Tải bản đầy đủ (.pdf) (223 trang)

Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động theo pháp luật lao động Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 223 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

MAI VĂN DUẨN

PH¸P LUËT Về BảO Vệ NGƯờI Tố CáO
ở VIệT NAM HIệN NAY

LUN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

MAI VĂN DUẨN

PH¸P LUËT Về BảO Vệ NGƯờI Tố CáO
ở VIệT NAM HIệN NAY
Chuyờn ngành: Lý luận và Lịch sử nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 62 38 01 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Hoàng Anh
2. PGS.TS Vũ Công Giao

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả, số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng, chính xác do các cơ quan chức năng đã cơng bố. Những kết luận
khoa học của luận án là mới và chưa từng được cơng bố trong bất cứ
cơng trình khoa học nào.
Tác giả luận án

Mai Văn Duẩn


LỜI CẢM ƠN
Với lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn
tới PGS. TS. Nguyễn Hồng Anh và PGS. TS. Vũ Cơng Giao, những
người Thầy đã tận tình hướng dẫn tơi nghiên cứu, học tập; dành nhiều
thời gian quý báu để trao đổi, định hướng, động viên, khích lệ tơi trong
q trình th c hiện luận án Tiến s này.
Tôi cũng vô cùng biết ơn những người thân, các bạn bè, đồng
nghiệp thân thiết của tơi đã ln động viên, chia sẻ để tơi có thêm nghị
l c trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và viết luận án.
Tác giả luận án

Mai Văn Duẩn


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục các biểu đồ

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ KHUNG LÝ THUYẾT CỦA LUẬN ÁN ....................8
1.1.
Tình hình nghiên cứu ...................................................................................8
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước ...................................................................8
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi .............................................................20
1.1.3. Nhận xét, đánh giá chung về kết quả nghiên cứu đã công bố có liên
quan đến đề tài ..............................................................................................26
1.2.
Khung lý thuyết của luận án .....................................................................30
1.2.1. Câu hỏi nghiên cứu.......................................................................................30
1.2.2. Giả thuyết khoa học ......................................................................................30
Tiểu kết Chƣơng 1 ....................................................................................................31
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƢỜI TỐ CÁO
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NGƢỜI TỐ CÁO .................................32
2.1.
Những vấn đề lý luận về bảo vệ ngƣời tố cáo ..........................................32
2.1.1. Khái niệm tố cáo, người tố cáo, quyền của người tố cáo và bảo vệ
người tố cáo ..................................................................................................32
2.1.2. Vai trò của tố cáo và sự cần thiết phải bảo vệ người tố cáo ........................48
2.1.3. Ý nghĩa của việc bảo vệ người tố cáo ..........................................................51
2.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền tố cáo và bảo vệ
người tố cáo ..................................................................................................53
2.1.5. Cách tiếp cận về bảo vệ người tố cáo ..........................................................58
2.2.

Những vấn đề lý luận về pháp luật về bảo vệ ngƣời tố cáo ...................63
2.2.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và hình thức thể hiện của pháp luật về
bảo vệ người tố cáo ......................................................................................63


2.2.2.
2.2.3.

Bảo đảm thực hiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo ..................................72
Vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ người tố cáo ..................................75

2.2.4.

Các tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo .......78

2.3.

Pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia về bảo vệ
ngƣời tố cáo và kinh nghiệm có thể áp dụng với Việt Nam ...................80
Quy định về bảo vệ người tố cáo trong pháp luật quốc tế và pháp luật
của một số quốc gia trên thế giới .................................................................81
Một số kinh nghiệm có thể áp dụng cho pháp luật Việt Nam .....................85

2.3.1.
2.3.2.

Tiểu kết Chƣơng 2 ....................................................................................................87
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ NGƢỜI TỐ CÁO Ở VIỆT NAM ......................................88
3.1.

3.1.1.
3.1.2.
1.1.3.
3.2.
3.2.1.
3.2.2.
3.3.
3.3.1.
3.3.2.
3.3.3.

Khái quát sự phát triển của các quy định pháp luật về bảo vệ
ngƣời tố cáo ở Việt Nam ............................................................................88
Giai đoạn từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước Hiến pháp
năm 1980 ......................................................................................................88
Giai đoạn từ Hiến pháp năm 1980 đến trước khi ban hành Luật Tố
cáo năm 2011 ................................................................................................90
Giai đoạn từ khi Luật Tố cáo năm 2011 được ban hành đến nay ...............96
Thực trạng pháp luật về bảo vệ ngƣời tố cáo ..........................................98
Khuôn khổ pháp luật hiện hành về bảo vệ người tố cáo .............................98
Những tồn tại, hạn chế của pháp luật hiện hành về bảo vệ người tố cáo ........103
Thực tiễn thực thi pháp luật bảo vệ ngƣời tố cáo .................................118
Khái quát về việc thực hiện quyền tố cáo và thực trạng đe dọa, trả thù,
trù dập người tố cáo ....................................................................................118
Thực tiễn thực thi các biện pháp bảo vệ người tố cáo ...............................126
Đánh giá chung về thực tiễn thực thi bảo vệ người tố cáo ........................133

Tiểu kết Chƣơng 3 ..................................................................................................135
Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẢO VỆ NGƢỜI TỐ CÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................136

4.1.
4.1.1.

Quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ ngƣời tố cáo ở Việt
Nam hiện nay ............................................................................................136
Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo cần bảo đảm sự phù hợp với
các yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.......136


4.1.2.

Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo cần phù hợp và đáp ứng
yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp ..........................................138

4.1.3.

Hồn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo cần phù hợp với các điều
ước quốc tế và xu hướng chung trên thế giới ............................................139

4.2.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ ngƣời tố cáo ở Việt
Nam hiện nay ............................................................................................140
Rà soát pháp luật hiện hành về bảo vệ người tố cáo .................................140
Tổng kết thực tiễn việc thực hiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo .........142

4.2.1.
4.2.2.

Hồn thiện khn khổ pháp luật về bảo vệ người tố cáo ...............................143

Một số giải pháp khác gắn với việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
người tố cáo ................................................................................................148
Tiểu kết Chƣơng 4 ..................................................................................................154
4.2.3.
4.2.4.

KẾT LUẬN .............................................................................................................155
DANH MỤC CÁC BÀI VIẾT NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ................................................................................................................157
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................158
PHỤ LỤC ................................................................................................................170


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

1

BPBV

Biện pháp bảo vệ

2

BVNTC

Bảo vệ người tố cáo

3

CBCC


Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động

4

KNTC

Khiếu nại, tố cáo

5

NNPQ

Nhà nước pháp quyền

6

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

7

NTC

Người tố cáo

8

VPPL


Vi phạm pháp luật


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Bảng 3.1. Đánh giá, tổng hợp kết quả BVNTC

Trang
123


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ 2.1. Lý do không tố cáo tham nhũng ở Việt Nam

53

Biểu đồ 3.1. Quan điểm, sự nhìn nhận của CBCC về tố cáo

119


Biểu đồ 3.2. Quan điểm, sự nhìn nhận của CBCC về NTC

119

Biểu đồ 3.3. Phát hiện hành vi sai trái, phạm pháp, tham nhũng của
CBCC trong cơ quan hành chính nhà nước

121

Biểu đồ 3.4. Quan điểm/sự nhìn nhận của CBCC đối với hành vi sai trái,
phạm pháp, tham nhũng

121

Biểu đồ 3.5. Lý do khiến CBCC trong cơ quan nhà nước đã từng phát hiện
hành vi sai trái, phạm pháp, tham nhũng nhưng không tố cáo

122

Biểu đồ 3.6. NTC bị trả thù, trù dập

125

Biểu đồ 3.7. Hình thức NTC bị trả thù, trù dập

125


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Tố cáo và giải quyết tố cáo có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong quản lý
xã hội. Tố cáo là một trong những kênh thông tin giúp nhà nước phát hiện, phòng
ngừa và xử lý các hành vi gian lận, tiêu cực, tham nhũng và các hành vi VPPL
khác. Giải quyết tố cáo hiệu quả sẽ góp phần bảo vệ lợi ích xã hội, lợi ích nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Thơng qua hoạt động giải quyết tố
cáo, một mặt nhà nước thừa nhận quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân trong việc
kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước; mặt khác
thấy được thực trạng về phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, cơng chức trong
q trình thực thi cơng vụ, nhiệm vụ và trong việc tổ chức thực hiện các hoạt động
quản lý nhà nước, từ đó có cơ sở bổ sung, hoàn thiện thể chế, pháp luật, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Thực tiễn cho thấy, tố cáo các biểu hiện VPPL của người có chức vụ, quyền
hạn trong thi hành cơng vụ, nhiệm vụ mang tính quyền lực nhà nước cũng như mọi
hành vi VPPL khác là việc làm đầy thách thức. Nó đòi hỏi NTC phải thực sự gan
dạ, dũng cảm đương đầu với những khó khăn trong việc tiếp cận, cung cấp chứng
cứ và trách nhiệm pháp lý (hành chính, hình sự và dân sự). NTC thường phải chịu
đựng sự nhìn nhận tiêu cực, những áp lực từ dư luận xã hội, những người xung
quanh và ngay cả từ phía bạn bè, đồng nghiệp, người thân trong gia đình; đặc biệt là
có thể bị trù dập, cơ lập và trả thù từ phía người bị tố cáo. “NTC thường chấp nhận
rủi ro cá nhân cao. Họ có thể bị sa thải, bị kiện, danh sách đen, bị bắt, bị đe dọa
hoặc trong trường hợp nặng, bị tấn công hoặc bị giết” [140, tr.24], “bị tẩy chay
khỏi tổ chức, bị buộc tội vì VPPL” [117, tr.1]; thậm chí họ có thể bị kiện vì vi phạm
quy định bảo mật thơng tin hoặc bôi nhọ danh dự người khác [110, tr.9].
Cho đến nay ở nước ta vẫn chưa có số liệu, báo cáo thống kê một cách chi tiết
về tình hình đe dọa, trả thù NTC, cũng như kết quả bảo vệ họ. Duy nhất chỉ có Báo
cáo số 180/BC-TH ngày 28/9/2015 của Cục Chống tham nhũng, Thanh tra Chính phủ
đánh giá, tổng hợp kết quả BVNTC từ khi Luật Tố cáo có hiệu lực đến 31/3/2015;
tuy nhiên, số liệu trong báo cáo cịn thiếu tồn diện, chưa phản ánh đầy đủ thực tiễn
tình trạng trả thù, trù dập NTC đã và đang diễn ra. Qua một số vụ trả thù NTC xảy ra


1


được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể nhận thấy việc bảo vệ
an tồn cho NTC và những người thân của họ là việc làm cấp thiết hiện nay ở nước
ta. Nói cách khác, cần hoàn thiện khung pháp lý để bảo vệ an toàn cho NTC.
Nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành về quyền tố cáo và BVNTC
ở Việt Nam cho thấy Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân. Đảng và Nhà nước coi tố cáo là phương thức dân
chủ để nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Xuất phát từ cách
tiếp cận đó, quyền tố cáo được ghi nhận là quyền hiến định ở Việt Nam, đồng thời
được quy định trong nhiều đạo luật, văn bản dưới luật. Luật Tố cáo được Quốc hội
thơng qua ngày 11.11.2011, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.7.2012 đã góp phần
khuyến khích nhân dân tích cực tham gia vào việc phát hiện và đấu tranh với các
hành vi sai phạm, trái luật xâm hại đến trật tự quản lý xã hội, quản lý nhà nước, xâm
phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, đặc
biệt là các hành vi tham nhũng.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, có thể thấy các quy định pháp luật về quyền tố cáo
của công dân, nghĩa vụ giải quyết tố cáo của cơ quan nhà nước, của người có thẩm
quyền trong cơ quan nhà nước ta hiện vẫn chưa đầy đủ, rõ ràng. Công tác tiếp nhận
xử lý thông tin, thẩm tra, xác minh và kết luận nội dung tố cáo có lúc, có nơi chưa
nhận được sự quan tâm đúng mức từ phía cơ quan nhà nước, của người có thẩm
quyền trong cơ quan nhà nước. Việc giải quyết tố cáo còn chậm, kéo dài. Việc xử lý
người sai phạm còn chưa thực sự nghiêm túc, chưa đủ sức răn đe. Thậm chí, “một
số cán bộ có thẩm quyền đã có hành vi cả nể, dung túng, bao che, thậm chí tiếp tay
cho hành vi tham nhũng, tiêu c c” [98, tr.21]. Đặc biệt, nước ta chưa có cơ chế cụ
thể và hữu hiệu để BVNTC, vì thế “cán bộ, cơng chức, viên chức, người dân tố cáo
cịn ít” [82, tr.4], NTC vẫn ở trong tình trạng lo sợ bị trả thù, trù dập, cô lập và phân
biệt đối xử, không dám tố cáo các hành vi VPPL. Điều đó ảnh hưởng lớn đến niềm
tin của nhân dân đối với sự nghiêm minh, công bằng của luật pháp; sự quản lý đúng

đắn, nguyên tắc của NNPQ.
Thực tế nêu trên đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện các quy định pháp luật về
BVNTC, để NTC yên tâm thực hiện quyền tố cáo của mình, góp phần tích cực vào
việc đấu tranh đẩy lùi các hành vi VPPL, nhất là đấu tranh phòng chống tham
nhũng, đấu tranh phòng chống sự lạm dụng quyền hành trong thực thi công vụ của

2


người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị cũng như các đơn vị
sản xuất kinh doanh.
Để góp phần giải quyết nội dung nêu trên, nghiên cứu sinh quyết định chọn
vấn đề “Pháp luật về bảo vệ người tố cáo ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên
cứu cho luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận án là nghiên cứu cơ sở lý luận của hệ thống pháp luật về
BVNTC; nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam về pháp luật
BVNTC, đặc biệt chú trọng phân tích những bất cập, hạn chế của hệ thống pháp
luật và việc thực hiện pháp luật về BVNTC ở Việt Nam, từ đó đề xuất những sửa
đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật về BVNTC theo hướng hiệu quả, phù hợp
với hoàn cảnh lịch sử, văn hóa, điều kiện thực tế của Việt Nam, đồng thời phù hợp
với pháp luật, thông lệ quốc tế.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận án phải giải quyết được các
nhiệm vụ cụ thể như sau:
Một là, tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước và ngồi nước có liên
quan đến đề tài. Cụ thể, tiến hành thu thập các tài liệu, cơng trình khoa học liên
quan đến đề tài luận án; nghiên cứu, nhận xét, đánh giá và nêu quan điểm về những
vấn đề đã được đề cập, phân tích trong các cơng trình khoa học đã cơng bố về đề

tài, từ đó xác định các khoảng trống hoặc các vấn đề chưa được làm rõ mà sẽ được
tiếp tục giải quyết trong luận án.
Hai là, phân tích các lý thuyết, quan điểm khoa học về BVNTC được đề cập bởi
các học giả trong và ngoài nước, cũng như bởi các cơ sở học thuật và tổ chức quốc tế,
từ đó xác định khung lý thuyết được sử dụng để phân tích các nội dung của đề tài;
Ba là, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về BVNTC ở Việt Nam hiện
nay để chỉ ra nền tảng, cơ sở lý luận, thực tiễn của nó, đánh giá mức độ tương thích
với pháp luật quốc tế và xu hướng chung trên thế giới (thể hiện qua pháp luật của
một số quốc gia) về vấn đề này;
Bốn là, phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về BVNTC ở Việt Nam để chỉ ra
những thành tựu, bất cập, hạn chế so với yêu cầu thực tế và đánh giá nguyên nhân.

3


Năm là, trên cơ sở kết quả nghiên cứu của các phần trên, luận án luận giải
những yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện pháp luật về BVNTC; đề xuất các
phương án, giải pháp hồn thiện khn khổ pháp luật hiện hành về BVNTC ở Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực trạng các quy định pháp luật
hiện hành về BVNTC ở Việt Nam, cụ thể là các lý thuyết, quan điểm khoa học,
nhân tố, sự kiện pháp lý, xã hội trong nước và quốc tế; lịch sử văn hóa, tâm lý góp
phần định hình nên khn khổ pháp luật hiện hành về vấn đề này, cũng như về tác
động thực tế và xu hướng phát triển của pháp luật về bảo vệ người tố cáo ở Việt
Nam trong những năm tới.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận về BVNTC và pháp luật
về BVNTC; đánh giá thực trạng ưu điểm, hạn chế của pháp luật về BVNTC; và đề

xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về BVNTC.
+ Về nội dung, luận án nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về
BVNTC; trong đó tập trung vào các khái niệm, định nghĩa, quy trình, thủ tục, nghĩa vụ,
trách nhiệm của cá nhân, cơ quan nhà nước trong việc BVNTC, đặc biệt là từ sau khi
có Luật Tố cáo năm 2011. Để bảo đảm tính chuyên sâu của đề tài nghiên cứu, luận án
khơng mở rộng phân tích đến các quy định pháp luật về bảo vệ người tố giác tội phạm,
người làm chứng, người bị hại mà là những vấn đề đặc thù của tố tụng hình sự.
+ Về khơng gian, luận án tập trung khảo sát hệ thống pháp luật và thực tiễn
BVNTC ở Việt Nam. Điều đó có nghĩa là pháp luật quốc tế và pháp luật của các
quốc gia khác về vấn đề này không phải là trọng tâm phân tích. Mặc dù vậy, để
củng cố cho những lập luận, quan điểm và đề xuất của tác giả, luận án đồng thời đề
cập khái quát đến vấn đề bảo vệ quyền của NTC trong Công ước của Liên hợp quốc
về chống tham nhũng và một số bài học kinh nghiệm về xây dựng và thực thi pháp
luật về BVNTC ở một số nước trên thế giới và khả năng áp dụng ở Việt Nam.
+ Về thời gian, để phác họa một cái nhìn tổng thể, xuyên suốt, luận án đề cập
đến lịch sử phát triển của pháp luật Việt Nam về BVNTC, tuy nhiên, những phân
tích trong luận án tập trung vào giai đoạn từ sau khi Quốc hội thông qua Luật Tố
cáo năm 2011 đến nay.

4


4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, luận án được thực hiện dựa trên phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lê Nin; Tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm, đường lối của Đảng;
chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam về nhà nước pháp quyền XHCN do
dân, vì dân; về cải cách tư pháp; về xây dựng và hoàn thiện pháp luật XHCN; về tố
cáo và BVNTC.

Bên cạnh đó, tác giả còn vận dụng các lý thuyết, quan điểm khoa học có liên
quan của các nhà nghiên cứu trong ngồi nước và các tổ chức quốc tế, đặc biệt là về
vai trò của nhà nước trong việc BVNTC.
4.2. Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong luận án
Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên, luận án sử dụng các phương pháp
nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội và luật học như: phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh …Bên cạnh đó, để đạt được những mục tiêu
nghiên cứu của luận án, tác giả còn áp dụng phương pháp phỏng vấn các nhóm đối
tượng có liên quan, trong đó bao gồm: các chuyên gia có kiến thức chuyên sâu về
pháp luật tố cáo và BVNTC; các cán bộ trực tiếp làm công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo cả ở cấp trung ương và địa phương; các luật sư đã từng tham gia tố tụng các
vụ án liên quan đến việc BVNTC; người đã và đang tham gia tố cáo. Mục đích của
các cuộc phỏng vấn là để thu thập những thông tin thực tế nhằm kiểm định và xác
quyết những nhận định, đánh giá về thực trạng và những bất cập, hạn chế trong
khuôn khổ pháp luật hiện hành về BVNTC mà tác giả có được sau q trình phân
tích văn bản, qua đó đưa ra những quan điểm, giải pháp hồn thiện pháp luật khơng
chỉ dựa trên các vấn đề lý luận mà cả trên thực tế.
Cụ thể, việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu của đề tài như sau:
- Các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh để xây dựng tổng
quan, đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và xác định những vấn đề
mà luận án cần tiếp tục khảo sát (ở Chương 1).
- Phương pháp phân tích kết hợp với tổng hợp, so sánh các cơng trình nghiên
cứu hiện có và các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về BVNTC ở
nước ta hiện nay (ở Chương 2).

5


- Các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các tài liệu, báo
cáo có liên quan, kết hợp với các phương pháp quan sát thực tế và khảo sát xã hội

học (bằng phỏng vấn sâu) để khảo sát, đánh giá thực trạng pháp luật và thi hành
pháp luật về BVNTC ở nước ta hiện nay (ở Chương 3).
- Phương pháp tổng hợp kết hợp với phân tích, so sánh để đề xuất các quan
điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả BVNTC ở nước ta trong
thời gian tới (ở Chương 4).
5. Những điểm mới của luận án
Luận án là cơng trình khoa học đầu tiên ở cấp độ tiến sĩ luật học nghiên cứu
toàn diện, có hệ thống về xây dựng và hồn thiện pháp luật về BVNTC ở Việt Nam.
Luận án có những điểm mới về khoa học như sau:
Luận án tập hợp, phân tích một cách hệ thống các vấn đề lý luận về BVNTC
và pháp luật về BVNTC mà chưa hoặc đã được đề cập nhưng còn thiếu thống nhất
và thiếu tồn diện trong một số cơng trình nghiên cứu khác, cụ thể như khái niệm tố
cáo, NTC, BVNTC; nhu cầu và ý nghĩa của việc BVNTC; các yếu tố ảnh hưởng
đến việc thực hiện quyền tố cáo và bảo vệ người tố cáo; những cách tiếp cận về
BVNTC; khái niệm, đặc điểm, nội dung, hình thức thể hiện của pháp luật về
BVNTC; bảo đảm thực hiện pháp luật về BVNTC; vai trị của pháp luật trong việc
BVNTC; các tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện pháp luật về BVNTC; những yêu cầu
về BVNTC trong Công ước của Liên hiệp quốc về phòng chống tham nhũng; những
bài học kinh nghiệm nổi bật về xây dựng và thực thi pháp luật về BVNTC ở một số
nước trên thế giới và khả năng áp dụng ở Việt Nam.
Luận án phân tích và đánh giá một cách tồn diện khn khổ pháp luật hiện
hành về BVNTC của Việt Nam, dựa trên các tiêu chí về tính tồn diện, tính thống
nhất, khoa học, tính hiệu quả, tính khả thi với điều kiện, hồn cảnh của Việt Nam,
và tính tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan và với pháp luật của một
số quốc gia trong vấn đề này; đồng thời chỉ ra quy luật vận động, phát triển của các
quy định pháp luật về BVNTC. Một hệ thống pháp luật chỉ thực sự được đánh giá
chuẩn xác khi được xem xét sự vận hành trong thực tiễn. Vì vậy, luận án đã phân
tích, đánh giá việc thực hiện pháp luật về BVNTC trong thực tiễn Việt Nam; đánh
giá năng lực thực thi pháp luật về BVNTC của các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền,
từ đó chỉ ra những kết quả đã đạt được, cũng như những hạn chế cùng các nguyên


6


nhân, đồng thời đề xuất các yêu cầu và giải pháp hồn thiện khn khổ pháp luật về
BVNTC của nước ta trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận, luận án bổ sung một nguồn tư liệu hữu ích, tin cậy vào những
nghiên cứu hiện có về tố cáo và pháp luật về BVNTC, qua đó giúp các nhà hoạch
định chính sách, các nhà quản lý, các cán bộ làm cơng tác nghiên cứu, giảng dạy pháp
luật có cách nhìn nhận sâu sắc, toàn diện hơn và tiếp cận sâu hơn từ góc độ lý luận
những vấn đề về pháp luật và cơ chế BVNTC trên thế giới và ở Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan nhà nước hữu quan và các tổ chức xã hội trong việc sửa đổi, bổ sung hệ thống
văn bản pháp luật và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về BVNTC. Ngồi ra,
luận án cịn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu
của các cơ sở nghiên cứu, đào tạo luật.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án
được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và khung lý
thuyết của luận án.
Chương 2. Những vấn đề lý luận về bảo vệ người tố cáo và pháp luật về bảo
vệ người tố cáo.
Chương 3. Thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật về bảo vệ người tố cáo
ở Việt Nam.
Chương 4. Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
ở Việt Nam hiện nay.

7



Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ KHUNG LÝ THUYẾT CỦA LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu
BVNTC là một vấn đề tương đối mới ở Việt Nam, vì vậy, chưa có nhiều
cơng trình nghiên cứu về pháp luật về BVNTC được công bố ở nước ta. Hiện tại,
các cơng trình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài chủ yếu đề cập đến các
vấn đề lý luận chung về KNTC, mới chỉ có một vài cơng trình bước đầu phân tích
một số khía cạnh của việc BVNTC như những yêu cầu với việc BVNTC, cơ chế
BVNTC. Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi có phần đa dạng hơn, tập trung
vào các vấn đề lý luận, các quy tắc quốc tế, hệ thống pháp luật và kinh nghiệm xây
dựng, thực hiện pháp luật về BVNTC của một số quốc gia. Tuy nhiên, vẫn chưa có
cơng trình nghiên cứu nào của các học giả nước ngồi tập trung phân tích vấn đề
BVNTC ở Việt Nam.
Trên cơ sở đánh giá kết quả đạt được của các cơng trình nghiên cứu đã cơng
bố có liên quan đến đề tài, luận án sẽ chỉ ra những nội dung mới, những vấn đề chưa
được đề cập hoặc đã được đề cập nhưng còn thiếu, chưa rõ để từ đó xác định
phương hướng và mục tiêu tiếp tục nghiên cứu. Từ nhận định chung nêu ở đoạn
trên, dưới đây, nội dung đánh giá đối với các cơng trình nghiên cứu trong nước sẽ
bao gồm các vấn đề lý luận về BVNTC và pháp luật về BVNTC; thực trạng pháp
luật và thực thi pháp luật về BVNTC ở Việt Nam; các giải pháp hoàn thiện pháp
luật về BVNTC. Nội dung đánh giá đối với cơng trình nghiên cứu ở nước ngoài chủ
yếu là các vấn đề lý luận, hệ thống pháp luật và kinh nghiệm xây dựng, thực hiện
pháp luật về BVNTC của nước ngồi.
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Các cơng trình khoa học của các tác giả trong nước nghiên cứu pháp luật về
BVNTC được công bố thời gian qua chủ yếu được thực hiện dưới hình thức các bài
viết khoa học đăng trên các tạp chí. Ngồi ra cịn có một (01) đề tài nghiên cứu

khoa học cấp cơ sở, bốn (04) báo cáo hội thảo khoa học và một số sách chuyên khảo
và luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ luật học. Hầu hết các cơng trình này đều nghiên
cứu về KNTC nói chung, trong đó có đề cập đến việc BVNTC. Hiện chưa có cơng
trình khoa học nào ở Việt Nam tập trung nghiên cứu riêng về vấn đề BVNTC.
8


1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu các vấn đề lý luận về pháp luật về bảo vệ
người tố cáo
* Về khái niệm hay quan niệm về tố cáo
Đây là nội dung được thể hiện trong nhiều cơng trình nghiên cứu về KNTC đã
công bố ở nước ta. Tuy nhiên, đa số các cơng trình đều trích dẫn các thuật ngữ tố cáo
theo luật định mà không đưa ra định nghĩa mang tính chất lý luận khoa học về tố cáo.
Một số cơng trình đưa ra các quan niệm, khái niệm về tố cáo nhưng có sự khác nhau
về chủ thể thực hiện hành vi tố cáo; cách thức thực hiện hành vi tố cáo; và đối tượng
bị tố cáo. Ví dụ, Giáo trình Thanh tra và Giải quyết Khiếu nại Hành chính của Học
viện Hành chính cho rằng “tố cáo là việc cá nh n báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của…”[45, tr.151]. Hoặc theo GS.
Phạm Hồng Thái, “tố cáo th c chất là việc công dân phát hiện và thơng báo chính
thức với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những hành vi vi phạm pháp
luật nào đó...” [64, tr.28]. Trong khi một số cơng trình nghiên cứu khác đưa ra quan
niệm về tố cáo ở một phạm vi rộng hơn: “Tố cáo là việc một người báo cho… về
một hành vi sai trái của… “[84, tr.64], “Tố cáo là việc công dân, cá nhân báo …về
bất kỳ hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà họ cho rằng hành vi ấy vi phạm
pháp luật hoặc vi phạm quy định của tổ chức, cộng đồng” [79, tr.22-23].
Như vậy, có thể thấy, trong các cơng trình nghiên cứu hiện nay chưa có sự
thống nhất quan điểm về cách thức mà các chủ thể th c hiện hành vi tố cáo cũng
như về đối tượng bị tố cáo. Về cách thức thực hiện việc tố cáo, phần lớn cho rằng
một chủ thể nào đó “báo với”, “báo tin cho” cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền; số khác cho rằng chủ thể thực hiện quyền tố cáo “phát hiện với”, hay “phát

hiện và thông báo chính thức với”. Về đối tượng bị tố cáo, đa số các cơng trình
nghiên cứu cho rằng đó là “hành vi trái luật” hay VPPL của bất cứ cơ quan, tổ chức,
cá nhân nào [45, 63, 64, 101, 105], trong khi một số cơng trình đó là “hành vi sai
trái” [84], “hành vi VPPL hoặc vi phạm quy định của tổ chức, cộng đồng” [79].
Ngồi ra, có cơng trình cho rằng đối tượng bị tố cáo ngoài “hành vi” cịn có thể là
“việc làm”, thậm chí là “lời nói” hoặc “hiện tượng khả nghi” nào đó mà NTC cho
là có dấu hiệu vi phạm, sai trái, phạm pháp, cần được lên án, ngăn chặn, xem xét,
kết luận và xử lý nghiêm minh theo đúng quy định: “Tố cáo là báo cho cơ quan, tổ
chức hoặc cá nhân có thẩm quyền biết bằng văn bản hoặc lời nói về những hành vi,

9


việc làm, lời nói hoặc hiện tượng khả nghi nào đó…mà NTC cho là có dấu hiệu vi
phạm, sai trái, phạm pháp, cần được lên án, ngăn chặn, xem xét, kết luận và xử lý
nghiêm minh theo đúng quy định” [26, tr.9].
* Về người tố cáo
NTC là chủ thể thực hiện quyền tố cáo, tuy nhiên hiện chưa có sự thống nhất về
quan điểm trong các cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam về phạm vi chủ thể của quyền
tố cáo. Hầu hết các cơng trình đã cơng bố hiện nay ở nước ta đều cho rằng “NTC” là
“công dân” [3, 64, 75, 79, 101, 105] hay “cá nhân” [79], “một người” [26, 84]…, tuy
nhiên, cũng có cơng trình cho rằng “NTC được quy định trong Luật Tố cáo là cơng
dân th c hiện quyền tố cáo, nhưng có thể được hiểu là cơ quan, tổ chức tố giác, báo tin
về tội phạm” [95, tr.173]. Sự khác biệt trong nhận thức về phạm vi chủ thể của quyền
tố cáo một phần là do các nhà nghiên cứu khi đề cập đến NTC chỉ giới hạn ở một phạm
vi hay quy về một lĩnh vực nhất định như: tố cáo hành chính [3, 75, 88, 101, 102]; tố
cáo trong Đảng [26]; tố giác tội phạm hình sự; tố cáo hành vi tham nhũng…
* Phân biệt s khác nhau giữa khiếu nại và tố cáo; giữa quyền khiếu nại và
quyền tố cáo
Phân biệt giữa khiếu nại và tố cáo có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định

đối tượng được bảo vệ. Thực tiễn cho thấy không chỉ NTC mà cả người khiếu nại
cũng có thể bị trù dập, trả thù. Vì thế, pháp luật cần phải bảo vệ cả NTC và người
khiếu nại. Tuy nhiên, việc bảo vệ hai nhóm đối tượng này là khác nhau, do có sự
khác nhau về tính chất và mức độ.
Một số cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam đã phân tích sự khác nhau giữa
khiếu nại và tố cáo. Ví dụ, TS. Đinh Văn Minh trong hai bài viết đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp và Tạp chí Thanh tra cho rằng, việc phân biệt giữa khiếu nại
và tố cáo cần căn cứ vào mục đích của chủ thể hành vi, trong đó khiếu nại nhằm
hướng tới lợi ích, đi địi lại lợi ích mà chủ thể khiếu nại cho là họ đã bị xâm phạm,
còn tố cáo nhằm hướng tới việc xử lý hành vi vi phạm và người có hành vi vi phạm
mà chủ thể tố cáo cho là nguy hại cho xã hội hay cho bản thân họ [52, 54]. Hoặc GS.
Phạm Hồng Thái, trong một cuốn sách chuyên khảo cũng chỉ ra điểm chung và sự
khác nhau giữa quyền khiếu nại và quyền tố cáo, theo đó điểm chung là cả hai quyền
này cùng được sử dụng với tư cách là quyền bảo vệ quyền, còn điểm khác nhau thể
hiện ở chủ thể, đối tượng và mục đích của chủ thể khi thực hiện hai quyền này [64].

10


* S khác biệt giữa tố cáo và tố giác, tin báo tội phạm
Theo GS. Phạm Hồng Thái, tố cáo gần gũi với tố giác, tin báo, thông tin về
tội phạm, nhưng về bản chất pháp lý có sự khác nhau. Sự khác nhau cơ bản giữa
chúng thể hiện ở chỗ: trong tố cáo về nguyên tắc (trừ một số trường hợp tố cáo giấu
tên), chủ thể luôn được xác định và phải chịu trách nhiệm pháp lý về nội dung mà
họ tố cáo. Mặt khác, tố cáo là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật
về tố cáo. Trong khi đó, tố giác thì chủ thể không xác định và thông tin trong tố giác
chỉ để các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tham khảo và họ chỉ xử lý khi
thấy thông tin đó có căn cứ [64, tr.31].
Sự khác biệt giữa tố cáo và tố giác tội phạm còn được phân tích trong một
bài viết của Thạc sĩ Lê Ra (2012) đăng trên Tạp chí Kiểm sát, trong đó cho rằng, tố

cáo hành vi VPPL thì khơng phân biệt tính chất, mức độ vi phạm, cịn tố giác tội
phạm thì chỉ bao gồm những hành vi VPPL có thể cấu thành tội phạm đã được quy
định trong Bộ luật Hình sự [61, tr.33]. Khái niệm tố cáo rộng hơn và cơ bản đã bao
hàm cả khái niệm tố giác về tội phạm, hay nói cách khác, tố cáo hành vi phạm tội
được gọi là tố giác tội phạm [61, tr.33]. Điểm khác biệt giữa hai khái niệm này là:
Tố cáo là quyền của cơng dân, cịn tố giác tội phạm vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ
của công dân; quan hệ pháp luật về tố cáo chỉ phát sinh khi công dân thực hiện
quyền tố cáo; còn quan hệ pháp luật tố giác tội phạm thì phát sinh ngay sau khi
cơng dân biết về tội phạm [61, tr.33].
Tác giả Phạm Quốc Huy (2009) trong bài viết đăng trên Tạp chí Kiểm sát
cũng phân biệt giữa hai khái niệm “Tố cáo tội phạm” và “Tố giác tội phạm” [43].
Theo tác giả, khái niệm “tố cáo tội phạm” có nhiều điểm gần giống với khái niệm
“tố giác tội phạm”. Cụ thể như: Tố cáo tội phạm cũng là một nguồn thông tin về tội
phạm được báo cho chủ thể có thẩm quyền giải quyết; đối tượng của tố cáo tội
phạm cũng chỉ là công dân; đối tượng của tố cáo tội phạm cũng là hành vi có dấu
hiệu tội phạm; mục đích của tố cáo tội phạm cũng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của chính mình hoặc của chủ thể khác bất kỳ; NTC tội phạm cũng có quyền
giống người tố giác tội phạm [43, tr.29]. Tuy nhiên, theo tác giả, giữa hai khái niệm
này có những điểm khác biệt như: người biết hành vi phạm tội mà không tố cáo tội
phạm thì khơng phải chịu trách nhiệm pháp lý (khơng có nghĩa vụ phải tố cáo tội
phạm), cịn người khơng tố giác tội phạm có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về

11


tội “khơng tố giác tội phạm”; NTC tội phạm có nghĩa vụ tố cáo đúng sự thật, nếu tố
cáo sai thì tùy mức độ phải chịu trách nhiệm hành chính hoặc hình sự về tội “vu
khống”, cịn người tố giác tội phạm khơng có nghĩa vụ và trách nhiệm này; NTC tội
phạm có nghĩa vụ phải tố cáo đúng cơ quan có thẩm quyền và khơng được tố cáo
nặc danh hoặc mạo danh, cịn người tố giác tội phạm có thể tố giác với bất cứ cơ

quan, tổ chức nào và có thể khơng cần cung cấp tên tuổi, địa chỉ của mình; hành vi
VPPL có dấu hiệu tội phạm bị tố cáo phải là hành vi đã xảy ra, cịn hành vi có dấu
hiệu tội phạm bị tố giác có thể đang xảy ra hoặc sẽ xảy ra [43, tr.29].
* Nhu cầu bảo vệ người tố cáo
Về vấn đề này, trong một bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp,
PGS. TS. Trần Đình Nhã (2010) đã đề cập đến các yêu cầu của việc bảo vệ ngư bảo vệ; chi tiết, cụ thể về trình tự, thủ tục tiếp nhận, xử lý
giải quyết thông tin; đơn khiếu nại về việc trả thù, trù dập NTC; đơn đề nghị, yêu
cầu áp dụng các biện pháp BVNTC; thời hạn ra quyết định, hoặc trả lời về việc áp
dụng hoặc không áp dụng các BPBV; các BPBV; cơ quan, người có thẩm quyền
tiếp nhận và quyết định áp dụng các BPBV; nội dung quyết định áp dụng BPBV,

189


quyết định khơng áp dụng BPBV; cơ quan có trách nhiệm bảo vệ; trình tự, thủ tục
quyết định áp dụng, thực hiện các BPBV; trách nhiệm của cơ quan phối hợp và thực
hiện việc bảo vệ; hồ sơ theo dõi bảo vệ; tổng kết, báo cáo kết quả bảo vệ; kinh phí
cho việc áp dụng biện pháp BVNTC;
Có thể ban hành các Quy chế bảo vệ riêng cho từng hình thức bảo vệ như:
- Quy chế bảo vệ danh tính cho NTC;
- Quy chế bảo vệ về tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm và uy tín NTC;
- Quy chế bảo vệ việc làm và vị trí cơng tác của NTC;
- Quy chế BVNTC trong việc đảm bảo thực hiện các quyền cơng dân
Hai là, ban hành Quy trình tiếp nhận, xử lý và giải quyết đối với đơn thư tố
cáo nặc danh có chứng cứ rõ ràng; đơn thư tố cáo trong phạm vi không được phép tiết
lộ (như an ninh quốc gia, bí mật nhà nước, bí mật cơ quan) và những đơn thư có ký
hiệu hoặc mã số của cơ quan chuyển đơn theo yêu cầu bảo mật danh tính của NTC
hoặc yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền giải quyết nhằm bảo vệ danh tính NTC.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiếp nhận giải quyết khi nhận được đơn tố cáo
thuộc thẩm quyền do các cơ quan đầu mối chuyển đến phải thụ lý giải quyết (khơng cần

biết danh tính NTC mà chỉ cần có mã số). Cơ quan đầu mối cần có sự theo dõi chặt chẽ
đối với những đơn tố cáo đã chuyển và kiểm tra, đôn đốc việc giải quyết của cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền. Thực tiễn cho thấy “các đơn tố cáo sau khi chuyển đến cơ quan có
thẩm quyền giải quyết, rất ít các vụ việc có hồi âm về kết quả xử lý” [98, tr.30].
Ba là, ban hành Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giải
quyết tố cáo và BVNTC. Thanh tra Chính phủ phối hợp với các bộ ngành có liên
quan tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định xử phạt vi phạm hành chính
trong tiếp cơng dân, xử lý đơn thư và giải quyết KNTC. Trong đó quy định xử lý
nghiêm và có chế tài cụ thể đối với: Người có hành vi đe dọa, trả thù, trù dập NTC;
Người có hành vi cố ý khơng thực hiện, phối hợp hoặc cản trở việc áp dụng các biện
pháp BVNTC; Người có hành vi cản trở, gây khó khăn cho NTC thực hiện quyền tố
cáo; Người có hành vi bao che cho NTC, cố ý kéo dài thời gian giải quyết tố cáo,
làm sai lệch hồ sơ trong quá trình giải quyết tố cáo.
Bốn là, xây dựng cơ chế giải quyết khiếu kiện hành vi trả thù, trù dập NTC;
hành vi cố ý khơng áp dụng; hoặc có áp dụng biện pháp BVNTC nhưng không kịp
thời gây hậu quả cho người được bảo vệ.

190


Pháp luật về BVNTC hiện hành mới chỉ dừng lại ở việc ứng phó với những
hành động trả thù sẽ xảy ra hoặc đang xảy ra chứ chưa có quy định nhằm giải quyết
những hậu quả hoặc những tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện pháp luật
về BVNTC. Vì thế, các quy định về việc giải quyết các khiếu kiện về việc bảo vệ,
các khiếu kiện về khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại chưa được đề cập. Trong
thời gian tới, các nhà lập pháp cần nghiên cứu xây dựng cơ chế giải quyết khiếu
kiện đối với những hành vi trả thù, trù dập NTC; hành vi không áp dụng biện pháp
BVNTC; hành vi không áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả theo quyết định của
người có thẩm quyền; giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại cho NTC.


191


Phụ lục số 3. Hồn thiện về mơ hình, tổ chức và hoạt động của cơ quan thực thi
bảo vệ ngƣời tố cáo
Phƣơng án 1. Vẫn trao trách nhiệm BVNTC cho cá nhân, cơ quan theo pháp
luật hiện hành nhưng quy định rõ hơn về thẩm quyền quyết định áp dụng BPBV và
thực thi việc bảo vệ. Cụ thể:
* Bảo vệ về tài sản; về tính mạng, sức khỏe; về danh d , nhân phẩm hay uy
tín của người được bảo vệ trao cho người thụ lý giải quyết lần đầu thẩm quyền ban
hành quyết định áp dụng BPBV; chỉ đạo cơ quan công an cùng cấp triển khai thực
thi việc bảo vệ.
Người có thẩm quyền ban hành quyết định áp dụng BPBV có thể giao cho
người đã thẩm tra, xác minh nội dung tố cáo chủ trì, phối hợp với cơ quan công an
cùng cấp triển khai các BPBV (đối với các trường hợp hành động trả thù chưa xảy
ra) hoặc xác minh, kết luận các khiếu tố về hành vi trả thù, trù dập (đối với các
trường hợp hành động trả thù đã gây ra hậu quả cho NTC). Nếu xác định được có
dấu hiệu của sự trả thù thì triển khai các BPBV hoặc khắc phục hậu quả. Nếu khơng
xác định được dấu hiệu trả thù thì ra quyết định không áp dụng và trả lời người đề
nghị, yêu cầu biết.
Trong trường hợp xác định thiệt hại đã xảy ra, tùy theo tính chất và mức độ
người giải quyết có thể ban hành quyết định xử lý hành vi vi phạm hành chính hoặc
chỉ đạo, kiến nghị cơ quan cơng an khởi tố vụ án hình sự nếu hành động trả thù đó
cấu thành tội phạm.
Trong trường hợp khơng nhất trí với quyết định áp dụng hoặc khơng áp dụng
BPBV hoặc có căn cứ cho rằng việc áp dụng các BPBV không phù hợp hoặc kết
luận nội dung khiếu tố về việc trả thù, trù dập không đúng thì người u cầu bảo vệ
có quyền đề nghị thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền áp
dụng BPBV lần đầu xem xét, giải quyết, ban hành quyết định áp dụng BPBV hoặc
khởi kiện tại tịa.

Tùy theo tính chất vụ việc thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của người có
thẩm quyền áp dụng BPBV lần đầu có thể chỉ đạo người đã giải quyết lần đầu áp
dụng các BPBV hoặc ban hành quyết định áp dụng BPBV và giao cho cơ quan
thanh tra cùng cấp phối hợp với cơ quan công an thực hiện các BPBV.

192


×