Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

TIEU LUAN TP KINH DIEN quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất” trong tác phẩm “hệ tư tưởng đức” của c mác ăngghen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.91 KB, 38 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ và tính chất của
lực lượng sản xuất là quy luật chung chi phối sự vận động biến đổi của
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, phương thức sản xuất và các hình
thái kinh tế-xã hội. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là qui luật hết sức phổ biến
trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. Sự mâu thuẫn hay
phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đều có ảnh hưởng
rất lớn tơí nền kinh tế. Sự tổng hoà mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất tạo nên một nền kinh tế có lực lượng sản xuất phát
triển kéo theo một quan hệ sản xuất phát triển.
Nói cách khác Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất là một điều kiện tất yếu để phát triển một
nền kinh tế. Chính C.Mác là người phát hiện và nêu lên tầm quan trọng
của quy luật này trong sự phát triển xã hội. Song sự vận dụng không
thành công quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
vào quá trình cải tạo và xây dựng xã hội mới ở một số nước xã hội chủ
nghĩa trước đây đã buộc chúng ta phải xem xét lại nhận thức của mình về
quan hệ này.
Ngày nay khi đất nước ta đang bước vào một thời kì mới-thời kì
công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, để tránh những sai lầm, tổn thất
đã gặp phải trong quá khứ và làm cho “dân giàu, nước mạnh”, như mục
tiêu của Đảng đã đề ra, thì việc tìm hểu “ Quy luật phù hợp của quan hệ
sản xuất với lực lượng sản xuất” là một việc nên làm.
Chính vì lẽ đó, tôi xin chọn đề tài : “ Quy luật phù hợp của quan
hệ sản xuất với lực lượng sản xuất” trong tác phẩm “Hệ tư tưởng
Đức” của C.Mác- Ăngghen” làm đề tài tiểu luận.
1



2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là một đề
tài rộng và được nhiều tác gia nghiên cứu. Với tính chất là một tiểu luận,
trong quá trình làm bài tôi không thể trình bày một cách đầy đủ, trọn vẹn
tất cả nội dung của quy luật của C.Mác trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức
mà chỉ xin mạnh dạn trình bày một cách khái quát các nội dung của nó
nhằm phục vụ cho việc phân tích quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất
với lực lượng sản xuất.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
Xuất phát từ ý nghĩa, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi xin
đưa ra những phân tích của cá nhân về quy luật phù hợp của quan hệ sản
xuất với lực lượng sản xuất, và từ đó chỉ ra sự vận dụng của Đảng ta về
quy luật phù hợp đó trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước trong
giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Tiểu luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương chính sách
nghị quyết của Đảng và Nhà nước ta
Cùng với phương pháp trên, tiểu luận còn sử dụng phương pháp nghiên
cứu tài liệu, phương pháp so sánh, thu thập tài liệu...
5. Kết cấu của đề tài.
Tiểu luận ngoài phần mở đầu; kết luận, danh mục ghi tài liệu tham khảo
thì gồm có 3 nội dung chính:
I. Khái quát về tác phẩm.
II. Nội dung quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản
xuất.

2



III. Sự vận dụng quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản
xuât của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội giai đoạn
hiện nay.

3


NỘI DUNG
I.KHÁI QUÁT VỀ TÁC PHẨM.
Tác phẩm “ Hệ tư tưởng Đức” được soạn thảo khoảng vào năm
1845-1846 nhằm nêu bật lí luận giải phóng giai cấp vô sản, thế giới quan
triết học của chủ nghĩa Mác.
Nếu so sánh với “ Gia đình thần thánh”, một tác phẩm mới chỉ đưa
ra cách tiếp cận về quan hệ sản xuất( chú ý sự phe phán Pruđông), thì
trong tác phẩm “ Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và Ăngghen đã phân tích các
hình thức sở hữu thay thế nhau trong lịch sử như các hình thức giao tiếp
xã hội(khái niệm này về sau sẽ là “quan hệ sản xuất”) phù hợp với trình
độ nhất định của sự phát triển lực lượng sản xuất.
Thông qua việc phê phán triết học Đức và chủ nghĩa xã hội tiểu tư
sản đương thời ở Đức tự mệnh danh là “chủ nghĩa xã hội chân chính”,
C.Mác và Ăngghen trình bày “ thế giới quan mới” của triết học Mác.
Mùa xuân năm 1945, C.Mác và Ăngghen gặp nhau tại Brúcxen (Bỉ). Do
hai ông cảm nhận được tình thế cách mạng hình thành tại Châu Âu, vì
vậy hai ông cho rằng đã đến lúc phải tiến hành một cơ sở lí luận để tiến
tới tập hợp lực lượng tổ chức giai cấp công nhân lại với nhau bởi lúc này
chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập ở một số nước tiên tiến Tây Âu, còn
một số nước như: Áo, Đức, Ý vẫn chưa tiến hành một cuộc cách mạng tư
sản.
Năm 1845-1846, chủ nghĩa tư bản đã manh nha ở một số nước này
dẫn đến sự xuất hiện của giai cấp vô sản. Từ đó, đã đưa nước Đức trở

thành một nước tư bản. Khi chủ nghĩa tư bản phát triển thì giai cấp công
nhân cũng phát triển, đòi hỏi phải tổ chức họ lại nhưng trong khi đó có
những tổ chức đã được thành lập như: nhà xã hội chân chính, ủy ban liên

4


lạc cộng sản...đã bị lũng đoạn do những kẻ cầm đầu lại đứng trên giai cấp
khác để tổ chức phong trào công nhân.
Có thể nói rằng, nếu như Mác-Ăngghen không xây dựng một nền
triết học mới với những quan niệm mới, đặc biệt là quan niệm duy vật
lịch sử thì sẽ không tổ chức được phong trào công nhân, và phong trào
công nhân cũng không thể đi đúng hướng được. Từ năm 1841 đã đánh
dấu bước chuyển cách mạng trong triết học Mác. “ Hệ tư tưởng Đức”
xuất hiện không chỉ do những yếu tố khách quan mà còn làm chứa những
yếu tố chủ quan bởi khi đó các ông đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm,
đoạn tuyệt với lập trường dân chủ cách mạng chuyển sang lập trường của
giai cấp vô sản (CNCS). Và cho đến năm 1847, tác phẩm mới được hoàn
thành.
Từ việc phân tích hệ tư tưởng đang thống trị tại Đức những năm 40
của thế kỉ XIX, C.Mác và Ăngghen đã từng bước xác lập những luận
điểm nền tảng của triết học mới, đặc biệt là những quan điểm duy vật về
lịch sử, phân tích một cách khoa học sự vận động của xã hội như một quá
trình lịch sử tự nhiên. Tác phẩm có rất nhiều nội dung, trong đó quy luật
phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là một trong những
nội dung quan trọng cần được khai thác phân tích.
Tác phẩm này đã đánh dấu sự trưởng thành tư tưởng của C.Mác và
Ăngghen trong quá trình xác lập nội dung nền tảng của chủ nghĩa duy
vật. Nó thể hiện vào việc phân tích các quá trình lịch sử-xã hội, hình
thành quan niệm duy vật về lịch sử.

Gía trị nổi bật của tác phẩm là tính định hướng thế giới qua và
phương pháp luận của nó đối với việc nhận thức và giải thích đời sống
thực tiễn, là cơ sở lí luận khoa học giúp chúng ta đấu tranh với quan niệm
duy tâm thần bí về xã hội, phê phán quan điểm không đúng đắn về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,

5


phê phán quan điểm của chủ nghĩa giáo điều, duy ý chí từng tồn tại ở các
nước theo mô hình của CNXH quan liêu.
“Hệ tư tưởng Đức” là một tác phẩm nền tảng của quan niệm duy
vật về lịch sử và chủ nghĩa nhân văn macxit- tiếp tục thể hiện giá trị của
mình trong thế giới hiện đại, trong sinh hoạt tư tưởng và trong thực tiễn.
Qua tác phẩm đã để lại cho chúng ta một bài học sâu sắc: đó là việc
không ngừng tìm hiểu những ý tưởng mới, quan điểm mới, những khái
niệm mới, thể hiện và phản ánh một cách kịp thời trung thực trong diễn
biến của thực tiễn nhằm trang bị cho bản thân cơ sở lý luận vững chắc với
sự định hướng của nó để có thể giải đáp thành công những vấn đề cuộc
sống đặt ra.
“Hệ tư tưởng Đức” đã góp phần hướng các nhà Mácxít cách thức
để vượt qua cái lỗi thời, xác lập và khẳng định cái mới, phù hợp tiến bộ
trong hoạt động thực tiễn.
II. NỘI DUNG QUY LUẬT PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT
VỚI LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
1. Một số vấn đề về các khái niệm “ Phương thức sản xuất”,“Quan hệ
sản xuất” và “Lực lượng sản xuất”.
1.1. Khái niệm “ Phương thức sản xuất”.
Trước khi đi tìm hiểu mối quan hệ biện chứng ta cần phải hiểu rõ
các khái niệm liên quan. Khái niệm đầu tiên cần tìm hiểu rõ là phương

thức sản xuất. Phương thức sản xuất là hình thức mà con người dùng để
tiến hành sản xuất, làm ra của cải vật chất trong một giai đoạn phát triển
nhất định nào đó. Đây là nhân tố quyết định đến tính chất, kết cấu của xã
hội, quyết định sự phát triển tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức
sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ
thấp đến cao.

6


Trong sản xuất, con người có “quan hệ song trùng”: một mặt là
quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là lực lượng sản xuất; mặt khác là
quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất. Phương thức sản
xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất
định và quan hệ sản xuất tương ứng.
Phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản
xuất vật chất của xã hội và cũng chính qua đó mà nó giữ vai trò là nhân tố
quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội nói chung. Cũng chính
vì vậy, mà có thể nói, tiêu thức cơ bản để phân định trình độ phát triển
của phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất là nhân tố giữ vai trờ quyết định tính chất,
trình độ, nội dung và hình thức tổ chức kinh tế của một xã hội và cũng
qua đó nó cũng giữ vai trò quyết định tính chất, trình độ, nội dung và hình
thức đặc trưng của tổ chức chính trị xã hội nói chung.
1.2. Khái niệm “ Lực lượng sản xuất”.
Nhân loại muốn sinh tồn, muốn có cuộc sống ngày càng tốt đẹp
hơn, muốn được giải phóng và phát triển thì tất yếu phải giải quyết vấn đề
tư liệu sinh hoạt vật chất như cơm ăn áo mặc hàng ngày. Vì thế chủ nghĩa
Mác cho rằng trong hoạt động lịch sử đầu tiên của nhân loại chính là hoạt

động sản xuất vật chất nhằm thỏa mãn những nhu cầu đó, nó là hoạt động
xã hội của con người và là toàn bộ cơ sở của lịch sử xã hội loài người.
Trong hai khái niệm liên quan trực tiếp đến quy luật phù hợp của
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất được C.Mác sử dụng trước khái
niệm “quan hệ sản xuất”. Vào những năm 1813-1844, khái niệm “quan hệ
sản xuất” còn chưa được hình thành, C.Mác viết: “Bản thân phương thức
hợp tác là một lực lượng sản xuất”. Tuy nhiên, C.Mác đã không đưa ra
một định nghĩa nào về khái niệm “lực lượng sản xuất”.
Trong các tài liệu Triết học, lực lượng sản xuất được hiểu là “sự
thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (trước hết là công cụ lao động)
7


và những người sử dụng lao động các tư liệu này để sản xuất ra của cải
vật chất”. (Từ điển triết học giản yếu, Nxb Đại học và THCN, Hà Nội)
hay một cách hiểu khác: “lực lượng sản xuất là thể thống nhất hữu cơ
giữa tư liệu sản xuất (trước hết là công cụ lao động) và người lao động
với kinh nghiệm và kĩ năng lao động của mình”. (Triết học Mác-Lênin
“Chủ nghĩa duy vật lịch sủ”,Nxb tuyên huấn, Hà Nội). Tuy nhiên, đó
chỉ là cách hiểu khái quát nhất về lực lượng sản xuất. Để có thể nhận thấy
đầy đủ về nó thì phải luôn nhớ rằng lực lượng sản xuất là thể thống nhất
của nhiều yếu tố hợp thành. Vấn đề đặt ra ở chỗ: trong những điều kiện
nào thì các yếu tố của nó có thể kết hợp được với nhau, trong điều kiện
nào thi các yếu tố đó khó có thể kết hợp được với nhau? Làm thế nào để
tạo ra sự kết hợp tốt nhất giữa người lao động với tư liệu sản xuất? Một
đặc điểm khác dễ nhận thấy lực lượng sản xuất vận động, biến đổi theo
hướng ngày càng phát triển. Lịch sử phát triển của xã hội loài người bao
hàm lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất. Hay thực ra, sự vận động
theo hướng phát triển cua lực lượng sản xuất kéo theo sự phát triển của xã
hội. Nhu cầu không ngừng tăng lên của xã hội làm cho lực lượng sản xuất

không ngừng biến đổi, phát triển. Sự biến đổi và phát triển của lực lượng
sản xuất bắt đầu từ sự biến đổi các yếu tố mà trước hết là con người, công
cụ sản xuất và các tư liệu lao động khác...
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và tương quan giữa
chúng là những vấn đề cần làm rõ để hiểu quy luật phù hợp của quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất. Các tài liệu Triết học hiện có khi trình bày
về quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất đã
không quên vấn đề này, nhưng đơn giản và điều đáng tiếc là vấn đề tương
quan giữa tính chất và trình độ cua lực lượng sản xuất lại chưa được chú
ý đúng mức. Vì vậy, chưa có được những nhận thức cần thiết làm cơ sở
giải quyết nhiều vấn đề đặt ra trong quy luật phù hợp của quan hệ sản

8


xuất và lực lượng sản xuất. Ở đây Em xin trình bày tóm tắt một số nhận
thức của cá nhân về vấn đề này.
Nếu nhìn vào các quan điểm khác nhau của xã hội và so sánh sự
khác nhau giữa các giai đoạn ấy, nhất là giai đoạn so với các giai đoạn
trước, chúng ta dễ nhận thấy cái được gọi là “trình độ của lực lượng sản
xuất”. Những gì mà lực lượng sản xuất đã đạt được ở một giai đoạn phát
triển ghi nhận trình độ của lực lượng sản xuất ở giai đoạn đó.
Trình độ nói chung thể hiện khả năng, năng lực hoạt động trên các
mắt hoặc một mặt nào đó mà sự vật đạt được ở một thời điểm nhất định.
Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện khả năng, năng lực sản xuất mà
lực lượng sản xuất đạt được ở một giai đoạn nào đó. Trình độ ấy được tạo
thành từ trình độ của 2 yếu tố căn bản:
 Trình độ của tư liệu sản xuất, mà quan trọng là trình độ của công
cụ sản xuất: máy móc thiết bị, các phương tiện sản xuất vật chất...
được sử dụng ở giai đoạn đó.

 Trình độ khoa học, trí tuệ và kĩ năng của người lao động tập thể
hiện trong cách tổ chức quá trình sản xuất phân công lao động và
phương pháp vận dụng các công cụ sản xuất để tiến hành lao động
sản xuất. Công cụ lao động nói chung, công cụ sản xuất nói riêng
với một loại công cụ đặc biệt là vũ khí – công cụ chiến đấu- vì vai
trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động thực tiễn của con người,
trong tay những người có nằng lực,có trình độ chuyên môn khác
nhau thì công cụ được phát huy tác dụng khác nhau.
Trình độ của lực lượng sản xuất là cái luôn luôn biến đổi, liên tục phát
triển cùng với sự biến đổi và phát triển của công cụ sản xuất để giải quyết
mâu thuẫn thường xuyên phát sinh những nhu cầu về khả năng trong quá
trình sản xuất. Có thể nói rằng, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
của bất kì dân tộc nào đều biểu lộ rõ nhất ở trình độ phát triển của sự
phân công lao đông. “Bất cứ sức sản xuất mới nào trong chừng mực
9


không phải chỉ là sự mở rộng đơn thuần về số lượng những lực lượng sản
xuất mà người ta đã biết đến cho đến lúc đó (ví dụ như sự khai phá đất
mới), cũng đều mang lại kết quả là sự phát triển nữa của phân công lao
động”. (Các Mác và Ăngghen: Toàn tập, Sđđ, Tr30).
Và khi đó, sự phân công lao động trong nội bộ một dân tộc sẽ dẫn
đến sự tách rời giữa lao động công nghiệp và lao động thương nghiệp với
lao động nông nghiệp, do đó dẫn đến sự tách rời giữa thành thị và nông
thôn. Mặt khác, do sự phân công lao động trong nội bộ những ngành khác
nhau ấy mà các loại phân công chi tiết khác nhau giữa các cá nhân hợp
tác với nhau trong một loại lao động nhất địnhcũng phát triển. Và cho đến
khi sự giao tiếp phát triển hơn nữa thì những mối quan hệ như thế cũng
xuất hiện cả trong mối liên hệ qua lại giữa các dân tộc khác nhau.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, “ lực lượng sản xuất

hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Chính
những người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức
mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là
công cụ lao động, tác đọng vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải
vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kĩ năng lao
động của con người ngày càng được tăng lên đặc biệt là trí tuệ của con
người không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của lao động ngày càng
cao.
Bên cạnh đó, người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố
cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản
xuất. Công cụ lao động do con người sang tạo ra, là “sức mạnh của tri
thức đã được vật thể hoá”, nó “nhân” sức mạnh của con người trong quá
trình lao động sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực
lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích luỹ kinh nghiệm, với những phát
minh và sang chế kĩ thuật, ccông cụ lao động không ngừng được cải tiến
và hoàn thiện.
10


Ứng với mỗi giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất trong đó
có sự thay đổi rất nhiều của trình độ, chỉ có một tính chất của lực lượng
sản xuất. Ví như tính chất cá nhân của lực lượng sản xuất kéo dài suốt từ
khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã cho đến cuối thời phong kiến,
trung cổ mới có biến đổi và khi chủ nghĩa tư bản ra đời thì lực lượng sản
xuất mới có tính chất xã hội.
Tính chất của lực lượng sản xuất là những đặc điểm xã hội mà lực
lượng sản xuất mang trong mình ở những giai đoạn khác nhau trong quá
trình phát triển. Những tính chất này một mặt chịu ảnh hưởng của tính
chất các bộ phận hợp thành lực lượng sản xuất(tính chất lao động và các
tư liệu sản xuất), mặt khác do sự phát triển nhất định của lực lượng sản

xuất tạo ra.
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ănghen. lực lượng sản xuất chỉ
có 2 tính chất cơ bản: tính chất cá nhân và tính chất xã hội(tính chất cá
nhân khi lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, tính chất xã hội khi lực lượng
sản xuất đã phát triển tới trình độ cao). Như vậy, tính chất và trình độ là 2
vấn đề quan trọng khi xem xét, phân tích lực lượng sản xuất. Trong quá
trình vận động và phát triển của lực lượng sản xuất từ hai vấn đề này sẽ
nảy sinh nhiều mối quan hệ, đặt ra nhiều yêu cầu với quan hệ sản xuất mà
nếu không nhận thức đúng, không giải quyết thỏa đáng thì lực lượng sản
xuất sẽ không thể phát triển được. Từ đó,xuất hiện các mối tương quan
sau:
Thứ nhất, sự biến đổi, phát triển về trình độ của lực lượng sản xuất
sẽ dẫn đén sự biến đổi vè tính chất của nó. Lực lượng sản xuất phải đạt
tới một trình độ nhất định mới làm nảy sinh tính chất xã hội của nó.
Thứ hai, trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ
là cái thường xuyên biến đổi, tính chất là cái chậm biến đổi..
Nhận biết những đặc điểm này sẽ giúp ta có cách xử lí đúng yêu cầu về
sự phù hợp giữa trình độ và tính chất.
11


1.3. Khái niệm “Quan hệ sản xuất”:
Trong các tài liệu Triết học, khái niệm “quan hệ sản xuất” và các
nội dung của nó về cơ bản là thống nhất. Quan hệ sản xuất là quan hệ
giữa người với người trong sản xuất vật chất. Quan hệ sản xuất cấu thành
từ các quan hệ sở hữu vè tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lí và trao
đổi hoạt động với nhau, quan hệ phân phối sản phẩm, trong đó quan hệ sở
hữu giữ vai trò quyết định.
Thực ra, để đi đến khái niệm “quan hệ sản xuất” tưởng chừng đơn
giản và rõ ràng đó, C.Mác đã trải qua một thời gian nghiên cứu, thể

nghiệm lâu dài, tìm thuật ngữ chính xác để phản ánh mặt thứ hai của quá
trình sản xuất, mặt quan hệ giữa người với người, mặt xã hội của sản
xuất. Thời kì đầu vào năm 1943, trong các bài viết của mình, C.Mác mới
chỉ nhận thấy mâu thuẫn giữa thực tiễn và các nguyên tắc quản lí hay mối
xung đột thường xuyên đang tồn tại giữa thực tiễn và các nguyên tắc quản
lí.
Cái mà hiện nay chúng ta gọi là “quan hệ sản xuất” thì lúc đó, ngay
trong nhận thức của người sáng lập ra Chủ nghĩa Mác. Cũng mới chỉ hiểu
được là “các nguyên tắc quản lí”. Thuật ngữ này chưa phản ánh đúng cái
cần phản ánh, tức là các quan hệ giữa người với người trong sản xuất.
Khoảng những năm 1845- 1846, khi viết tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”
C.Mác đã có lần sừ dụng thuật ngữ “quan hệ sản xuất”. Nhưng sau đó
ông lại dùng thuật ngữ “hình thức giao tiếp” để biểu thị quan hệ giữa
người với người trong quá trình sản xuất.
Từ những năm 1847-1848, trong các tác phẩm “Sự khốn cùng của
triết học”, “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác mới chỉ sử dụng
thuật ngữ “quan hệ sản xuất” để thay thế cho các thuật ngữ khác khi đề
cập tới vấn đề này. Và từ đó trở đi thuật ngữ “quan hệ sản xuất” chính
thức được sử dụng là khái niệm để phản ánh toàn bộ nội dung mặt xã hội
của quá trình sản xuất...Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác viết:
12


“hình thức giao tiếp “là mặt quan hệ xã hội của sản xuất”, là một hệ
thống những mối liên hệ vật chất giữa người với người...bị quy định bởi
những nhu cầu và phương thức sản xuất”.
Quan hệ sản xuất do con người sáng tạo ra, song nó được hình
thành một cách khách quan, khong phụ thuộc vào ý muốn chủ quan, tuy
tiện của con người. Để tiến hành sản xuất, con người chẳng những phải
quan hệ với tự nhiên mà còn phải quan hệ với nhau, do đó sản xuất bao

giờ cũng mang tính xã hội.C.Mác viết, người ta chỉ sản xuất được bằng
cách hợp tác với nhau một cách nào đó và trao đổi hoạt động với nhau.
Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ chặt
chẽ với nhau, chỉ có trong phạm vi những mối liên hệ và quan hệ đó thì
mới có sự tác động của họ vào giới tự nhiên, tức là sản xuất. Quan hệ sản
xuất là hình thức xã hội của sản xuất; giữa ba mặt của quan hệ sản xuất
thống nhất với nhau, taọ thành mọt hệ thống mang tính ổn định tương đối
so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Có thể thấy rằng, ba mặt của quan hệ sản xuất có quan hệ chặt chẽ
với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết
định đối với những mặt khác. Trong hệ thống sản xuất xã hội người sở
hữu tư liệu sản xuất quyết định quá trình tổ chức phân công lao động,
phân phối sản phẩm xã hội vì lợi ích của mình còn người không sở hữu
thì phục tùng sự phân công nói trên.
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến có hai loại hình sở
hữu cơ bản về tư liệu sản xuất; sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Mỗi
hình thức sở hữu đều có vai trò lịch sử của nó. Sở hữu tư nhân là loại
hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít
người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Do đó, quan
hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội
à quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu công cộng là
loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của
13


mỗi cộng đồng. Nhờ đó, quan hệ giữa người với người trong mỗi cộng
đồng là quan hệ bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau. Xét sự tiến bộ hay
không tiến bộ của mỗi hình thức sở hữu phải căn cứ vào việc hình thức sở
hữu ấy có phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, có tạo điều kiện
cho lực lượng sản xuất phát triển hay không? Không thể nói chế độ tư

hữu không tiến bộ, nếu nó là cơ sở cho sự phát triển của lực lượng sản
xuất ở giai đoạn đó, và ngược lại, không thể nói chế độ công hữu là tốt,
khi nó kìm hãm, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong tác
phẩm có viết:“Hình thức giao tiếp- cái mà trong tất cả các giai đọan lịch
sử từ trước đến nay đều được quyết định bởi lực lượng sản xuất và đến
lượt nó lại quyết định lực lượng sản xuất- là xã hội công nhân mà tiền đề
và cơ sở, như trước đây đã chỉ ra, là gia đình giản đơn và gia đình phức
tạp, cái mà ta gọi là bộ lạc…” (C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Sđd,
Tr51).
Hai khái niệm “Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất” đã phản
ánh rõ nét hai mặt khác nhau, hai loại quan hệ khác nhau của quá trình
sản xuất xã hội; một mặt là quan hệ với tự nhiên, và mặt khác là quan hệ
xã hội. Đó là hai mặt khác nhau của một quá trình thống nhất, không thể
chia cắt, tách rời. Trên cơ sở hai khái niệm này, C.Mác ngày càng nhận
thức rõ hơn, đầy đủ hơn các quan hệ của chúng và bằng con mắt biện
chứng, ông còn phát hiện ra sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai lĩnh
vực mà các khái niệm này phản ánh. Ông nhận thấy rằng giữa quan hệ
sản xuất và ực lượng sản xuất không chỉ có mâu thuẫn, mà còn có các
quan hệ khác, trong đó có quan hệ phù hợp. Mâu thuẫn giữa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất không những làm cho sự phát triển của lực
lượng sản xuất bị cản trở mà còn ảnh hưởng xấu tới nhiều mối quan hệ xã
hội khác. Ông viết: “Tất cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ
mâu thuẫn giữa những lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp”.

14


Quan hệ sản xuất phù hợp là điều kiện để lực lượng sản xuất phát
triển và các quan hệ xã hội khác diễn ra thuận chiều, tốt đẹp.
Sau một thời gian dài, tư tưởng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với

lực lượng sản xuất đã được C.Mác khẳng định và coi trạng thái này là
một tất yếu trong quan hệ của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Muốn quá trình sản xuất diễn ra, người ta phải tạo ra được một quan hệ
sở hữu phù hợp về tư liệu sản xuất, trên cơ sở những tư liệu sản xuất hiện
có phải tổ chức, bố trí hợp lí lực lượng lao động và cuối cùng phải có một
quan hệ phân phối thỏa đáng giữa những thành viên tham gia các quá
trình đó, không có sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản
xuất, các quá trình sản xuất sẽ kém hiệu quả không thể tồn tại lâu dài vì
người lao động không thiết tha với công việc, không gắn bó với tư liệu
sản xuất.
2. Thực chất tư tưởng của C.Mác về quy luật phù hợp quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Trước hết cần phải nhận thấy rằng, mặc dù đánh giá rất cao sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, nhận rõ vai trò đặc biệt
quan trọng của nó đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất và là người
đầu tiên nêu vấn đề này, nhưng trong các tác phẩm của mình, C.Mác cũng
không goi quan hệ này là quy luật.
Do đó, trước khi tìm hiểu thực chất tư tưởng của C.Mác về vấn đề
này, cần làm rõ nó có đúng quy luật hay không?
Giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có thể có nhiều mối
quan hệ vói nhau, chẳng hạn; quan hệ sản xuất hình thành theo yêu cầu
của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất biến đổi theo sự biến đổi của lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản
xuất ... Những quan hệ nào là quan hệ cốt lõi trong các quan hệ của quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất?- Đó chính là quan hệ phù hợp. Phải
xác lập được trạng thái phù hợp thì lực lượng sản xuất mới phát triển
15


được và bản thân quan hệ sản xuất mới tồn tại được. Như vậy, phù hợp là

quan hệ tất yếu. Phù hợp là quan hệ bên trong, tạo nên sự thống nhất giữa
hai mặt của một phương thức sản xuất. Nó là quan hệ bản chất quy định
các quan hệ khác của quan hệ sản xuất. Ở đâu diễn ra các quá trình sản
xuất, có lực lượng sản xuất, có quan hệ sản xuất...ở đó nhất định phải có
quan hệ phù hợp của quan hệ sản xuát với lực lượng sản xuất. Sự phù hợp
ràng buộc quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, tạo cho quan hệ sản
xuất những yếu tố hợp lí trở thành hình thức sản xuất của lực lượng sản
xuất. Xét theo thời gian, quan hệ phù hợp xác lập một quy luật liên hệ
giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Vì vậy, dù C.Mác không trực tiếp gọi quan hệ này là quy luật,
nhưng căn cứ vào nội dung và những đặc điểm của nó, căn cứ vào vai trò,
sự tác động, ảnh hưởng của nó, căn cứ vào tư tưởng của C.Mác trong vấn
đề này và căn cứ vào chính cách hiểu của C.Mác về khái niệm quy luật,
có thể kết luận rằng sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản
xuất chính là một quy luật-quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất. Trong tác phẩm, C.Mác có viết: “Sự sản xuất sự sống-ra
đời sống của bản thân mình bằng lao động, cũng như ra đời sống của
bản thân mình bằng lao động, cũng như ra đời sống của người khác
bằng việc sinh con đẻ cái-biểu hiện ngay ra là một quan hệ song trùng:
một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ xã hội...”. (C.MácĂngghen: Toàn tập,Sđd ,T1, Tr42). Mối quan hệ song trùng này tác động
lẫn nhau, biểu hiện thành quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử xã hội, C.Mác
nhận thấy quan hệ đó lặp đi lặp lại trong quá trình sản xuất vật chất, được
khái quát thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất. Trong tác phẩm, C.Mác viết: “Những điều
kiện khác nhau ấy lúc đầu là những điều kiện của sự tự mình hoạt động,
và sau đó, là trở ngại đối với sự tự mình hoạt động, thì làm thành, trong
16



toàn bộ sự tiến triển lịch sử, một chuỗi chặt chẽ những hình thức mới phù
hợp với những lực lượng sản xuất đã phát triển hơn, và do đó phù hợp
với phương thức hoạt động tiên tiến hơn của các cá nhân; hình thức mới
này à son tour lại trở thành trở ngại và lại được thay thế bằng một hình
thức khác. Vì ở mỗi giai đoạn của sự phát triển đồng thời của những lực
lượng sản xuất đang phát triển và được mỗi thế hệ mới nắm lấy, và do đó
cũng là lịch sử phát triển của những lực lượng của bản thân các cá
nhân”.(C.Mác-Ăngghen: Hệ tư tưởng Đức,T1, tr 42).
Giữa nhiều mối quan hệ tác động qua lại của quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất, C.Mác đã nhận thấy có một mối quan hệ bản chất, tất
yếu. Mối quan hệ này xác lập quy luật liên hệ giữa hai mặt của nền sản
xuất, đó là quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một
cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất-quy luật cơ bản nhất của sự
vận động, phát triển xã hội. C.Mác viết: “Trong số tất cả những cái xuất
hiện như là ngẫu nhiên đối với thời đại sau, ngược lại với thời đại trước,
ngay cả trong những yếu tố mà thời đại sau kế thừa của thời đại trước,
-có cả hình thức giao tiếp phù hợp với một giai đoạn phát triển nhất
định của lực lượng sản xuất, quan hệ giữa những lực lươngj sản xuất và
hình thưcs giao tiếp là quan hệ giữa hình thức giao tiếp với hành động
hay hành động của các cá nhân”. (C.Mác và Ăngghen: Toàn tập,
Sđd,T1, tr 42) . Khi sản xuất còn ở trình độ công cụ thủ công thì lực
lượng sản xuất mang tính chất cá nhân. Nó thể hiên trình độ tư liệu sản
xuất là thủ công, tính chất của lao động là riêng rẽ, cá nhân, tách rời nhau.
Khi sản xuất bằng máy thì trình độ tư liệu sản xuất là sản xuất công
nghiệp, và tính chất của lực lượng sản xuất là xã hội hóa.

17



Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không thể tách rời.
Mọi tình trạng nhất định của lực lượng sản xuất nói lên cả tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất quy định tính
chất của lực lượng sản xuất. Chính sự tác động qua lại của hai mặt của
phương thức sản xuất đã tạo nên sự phù hợp biện chứng đó.
Sự phù hợp này được xét từ việc phải lấy lực lượng sản xuất, lấy quan hệ
sản xuất làm chuẩn. Sự phù hợp do yêu cầu của lực lượng sản xuất đặt ra,
đòi hỏi quan hệ sản xuất phải đáp ứng các yêu cầu đó. Sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là sự phù hợp rất xác định “phù
hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất” như
C.Mác viết, không phải là sự phù hợp chung chung, sự phù hợp đó là cơ
sở, là tiền đề cho sự phù hợp của cả quá trình phát triển của lực lượng sản
xuất.
Sự phù hợp là một tư tưởng quan trọng của C.Mác về nội dung quy
luật phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất và nếu xét trên
một phương diện khác, có thể thấy đó chính là yêu cầu của quy luật này.
Yêu cầu đó là sợi dây liên hệ, quy định sự hình thành của quan hệ sản
xuất và “buộc” quan hệ sản xuất phải tất yếu biến đổi theo sự biến đổi của
lực lượng sản xuất. “Quan hệ sản xuất phải phù hợp với một trình độ phát
triển nhất định của lực lượng sản xuất” thì các mối quan hệ của quan hệ
sản xuất với lực lượng sản xuất sẽ là không xác định, không có “điểm
tựa” để tác động lẫn nhau tạo ra sự phát triển của lực lượng sản xuất, của
quan hệ sản xuất và phương thức sản xuất.
Sự phù hợp đó là sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành
quan hệ sản xuất, giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, giữa quan
hệ sản xuất với lực lượng sản xuất đem lại những phương thức kết hợp có
hiệu quả giữa người lao động với tư liệu sản xuất trong sản xuất vật chất.
Đây là sự phù hợp khách quan. Tất nhiên, không phải là khách quan tự nó

mà phải thông qua hoạt động của con người.
18


Có thể thấy rằng, khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là
không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự
biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao
động.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ
của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn
lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai
đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu biện ở trình độ của công
cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con người,
trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa
học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực
lượng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ
chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên
công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản
xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí,
hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có
tính chất xã hội hóa.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm
thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản
xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ
sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái
đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực
lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng

và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do
đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.

19


Không dừng lại ở sự phù hợp, theo dõi quá trình vận động của nền
sản xuất xã hội, C.Mác còn nêu lên một vấn đề cơ bản khác: đó là mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ
chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản
xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự
phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ
bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực
lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay
thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là
phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay
thế. Và khi tới một giai đoạn phát triển nào đó, những lực lượng sản xuất
vật chất của xã hội sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có....
Như vậy, theo C.Mác mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan
hệ sản xuất trước hết diễn ra mâu thuẫn của lực lượng sản xuất với quan
hệ sở hữu. Nhưng mâu thuẫn đó không phải do quan hệ sản xuất tạo ra
mà do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến. Quan hệ sản xuất-do
có tính thể chế, tính pháp luật, nên chậm biến đổi, trong khi đó lực lượng
sản xuất thường xuyên biến đổi, phát triển nên sẽ phá vỡ trạng thái phù
hợp, tạo ra mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn tích cực, mâu thuẫn do sự phát
triển của lực lượng sản xuất tạo ra, đòi hỏi được tiếp tục phát triển. Lúc
đó yêu cầu phù hợp của quy luật đòi hỏi phải thay quan hệ sản xuất đã
không còn tác dụng, đã lỗi thời bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với

trình độ mới của lực lượng sản xuất. C.Mác không đề cập đến trường hợp
mâu thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất do chủ quan của
con người gây ra (vì gán cho lực lượng sản xuất những quan hệ không
phù hợp với trình độ của nó. C.Mác thường xuất phát từ công cụ sản xuất
và đặt nó trong mối quan hệ với hình thức sở hữu để xem xét, đánh giá sự
20


phù hợp (hay không phù hợp) của quan hệ sản xuất với lực lượng sản
xuất.
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác có viết: “Chúng ta vẫn
xuất phát từ công cụ sản xuất và ở đây đã thể hiện rõ tính tất yếu của sở
hữu tư nhân ở những giai đoạn công nghiệp nhất định. Trong công
nghiệp khai khoáng, sở hữu tư nhân còn hoàn toàn ăn khớp với lao động.
Trong công nghiệp nhỏ và trong toàn bộ nông nghiệp, cho tới nay, sở hữu
là hậu quả tất yếu của những công cụ hiện có, trong công nghiệp lớn thì
mâu thuẫn giữa công cụ sản xuất và sở hữu tư nhân chỉ là sản vật của
một nền công nghiệp đã phải đạt đến một trình độ phát triển cao mới có
thể tạo ra mâu thuẫn ấy”. Chính vì vậy,mà khi phân tích quy luật phù
hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
ta cần phải đặt nó trong lịch sử phát triển kinh tế, đặc biệt là nền công
nghiệp. Mác viết: “Do đó chúng ta thấy rằng: một phương thức hợp tác
nhất định hay một giai đoạn xã hội nhất định; rằng bản than phương
thức hợp tác ấy là một “ sức sản xuất”; và do đó mà thấy rằng tổng thể
những lực lượng sản xuất mà con người đã đạt được, quyết định trạng
thái xã hội, vì vậy người ta luôn luôn phải nghiên cứu và viết “lịch sử
loài người” gắn liền với lịch sử của công nghiêp”. (C.Mác và Ăngghen:
Toàn tập, Sđd, T1,Tr 42).
Dù thừa nhận có tính chất của lực lượng sản xuất nhưng C.Mác không xét
đến tính chất của lực lượng sản xuất trong quy luật này và sự phù hợp

(hay không phù hợp) của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất có
nguồn gốc từ sự phù hợp (hay không phù hợp) của hình thức sở hữu. Với
một trình độ phát triển nhất định của công cụ sản xuất như vậy, thì việc
giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất được
tiến hành như thế nào?
Vấn đề giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất là nội dung cơ bản thứ 3 cần được chú ý trong tư tưởng của
21


C.Mác về quy luật này. Quan hệ sản xuất phù hợp tạo điều kiện cho lực
lượng sản xuất phát triển. Nhưng khi quan hệ sản xuất không còn phù
hợp, đã mâu thuẫn với lực lượng sản xuất, thì khi đó bắt đầu thời đại của
một cuộc cách mạng xã hội. Trong tác phẩm có viết: “…Khi hình thức
giao tiếp tương ứng của nó đã bị thay thế bằng hình thức giao tiếp phù
hợp với lợi ích có sau, -trong một thời gian dài vẫn tiếp tục nắm một
quyền lực truyền thống trong cộng đồng hư ảo và độc lập đối với các cá
nhân(nhà nước, pháp luật),-quyền lực mà rút cuộc, chỉ có cách mạng mới
có thể đập tan được”. (C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Sđd,T3, tr105).
Khi đã mâu thuẫn, quan hệ sản xuất chẳng những không còn cần thiết đối
với lực lượng sản xuất, mà còn trở thành những ràng buộc, cản trở, gây
khó khăn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Vì vậy, cần phải thay thế quan hệ sản xuất cũ đã không phù hợp
bằng quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ mới, tạo ra hình thức
mới để lực lượng sản xuất phát triển. Đó chính là cách giải quyết mâu
thuẫn riêng có đối với trường hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản
xuất. Trong trường hợp này, mặt cần được khẳng định là lực lượng sản
xuất, mặt cần phủ định là quan hệ sản xuất. “Vì điều quan trọng trước
tiên là để khỏi bị tước mất những thành quả của văn minh, những lực
lượng sản xuất đã đạt được, thì phải đập tan những hình thức cổ truyền,

trong đó những lực lượng sản xuất ấy đã được sinh ra”.
Điều dễ nhận thấy trong tư tưởng của C.Mác là mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất trong lịch sử thường được giải quyết
thông qua những cuộc cách mạng xã hội. Chẳng hạn, C.Mác viết: “Như
chúng ta đã thấy mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và hình thức giao
tiếp đã xảy ra nhiều lần trong lịch sử từ trước đến nay, song vẫn không
làm hại đến cơ sở cơ bản của nó, thì lần nào cũng nổ ra một cuộc cách
mạng, đồng thời lại mang những hình thức phụ khác nhau như: tổng
kết những xung đột, những sự xung đột giữa các giai cấp khác nhau.
22


Những mâu thuẫn về ý thức. đấu tranh tư tưởng,… đấu tranh chính trị…”
(C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Sđd,T3, Tr 107,108).
Lịch sử đã diễn ra như vậy, và C.Mác đã chỉ ra rằng hướng giải
quyết mâu thuẫn là thay quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới
và mâu thuẫn được giải quyết bằng cách mạng xã hội chứ không giải
quyết bằng sự “điều hòa”, “điều chỉnh”, “thích nghi”... Nhưng “thay”
toàn bộ quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới hay chỉ điều
chỉnh những yếu tố nào đó đề quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản
xuất mới? Việc thay đổi đó diễn ra từ từ, từng bước hay “ngay lập tức”?
Đó là những vấn đề trong tư tưởng của C.Mác cần được hiểu đúng để vận
dụng.
Dưới chủ nghĩa xã hội, sự phù hợp và không phù hợp... của quan
hệ sản xuất với lực lượng sản xuất cũng tồn tại khách quan, bên trong của
nền sản xuất vật chất với lượng sản xuất vật chất như yếu tố nội sinh của
sự phát triển. Chính vì thế, chủ nghĩa xã hội phải thường xuyên đổi mới,
cải cách, cải tổ để giải quyết sự không phù hợp, đem lại sự phù hợp mới
của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Phát triển là một quá trình
không ngừng phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn.

Mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn
được tái tạo trong sự lặp lại có tính quy luật của quá trình sản xuất vật
chất. Vì vậy, việc phát hiện và giải quyết được tiến hành tách biệt và
thường xuyên, liên tục. Ở đây, muốn nói là không thực hiện theo kiểu
“chiến dịch”. Cũng cần hiểu rằng, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
lực lượng sản xuất là quy luật xã hội thông qua hoạt động của con người,
nên việc phát hiện mâu thuẫn và hiệu quả việc giải quyết bao giờ cũng
phụ thuộc vào nhân tố chủ quan: trí tuệ, bản lĩnh, năng lực tổ chức thực
hiện...
Dù phù hợp hay không phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất luôn thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất.
23


Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục tiêu
xã hội của sản xuất, khuynh hướng phát trển của quan hệ lợi ích, từ đó
hình thành hệ thống những yếu tố hoặc thúc đẩy và kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Tác dụng thúc đẩy và kìm hãm sự phát triển lực
lượng sản xuất của quan hệ sản xuất chỉ có ý nghĩa tương đối. Với sự phát
triển khách quan của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất không còn phù
hợp thì cuối cùng cũng sẽ bị thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Tuy vậy, khi mâu thuẫn khách
quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đòi hỏi phải giải quyết,
nhưng con người không phát hiện được, hoặc phát hiện mà không giải
quyết được, hoặc do sai lầm chủ quan trong quá trình giải quyết mâu
thuẫn... thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố
phá hoại đối với lực lượng sản xuất, và cuối cùng, quy luật vẫn tự vạch
đường đi cho nó.
Khi mâu thuẫn đã được giải quyết thì cũng là lúc quá trình phù hợp
mới được xác lập, nhưng trên cơ sở trình độ mới của lực lượng sản xuất.

Mâu thuẫn giải quyết đến đâu thì sự phù hợp cũng được xác lập đến đó.
Giống như việc giải quyết mâu thuẫn, quá trình phù hợp cũng diễn ra dần
dần từng bước, từ ít đến nhiều, từ thấp đến cao, từng mặt đến toàn bộ.
Khi sự phù hợp đạt tới được về cơ bản, thì có thể nói là đã tạo ra một sự
thống nhất giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Có thể thấy rằng, trong sự vận động của nền sản xuất xã hội, lực
lượng sản xuất được coi là nội dung của quá trình sản xuất, quan hệ sản
xuất là hình thức xã hội của quá trình đó. Trong tính hiện thực của nó, sự
phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất bao giờ cũng được
thể hiện dưới dạng mối quan hệ sản xuất cụ thể, với những hình thức và
đặc điểm riêng được quy định bởi trình độ của lực lượng sản xuất. Hình
thức bao giờ cũng là hình thức cụ thể của một nội dung cụ thể. Không có
cái quan hệ sản xuất chung chung, trừu tượng. Sự tác động lẫn nhau giữa
24


nội dung và hình thức biểu hiện thành quy luật nội dung quyết định hình
thức. Tuy nhiên, hình thức không thụ động mà nó tác động trở lại nội
dung, nhưng hình thức không thể tạo ra nội dung được.
Vì vậy, trong mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất bao giờ cũng giữ vai trò quyết
định, nhưng quan hệ sản xuất không phải chỉ hoàn toàn phụ thuộc, bị
động vào lực lượng sản xuất mà nó có tác động trở lại tới lực lượng sản
xuất, nó quy định mục đích xã hội của lực lượng sản xuất, quy định
khuynh hướng phát triển của các lợi ích.
Nếu ta không thể sắp xếp hình thức trước rồi bắt nôi dung phải
theo, thì không thể tùy tiện áp đặt một hình thức cụ thể của quan hệ sản
xuất trước, rồi bắt lực lượng sản xuất phải theo. Trái lại, phải trên cơ sở
trình độ của lực lượng sản xuất mà tìm các hình thức cụ thể của quan hệ
sản xuất cho phù hợp. Điều đó lí giải cho sự sai lầm của chúng ta trước

đây cho rằng trong điều kiện lực lượng sản xuất còn thấp có thể tạo ra
quan hệ sản xuất tiên tiến để “mở đường”, để “thúc đẩy” lực lượng sản
xuất phát triển.
C.Mác đã chỉ ra rằng: “Những quan hệ sản xuất mới, cao hơn
không bao giờ xuất hiện khi những điều kiện tồn tại vật chất của những
quan hệ đó còn chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ”.
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
là quy luật phát triển khách quan của xã hội. Sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất là bản chất, là yêu cầu của quy luật. Làm trái
yêu cầu này sẽ dẫn đến sự ngừng trệ của sản xuất.
Bản chất của quy luật chỉ là một, nhưng hình thức biểu hiện của nó lại rất
phong phú, rất khác nhau trong không gian và thời gian khác nhau. Nhận
thức đúng bản chất và yêu cầu về quy luật là một việc rất qua trọng.
Nhưng nắm được những hình thức biểu hiện cụ thể của nó lại quan trọng
hơn, khó khăn hơn. Xét đến cùng, nếu chưa nắm được hình thức biểu
25


×