng Đức, Hà Nội, 2015 đã nghiên cứu độc lập tư
pháp trên cơ sở triết lý kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền bằng tư
pháp độc lập. Coi độc lập tư pháp là “giá trị vĩ đại của nhân loại trong tổ chức và
thực thi quyền lực nhà nước” [34, tr.5]. Các tác giả nghiên cứu khá sâu về thực trạng
độc lập tư pháp ở Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới; sự đánh giá của công

chúng về độc lập tư pháp; đưa ra những khuyến nghị về độc lập tư pháp theo tinh thần
cải cách tư pháp. Cuốn sách đã góp phần làm rõ hơn những trở ngại của độc lập tư
pháp ở nước ta, xác định những trở ngại nào có thể khắc phục được trong điều kiện đặc
thù của Việt Nam, tạo cho các cơ quan nhà nước cũng như các tổ chức xã hội bộ công
cụ đánh giá độc lập tư pháp, mức độ đảm bảo công lý cho những cá nhân, tổ chức bị
vi phạm, bị xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp.
Ở cấp độ Luận án tiến sĩ, có Luận án của tác giả Nguyễn Hải Ninh “Các yếu
tố bảo đảm độc lập xét xử ở Việt Nam hiện nay”, bảo vệ tại Viện Nhà nước và Pháp
luật năm 2013, nghiên cứu từ khía cạnh các yếu tố vật chất và phi vật chất bảo đảm
11


cho độc lập xét xử, từ việc hoàn thiện thể chế pháp lý, cách thức tổ chức và quản lý
các Tòa án, công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn, bổ nhiệm đội ngũ Thẩm phán,
chế độ và chính sách đãi ngộ đối với họ, đến việc tạo cơ chế thích hợp để cho họ
được thực sự độc lập như pháp luật quy định. Một số bài viết nghiên cứu khác của
tác giả Nguyễn Hải Ninh: “Sự hình thành và phát triển tư tưởng độc lập xét xử”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10/2012 [58], “Quan niệm khoa học về độc lập
xét xử”, Tạp chí Thanh tra số 10/2012 [57], các bài viết nêu được quá trình hình
thành tư tưởng về độc lập xét xử trong lịch sử học thuyết về tư pháp và nội hàm
chính của khái niệm độc lập xét xử là sự không lệ thuộc của Tòa án, Thẩm phán vào
bất cứ cá nhân hay tổ chức nào, thiết chế nào trong khi xét xử vụ án để ra các phán
quyết nghiêm minh, đúng pháp luật, bảo đảm công lý, công bằng.
Một số đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ tuy không nghiên cứu trực tiếp
về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
trong luật TTHS nhưng đã dành một phần nhất định trong nội dung để nghiên cứu
nguyên tắc này dưới góc độ bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đề tài khoa
học đặc biệt cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, Mã số QG.07.37 “Nâng cao hiệu quả
của hệ thống tư pháp hình sự phục vụ Chiến lược cải cách tư pháp” do TSKH.GS.
Lê Văn Cảm làm Chủ nhiệm, bảo vệ năm 2009 nghiên cứu sâu về tổ chức, cơ cấu

của hệ thống tư pháp hình sự và vai trò của hệ thống đó trong việc thúc đẩy cải cách
tư pháp [7]. Đề tài xác định bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án, trực tiếp
là Thẩm phán, Hội thẩm sẽ là yếu tố rất quan trọng để công lý được thực hiện trong
thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, bảo đảm hiệu quả của hệ thống tư pháp hình sự,
quyền con người, quyền công dân. Đề tài khoa học cấp Nhà nước mã số KX04.06:
“Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao
hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án trong Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân” do TS. Uông Chu Lưu làm Chủ nhiệm, nghiệm thu 2006 [50] có
nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến tính độc lập của Tòa án trong Nhà nước pháp
quyền XHCN. Đề tài đã nêu được khái niệm, vị trí, vai trò, của Tòa án trong bộ máy
nhà nước, nội dung của thủ tục tư pháp hình sự và vấn đề nâng cao hiệu quả và hiệu
lực xét xử của Toà án đối với các vụ án hình sự; khẳng định nguyên tắc độc lập xét
12


xử có được thực hiện nghiêm chỉnh thì hiệu quả xét xử mới được bảo đảm. Đề tài
khoa học cấp nhà nước, Mã số ĐTĐL.2009G/13: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” do TS. Lê
Hữu Thể làm Chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2011 [89] đã luận chứng, làm rõ những
vấn đề lý luận chung về thủ tục tố tụng, mô hình TTHS; các nguyên tắc cơ bản của
TTHS; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng. Trên cơ sở đánh giá đúng đắn
những tồn tại, hạn chế, vướng mắc, bất cập trong pháp luật TTHS hiện hành khi
thực hiện trong thực tiễn, chỉ ra những tiền đề, thách thức và các yêu cầu của cải
cách tư pháp, trong đó độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm là một trong
những vấn đề còn vướng mắc trong thực tiễn, cần được khắc phục bằng một cơ chế
pháp lý phù hợp. Đề tài đã đề xuất các hướng hoàn thiện, đổi mới mô hình TTHS và
pháp luật TTHS ở nước ta hiện nay theo hướng nâng cao năng lực của cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, bảo đảm tốt hơn tính độc lập của Tòa án. Ngoài ra, còn có một số
bài viết được công bố trên các tạp chí, diễn đàn khoa học pháp lý liên quan đến
nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đó là

bài viết của các tác giả như: Nguyễn Ngọc Chí: “Một số yếu tố ảnh hưởng đến
nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2009 [13]; Đinh Thế Hưng: “Tiếp tục bàn về
sự độc lập của Thẩm phán”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9/2010 [42]; Trần
Văn Độ: “Sửa đổi, bổ sung các quy định của Hiến pháp năm 1992 về các cơ quan
tư pháp”, Tạp chí Cộng sản số 845 số 3/2013 [30]; Nguyễn Tất Viễn: “Trao đổi ý
kiến: tổ chức Tòa án theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW về cải cách tư pháp,
bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử, 2010[122]…
Các công trình trên đều là những đề tài nghiên cứu hết sức quan trọng, đề
cập sự độc lập của nhánh quyền lực tư pháp, của Tòa án là một thiết chế thực thi
quyền lực tư pháp và Thẩm phán, Hội thẩm là những con người trong thiết chế đó
có trách nhiệm thực hiện chức năng xét xử. Trong quá trình thực hiện luận án, tác
giả có kế thừa những kết quả nghiên cứu trên. Tuy nhiên có một điểm đặc biệt, chủ
yếu những công trình khoa học trên được các tác giả nghiên cứu và tiếp cận vấn đề
từ khía cạnh Luật học so sánh, Lý luận nhà nước và pháp luật, Luật Hiến pháp, nhìn
13


nhận, phân tích, đánh giá dưới góc nhìn tư pháp nói chung, hoạt động xét xử của
Tòa án chung mà ít đi sâu vào lĩnh vực tư pháp hình sự, càng không tiếp cận từ góc
độ là một nguyên tắc của luật thủ tục trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
1.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài
Trong số các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, đối với các nước phát
triển, có nền tư pháp ổn định hàng thế kỷ qua, vấn đề độc lập của Tòa án tuy có
được bàn đến nhưng ít hơn so với các nước đang phát triển và các nước kém phát
triển. Đối với các nước XHCN trước đây cũng như hiện nay, vấn đề độc lập xét xử
luôn được quan tâm nghiên cứu do cách thức tổ chức và hoạt động của hệ thống tư
pháp khác về cơ bản so với các nước tư bản chủ nghĩa. Ở thời điểm Liên Xô tan rã,
đã có một số công trình nghiên cứu về độc lập của tư pháp. Điển hình là Luận án
TSKH. của tác giả L.B A-lêch-xây-ep-va, Matxcơva “Quyền tư pháp trong Nhà

nước pháp quyền” (Bản tóm tắt, 1992) [151], đề cập đến các nguyên tắc tổ chức và
thực hiện quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền ở Liên Xô (cũ), trong đó nhấn
mạnh mục tiêu của cải cách tư pháp là thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa
án. Sau năm 1991, nước Nga cũng như các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ thay đổi
cách thức tổ chức nhà nước theo nguyên tắc phân chia quyền lực thì các công trình
nghiên cứu về quyền tư pháp và độc lập xét xử xuất hiện nhiều hơn thời kỳ Xô-viết.
Trước hết phải kể đến các công trình như: Luận án TSKH. của V.V E-rơ-shôp
“Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền”- Bản tóm tắt, Matxcơva, (2003) [152].
Các công trình nói trên đều đề cập đến quyền tư pháp như là một nhánh quyền lực
độc lập trong cơ chế phân chia quyền lực của thể chế chính trị Liên bang Nga thời
kỳ hậu Xô-viết. Nhánh quyền lực đó đặc trưng bởi nguyên tắc Tòa án độc lập trong
hoạt động của mình, không ai có quyền can thiệp vào việc xét xử của Tòa án, xác
định chính Tòa án là cơ quan bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp và luật trong
Nhà nước pháp quyền. Ngoài ra, có nhiều công trình trực tiếp nghiên cứu về độc lập
xét xử của các Tòa án ở Liên bang Nga như: cuốn sách của Giu-ba E.P. “Các xu
hướng đương đại phát triển nguyên tắc độc lập của Thẩm phán”, Học viện Nhà
nước và pháp luật Xa-ra-tốp, (2008) [153] nêu rõ các xu hướng khác nhau trong

14


việc quy định và thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán trong hệ thống
tố tụng tranh tụng, hệ thống tố tụng xét hỏi và hệ thống tố tụng kết hợp giữa xét hỏi
và tranh tụng. Đồng thời nêu các khó khăn, trở ngại trong thực hiện nguyên tắc này,
nhất là ở các nước kém phát triển. Trong cuốn sách chuyên khảo của tác giả
V.C.Cô-dư-rep “Các nguyên tắc của quyền lực tư pháp”, NXB Khoa học nhân văn
Matxcơva, (2013) [149], nêu các vấn đề về nội dung và các biện pháp thực thi
nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật của các Thẩm phán Tòa án
thẩm quyền chung (xét xử hình sự, dân sự), Tòa án trọng tài, Tòa án Hiến pháp ở
Liên bang Nga. Đặc biệt tài liệu của bốn Giáo sư trong Nhóm cố vấn của Tổng

thống Liên bang Nga về cải cách tư pháp “Luận cương về cải cách tư pháp ở Liên
bang Nga”, (Ôm-xcơ, 2011) [156] đã nêu rõ mục tiêu của cải cách tư pháp ở Liên
bang Nga là bảo đảm độc lập xét xử của Tòa án. Các tác giả cho rằng nếu quan
niệm rằng hành chính lẫn với tư pháp là vi phạm nguyên tắc độc lập xét xử đã
được Hiến pháp quy định. Đồng thời nêu rõ cần tuyên chiến với hiện tượng “chỉ
đạo qua điện thoại” của các nhân viên hành pháp hay cán bộ của Đảng như là một
hiện tượng tiêu cực từ thời kỳ chính quyền Xô-viết còn sót lại. Hiện tượng này khá
phổ biến trong thời kỳ Xô-viết, diễn ra không phải chỉ ở một Tòa án, khi mà Tòa
án lệ thuộc không ít vào chính quyền và cấp ủy ở địa phương. Các tác giả cho rằng
giải pháp mang tính “chìa khóa” để mở ra khả năng thực hiện đầy đủ và nghiêm
túc nguyên tắc độc lập xét xử là tổ chức Tòa án theo thẩm quyền, không phụ thuộc
đơn vị hành chính; hoạt động của Tòa án phải công khai, minh bạch; Thẩm phán
phải trong sáng, liêm chính; việc quản lý ngân sách của Tòa án phải do một cơ
quan độc lập thực hiện, đó là Cơ quan quản lý Tòa án của Liên bang (tương đương
Hội đồng tư pháp quốc gia); tăng cường sự giám sát của nhân dân đối với việc xét
xử của Tòa án…
Ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, độc lập xét xử của Tòa án và Thẩm phán
cũng là vấn đề được quan tâm nhiều trong các công trình nghiên cứu của các luật
gia. Trong Sách trắng “Xây dựng chính trị dân chủ của Trung Quốc”, do Văn phòng
báo chí Quốc vụ viện Trung Quốc công bố, được Thông tấn xã Việt Nam dịch và
xuất bản năm 2005 [90, tr.45] đã nêu rõ: cơ quan tư pháp của Trung Quốc lấy sự
15


thật làm căn cứ, lấy luật pháp làm tiêu chuẩn, dựa vào luật pháp mà nghiêm khắc
trừng trị kẻ phạm tội, bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho công dân. Tiếp theo phải kể
đến các công trình nghiên cứu của học giả Trung Quốc được Viện nghiên cứu
Trung Quốc tổng thuật trong cuốn “Cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc” (1978
- 2003), do TS. Đỗ Tiến Sâm chủ biên, NXB Khoa học xã hội, 2003 [74] đã đề cập
đến một nền tư pháp XHCN công minh, độc lập. Tư pháp công minh, độc lập có vai

trò dẫn dắt quan trọng đối với công bằng xã hội, tư pháp không công minh sẽ phá
hoại công bằng xã hội. Tại Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng
Cộng sản Trung Quốc về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN diễn ra tại Việt
Nam (tháng 11/2014), tác giả Vương Hồng Tường (Trung quốc) trong tham luận
“Đẩy nhanh xây dựng chế độ tư pháp xã hội chủ nghĩa công bằng, hiệu quả, uy tín”
đã nêu mối tương quan giữa độc lập của Tòa án và chế độ pháp trị XHCN, về các
biện pháp chính trị và pháp lý bảo đảm cho Tòa án thực hiện chức trách, quyền lực
độc lập, công bằng theo pháp luật trên cơ sở luận điểm cơ bản của Đảng Cộng sản
Trung Quốc về phương thức cầm quyền của Đảng với phương châm rất rõ ràng:
Đảng lãnh đạo lập pháp, thúc đẩy hành pháp và bảo đảm tư pháp độc lập.
Ở các quốc gia khác, các nghiên cứu về độc lập xét xử được thực hiện khá
công phu, với phương pháp khảo sát hiện đại, tập trung vào những nội dung cơ bản
về tính độc lập xét xử của Tòa án các khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Thời gian
gần đây, nhiều hoạt động nghiên cứu được thực hiện với sự hỗ trợ của Liên hợp
quốc nhằm xác định các tiêu chuẩn cụ thể về độc lập xét xử ở từng khu vực, với
mục đích thúc đẩy việc bảo đảm xây dựng Nhà nước pháp quyền ở các quốc gia
thành viên. Tuy nhiên, các nghiên cứu này cũng không tập trung sâu vào vai trò độc
lập của Thẩm phán mà chỉ về các vấn đề liên quan đến lịch sử hình thành và phát
triển của tư tưởng độc lập xét xử như: bài tham luận Thẩm phán William Kelly
(Canada)-An independent judiciary: the core of the rule of law (Độc lập xét xử: cốt
lõi của pháp quyền); Joseph b Diescho - The paradigm of an independent judiciary:
Its history, implications and limitations in Africa (Mô hình Độc lập xét xử: lịch sử
của nó, ý nghĩa và giới hạn ở Châu Phi) cho rằng nguồn gốc của tư tưởng độc lập
xét xử trong quá trình phát triển của nhà nước tư sản ở Châu Âu.
16


Thẩm phán Brooke: Judicial Independence - Its history in England and
Wales (Độc lập xét xử - lịch sử của nó ở Anh và xứ Wales) đã chứng minh xuất
phát điểm của độc lập xét xử gắn với sự hạn chế quyền lực của nhà vua trong Roger

K. Warren: The Importance of Judicial Independence and Accountability (Tầm
quan trọng của Độc lập xét xử và trách nhiệm giải trình) và khẳng định nước Mỹ
chính là nơi nguyên tắc độc lập xét xử được phát triển ở mức độ cao hơn so với
chính quốc. Năm 2012, NXB Wadsworth Publishing đã cho tái bản lần thứ 6 cuốn
“Judicial Process: Law, Courts, and Politics in the United States” (Thủ tục tư pháp:
Pháp luật, các Tòa án, và Chính trị ở Hoa Kỳ) của các tác giả: David W. Neubauer;
Stephen S. Meinhold. Cuốn sách nghiên cứu sâu về thủ tục tư pháp trong hệ thống
pháp luật Hoa Kỳ như tổ chức hệ thống Tòa án, thủ tục tố tụng hình sự, thủ tục tố
tụng dân sự, vai trò và ảnh hưởng của Tòa án thông qua các án lệ điển hình của Hoa
Kỳ và một số Tòa án khác trên thế giới.
Ở Cộng hòa Liên bang Đức có các cuốn sách về đề tài quyền tư pháp độc lập
như: tác giả Fabian Wittresk, Tubingen: “Quản lý quyền lực thứ ba”, (2006); Andre
Brodock, Wiesbaden: “Quyền lực tư pháp” (2009) và một số công trình khác. Các
công trình này đề cập sự ra đời của quyền tư pháp, vai trò độc lập của quyền tư
pháp trong hệ thống quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa quyền tư pháp với các
nhánh quyền lập pháp và hành pháp trong cơ chế phân chia quyền lực, quyền tư
pháp với việc bảo vệ quyền con người…
Gần đây nhất, Hội nghị quốc tế thường niên lần thứ 19 về tư pháp tổ chức tại
Washington D.C, Hoa Kỳ từ ngày 18/5 đến ngày 21/5/2016 với các chủ đề liên
quan đến độc lập xét xử của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền: (i) Sáng kiến pháp
quyền với trọng tâm là Tòa án, (ii) Quản trị Tòa án và quản lý vụ việc; (iii) Bảo vệ
quyền con người; (iv) Minh bạch tư pháp; (v) Minh bạch và đạo đức tư pháp. Thành
phần tham dự Hội thảo gồm 116 đại biểu đến từ 41 nước là các Thẩm phán, cán bộ
làm công tác pháp luật. Đoàn Việt Nam cùng nhiều nước trên thế giới đã tập trung
trao đổi, thảo luận về các vấn đề liên quan nhằm hỗ trợ tư pháp độc lập và đẩy mạnh
pháp quyền trong xét xử. Các diễn giả đều khẳng định giá trị của sáng kiến xây

17



dựng Nhà nước pháp quyền và vai trò của tư pháp độc lập trong Nhà nước pháp
quyền. Đại diện của các tổ chức xã hội cùng với Thẩm phán của các nước đã trình
bày những dự kiến về cách thức phối hợp của các tổ chức xã hội nhằm tăng cường
tính độc lập và tính minh bạch trong hệ thống tư pháp, trong đó có hoạt động xây
dựng bộ quy tắc đạo đức tư pháp, hoàn thiện công tác đào tạo Thẩm phán. Nhiều
đại biểu cho rằng không thể có pháp quyền nếu thiếu độc lập tư pháp. Nếu bất cứ
nhánh quyền lực chính trị nào (hành pháp – lập pháp) kiểm soát tư pháp thì pháp
quyền không còn nữa. Mặc dù Hiến pháp đã phân chia quyền lực thành ba nhánh
riêng biệt nhưng nhánh yếu thế nhất vẫn là nhánh tư pháp. Vậy làm cách nào để bảo
vệ nhánh yếu nhất này? Nó có thể trở thành độc lập và bình đẳng được không? Vấn
đề mấu chốt là nhánh tư pháp sẽ được bình đẳng với các nhánh khác nếu người dân
muốn nó bình đẳng. Nếu người dân tin rằng đất nước sẽ tốt hơn, an toàn hơn khi có
một nền tư pháp độc lập, người dân sẽ đòi hỏi điều đó.
Những nội dung liên quan đến nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật chưa được các công trình nghiên cứu và làm rõ:
- Các nghiên cứu nói trên đều tiến hành trong phạm vi và hoàn cảnh của các
nước có cơ chế tam quyền phân lập hướng đến việc tăng cường tính độc lập, tự chủ
của quyền tư pháp, việc giám sát của quyền tư pháp đối với hành pháp và lập pháp
và việc giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp.
- Ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu ở cấp độ luận án tiến sĩ một
cách toàn diện và có hệ thống về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
1.3. Những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu
Nghiên cứu các công trình khoa học trong và ngoài nước cho thấy đề tài về
nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án nói chung và nguyên tắc Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong luật TTHS nói riêng đã được
xem xét, nghiên cứu ở các góc độ, quy mô và phạm vi khác nhau, có thể rút ra một
số nhận xét sau đây: thứ nhất, số tác giả nghiên cứu trực tiếp về nguyên tắc này
trong lĩnh vực TTHS Việt Nam không nhiều; thứ hai, việc nghiên cứu chủ yếu ở


18


×