Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Vấn đề thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.49 KB, 9 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP LỚN HỌC KÌ
MÔN: TỐ TỤNG DÂN SỰ
Đề bài 17

Vấn đề thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở Tòa án
cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị hoàn thiện pháp luật điều
chỉnh vấn đề này

Họ và tên
Lớp
Nhóm
MSSV
I.

: Lương Thị Thu Hằng
: DS33D
: DS D2- 3
: 056

Quyền yêu cầu và thay đổi quyền yêu cầu của đương sự.


- Yêu cầu của đương sự “ là những điều mà đương sự đưa ra trong quá
trình tố tụng dân sự để mong muốn tòa án xem xét, giải quyết”1.
- “ Thay đổi, bổ sung yêu cầu”là việc sửa đổi, bổ sung những điều mà
đương sự đã đưa ra trong quá trình tố tụng dân sự.

 Về nguyên tắc, cá nhân, tổ chức có quyền, lợi ích hợp pháp và được


pháp luật bảo vệ. Khi quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân bị xâm
phạm thì cá nhân có thể tự mình hoặc yêu cầu tòa án, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Vì vậy, cá nhân, tổ chức đã yêu cầu có quyền sửa đổi, bổ sung
yêu cầu của mình.

 Quyền yêu cầu và sửa đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự là quyền tố
tụng dân sự được pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với
cá nhân, cơ quan, tổ chức. Quyền này cho phép cá nhân, tổ chức
được đưa ra đề nghị, đòi hỏi tòa án xem xét, giải quyết vụ việc dân sự
và được thay đổi những đề nghị, yêu cầu đó trong quá trình tố tụng
dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Cơ sở của quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự dựa trên quy
định tại Điều 4 BLTTDS 2004 về nguyên tắc quyền yêu cầu TA bảo vệ
quyền và lợi ích hợp phát của cá nhân, cơ quan, tổ chức và nguyên tắc
quyền quyết định và quyền tự định đoạt của đương sự được quy định tại
Điều 5 BLTTDS 2004.
II. Những quy định của pháp luật về thay đổi, bổ sung yêu cầu của
đương sự ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm.
1. Thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm.

1

Trường Đại học luật Hà Nội, từ điển giải thích thuật ngữ luật học 1999, nxb CAND.


- Khoản 2 Điều 5 BLTTDS 2004 có quy định : “ Trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu
cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái

pháp luật và đạo đức xã hội.”
Theo quy định này, đương sự đã khởi kiện, đưa ra yêu cầu phản tố, yêu
cầu đối với đương sự khác hay yêu caaud tòa án giải quyết việc dân sự
đều có thể thay đổi yêu cầu đó. Cũng theo quy định trên, quyền thay đổi,
bổ sung yêu cầu ( theo nghĩa rộng) của đương sự thể hiện quyền tự định
đoạt của họ trong TTDS: họ có quyền quyết định thay đổi hay không thay
đổi yêu cầu của mình, thực hiện việc thay đổi yêu cầu ở bất kì thời điểm
nào của quá trình TTDS.
- Điều 217 BLTTDS 2004 đã quy định thủ tục hỏi tại phiên tòa sơ thẩm
được bắt đầu bằng việc chủ tọa phiên tòa hỏi đương sự ( nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan có cầu độc lập ) về việc có
thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, hoặc yêu
cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập hay không.
a. Chủ thể có quyền thay đổi yêu cầu.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 BLTTDS 2004 thì chủ thể có quyền
yêu cầu chính là các đương sự đã đưa ra các yêu cầu đó cụ thể là :
nguyên đơn được thay đổi yêu cầu khởi kiện; bị đơn được thay đôi với
yêu cầu phản tố; người có quyền, nghĩa vụ liên quan có quyền thay đổi
yêu cầu độc lập của mình.
b. Phạm vi thay đổi yêu cầu.
Khoản 1 Điều 218 BLTTDS 2004 quy định: “ Hội đồng xét xử chấp nhận
việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu
khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.”


Theo quy định trên thì việc thay đổi yêu cầu trong giai đoạn sơ thẩm chỉ
được chấp thuận nếu việc thay đổi đó không vượt quá phạm vi yêu cầu
khởi kiện, phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu.
2. Thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm.

a. Chủ thể có quyền.
Từ quy định tại Khoản 1 Điều 256 và Điều 243 BLTTDS 2004, ta có thể
suy ra: Đương sự đã kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo.
b. Phạm vi thay đổi, bổ sung kháng cáo.
Còn việc thay đổi, bổ sung kháng cáo của đương sự trong giai đoạn phúc
thẩm được quy định tại Khoản 1 Điều 256 : “ Trước khi bắt đầu phiên
tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ
sung kháng cáo…nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo ban
đầu nếu thời hạn kháng cáo đã hết.”
Như vậy, với quy định trên, trong thời hạn kháng cáo, người kháng
cáo( trong đó có đương sự) có quyền thay đổi nội dung kháng cáo (có thể
vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu) với toàn bộ hoặc một phần bản án
mà mình có quyền kháng cáo. Còn nếu đã hết thời hạn kháng cáo thì
người kháng cáo có thể thay đổi kháng cáo trước phiên tòa hoặc tại phiên
tòa phúc thẩm nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu .
III.

Một số bất cập trong các quy định của pháp luật TTDS hiện
hành về thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự và một số biện
pháp khắc phục những hạn chế( nếu có).

1. Về chủ thể có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu.
Sửa đổi, bổ sung quy định về đương sự trong TTDS. Theo đó quy định
đương sự bao gồm cả người yêu cầu, người được yêu cầu, người liên
quan đến yêu cầu và xác định quyền, nghĩa vụ của họ tương tự như


quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên
quan.
2. Về vấn đề thay đổi, bổ sung yêu cầu trước phiên tòa.

- Như vậy, qua nghiên cứu, ta thấy các quy định của pháp luật tố tụng
hiện hành chỉ mới quy định quyền thay đổi bổ sung yêu cầu của đương sự
nói chung( khoản 2 Điều 5), tại phiên tòa sơ thẩm( Khoản 1 Điều 218),
trước và tại phiên tòa phúc thẩm( Khoản 1 Điều 256), còn chưa có quy
định cụ thể về vấn đề thay đổi yêu cầu trước phiên tòa sơ thẩm.
Kiến nghị: Sửa đổi, bồ sung quy định về quyền yêu cầu trước phiên tòa (
có thể có quyền bớt hoặc thêm yêu cầu và phải thông báo cho các đương
sự trước khi mở phiên tòa trong một thời hạn để bảo đảm cho họ có thời
gian chuẩn bị để thực hiện tốt việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình tại phiên tòa.
3. Phạm vi thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên tòa sơ
thẩm.
Để đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự đồng thời tạo điều kiện cho
đương sự phía bên kia biết trước được yêu cầu của đương sự đối lập để
chuẩn bị các chứng cứ, tài liệu chống lại yêu cầu đó và thực hiện việc tranh
tụng một cách tốt nhất, tại phiên toà sơ thẩm Hội đồng xét xử (HĐXX) chỉ
chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự, nếu không vượt quá
phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.
Tuy nhiên, hiểu như thế nào là “yêu cầu ban đầu” và “vượt quá yêu cầu ban
đầu” là vấn đề có nhiều quan điểm khác nhau.
- Về “yêu cầu ban đầu”:
Nghị quyết số 02 ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao (HĐTPTANDTC) hướng dẫn, “yêu cầu ban đầu là yêu cầu được thể
hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu


cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” .Tuy nhiên, có ý kiến lại
cho rằng, yêu cầu ban đầu là yêu cầu cuối cùng được đưa ra trước khi Toà án
mở phiên toà.
Chúng tôi cho rằng, phạm vi xét xử của Toà án chính là quan hệ pháp luật

nội dung tranh chấp giữa các bên đương sự. Nếu giải quyết như hướng dẫn
của Nghị quyết số 02, quyền tự định đoạt của các đương sự sẽ bị hạn chế.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, các hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ
của các chủ thể nhằm mục đích cho việc giải quyết các yêu cầu đó. Khi Toà
án ra quyết định đưa ra xét xử tại phiên toà, trong giai đoạn chuẩn bị cho
việc mở phiên toà thực chất là việc Toà án nghiên cứu kỹ lại các yêu cầu, các
chứng cứ, tài liệu chứng minh cho yêu cầu đó. Nếu chấp nhận việc thay đổi,
bổ sung yêu cầu trong giai đoạn này, Toà án sẽ phải thông báo cho đương sự
phía bên kia, thu thập chứng cứ… tức là lại phải có thời gian để chuẩn bị
việc xét xử cho yêu cầu mới được thay đổi, bổ sung. Điều đó sẽ làm kéo dài
quá trình tố tụng và không hợp lý. Vì vậy, cần phải hiểu yêu cầu ban đầu
cùng là quan hệ pháp luật tranh chấp được đưa ra trước khi Toà án ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử (thường là buổi hoà giải cuối cùng).
- Về “không vượt quá” yêu cầu ban đầu:
Theo quy định của Điều 217, khoản 1 Điều 218 BLTTDS tại phiên toà sơ
thẩm, đương sự có quyền thay đổi, bổ sung nếu không vượt quá phạm vi yêu
cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu. Nhận thức về cụm
từ “vượt quá” có nhiều quan điểm khác nhau.
Ý kiến thứ nhất cho rằng, theo quy định tại Điều 218 BLTTDS thì quyền
thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên toà bị hạn chế theo hướng
rút bớt yêu cầu thì được còn theo hướng thêm thì không được [4; tr 4 ].
Ý kiến thứ hai cho rằng, không được vượt quá yêu cầu khởi kiện, yêu cầu
phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu là không được đưa thêm yêu cầu mới đồng


thời không được tăng giá trị yêu cầu, có nghĩa không được gây bất lợi cho
các đương sự khác.
Nghị quyết số 02 ngày 12/5/2006 của HĐTPTANDTC hướng dẫn, “không
được vượt quá yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu
là không vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu” .Có thể thấy, hướng dẫn trên

chưa làm rõ được cụm từ “phạm vi” là phạm vi quan hệ pháp luật tranh chấp
hay phạm vi về giá trị yêu cầu.
Có quan điểm cho rằng không vượt quá yêu cầu ban đầu là không làm xuất
hiện thêm quan hệ pháp luật tranh chấp mới so với yêu cầu khởi kiện, yêu
cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu hay yêu cầu tại phiên toà không làm
phát sinh thêm quan hệ pháp luật mới. Chúng ta sẽ xem xét vấn đề trên
thông qua tình huống sau.
Ví dụ: Khi khởi kiện, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả 50 triệu đồng là tiền mà
nguyên đơn đã cho bị đơn vay. Trong trường hợp này, quan hệ pháp luật
tranh chấp là hợp đồng vay tài sản hay giá trị tranh chấp là 50 triệu đồng.
Việc xem xét để giải thích cụm từ không vượt quá yêu cầu ban đầu phải xem
xét sự giải thích đó có vi phạm các nguyên tắc, quy định của pháp luật tố
tụng dân sự hay không và phải tính đến yêu cầu, mục đích của hoạt động tố
tụng.
Nếu cho rằng, tại phiên toà nguyên đơn có quyền đưa thêm yêu cầu Toà án
giải quyết một quan hệ pháp luật mới (ngoài hợp đồng vay tài sản) là không
hợp lý. Bởi “thực tế chứng minh rằng tranh tụng chỉ có hiệu quả nếu mỗi
đương sự có được sự hiểu biết đầy đủ và toàn diện các yêu cầu và lý lẽ
chống lại mình. Về mặt logíc, người ta chỉ có thể đối đáp lại những gì mà
mình biết” . Để bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự khi đương sự thay đổi, bổ sung yêu cầu thì đương sự phải đưa ra các tài
liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp đồng


thời phải thông báo cho đương sự phía bên kia biết về việc đã bị khởi kiện
về vấn đề gì ( quan hệ pháp luật gì). Cho nên, tại phiên toà đương sự không
thể có quyền đưa thêm yêu cầu Toà án giải quyết một quan hệ pháp luật mới,
điều đó nhằm đảm bảo cho đương sự có cơ hội tiếp cận yêu cầu của đương
sự phía bên kia, bảo đảm khả năng bảo đảm quyền bảo vệ của các đương sự
và thực hiện tranh tụng.

Nhưng nếu cho rằng, tại phiên toà đương sự cũng không có quyền tăng thêm
giá trị cho dù nó không làm phát sinh thêm một quan hệ pháp luật mới là
cứng nhắc. Ở đây cần hiểu rằng, các tài liệu chứng cứ mà bên đưa ra yêu cầu
phải xuất trình khi khởi kiện để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn
cứ và hợp pháp là các chứng cứ chứng minh rằng họ có quyền khởi kiện đối
với quan hệ pháp luật đó, còn trong quan hệ pháp luật đó ai là người có
quyền, ai là người có nghĩa vụ và quyền, nghĩa vụ như thế nào phải khi bản
án của Toà án có hiệu lực pháp luật mới xác định được. Theo quy định của
PLTTDS hiện hành, trong suốt quá trình giải quyết vụ án các đương sự đều
có quyền cung cấp chứng cứ, tài liệu mới và thực tế đã chứng minh nhiều
trường hợp những chứng cứ quan trọng thường được các đương sự giữ kín
đến phiên toà sơ thẩm hoặc phúc thẩm mới xuất trình. Thậm chí còn chờ một
HĐXX “ưng ý” mới xuất trình. Những chứng cứ mới đó có thể làm tăng giá
trị yêu cầu hoặc giảm nghĩa vụ phải thực hiện của đương sự. Vì vậy, chỉ khi
nào những chứng cứ mới làm phát sinh một quan hệ pháp luật mới mới gây
sự bất lợi cho đương sự phía đối lập và cần phải được tách riêng để giải
quyết bằng một vụ việc khác. Còn nếu chỉ là sự gia tăng về giá trị yêu cầu
nhưng không làm phát sinh thêm quan hệ pháp luật mới cần giải quyết thì
vẫn được chấp nhận. Chỉ khi nào, PLTTDS Việt Nam có quy định về thời
hạn cung cấp, giao nộp chứng cứ của các đương sự thì yêu cầu về tăng giá trị
mới có thể không được chấp nhận.


Từ các lập luận trên chúng tôi cho rằng, trước mắt, nếu giữ nguyên quy định
về việc đương sự có quyền cung cấp chứng cứ trong suốt quá trình tố tụng
thì cần sửa khoản 1 Điều 218 BLTTDS theo hướng: “Tại phiên toà sơ thẩm,
đương sự có quyền thay đổi, bổ sung nếu không làm xuất hiện thêm đương
sự mới, không làm phát sinh thêm quan hệ pháp luật mới cần giải quyết”.
4. Về thời điểm thực hiện quyền yêu cầu.
Theo như Khoản 2 Điều 5 quy định là trong quá trình giải quyết vụ việ, còn

Điều 218 quy định về thay đổi, bổ sung yêu cầu tại phiên tòa. Tuy nhiên,
việc pháp luật tố tụng cho phép đương sự thay đổi yêu cầu tại phiên tòa sẽ
gây bất lợi cho chủ thể khác vì họ chưa có thời gian chuẩn bị trước để bảo vệ
quyền, lợi ích của mình. Vì vậy, thiết nghị BLTTDS và các văn bản hướng
dẫn thi hành cần có sự sửa đổi, bổ sung cho hợp lí. Có thể là quy định một
thời gian nhất định, đương sự được phép thay đổi yêu cầu tại phiên tòa, và
phải thông báo cho đương sự còn lại biết việc mình thay đổi, bổ sung yêu
cầu.



×