Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự việt nam – trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐÀO VĂN LINH

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI BẮT CÓC
NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐÀO VĂN LINH

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI BẮT CÓC
NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ ĐỨC HỒNG HÀ

Hà nội – 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Trong quá trình nghiên cứu , học viên đã tham khảo nhiều công trình nghiên
cứu khác, có kế thừa, phân tích, bình luận và phát triển. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Học viên đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất
cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Đào Văn Linh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

Danh mục chữ viết tắt trong luận văn
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANHĐỐI VỚI
TỘI BẮT CÓC NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN .......................... 7
1.1.

Khái niệm và ý nghĩa của việc định đúng tội danh đối với tội bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ......................................................................7

1.1.1. Khái niệm định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.. 7
1.1.2. Ý nghĩa của việc định đúng tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản............................................................................................. 9
1.2.

Căn cứ pháp lý và căn cứ khoa học của việc định tội danh đối với
tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ................................................ 10

1.2.1. Căn cứ pháp lý của việc định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản ................................................................................ 10
1.2.2. Căn cứ khoa học của việc định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản ................................................................................ 15
1.3.

Định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo
các giai đoạn thực hiện tội phạm ..................................................... 17

1.3.1. Định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo giai
đoạn tội phạm hoàn thành ................................................................... 17
1.3.2. Định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo giai
đoạn tội phạm chưa hoàn thành .......................................................... 21

1.4.

Phân biệt tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đối với một số tội
phạm có liên quan ............................................................................. 22


1.4.1. Phân biệt tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản với tội cướp tài sản .... 22
1.4.2. Phân biệt tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản với tội cưỡng đoạt tài
sản........................................................................................................ 24
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANHĐỐI VỚI TỘI BẮT
CÓCNHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢNTRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI..................................................................................... 27
2.1.

Một số kết quả đạt đƣợc trong định tội danh đối với tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản ................................................................... 27

2.2.

Một số hạn chế, vƣớng mắc và nguyên nhân trong định tội danh
đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.................................... 34

2.2.1. Một số hạn chế, vướng mắc trong định tội danh đối với tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản ...................................................................... 34
2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc trong định tội danh đối với tội
bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ......................................................... 42
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH ĐÚNG TỘI DANHĐỐI
VỚI TỘI BẮT CÓC NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ............... 52
3.1.


Sự cần thiết phải định đúng tội danh đối với tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản .............................................................................. 52

3.1.1. Yêu cầu về chính trị, xã hội và lý luận, thực tiễn ............................... 53
3.1.2. Yêu cầu về lập pháp hình sự ............................................................... 54
3.2.

Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản ................................................................... 56

3.2.1. Một số quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản đã được sửa đổi bổ sung trong Bộ luật hình sự
năm 2015……………………………………………………………. 56
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ............................................................... 59


3.3.

Một số giải pháp khác bảo đảm định đúng tội danh đối với tội
bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ...................................................... 67

3.3.1. Tăng cường hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về
tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản .................................................... 67
3.3.2. Chú trọng tổng kết thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình
sự về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản………………………… 69
3.3.3. Nâng cao năng lực của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng trong định tội danh đối với tội
bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ......................................................... 71
3.3.4. Bảo đảm công tác phối hợp trong quá trình định tội danh đối với tội

bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ......................................................... 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BCA:

Bộ Công an

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLDS:

Bộ luật dân sự

BQP:

Bộ Quốc phòng

BTP:

Bộ Tư pháp

CQĐT:

Cơ quan điều tra


CHXHCN:

Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa

HSST:

Hình sự sơ thẩm

NQ:

Nghị quyết

SĐBS:

Sửa đổi, bổ sung

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhândân tối cao

THTT:

Tiến hành tố tụng

TW:


Trung ương

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên bảng, sơ đồ
Thống kê số liệu về số vụ án và bị cáo phạm tội bắt cóc

Bảng 2.1

nhằm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn cả nước từ năm

Trang
31


2005 đến hết năm 2015
Thống kê số liệu về số vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt
Biểu đồ 2.1 tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2005 đến

32

năm 2015
Mức độ tăng giảm của số người phạm tội bắt cóc nhằm
Biểu đồ 2.2 chiếm đoạt tài sản trên địa bàn cả nước từ năm 2005
đến năm 2015

33


MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay trước tình hình đất nước đang có nhiều thay
đổi về mặt kinh tế chính trị, cùng với sự phát triển của đất nước, những năm
qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, hoạt động giải quyết các vụ án
hình sự liên quan đến các tội phạm xâm phạm sở hữu đã đạt được những
thành tựu nhất định, góp phần bảo đảm trật tự, an ninh, bình yên trong cuộc
sống của người dân, thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững. Tuy
nhiên trong thời gian gần đây, tình hình tội phạm đang có những diễn biến
phức tạp, một số loại tội phạm đang có xu hướng gia tăng với mức độ và tính
chất nguy hiểm ngày càng cao gây bất an trong dư luận. Trong đó bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản là một trong những hành vi nguy hiểm đáng bị lên
án, thể hiện sự manh động và coi thường pháp luật của người phạm tội. Thời
gian qua, nhiều địa phương trong cả nước đã xảy ra những vụ bắt cóc tống
tiền khiến dư luận xôn xao, trong đó, có vụ thủ phạm đã xuống tay tàn độc

giết chết con tin. Điển hình như vụ án bắt, giết bé trai 11 tuổi của đối tượng
Nguyễn Bảo Vũ tại tỉnh Bình Thuận. Nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của
loại tội phạm trên thường xuất phát từ mục đích kinh tế, đồng thời hệ lụy từ
nạn mua bán người đang diễn ra phức tạp không chỉ ở Việt Nam mà còn ở
nhiều nước trên thế giới và khu vực trong thời gian qua. Sự mất cân bằng giới
tính, nhất là ở các nước Châu Á, cùng với nạn mại dâm, bóc lột lao động, bóc
lột tình dục, thậm chí là mua bán nội tạng...đã thúc đẩy thị trường mua bán
người, trong đó có mua bán trẻ em ngày càng diễn ra phức tạp. Ngoài ra, quá
trình giải quyết các vụ án còn tồn tại nhiều vấn đề, chưa thể hiện đúng tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi này, việc đánh giá, giải quyết vụ án
một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật, bảo vệ vững chắc các

1


quyền và tự do của công dân bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn hiện nay,
phụ thuộc rất nhiều vào việc cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền định tội
danh xác định tội danh đã được thực hiện trong thực tế khách quan có chính
xác hay không. Do đó, vấn đề định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản trở thành một vấn đề mang tính cấp thiết có liên quan trực tiếp
đến quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân, đến trật tự xã hội và tình hình phát
triển của đất nước.
Việc nghiên cứu các quy định về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh đối với loại tội phạm này trong
thực tiễn, thống nhất cách nhìn nhận khoa học về các hành vi vi phạm, tạo lập
cơ chế vững chắc trong việc xác định tội danh đối với loại tội phạm này, góp
phần xây dựng nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, tác
giả chọn đề tài “Định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
theo pháp luật hình sự Việt Nam - Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà
Nội” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.

2.Tình hình nghiên cứu đề tài luận văn
Ở nước ta, hoạt động giải quyết các vụ án liên quan đến vấn đề bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản luôn được giới khoa học pháp lý và đặc biệt là những
người làm công tác xét xử và thi hành án của ngành tư pháp quan tâm. Đã có
nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề trên đây với những khía cạnh và mức
độ khác nhau như: “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu”
của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, Luận án tiến sĩ luật học (2000); “Tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam” của Nguyễn Kim Chi,
Luận văn Thạc sĩ luật học (2011); “Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam” của Trần Thị Phượng, Luận
văn Thạc sĩ luật học (2015); Bài viết “Những quy định về tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới”, của

2


Nguyễn Kim Chi, Học viện tư pháp (2012); “Người bị hại trong vụ án hình
sự” của Đinh Văn Quế, Tạp chí Tòa án nhân dân số 12 năm 1997. Tuy nhiên,
các công trình nghiên cứu trên chỉ phản ánh ở những góc độ khác nhau về vấn
đề bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, chưa có công trình nào phân tích chuyên
sâu cả về lý luận và thực tiễn đối với việc định tội danh hành vi bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản, do đó, cần nghiên cứu chuyên sâu nhằm đưa ra các giải
pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đíchnghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trên cơ sở số liệu
thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội, nhằm hoàn thiện lý luận về định tội danh
đối với loại tội phạm này, đồng thời trên cơ sở thực tiễn áp dụng chỉ ra những
hạn chế, bất cập, vướng mắc khi áp dụng vào thực tiễn, qua đó đưa ra các giải

pháp nhằm hoàn thiện quy định của BLHS, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội loại tội phạm này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội
danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội.
- Phân tích dựa trên số liệu thực tiễn, những bản án, quyết định của Tòa
án và một số văn bản liên quan nhằm làm rõ hơn về vấn đề định tội danh đối
với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
- Phân tích, làm rõ một số thiếu sót, sai lầm thường gặp trong quá trình
xác định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.

3


- Đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam
về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
- Đưa ra giải pháp bảo đảm định đúng tội danh đối với tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề định tội danh đối với tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 134 BLHS năm 1999.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quá trình giải quyết các vụ án liên quan đến định
tội danh về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, trong thời gian từ năm 2005
đến năm 2015 trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương

pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan
điểm chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống lý luận pháp
luật hình sự ở một số quốc gia trên thế giới.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu thuộc
chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự như: phương pháp so sánh, phân
tích, thống kê, tổng hợp v.v...
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận văn nghiên cứu một cách đồng bộ, có hệ thống lý luận về định
tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự
Việt Nam, làm rõ các quy định cụ thể liên quan đến tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản.

4


- Chỉ ra những điểm bất hợp lý trong khoa học định tội danh đối với tội
bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện mô hình lý luận về định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài
sản.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn làm rõ nội dung, ý nghĩa và thực tiễn áp dụng pháp luật về
định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, góp phần hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm
này.
- Chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quá trình áp dụng các quy định
pháp luật về định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, đề xuất
các giải pháp nhằm khắc phục và hoàn thiện.
7. Một số điểm mới của luận văn
Một số điểm mới cơ bản của luận văn:

- Xây dựng khái niệm về định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản.
- Phân tích và nêu ý nghĩa của việc định đúng tội danh đối với tội bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
- Đánh giá, phân tích thực trạng định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội, so sánh đối chiếu tội bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và một số tội liên quan, từ đó chỉ ra những hạn
chế, vướng mắc và một số nguyên nhân cơ bản.
- Đề xuất một số giải pháp bảo đảm định đúng tội danh đối với tội bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và cả
nước nói chung.
8. Kết cấu luận văn
Luận văn được xây dựng theo hệ thống gồm 3 chương:

5


Chương 1: Một số vấn đề chung về định tội danh đối với tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản.
Chương 2: Thực trạng định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp bảo đảm định đúng tội danh đối với tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản.

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI TỘI BẮT CÓC NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN


1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc định đúng tội danh đối với tội
bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt
tài sản
Định tội danh là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong thực tiễn áp dụng
pháp luật, là hoạt động được thực hiện xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án
hình sự nhằm xác định sự thật khách quan, đưa ra những đánh giá chính xác
về mặt pháp lý hình sự giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện
trong thực tế khách quan, với các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm tương
ứng được quy định trong Bộ luật hình sự, tạo tiền đề cho việc phân hóa trách
nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả
đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
con người. Định tội danh đúng sẽ tạo cơ sở cho việc thực hiện hàng loạt các
nguyên tắc tiến bộ bảo vệ quan hệ nhân thân, bảo đảm sự công minh và nhân
đạo của pháp luật. Do đó, việc nghiên cứu khoa học pháp lý về định đội danh
có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hiện nay,
xung quanh khái niệm định tội danh còn có nhiều quan điểm khác nhau.
Theo GS.TSKH. Lê Văn Cảm và PGS.TS. Trịnh Quốc Toản thì “Định
tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng thời là một
trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật, cũng như pháp
luật tố tụng hình sự và được tiến hành bằng cách - trên cơ sở các chứng cứ,
các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối
chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của

7


hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành
tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định”[14, tr.21].

Theo tác giả Nguyễn Đức Cường trong bài viết “Định tội danh trong
vụ án hình sự cụ thể” thì “Định tội danh là việc xác định hành vi khách quan
thỏa mãn cấu thành một tội phạm nhất định được quy định trong Bộ luật hình
sự” [18].
Theo ThS. Lê Văn Luật thì “Định tội danh là một vấn đề quan trọng
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, là tiền đề cho việc phân hóa trách
nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh, chính xác, đồng
thời làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xác định thẩm
quyền điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng... góp phần
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế
XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.”[27]
Tuy nhiên, nhìn chung đa số các học giả, các nhà nghiên cứu khoa học
hình sự đều nhìn nhận quan điểm: Định tội danh là việc xác nhận về mặt pháp
lý hình sự được thực hiệntrên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thu thập được để
xác định có hay không có sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy
hiểm cho xã hội cụ thể đã được thực hiện với các yếu tố cấu thành tội phạm
cụ thể tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự.
Theo Từ điển Luật học bắt cóc là hành vi “bắt người một cách đột ngột
và đem giấu đi” [48]. Đây là hành vi tước đoạt tự do của người khác một cách
bất hợp pháp, thể hiện sự manh động trong việc thực hiện hành vi phạm tội,
xem thường pháp luật.Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi bắt người làm con tin nhằm mục đích buộc
người khác phải nộp cho mình một khoản tiền hoặc một khoản tài sản thì mới
thả người bị bắt [32, tr.53].

8


Như vậy, định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có
thể được hiểu là việc xác nhận về mặt khoa học pháp lý hình sự,được thực

hiện trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thu thập được, để xác định có hay
không có sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt
tài sản với các yếu tố cấu thành tộiphạm bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
được quy định trong Bộ luật hình sự.
1.1.2. Ý nghĩa của việc định đúng tội danh đối với tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản
Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là một trong những loại tội phạm có
mức độ phức tạp trong việc thực hiện hành vi phạm tội, với những thủ đoạn
khác nhau người phạm tội đồng thời xâm phạm cùng lúc hai khách thể được
pháp luật hình sự bảo vệ là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Do đó, để
đưa một vụ án ra xét xử nghiêm minh và công bằng đối với người phạm tội,
thì việc định tội danh có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Trước hết, định tội danh là cơ sở cần thiết đầu tiên cho việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Trên cơ sở xác định người phạm
tội đã thực hiện hành vi phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của BLHS,
người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ quyết định một hình
phạt phù hợp đối với hành vi phạm tội đó. Vì thế, định tội danh được xem là
tiền đề, điều kiện cho việc quyết định hình phạt đúng đắn, định tội danh chính
xác sẽ giúp bảo vệ quan hệ nhân thân, bảo đảm trật tự ổn định xã hội, bảo vệ
pháp luật, tạo ra sự tin tưởng trong xã hội đối với các cơ quan thực thi pháp
luật, đồng thời, định tội danh chính xác sẽ là căn cứ để phân hóa trách nhiệm
hình sự cũng như cá thể hóa hình phạt và là cơ sở để áp dụng một số các quy
định khác nhằm bảo vệ nhân quyền trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Ngược lại, định tội danh sai không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến
các quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, mà còn làm giảm

9


uy tín của các cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế, ảnh hưởng đến công tác

đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.2. Căn cứ pháp lý và căn cứ khoa học của việc định tội danh đối
với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
1.2.1. Căn cứ pháp lý của việc định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản
Điều 2 Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành quy định: “Chỉ người nào
phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm
hình sự”. Như vậy, căn cứ pháp lý duy nhất của việc định tội danh đối với
hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là Bộ luật hình sự. Bộ luật hình sự
hiện hành quy định rõ tội danh và khung hình phạt cụ thể đối với hành vi bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản tại Điều 134, với nội dung cụ thể như sau:
Điều 134. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt
tài sản, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ năm năm đến mười hai năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Đối với trẻ em;
e) Đối với nhiều người;
g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người bị
bắt làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;
h) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến
dưới hai trăm triệu đồng;

10



i) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ mười năm đến mười tám năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người bị
bắt làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới
năm trăm triệu đồng;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người bị bắt
làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng
đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt
quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm [37].
Ngoài ra còn có các quy định mang tính bổ trợ khác làm căn cứ cho
việc xác định tội danh như: Mục I Thông tư liên tịch số 02/VKSNDTCTANDTC-BCA-BQP-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 hướng dẫn áp dụng
một số quy định tại Chương XIV Các tội xâm phạm sở hữuBộ luật hình sự
1999.
Chương XIV CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU của Bộ luật hình sự
1999, cụ thể:
MỤC I. VỀ MỘT SỐ TÌNH TIẾT LÀ YẾU TỐ HOẶC ĐỊNH
KHUNG HÌNH PHẠT


11



Điểm 3. Khi áp dụng các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”,
“gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”
(từ Điều 133 đến Điều 140, Điều 142 và Điều 143 BLHS) cần chú ý:
3.1. Hậu quả phải do hành vi phạm tội gây ra (có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả). Hậu quả đó có thể là thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản hoặc hậu quả phi vật chất (gây ảnh
hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà
Nước; gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội).
3.2. Đối với các tội quy định tại các Điều 133, 134 và 136 thì
thiệt hại về sức khỏe, tính mạng đã được quy định thành tình tiết định
khung riêng biệt, cho nên không xem xét các thiệt hại này một lần nữa
để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra được hướng dẫn tại
tiểu mục 3.4 Mục 3 này.
3.3. Đối với các tội có quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt, giá
trị tài sản bị sử dụng trái phép, giá trị tài sản bị hủy hoại hoặc bị làm
hư hỏng, thì việc xác định hậu quả thiệt hại về tài sản không phải căn
cứ vào giá trị tài sản bị chiếm đoạt, giá trị tài sản bị sử dụng trái phép,
giá trị tài sản bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng, vì giá trị tài sản này đã
được quy định thành tình tiết định khung riêng biệt. Hậu quả phải là
thiệt hại về tài sản xẩy ra ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt, giá trị tài
sản bị sử dụng trái phép, gí trị tài sản bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.
Ví dụ: A trộm cắp một lô thuốc chữa bệnh gia súc trị giá 40
triệu đồng. Do thuốc chữa bệnh cho gia súc bị trộm cắp nên không có
thuốc để kịp thời chữa bệnh, dẫn đến đàn gia súc trị giá 100 triệu đồng
bị chết. Trong trường hợp này giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 40 triệu
đồng và hậu quả thiệt hại về tài sản là 100 triệu đồng.

12



3.4. Để xem xét trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu
quả nghiêm trọng, trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả
rất nghiêm trọng và trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng về nguyên tắc chung phải đánh giá một
cách toàn diện, đầy đủ các hậu quả (thiệt hại về tài sản, thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe và các thiệt hại phi vật chất).
Nếu gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản thì được xác
định như sau:
a) Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả
nghiêm trọng:
a.1) Làm chết một người;
a.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một đến
hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
a.3) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều
người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến
100%, nếu không thuộc các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm
a.2 và a.3 trên đây;
a.5) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều
người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại
về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng;
a.6) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới
500 triệu đồng.
b) Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả rất
nghiêm trọng:
b.1) Làm chết hai người;
b.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ba đến
bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;

13



b.3) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của năm đến
bảy người với tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101%
đến 200%, nếu không thuộc một trong các trường hợp được hướng
dẫn tại các điểm b.2 và b.3 trên đây;
b.5) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới
một tỷ năm trăm triệu đồng;
b.6) Gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản mà hậu quả
thuộc hai đến ba điểm từ a.1 đến điểm a.6 tiểu mục 3.4 này.
c) Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng:
c.1) Làm chết ba người trở lên;
c.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của năm
người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
c.3) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của tám
người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
c.4) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều
người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201%
trở lên, nếu không thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại
các điểm c.2 và c.3 trên đây;
c.5) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu
đồng trở lên;
c.6) Gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản mà hậu quả
thuộc bốn điểm trở lên từ điểm a.1 đến điểm a.6 tiểu mục 3.4 này;
c.7) Gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản mà hậu quả
thuộc hai điểm trở lên từ điểm b.1 đến điểm b.6 tiểu mục 3.4 này.
Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản, thì thực tiễn cho
thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực

14



hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an
ninh, trật tự, an toàn xã hội… Trong các trường hợp này phải tùy vào từng
trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. [44]
1.2.2. Căn cứ khoa học của việc định tội danh đối với tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, cơ sở khoa học và mô hình
pháp lý của việc định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là
các yếu tố cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản gồm các yếu tố sau:
1.2.2.1.Khách thể của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu và
quan hệ nhân thân được pháp luật hình sự bảo vệ và bị hành vi bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản xâm phạm.
Người bị bắt cóc thường là người bị xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự, còn người bị xâm phạm đến tài sản là người có
mối quan hệ đặc biệt với người bị bắt cóc như: bố, mẹ, anh, chị, em, bạn bè,
người nắm giữ bí mật thông tin v.v... Tuy nhiên, cũng có trường hợp người bị
bắt cóc đồng thời cũng là chủ sở hữu tài sản bị xâm phạm.
1.2.2.2. Mặt khách quan của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
Người phạm tội thực hiện hành vi bắt giữ người khác làm con tin - tức
bắt giữ người trái pháp luật nhằm đe dọa, bằng nhiều thủ đoạn khác nhau gây
sức ép tâm lý buộc người bị hại phải giao tài sản. Thủ đoạn bắt cóc không
phải là dấu hiệu đặc trưng của hành vi phạm tội (không có ý nghĩa trong việc
định tội danh), nhưng hành vi bắt cóc người làm con tin lại là đặc trưng cơ
bản của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, bởi mục đích của việc bắt giữ

15



người làm con tin chính là một thủ đoạn nhằm chiếm đoạt tài sản. Người bị
bắt giữ làm con tin thường có mối quan hệ đặc biệt với người bị hại.
Hành vi gây sức ép tâm lý đối với người bị hại, có thể là đe dọa về mặt
tinh thần đối với người bị hại bằng nhiều phương thức khác nhau (như đánh
đập, hành hạ hoặc thủ đoạn khác đối với người bị bắt) nhằm đòi người bị hại
giao một khoản tài sản nhất định.
Là tội phạm có cấu thành hình thức, hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt
tài sản hoàn thành ở thời điểm người phạm tội đã bắt cóc và có mục đích
nhằm đòi tiền (tài sản) chuộc từ người bị hại.
Hậu quả của tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc để định tội,
nhưng có ý nghĩa trong việc định khung tăng nặng. Nếu hành vi bắt cóc cấu
thành một tội độc lập khác thì người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình
sự cả về tội độc lập đó.
1.2.2.3. Chủ thể của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
Chủ thể của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là bất kỳ người nào có
năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trong trường hợp quy định tại khoản
1 Điều 134là tội phạm nghiêm trọng, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
không phải chịu trách nhiệm hình sự (vì khoản 2 Điều 12 BLHS quy định
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng).
Ngoài trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS thì bất kỳ
người nào có năng lực trách nhiệm hình sự, đã thực hiện hành vi phạm tội quy
định tại Điều 134 BLHS đều là chủ thể của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài
sản.
1.2.2.4. Mặt chủ quan của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực
tiếp và mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản.


16


Lỗi cố ý trực tiếp là trường hợp người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản nhận thức rõ hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của mình là
nguy hiểm cho xã hội và mong muốn thực hiện bằng được hành vi đó.
Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc để xác định tội danh.
Tuy nhiên, cần chú ý mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản có thể nảy sinh trước
hoặc sau khi thực hiện hành vi bắt cóc, khi xác định tội danh cụ thể, trách
nhiệm hình sự đối với việc thực hiện hành vi có mục đích nhằm chiếm đoạt
tài sản này cần có sự phân hóa rõ ràng giữa các cá nhân phạm tội.[32, tr.52]
1.3. Định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo
các giai đoạn thực hiện tội phạm
1.3.1. Định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo
giai đoạn tội phạm hoàn thành
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản hoàn thành khi hành vi phạm tội
đã thỏa mãn đầy đủ dấu hiệutrong cấu thành cơ bản của tội phạm này. Đó là,
người phạm tội đã thực hiện hành vi bắt cóc người khác làm con tin nhằm
chiếm đoạt tài sản.
Định tội danh đối với hành vi phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
đã hoàn thành là sự đánh giá về mặt pháp lý hình sự hành vi bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản, trên cơ sở đối chiếu, so sánh và kiểm tra để xác định sự
giống nhau giữa các dấu hiệu của hành vi ấy với các yếu tố cấu thành tội bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 134 BLHS [14, tr.48].
Như vậy, để xác định chính xác tội danh do hành vi phạm tội gây ra, thì
quá trình định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đã hoàn
thành cần dựa trên cơ sở đánh giá về mặt pháp lý hình sự các yếu tố cấu thành
tội phạm cụ thể đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Cụ thể trong quá
trình định tội danh đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cần xác định
đúng những yếu tố sau:


17


×