Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.4 KB, 9 trang )

Đề 7 : Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
vấn đề này.
Bài làm
Theo tinh thần của Hiến pháp năm 1992, Nhà nước bảo vệ tất cả các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Mỗi khi các quyền và lợi ích xâm hại,
các công dân đều có quyền yêu cầu nhà nước bảo vệ. Một trong những phương
thức yêu cầu nhà nước bảo vệ quyền đó là quyền khởi kiện. Đặc trưng của
phương thức khởi kiện là trao cho đương sự quyền tự do hành động cùng với
quyền tự định đoạt của các chủ thể khởi kiện làm cơ sở tố tụng. Với hành vi
khởi kiện kịp thời như vậy, các cơ quan tố tụng sẽ có hành động can thiệp kịp
thời, các quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ, thiệt hại sớm được khắc phục,
ngăn chặn và chấm dứt hành vi trái pháp luật và sớm khôi phục lại mối quan hệ
thiện chí, cởi mở giao hòa giữa các bên trong đời sống dân sự.
1. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự
Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể
khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nộp đơn yêu cầu tòa án có thẩm
quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác. Tòa án chỉ
thụ lý giải quyết vụ án dân sự khi có đơn khởi kiện của các chủ thể. Điều 161
BLTTDS không chỉ ghi nhận quyền khởi kiện dân sự mà còn quy định các điều
kiện về thủ tục khởi kiện, yêu cầu khởi kiện.
a. Về chủ thể khởi kiện.
Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự là các chủ thể theo quy định của pháp luật
được tham giam vào quan hệ pháp luật TTDS. Các chủ thể này bao gồm cá
nhân, cơ quan hoặc tổ chức đáp ứng được những điều kiện do pháp luật quy
định. Điều 161 BLTTDS đã quy định:“Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự
mình hoặc thông qua người đại diện hợp phá kiện vụ án (sau đây gọi chung là
người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.”
− Cá nhân khi khởi kiện vụ án dân sự phải có năng lực hành vi TTDS đồng
thời phải có quyền lợi bị xâm phạm.
1


− Đối với những cá nhân không có năng lực hành vi tố tụng mà có quyền lợi
cần phải được bảo vệ thì họ không thể tự mình khởi kiện vụ án được mà phải do
người đại diện thay mặt để thực hiện việc khởi kiện vụ án.
Pháp luật cũng đòi hỏi cá nhân khi khởi kiện vụ án dân sự phải là người có
quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm (Điều 161BLTTDS). Quy định này hoàn
toàn phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt trong TTDS, nó không cho phép người
không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật lợi dụng quyền khởi kiện để rồi lại
xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Cá nhân khi đã có năng lực chủ thể đầy đủ thì có thể tự mình khởi kiện hoặc làm
giấy ủy quyền cho một người khác có năng lực hành vi thay mặt mình khởi kiện,
trừ việc ly hôn.
− Cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình hoặc của người khác.
Các cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình trong trường hợp bị xâm phạm hoặc tranh chấp. Ngoài ra, các cơ
quan, tổ chức còn khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác theo quy định của pháp luật. Ngoài những trường hợp các cá nhân,
cơ quan, tổ chức khác được khởi kiện những vụ án về hôn nhân và gia đình theo
quy định tại các điều 55, 56 LHN&GĐ, BLTTDS còn quy định các cơ quan, tổ
chức khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ
án dân sự để yêu cầu tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước
thuộc lĩnh vực mình phụ trách (Điều 162).
b. Điều kiện về thẩm quyền của Tòa án
Tòa án chỉ thụ lý VADS đối với những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải
quyết của mình. Theo BLTTDS thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án
được quy định tại các Điều 25,27,29,33,34,35,36 bao gồm thẩm quyền theo loại
việc, thẩm quyền theo cấp và thẩm quyền theo lãnh thổ. Việc xác định thẩm
quyền là một điều kiện cần thiết để đảm bảo cho hoạt động bình thường và hợp
lý của bộ máy nhà nước. Đồng thời việc phân định thẩm quyền giữa các Tòa án
cũng góp phần cho các Tòa án thực hiện đúng nhiệm vụ của mình và người dân

2
dễ dàng thực hiện quyền khởi kiện. Thẩm quyền của Tòa án được xác định một
cách chính xác sẽ tránh được sự chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ của
Tòa án với các cơ quan nhà nước khác, giữa các Tòa án và các bộ phận trong
một Tòa án, góp phần giải quyết đúng đắn, tạo điều kiện cho các đương sự tham
gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Để vụ án được thụ lý,
đơn khởi kiện phải gửi đến đúng Tòa án có thẩm quyền giải quyết, xét xử. Khi
xác định tranh chấp dân sự có thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hay không,
trước hết phải xác định tranh chấp đó có thuộc thẩm quyền chung về dân sự của
Tòa hay ko? Nội dung tranh chấp yêu cầu Tòa án giải quyết phải được quy định
tại các điều 25,27,29 BLTTDS; phải đúng thẩm quyền theo lãnh thổ quy định tại
các điều 33 và 34 BLTTDS và đúng thẩm quyền theo lãnh thổ quy định tại các
điều 35, 36 BLTTDS. Trong trường hợp người khởi kiện có quyền lựa chọn Tòa
án theo Điều 36 BLTTDS thì yêu cầu đương sự cam kết không khởi kiện tại các
tòa án khác. Nếu do thỏa thuận lựa chọn Tòa án giải quyết thì phải kiểm tra tính
hợp pháp của thỏa thuận.
Những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định
khác đầy đủ và chi tiết, khi nhận đơn khởi kiện Tòa án căn cứ vào yêu cầu của
đương sự mà đối chiếu nội dung loại việc đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án mình hay ko? Khi xác định thẩm quyền, Tòa án cũng phải xác định đó là
loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại hay lao
động để vào sổ thụ lý loại án đúng với quy định. Việc xác định này có ý nghĩa
rất lớn khi xác định các quy phạm pháp luật nội dung để áp dụng. Chẳng hạn
nếu đó là tranh chấp về hôn nhân và gia đinh sẽ áp dụng các quy định trong
LHNHĐ, BLDS... Nếu là tranh chấp lao động sẽ áp dụng BLLĐ, Luật BHXH...
Các quy định về thẩm quyền bước đầu đã phát huy tác dụng trong việc
xác định thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ án của Tòa án. Tuy nhiên trong thực
tiễn thi hành vẫn có nhiều khó khăn nhầm lẫn về mục đích lợi nhuận để xác định
đó là hợp đồng dân sự hay hợp đồng kinh tế, hoặc vẫn có trường hợp tranh chấp
về thẩm quyền giải quyết.

c. Điều kiện về thời hiệu
3
Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà các chủ thể có quyền khởi kiện được
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động để bảo vệ quyền lợi ích bị xâm phạm. Hết thời
hạn đó thì chủ thể khởi kiện mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác. Theo quy định tại Điều 160 BLDS năm 2005, riêng đối với yêu
cầu hoàn trả tài sản thuộc sở hữu nhà nước; yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân thì
không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Quy định thời hiệu khởi kiện góp phần quan
trọng vào việc ổn định các quan hệ kinh tế – xã hội, hạn chế việc lạm dụng
quyền khởi kiện. Tùy thuộc vào tính chất của mỗi loại tranh chấp pháp luật quy
định thời hiệu.
Thời hiệu khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động được quy định cụ thể trong BLDS
năm 2005, Luật Thương mại năm 2005, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
BLLĐ năm 2006. Theo Điều 159 BLTTDS đối với những tranh chấp mà trong
văn bản quy phạm pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện thì áp dung quy
định tại khoản 3 Điều này “thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vụ
án dân sự là 2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan,
tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm”.
Trên thực tế có nhiều nguyên nhân khách quan mà việc khởi kiện ko được
thực hiện trong thời hạn quy định. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ
pháp luật quy định ko tính vào thời hiệu khởi kiện khoảng thời gian xảy ra sự
kiện bất khả kháng; trở ngại khách quan; người có quyền khởi kiện chưa thành
niên, bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà
chưa có người đại diện; người đại diện của họ bị chết mà chưa có người thay thế
hoặc vì lý do chính đáng khác mà ko thể tiếp tục đại diện (Điều 161)
d. Vụ án chưa được giải quyết bằng một bản án hay quyết định có hiệu
lực pháp luật của tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường
hợp có quy định khác của pháp luật

Nếu một vụ án đã được tòa án của Việt Nam giải quyết bằng một bản án
hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương sự không được khởi kiện lại
4
đối với vụ án đó nữa, trừ các trường hợp sau đây:
- Bản án, quyết định của tòa án bác đơn xin ly hôn;
- Yêu cầu xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường
thiệt hại;
- Vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho
ở nhờ mà tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện.
- Các trường hợp khác pháp luật quy định.
Ngoài ra, trường hợp Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy
định tại điểm c, e và g khoản 1 Điều 92 BLTTDS bao gồm: người khởi kiện rút
đơn khởi kiện và được Tòa án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền
khởi kiện; nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; đã
có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là
một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa
vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã (khoản 1 Điều 193 BLTTDS) thì đương
sự có quyền khởi kiện lại.
Do vậy, Tòa án chỉ được thụ lý giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa
án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp
luật. Điều kiện này nhằm đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định, sự ổn định
của các quan hệ xã hội, một việc đã được giải quyết thì không giải quyết lại nữa
để tránh tình trạng chồng chéo cũng một sự việc mà nhiều cơ quan giải quyết và
tránh việc cố tình kéo dài việc khiếu kiện của đương sự.
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về điều
kiện khởi kiện vụ án dân sự
1. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và tổ chức cán bộ
- Để những quy định về quyền khởi kiện được thực thi trên thực tế, Đảng
và Nhà nước cần chú trọng đến công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cũng
như hoàn thiện chế định quyền khởi kiện hiện hành. Trên cơ sở các quy định

pháp luật, chúng ta nên quan tâm hơn nữa đến vấn đề phổ biến pháp luật ở cơ
sở. Cụ thể là công tác đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn có
năng lực cũng như trình độ để hướng dẫn và giải đáp những thắc mắc của người
5

×