Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

Thực trạng công tác thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh nam định giai đoạn 2012 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.47 KB, 79 trang )

MỤC LỤC

1

Chữ viết tắt

Diễn giải

ASXH
BHXH
CNTT
DNNN
DNNQD
HCSN
HTX
LLVT

NLĐ
HĐLĐ
HĐND
NSDLĐ
UBND
TP
TNLĐ-BNN

An sinh xã hội
Bảo hiểm xã hội
Công nghệ thông tin
Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Hành chính sự nghiệp


Hợp tác xã
Lực lượng vũ trang
Lao động
Người lao động
Hợp đồng lao động
Hội đồng nhân dân
Người sử dụng lao động
Ủy ban nhân dân
Thành phố
Tai nạn lao động – Bệnh nghề nghiệp

1


HANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

2

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia, hệ thống
ASXH đã ra đời và phát triển từ rất sớm, nhằm đối phó với những rủi ro bất
hạnh và những khó khăn trong cuộc sống của người lao động và gia đình
họ. Với vai trò như là “xương sống” trong hệ thống ASXH, thì BHXH còn
được coi là một trong những chính sách cơ bản của mỗi quốc gia, thể hiện
trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản
lý của quốc gia đó.

BHXH là chính sách xã hội quan trọng hàng đầu mang ý nghĩa nhân
đạo và có tính chia sẻ cộng đồng sâu sắc được Đảng và Nhà nước ta hết sức
coi trọng, luôn đề cao trong hệ thống chính sách ASXH .Việc chuyển sang
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã mang lại gương
mặt tươi sáng cho sự phát triển toàn diện của đất nước. Trong thời gian qua,
chính sách BHXH, BHYT đã phát huy vai trò trụ cột trong hệ thống an sinh
xã hội, góp phần làm ổn định đời sống cho cán bộ công nhân viên chức
Nhà nước, quân nhân, những người lao động làm việc trong các thành phần
kinh tế nhà nước, ổn định xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong các khâu của BHXH thì công tác thu là quan trọng nhất, quyết
định đến sự tồn tại và phát triển của hệ thống BHXH. Việc thu đúng, thu
đủ, thu kịp thời tạo điều kiện cho công tác chi trả chế độ BHXH đúng quy
định, đảm bảo cuộc sống cho người tham gia khi họ mất hoặc giảm thu
nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động. Ngoài ra, thực hiện công tác thu
hiệu quả sẽ góp phần bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH.
Sau 20 năm tổ chức hoạt động với những kết quả đạt được, BHXH
tỉnh Nam Định đã góp phần ổn định chính trị, thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh. Là một sinh viên
trường Đại học Lao động – Xã hội , trong quá trình học tập, tiếp thu kiến
thức cơ bản về BHXH cùng với thời gian thực tập tại BHXH tỉnh Nam
Định , em nhận thấy quá trình thực hiện chính sách BHXH ở tỉnh Nam
Định trong thời gian qua còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót, đặc biệt
trong công tác quản lý thu BHXH bắt buộc đã và đang đặt ra những vấn đề
cần quan tâm giải quyết, đó là: Việc phát triển đối tượng tham gia BHXH
bắt buộc hằng năm tỷ lệ tăng rất thấp nhất là khu vực ngoài quốc doanh
tăng chậm, bởi vì đây là khu vực có nhiều tiềm năng, nhưng tỷ lệ tham gia
3



-

-

BHXH còn quá thấp, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của Tỉnh.
Tình trạng trốn đóng BHXH xảy ra chủ yếu ở khối doanh nghiệp, nợ đọng
BHXH kéo dài vẫn còn xảy ra tại nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
nhưng chưa có những giải pháp dứt điểm . Công tác tuyên truyền, thanh tra,
kiểm tra, xử lý vi phạm luật BHXH đối với chủ doanh nghiệp cố tình
không đóng, đóng không đúng quy định, đóng không kịp thời, đóng không
đầy đủ BHXH cho người lao động; vấn đề giải quyết nợ tồn đọng BHXH
đang là một trong những bức xúc hiện nay. Những thách thức đối với hoạt
động BHXH rất lớn, đó là sự biến động của đối tượng lao động tham gia
BHXH bắt buộc trong khu vực doanh nghiệp khi phải hoạt động trong môi
trường cạnh tranh khắc nghiệt hơn. Tất cả điều đó đang đặt ra những vấn đề
bức xúc cần có những giải pháp mang tính khả thi cao, vì vậy thực hiện tốt
công tác thu BHXH bắt buộc có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Chính vì vậy em đã lựa chọn đề tài “Thực trạng công tác thu Bảo
hiểm xã hội bắt buộc tại cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Nam Định giai đoạn
2012-2016” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc tìm hiểu thực trạng công tác thu BHXH bắt buộc tại
BHXH tỉnh Nam Định để nhận thấy những mặt đạt được, những tồn tại,
hạn chế và nguyên nhân. Từ đó đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị
nhằm thực hiện tốt công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Nam Định.
3. Đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các văn abrn quy phạm pháp luật liên quan đến
công tác thu BHXH bắt buộc.
Phạm vi nghiên cứu:
+Về không gian: Công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Nam

Định.
+ Về thời gian: Giai đoạn 2012 – 2016.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài khoá luận sử dụng các phương pháp: Thu thập tài liệu;
Phương pháp lí luận; thống kê; so sánh; phân tích tổng hợp,… Cụ thể:
Tổng hợp và phân tích các thông tin thu được.
Lọc các dữ kiện cần thiết phục vụ cho quá trình phân tích.
Nghiên cứu, tham khảo đưa ra các hướng giải quyết trong tương lai.
4. Kết cấu của khóa luận
Bài khóa luận ngoài Phần mở đầu và kết luận , bao gồm 3 chương
chính:
4


Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về Bảo hiểm xã hội và công
tác thu bảo hiểm xã hội.
Chương 2: Thực trạng công tác thu Bảo hiểm xã hội bắt buộc tại cơ
quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Nam Định giai đoạn 2012 – 2016.
Chương 3: Một số giải pháp và khuyến nghị nhằm hoàn thiện công
tác thu bảo hiểm xã hội tại cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh Nam Định.

5


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ
CÔNG TÁC THU BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội
1.1.1.Khái niệm về Bảo hiểm xã hội
BHXH đã được thực hiện trên toàn thế giới từ hàng trăm năm nay. Sau

một thời gian dài, các chế độ BHXH đã trở thành một hệ thống với đối
tượng tham gia và mức độ thụ hưởng khác nhau , với nhiều mô hình thực
hiện khác nhau. Để xã hội ổn định và phát triển, một trong những nền tảng
cơ bản là đời sống của người dân phải được an lành, đảm bảo. Tuyên ngôn
về nhân quyền của Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10/12/1948 đã xác nhận
rằng “ Tất cả mọi người, với tư cách là thành viên của xã hội”. Cơ sở của
hệ thống BHXh là dựa trên sự đóng góp bảo vệ thu nhập cho NLĐ, góp
phần đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội diễn ra bình thường, đời
sống của các thành viên trong xã hội an toàn và ổn định. Mặc dù, BHXH đã
hoạt động được hàng tram năm nhưng cho đến nay khái niệm về BHXH
vẫn chưa được hiểu một cách thống nhất.
Trên bình diện quốc tế, theo công ước 102 (1952) cuả tổ chức ILO thì
“BHXH là hình thức bảo trợ mà xã hội dành cho các thành viên của mình
thông qua nhiều biện pháp công nhằm khắc phục tình trạng khó khăn về
kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm một phần thu nhập vì bởi ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, tuổi già và
tử vong ; chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình”. (Giáo trình bảo hiểm
xã hội- NXB Lao động – Xã hội, năm 2011)
BHXH theo nghĩa rộng: Các rủi ro được BHXH quan tâm luôn là
nhưng rủi ro liên quan đến thu nhập trong lao động hoặc các chi phí phải
trang trải từ thu nhập đó. Như vậy, nếu căn cứ vào mục đích xã hội của bảo
hiểm thì BHXH là hình thức bảo hiểm thu nhập và cung cấp các dịch vụ
việc làm, chăm sóc y tế thiết yếucho người lao động và một số thành viên
gia đình họ trong trường hợp ốm đau , thai sản,tai nạn nghề nghiệp, tàn tật,
hưu trí , tử tuất, thất nghiệp…trên cơ sở đóng quỹ của người tham gia, góp
phần đảm bảo ổn định đời sống cho họ và an toàn xã hội. Khái niệm này
nhằm xác định tính xã hội, tính phi lợi nhuận của hình thức BHXH.
BHXH theo nghĩa hẹp: Ở Việt Nam, thuật ngữ BHXH thường
được sử dụng với nội hàm nghĩa hẹp hơn , chỉ bao gồm những trường hợp
bảo hiểm thu nhập cho người lao động.”BHXH là sự đảm bảo thay thế

6


hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động, bệnh nghề nghiệp,
thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết…, trên cơ sở đóng góp và sử dụng
một quỹ tài chính tập trung, nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho họ và an
toàn xã hội.” (Theo Luật BHXH số 71/2006/QH ngày 29 tháng 06 năm
2006 của Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hôi Chủ Nghĩa Việt Nam)
Như vậy, phát sinh từ nhu cầu của NLĐ, BHXH đã trở thành chính
sách xã hội quan trọng của nước ta và hầu hết của các nước trên thế giới,
BHXH trở thành phương thức dự phòng để khắc phục hậu quả của các rủi
ro xã hội, đảm bảo an toàn xã hội và tạo động lực hữu hiệu để phát triển
kinh tế.
1.1.2. Vai trò của Bảo hiểm xã hội
*Đối với người lao động và gia đình của họ
Ở bất kỳ hoàn cảnh, thời điểm nào, rủi ro luôn luôn rình rập, đe doạ
cuộc sống của mỗi người gây gánh nặng cho cộng đồng và xã hội. Rủi ro
phát sinh hoàn toàn ngẫu nhiên bất ngờ không lường trước được nhưng xét
trên bình diện xã hội, rủi ro là một tất yếu không thể tránh được. Để phòng
ngừa và hạn chế những tác động tiêu cực của rủi ro đối với con người và xã
hội là nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động của BHXH. BHXH có vai trò rất quan
trọng đối với cá nhân.
Thứ nhất, BHXH có vai trò ổn định thu nhập cho người lao động và
gia đình họ.Khi tham gia BHXH, người lao động phải trích một khoản phí
nộp vào quỹ BHXH, khi gặp rủi ro, bất hạnh như: ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động làm cho chi phí gia đình tăng lên hoặc phải ngừng làm việc tạm
thời. Do vậy thu nhập của gia đình bị giảm, đời sống kinh tế lâm vào tình
cảnh khó khăn, túng quẫn. Nhờ có chính sách BHXH mà họ được nhận một
khoản tiền trợ cấp đã bù đắp lại phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm để đảm
bảo ổn định thu nhập, ổn định đời sống.

Thứ hai, ngoài việc đảm bảo đời sống kinh tế, BHXH tạo được tâm
lý an tâm, tin tưởng. Khi đã tham gia BHXH góp phần nâng cao đời sống
tinh thần cho người lao động đem lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho
nhân dân lao động.
*Đối với người sử dụng lao động
BHXH giúp cho các tổ chức SDLĐ ổn định hoạt động sản xuất kinh
doanh thông qua việc phân phối các chi phí cho NLĐ một cách hợp lý. Gắn
bó lợi ích giữa NSDLĐ và NLĐ giữa NSDLĐ với xã hội. Thông qua
BHXH những mâu thuẫn giữa những NLĐ và NSDLĐ ( như mâu thuẫn về
tiền lương, tiền thưởng, thời gian lao động…) sẽ được hòa giải và giải
7


quyết kịp thời. Đặc biệt, nhờ có BHXH mà cả hai bên này đều thấy được
quyền lợi của mình được quan tâm bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn
và gắn bó chặt chẽ lợi ích với nhau. BHXH góp phần làm cho lực lượng lao
động trong mỗi đơn vị ổn định; Góp phần thúc đẩy, kích thích tinh thần lao
động, khuyến khích người lao động hang hái sản xuất nâng cao chất lượng,
năng xuất lao động tạo ra nhiều của cải cho xã hội.
BHXH tạo điều kiện để NSDLĐ có trách nhiệm với NLĐ. ĐẢm bảo
trong suốt quá trình lao động, NLĐ luôn được ghi nhận và đóng góp đầy
đủvào BHXH, BHXH làm cho quan hệ lao động có tính nhân văn sâu sắc.
BHXH còn giúp cho đơn vị SDLĐ ổn định nguồn chi ngay cả khi
rủi ro lớn xảy ra thì cũng không lâm vào tình trạng nợ nần hay phá sản.
Qua đó góp phần cụ thể hóa các khoản chi tiêu giúp doanh nghiệp chủ động
trong hoạt động trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, đối với NSDLĐ thì BHXH hầu như không mang lại các
lợi ích trực tiếp nên không phải lúc nàno NSDLĐ cũng nhận thức được
đúng vai trò của nó. Mặc dù BHXH được nhà nước tổ chức với hình thức
bắt buộc, nhưng trong thực tế vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp muốn luồn

lách luật để tránh đóng tiền BHXH cho NLĐ.
* Đối với xã hội
Thứ nhất, tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước, người sử dụng
lao động và người lao động, mối quan hệ ràng buộc, chặt chẽ, chia sẽ trách
nhiệm, chia sẽ rủi ro chỉ có được trong quan hệ của BHXH. Tuy nhiên mối
quan hệ mối quan hệ này thể hiện trên giác độ khác nhau. Người lao động
tham gia BHXH với vai trò bảo vệ quyền lợi cho chính mình đồng thời
phải có trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội. Người sử dụng lao động
tham gia BHXH là để tăng cường tình đoàn kết và cùng chia sẻ rủi ro cho
người lao động nhưng đồng thời cũng bảo vệ, ổn định cuộc sống cho các
thành viên trong xã hội. Mối quan hệ này thể hiện tính nhân sinh, nhân văn
sâu sắc của BHXH.
Thứ hai, BHXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp, BHXH tạo
cho những người bất hạnh có thêm những điều kiện, những lực đẩy cần
thiết để khắc phục những biến cố xã hội, hoà nhập vào cộng đồng, kích
thích tính tích cực của xã hội trong mỗi con người giúp họ hướng tới những
chuẩn mực của chân-thiện-mỹ nhờ đó có thể chống lại tư tưởng “Đèn nhà
ai nhà ấy rạng”. BHXH là yếu tố tạo nên sự hoà đồng mọi người, không
phân biệt chính kiến, tôn giáo chủng tộc, vị thế xã hội đồng thời giúp mọi
người hướng tới một xã hội nhân ái, cuộc sống công bằng, bình yên.
8


Thứ ba, BHXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau
tương thân tương ái của cộng đồng: Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong
cộng đồng là nhân tố quan trọng cộng đồng, giúp đỡ những người bất hạnh
là nhằm hoàn thiện những giá trị nhân bản của con người, tạo điều kiện cho
một xã hội phát triển lành mạnh và bền vững.
Thứ tư, BHXH góp phần thực hiện bình đẳng xã hội: trên giác độ xã
hội, BHXH là một công cụ để nâng cao điều kiện sống cho người lao động.

Trên giác độ kinh tế, BHXH là một công cụ phân phối lại thu nhập giữa các
thành viên trong cộng đồng. Nhờ sự điều tiết này người lao động được thực
hiện bình đẳng không phân biệt các tầng lớp trong xã hội.
*Đối với nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất, khi chuyển sang cơ chế thị trường, thì sự phân tầng giữa
các lớp trong xã hội trở nên rõ rệt. Đồng thời tạo ra sự bất bình đẳng về thu
nhập giữa các ngành nghề khác nhau trong xã hội. Nhưng rủi ro xảy ra
trong cuộc sống không loại trừ một ai, nếu rơi vào những người có hoàn
cảnh kinh tế khó khăn thì cuộc sống của họ trở nên bần cùng, túng quẫn.
BHXH đã góp phần ổn định đời sống cho họ và gia đình họ.
Thứ hai, đối với các doanh nghiệp, khi những người lao động không
may gặp rủi ro thì đã được chuyển giao cho cơ quan BHXH chi trả. Nhờ
vậy tình hình tài chính của các doanh nghiệp được ổn định hơn. Hệ thống
BHXH đã bảo đảm ổn định xã hội tạo tiền đề để phát triển kinh tế thị
trường.
Thứ ba, khi tham gia BHXH cho người lao động sẽ phát huy tinh
thần trách nhiệm, gắn bó tận tình của người lao động trong các doanh
nghiệp làm cho mối quan hệ thị trường lao động được trở nên lành mạnh
hơn, thị trường sức lao động vận động theo hướng tích cực góp phần xây
dựng và có kế hoạch phát triển chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
phát triển nền kinh tế thị trường.
Thứ tư, quỹ BHXH do các bên tham gia đóng góp được tích tụ tập
trung rất lớn, phần quỹ nhàn rỗi được đem đầu tư cho nền kinh tế tạo ra sự
tăng trưởng, phảt triển kinh tế và tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Thứ năm, BHXH vừa tạo động lực cho các thành phần kinh tế phát
triển nhưng mặt khác tạo ra sự bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư thông
qua hệ thống phân phối lại thu nhập góp phần lành mạnh hóa thị trường lao
động.

9



1.1.3. Quỹ Bảo hiểm xã hội
1.1.3.1. Khái niệm quỹ bảo hiểm xã hội
“Quỹ bảo hiểm xã hội là một quỹ tài chính độc lập, tập trung, nằm
ngoài ngân sách Nhà nước, được hình thành từ sự đóng góp của các bên
tham gia BHXH (có thể bao gồm người lao động, người sử dụng lao động
và Nhà nước trong một số trường hợp) và các nguồn thu hợp pháp khác”.
(Trang 155, Giáo trình bảo hiểm xã hội)
Quỹ bảo hiểm xã hội là một công cụ để thực hiện chức năng tài
chính bảo hiểm xã hội và chính sách bảo hiểm xã hội của Nhà nước.
Thực hiện theo quyết định số 41/2007/QĐ-TTg ngày 29 tháng 03
năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý tài chính đối với bảo hiểm
xã hội Việt Nam thì tài chính quỹ bảo hiểm xã hội được chia ra gồm Quỹ
bảo hiểm xã hội bắt buộc theo Luật bảo hiểm xã hội và Quỹ bảo hiểm y tế.
Hai quỹ này được quản lý thống nhất trong hệ thống bảo hiểm xã hội Việt
Nam, được hạch toán riêng và cân đối thu chi theo từng quỹ.
Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc theo Luật bảo hiểm xã hội (trong đó
bao gồm cả nguồn ngân sách Nhà nước cấp để chi trả chế độ bảo hiểm xã
hội cho NLĐ nghỉ hưởng bảo hiểm xã hội có thời gian tham gia bảo hiểm
xã hội trước ngày 01/01/1995 và thực hiện chế độ chi trả đối với quân nhân
trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ ngày 30/04/1975 trở
về trước, có 20 năm trở lên phục vụ quân đội đã nghỉ hưu, xuất ngũ). Quỹ
BHXH bắt buộc được hạch toán theo ba quỹ thành phần: quỹ ốm đau và
thai sản, quỹ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, quỹ hưu trí và tử tuất.
1.1.3.2. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội
Cơ sở hình thành quỹ bảo hiểm xã hội là do chính sách bảo hiểm xã
hội của mỗi quốc gia. Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành do các bên
tham gia đóng góp theo những quy định của Luật. Theo cơ chế này, quỹ
bảo hiểm xã hội bắt buộc được hình thành từ những nguồn sau:

- Sự đóng góp của người lao động: được trích một phần từ tiền lương
hoặc thu nhập nhận được trong quá trình lao động;
- Sự đóng góp của người sử dụng lao động: trích từ quỹ lương của
những người lao động tham gia bảo hiểm xã hội trong doanh nghiệp để
đóng bảo hiểm xã hội cho tổng số lao động thuộc diện tham gia BHXH của
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật;
- Sự đóng góp/hỗ trợ của Nhà nước: Nhà nước sẽ thực hiện đóng bảo
hiểm xã hội theo quy định cho những cán bộ, công chức trong khu vực
hành chính sự nghiệp và hỗ trợ cho quỹ bảo hiểm xã hội để đảm bảo giá trị
10


quỹ trong trường hợp cần thiết;
- Phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ bảo hiểm xã
hội: trong quá trình hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội luôn có một bộ
phận nhàn rỗi của quỹ chưa được sử dụng đến, để đảm bảo giá trị của quỹ
thì phần quỹ nhàn rỗi này được đầu tư để sinh lợi;
- Phần thu từ tiền nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế, do
vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội;
- Các khoản thu hợp pháp khác.
1.1.3.3. Sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội
Theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế, quỹ bảo hiểm xã
hội được sử dụng để chi trả trợ cấp bảo hiểm xã hội cho các đối tượng tham
gia BHXH, chi phí quản lý và chi phí cho đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội.
Theo Luật bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc được sử
dụng để chi trả các khoản chi sau đây:
- Chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động: trợ cấp ốm
đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, lương
hưu, trợ cấp mất sức lao động và trợ cấp tử tuất;
- Đóng bảo hiểm y tế cho người đang hưởng lương hưu hoặc nghỉ

việc hưởng trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp hàng tháng;
- Chi phí quản lý;
- Chi khen thưởng cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong
việc thực hiện BHXH hoặc phát hiện vi phạm pháp luật về BHXH;
- Đầu tư để đảm bảo ổn định và tăng trưởng quỹ.
1.2. Một số vấn đề cơ bản về công tác thu Bảo hiểm xã hội
1.2.1. Khái niệm về thu
Nhà nước sử dụng quyền lực của mình thông qua các thể chế chính
trị bao gồm hệ thống pháp luật và các cơ quan quyền lực Nhà nước để tổ
chức công tác thu BHXH dưới hình thức bắt buộc và tự nguyện, tùy theo
điều kiện cụ thể của từng đối tượng.
Thu BHXH luôn gắn với quyền lực của Nhà Nước bằng hệ thống
pháp luật, vì vậy ta có thể hiểu:
“Thu BHXH là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình bắt buộc
các đối tượng tham gia phái đóng BHXH theo mức phí quy định. Trên cơ
sở đó hình thành một quỹ tiền tệ tập trung nhằm mục đích đảm bảo cho
11


việc chi trả các chế độ BHXH và hoạt động của tổ chức sự nghiệp BHXH”.
(Giáo trình Quản trị Bảo hiểm xã hội – NXB Lao động- Xã hội – Năm
2009)
Thu BHXH thực chất là quá trình phân phối lại một phần thu nhập
của các đối tượng tham gia BHXH, phân phối và phân phối lại một phần
của cải xã hội dưới dạng giá trị, nhằm giải quyếthài hòa các mặt lợi ích
kinh tế, góp phần đảm bảo sự công bằng xã hội.
1.2.2.Vai trò của công tác thu BHXH
Quỹ BHXH hiện đang được thực hiện nhằm đạt mục tiêu là một
công quỹ độc lập với ngân sách nhà nước, nhằm đảm bảo về tài chính để
chi trả các chế độ BHXH cho NLĐ. Vì thế công tác thu BHXH ngày càng

trở thành khâu quan trọng và quyết định đến sự tồn tại và phát triển của
việc thực hiện chính sách BHXH.
Công tác thu BHXH là hoạt động thường xuyên và đa dạng của
ngành BHXH nhằm đảm bảo nguồn quỹ tài chính BHXH đạt được tập
trung thống nhất: Thu đóng góp BHXH là hoạt động của các cơ quan
BHXH từ Trung ương đến địa phương cùng với sự phối hợp của các ban
ngành chức năng trên cơ sở quy định của pháp luật về thực hiện chính sách
BHXH nhằm tạo ra nguồn tài chính tập trung từ việc đóng góp của các bên
tham gia BHXH. Đồng thời tránh được tình trạng nợ đọngBHXH từ các cơ
quan đơn vị, từ người tham gia BHXH. Qua đó, đảm bảo sự công bằng
trong việc thực hiện và triển khai chính sách BHXH nói chung và giữa
những người tham gia BHXH nói riêng.
Để chính sách BHXH được diễn ra thuận lợi thì công tác thu BHXH
có vai trò như một điều kiện cần và đủ trong quá trình tạo lập cùng thực
hiện chính sách BHXH: Bởi đây là đầu vào, là nguồn hình thành cơ bản
nhất trong quá trình tạo lập quỹ BHXH. Đồng thời đây cũng là một khâu
bắt buộc đối với người tham gia BHXH thực hiện nghĩa vụ của mình. Do
vậy công tác thu BHXH là một công việc đòi hỏi độ chính xác cao, thực
hiện thường xuyên, liên tục, kéo dài trong nhiều năm và có sự biến động về
mức đóng và số lượng người tham gia.
Công tác thu BHXH vừa đảm bảo cho quỹ BHXH được tập trung về
một mối, vừa đóng vai trò như một công cụ thanh kiểm tra số lượng người
tham gia BHXH biến đổi ở từng khối lao động, cơ quan, đơn vị ở từng địa
phương hoặc trên phạm vi toàn quốc. Bởi công tác thu BHXH cũng đòi hỏi
12


phải được tổ chức tập trung thống nhất có sự ràng buộc chặt chẽ từ trên
xuống dưới, đảm bảo an toàn tuyệt đối về tài chính, đảm bảo độ chính xác
trong ghi chép kết quả đóng BHXH của từng cơ quan đơn vị cũng như của

từng người lao động. Hơn nữa, hoạt động thu BHXH là hoạt động liên quan
đến quyền lợi và nghĩa vụ của cả một đời người và có tính kế thừa, số thu
BHXH một phần dựa trên số lượng người tham BHXH để tạo lập lên quỹ
BHXH, cho nên nghiệp vụ của công tác thu BHXH có một vai trò hết sức
quan trọng và rất cần thiết trong thực hiện chính sách BHXH. Bởi đây là
khâu đầu tiên giúp cho chính sách BHXH thực hiện được các chức năng
cũng như bản chất của mình.
Hoạt động của công tác thu BHXH ở hiện tại ảnh hưởng trực tiếp
đến công tác chi và quá trình thực hiện chính sách BHXH trong tương lai.
Do BHXH cũng như các loại hình bảo hiểm khác đều dựa trên cơ sở
nguyên tắc có đóng có hưởng BHXH đã đặt ra yêu cầu quy định đối với
công tác thu nộp BHXH. Nếu không thu được BHXH thì quỹ BHXH
không có nguồn để chi trả cho các chế độ BHXH cho NLĐ. Vậy hoạt động
thu BHXH ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi và quá trình thực hiện
chính sách BHXH. Do đó, thực hiện công tác thu BHXH đóng một vai trò
quyết định, then chốt trong quá trình đảm bảo ổn định cho cuộc sống của
NLĐ cũng như các đơn vị doanh nghiệp được hoạt động bình thường.
1.2.3. Nguyên tắc thu BHXH
Căn cứ vào pháp luật về BHXH và các văn bản hướng dẫn thực hiện
luật thì nguyên tắc thu phải đảm bảo đúng đối tượng, đúng mức thu, đồng
thười phải đảm bảo công bằng giữa các đơn vị tham gia BHXH. Bởi vậy
cần phải quán triệt những vấn đề sau:
- Mức đóng BHXH cảu các cơ quan, doanh nghiệp cần dựa trên quỹ
lương của đơn vị (bao gồm lương cứng và các khoản phụ cấp vào lương)
đồng thời quỹ này phải đảm bảo chi trả cho tất cả các đối tượng tham gia
đóng góp BHXH.
- Quyết toán thu BHXH phải căn cứ vào số liệu thực tế phát sinh chứ
không tính vào mức bình quân. Về nguyên tắc, cơ quan BHXH phải quyết
toán từng tháng, từng quý, từng năm nhưng đến cuối năm quyết toán, tất cả
các số thu phải khớp với nhau và phải thực sự cân đối giữa NLĐ, NSDLĐ,

loại hình doanh nghiệp, loại hình thu.
-Hoạt động thu BHXH phải mang tính trực tiếp, hạn chếtối đa hiện
tượng khoán thu để hưởng hoa hồng.
13


Ngoài việc thu đúng, thu đủ của NLĐ và NSDLĐ, BHXH cần phải
lập kế hoạch và lập trước dự toán cần ngân sách Nhà nước cấp bù vào đầu
tháng, đầu quý, đầu năm, sau đó mới được quyết toán. Phần lãi trong hoạt
động đầu tư BHXH nhàn rỗi, về nguyên tắc phải được bù đắp vào quỹ
BHXH để bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ, phần trích ra chỉ cho các
mục tiêu khác như chi khen thưởng, chi quản lý và những khoản chi khác
theo quy định của pháp luật. Các khoản tài trợ từ các tổ chức, quỹ từ thiện,
đặc biệt là các khoản nợ của người tham gia phải được hạch toán riêng. Các
khoản nợ đòi được phải tính tới lãi suất.
1.2.4. Nội dung công tác thu BHXH bắt buộc
1.2.4.1. Đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc
Việc xác định đối tượng tham gia hệ thống BHXH bắt buộc bao
gồm NLĐ và NSDLĐ là một trong những nhiệm vụ lớn và quan trọng nhất
của công tác thu BHXH bắt buộc.
a) Người lao động tham gia hình thức BHXH bắt buộc
Theo Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 , thì NLĐ tham gia BHXH
bắt buộc là công dân Việt Nam, bao gồm :
-Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn,
hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên;
- Cán bộ, công chức, viên chức;
- Công nhân quốc phòng, công nhân công an;
- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ
quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;
người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân,

công an nhân dân;
- Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công
an nhân dân phục vụ có thời hạn;
- Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng bảo
hiểm xã hội bắt buộc.
Nhưng từ 01/01/ 2016 , đối tượng người lao động tham gia BHXH
bắt buộc được áp dụng theo Luật Bảo hiểm xã hội (Luật số 58/2014/QH13)
14


mở rộng thêm các nhóm đối tượng sau:
+ Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động thời hạn từ đủ 1
tháng đến dưới 3 tháng, áp dụng từ ngày 1/1/2018;
+ Người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam
có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề
do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp, có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/2018;
+ Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, phường, thị trấn.
Như vậy, theo Luật BHXH 2014, đối tượng tham gia BHXH bắt
buộc đã bao phủ gần như toàn bộ người lao động có quan hệ lao động.
b) Đơn vị SDLĐ tham gia BHXH cho NLĐ
Theo Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 và Luật Bảo hiểm xã hội
(Luật số 58/2014/QH13), đơn vị tham gia BHXH cho NLĐ bao gồm:
- Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân;
- Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội –
nghề nghiệp, tổ chức xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác;
-Cơ quan, tổ chức nước ngòai, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam;
- Doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức
khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho NLĐ.

1.2.4.2. Căn cứ thu BHXH bắt buộc
Theo Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) được Quốc hội thông qua ngày
28/6/2006, thì mức tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH được quy
định như sau :
- Tiền lương do Nhà nước quy định:
Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà
nước quy định thì tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc là tiền lương theo
ngạch, bậc, cấp bậc quân hàm và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm
niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề (nếu có). Tiền lương này tính trên
cơ sở mức lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng.
Tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc quy định tại Khoản này bao
gồm cả hệ số chênh lệch bảo lưu theo quy định của pháp luật về tiền lương,
tiền công.
- Tiền lương, tiền công do đơn vị quyết định.
+) Người lao động thực hiện chế độ tiền lương do đơn vị quyết định thì
tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc là mức tiền lương, tiền
15


công ghi trên hợp đồng lao động.
+) Người lao động có tiền lương, tiền công tháng ghi trên hợp đồng lao
động bằng ngoại tệ thì tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc
được tính bằng Đồng Việt Nam trên cơ sở tiền lương, tiền công bằng ngoại
tệ được chuyển đổi bằng Đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân
trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố tại
thời điểm ngày 02 tháng 01 cho 6 tháng đầu năm và ngày 01 tháng 7 cho 6
tháng cuối năm.
Đối với ngoại tệ mà Ngân hàng Nhà nước không công bố tỷ giá giao
dịch bình quân liên ngân hàng thì áp dụng tỷ giá tính chéo của Đồng Việt
Nam so với ngoại tệ đó áp dụng để tính thuế xuất nhập khẩu do Ngân hàng

Nhà nước công bố tại thời điểm ngày 02 tháng 01 cho 6 tháng đầu năm và
ngày 01 tháng 7 cho 6 tháng cuối năm.
Trường hợp trùng vào ngày nghỉ mà Ngân hàng Nhà nước chưa công
bố thì được lấy tỷ giá của ngày tiếp theo liền kề.
-Người lao động là người quản lý doanh nghiệp thì tiền lương, tiền
công tháng đóng BHXH bắt buộc là mức tiền lương do Điều lệ của công ty
quy định.
- Mức tiền lương, tiền công đóng BHXH bắt buộc quy định tại
Khoản này không thấp hơn mức lương tối thiểu chung hoặc mức lương tối
thiểu vùng tại thời điểm đóng:
Người lao động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp
dạy nghề) thì tiền lương, tiền công đóng BHXH bắt buộc phải cao hơn ít
nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng, nếu làm công việc nặng nhọc độc
hại thì cộng thêm 5%.
-Mức tiền lương, tiền công đóng BHXH bắt buộc quy định tại
Điều này mà cao hơn 20 tháng lương tối thiểu chung thì mức tiền lương,
tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc bằng 20 tháng lương tối thiểu chung
tại thời điểm đóng.
Nhưng bắt đầu từ ngày 01/01/2016, theo Luật Bảo hiểm xã hội
(Luật số 58/2014/QH13), thì tiền công – tiền lương làm căn cứ đóng
BHXH có những điểm mới sau:
- Tiền lương do Nhà nước quy định
Căn cứ Điểm i, Khoản 1, Điều 2 Luật BHXH số 58/2014/QH13,
người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn thuộc đối tượng
tham gia BHXH bắt buộc vào quỹ hưu trí và tử tuất.
16


Tiêu chuẩn để làm căn cứ đóng BHXH cho người hoạt động không
chuyên trách ở xã, phường, thị trấn là danh sách cán bộ không chuyên trách

theo định biên được cấp có thẩm quyền phê chuẩn.
Tỷ lệ đóng bằng 22% mức lương cơ sở, trong đó, người lao động
đóng bằng 8% mức lương cơ sở; đơn vị sử dụng lao động đóng bằng 14%
mức lương cơ sở. Mức lương cơ sở hiện nay là 1.210.000 đồng.
-Tiền lương do đơn vị quyết định
Từ 01/01/2016, tiền lương tháng đóng BHXH là mức lương và phụ
cấp lương theo quy định của pháp luật lao động. Từ ngày 01/01/2018 trở đi,
tiền lương tháng đóng BHXH là mức lương, phụ cấp lương và các khoản
bổ sung khác theo quy định của pháp luật lao động. Vậy là bắt đầu từ năm
2016 đến hết năm 2017, Doanh nghiệp sẽ phải đóng bảo hiểm trên cả phụ
cấp:
Cụ thể về các khoản tiền lương và phụ cấp phải tính vào để đóng bảo
hiểm được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn tại Thông tư
59/2015/TT-BLĐTBXH quy định mức lương và phụ cấp đóng BHXH.
Về phụ cấp lương theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 4 của
Thông tư 47 là các khoản phụ cấp lương để bù đắp yếu tố về điều kiện lao
động, tính chất phức tạp công việc, điều kiện sinh hoạt, mức độ thu hút lao
động mà mức lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động chưa được tính
đến hoặc tính chưa đầy đủ như phụ cấp chức vụ, chức danh; phụ cấp trách
nhiệm; phụ cấp nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; phụ cấp thâm niên; phụ cấp
khu vực; phụ cấp lưu động; phụ cấp thu hút và các phụ cấp có tính chất
tương tự.
- Từ ngày 1/1/2018 trở đi, tiền lương tháng đóng BHXH là mức
lương, phụ cấp lương theo quy định và các khoản bổ sung khác theo quy
định tại điểm a khoản 3 Điều 4 của Thông tư 47.
Cũng theo Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH, tiền lương tháng đóng
BHXH bắt buộc không bao gồm các khoản chế độ và phúc lợi khác, như
tiền thưởng theo quy định tại Điều 103 của Bộ Luật Lao động 2012, tiền
thưởng sáng kiến; tiền ăn giữa ca; các khoản hỗ trợ xăng xe, điện thoại, đi
lại, tiền nhà ở, tiền giữ trẻ, nuôi con nhỏ; hỗ trợ khi người lao động có thân

17


nhân bị chết, người lao động có người thân kết hôn, sinh nhật của người lao
động, trợ cấp cho người lao động gặp hoàn cảnh khó khăn khi bị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp và các khoản hỗ trợ, trợ cấp khác ghi thành mục
riêng trong hợp đồng lao động theo Khoản 11 Điều 4 củaNghị định
05/2015/NĐ-CP.
1.2.4.3. Mức thu và phương thức thu BHXH
a) Mức thu BHXH
Mức đóng BHXH bắt buộc theo quy định của Luật BHXH và các văn
bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật BHXH.
Trong giai đoạn 2012-2016 thì mức thu BHXH bắt buộc như sau:
Năm
Từ
01/2012
đến
12/2013
Từ năm 2014 đến nay

Người sử dụng lao động
(%)
17

Người lao động
(%)
7

18


8

Cụ thể quỹ BHXH được phân bổ như sau:
- Đơn vị sử dụng lao động đóng BHXH: 18% (Trong đó: 3% vào quỹ ốm
đau và thai sản, 1% vào quỹ tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, 14% vào
quỹ hưu trí và tử tuất). Đơn vị được giữ lại 2% quỹ tiền lương, tiền công
đóng BHXH bắt buộc của những người lao động tham gia BHXH bắt buộc
để chi trả kịp thời chế độ ốm đau, thai sản cho người lao động. Hằng quý
hoặc hằng tháng, đơn vị quyết toán với cơ quan BHXH, trường hợp số tiền
được quyết toán nhỏ hơn số tiền giữ lại thì đơn vị phải đóng số chênh lệch
thừa vào tháng tiếp theo tháng quyết toán cho quỹ BHXH.
- NLĐ đóng 8% vào quỹ hưu trí và tử tuất.
b) Phương thức thu
-NSDLĐ đóng bằng hình thức chuyển khoản. Trường hợp NSDLĐ
hoặc NLĐ đóng BHXH bằng tiền mặt thì cơ quan BHXH phải hướng dẫn
thủ tục nộp tiền vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH. Nếu
NSDLĐ hoặc NLĐ nộp tiền mặt trực tiếp tại cơ quan BHXH thì chậm nhất
18


sau 3 ngày làm việc, cơ quan BHXH phải nộp tiền vào tài khoản chuyên
thu mở tại Ngân hàng hoặc Kho bạc nhà nước.
- Cơ quan BHXH Bộ Quốc Phòng, Bộ Công an và ban Cơ yếu chính
phủ đóng BHXH cho NLĐ, kể cả NLĐlàm việc theo hợp đồng lao động
trong các daonh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang trực tiếp đóng vào tài
khoản chuyên thu của cơ quan BHXH Việt Nam mở tại Kho bạc Nhà nước
Trung ương.
- NSDLĐ thuộc doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,
diêm nghiệp trả tiền lương, tiền công theo chu kì sản xuất, kinh doanh thì
phương thức đóng được thực hiện hàng tháng, hàng quý hoặc 6 tháng một

lần trên cơ sở NSDLĐ đăng kí với tổ chức BHXH.
-Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, cá nhân có thể thuê mướn trả công
cho NLĐ, sử dụng dưới 10 lao động có thể đóng BHXH theo quý nhưng
phải đăng kí và được sự chấp thuận của cơ quan BHXH.
-Phương thức đóng được thực hiện hằng quý hoặc 6 tháng hoặc 12 tháng
một lần hoặc đóng trước một lần theo thời hạn ghi trong hợp đồng đưa
NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. Doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa NLĐ
đi làm việc ở nước ngoài thu nộp BHXH cho NLĐ và đăng kí phương thức
đóng với tổ chức BHXH hoặc NLĐ đóng qua cơ quan, tổ chức, đơn vị mà
NLĐ đã tham gia BHXH hoặc đóng trực tiếp với tổ chức BHXH nơi cư trú
của NLĐ trước khi đi làm việc ở nước ngoài.
-Trường hợp NLĐ được gia hạn hợp đồng hoặc kí hợp đồng mới ngay
tại nước tiếp nhận lao động thì thực hiện đóng BHXH theo phương thức
quy định truy nộp cho tổ chức BHXH sau khi về nước.
1.2.4.4. Quy trình thu - nộp BHXH bắt buộc
a) Quy trình thu BHXH bắt buộc
• Thứ nhất, đối với đơn vị NLĐ và NSDLĐ đăng kí tham gia BHXH
-Đối với các đơn vị SDLĐ lần đầu tiên tham gia BHXH. Đơn vị
SDLĐ lập hồ sơ đăng kí tham gia BHXH. . Hồ sơ theo mẫu của BHXH
Việt Nam và gửi về BHXH tỉnh, thành phố gồm : Tờ khai đơn vị tham gia,
điều chỉnh thông tin BHXH, BHYT ( Mẫu TK3-TS) và danh sách lao động
tham gia BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN (Mẫu D02-TS). Và
người lao động chuẩn bị hồ sơ là tờ khai tham gia, điều chỉnh thông tin
BHXH, BHYT (Mẫu TK1-TS).
- Đối với các đơn vị SDLĐ đang tham gia BHXH. Lập bảng kê khai
danh sách lao động tham gia BHXH bao gồm những nội dung chính sau:
Họ và tên , ngày tháng năm sinh, mức lương hoặc tiền công theo HĐLĐ và
19



các khoản phụ cấp nếu có của từng NLĐ, mức đóng BHXH và BHYT của
từng người trong một tháng, tổng quỹ lương của người tham gia BHXH,
tổng số tiền đóng BHXH một tháng. Bảng kê khai này một năm làm một
lần vào ngày 31/12 hàng năm.
Lập kê khai tăng, giảm lao động và quỹ lương đóng BHXH.
• Thứ hai, đối với cơ quan BHXH
- Cơ quan BHXH tiếp nhận, thẩm định danh sách tham gia
BHXH,số tiền lương phải đóng hàng tháng.
- Đơn vi quản lý đối tượng căn cứ thông báo hoặc hợp đồng đã kí kết
với cơ quan BHXH tiến hành cấp sổ BHXH.
- Sau quá trình đăng kí tham gia BHXH cho NLĐ cơ quan BHXH định
kỳ sẽ tiến hành thu BHXH từ người tham gia BHXH hoặc từ các đơn vị, cư
quan SDLĐ tham gia BHXH thông qua việc mở tài khoản tại ngân hàng
hoặc tại Kho bạc Nhà nước. Hoặc cũng có thể đến trực tiếp từng đơn vị,
từng người tham gia BHXH để thu đóng góp BHXH.
- Hàng tháng, nếu có sự biến động so với danh sách đã đăng kí tham
gia BHXH, các đơn vị quản lý đối tượng lập danh sách điều chỉnh theo mẫu
quy định gửi cơ quan BHXH có chức năng để kip thời điều chỉnh, xử lý.
b) Quy trình nộp BHXH bắt buộc
Hàng tháng, đơn vị SDLĐ trích tiền đóng BHXH theo mức trích quy
định tại Luật BHXH ( đơn vị SDLĐ được giữ lại 2% của quỹ ốm đau, thai
sản) nộp vào tài khỏan chuyên thu BHXH của huyện ( không kể BHYT ).
Từ ngày 10 đến 25 hàng tháng, BHXH chuyển sổ mà các đơn vị SDLĐ đã
nộp lên tài khoản chuyên thu của BHXH tỉnh. Riêng tháng cuổi năm
chuyển toàn bộ số tiền thu BHXH của Huyện lên BHXH tỉnh trước 24h
ngày 31/12. Hàng tháng, từ ngày 10 đến ngày 20 và ngày cuối tháng, cơ
quan BHXH tỉnh chuyển tiền thu BHXH của tỉnh về tài khoản chuyên thu
của BHXH Việt Nam. Nếu số dư trên tài khoản của tỉnh vượt quá 5 tỷ đồng
thì BHXh tỉnh phải chuyển hết số tiền thu BHXH về BHXH Việt Nam
trước ngày 31/12.

Toàn bộ số tiền thu BHXH đều được tập trung vào tài khoản
chuyên thu của BHXH Việt Nam . Trên cơ sở số thu BHXH, BHXH Việt
Nam có trách nhiệm quản lý , phân phối sử dụng theo dự toán chi của
BHXH các tỉnh. trên cơ sở dự toán chi của các tỉnh đã được cấp có thẩm
quyền phê duyệt , BHXH Việt Nam sẽ chuyển tiền về tài khoản BHXH
tỉnh, để đảm bảo cho các tỉnh chi trả kịp thời cho đối tượng được thụ
hưởng.
20


1.2.4.5. Tổ chức thu, nộp BHXH bắt buộc
Được hiểu là tổng thể các công việc cần phải tiến hành, được sắp xếp
theo trình tự logic trước sau nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra với hiệu quả
cao nhất. Quy trình tổ chức thu BHXH bao gồm:
Sơ đồ 1.2: Quy trình tổ chức thu BHXH
Phân cấp
thu

Lập và
giao kế
hoạch thu

Quản lý
tiền thu

Thông tin
báo cáo
thu

Quản lý

hồ sơ, tài
liệu thu

Phân cấp quản lý thu trong hệ thống BHXH Việt Nam
BHXH Việt Nam: Chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra tình hình thực hiện
công tác quản lý thu, cấp sổ BHXH trong toàn ngành bao gồm cả BHXH
Bộ Quốc Phòng, Bộ Công An, Ban Cơ yếu Chính phủ. Xác định mức lãi
suất bình quân trong năm của hoạt động đầu tư quyc BHXH va fthông báo
cho BHXH tỉnh.
BHXH tỉnh:
- Căn cứ tình hình thực tế của địa phương để phân cấp quản lý
thu BHXH cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ.
- Xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu có liên quan đến NLĐ tham
gia BHXH trên địa bàn tỉnh.
-Xây dựng kế hoạch và hướng dẫn, kiểm tra tình hình thực hiện
công tác thu, cấp sổ BHXH theo phân cấp quản lý và quyết toán số tiền thu
BHXH với BHXH huyện theo định kỳ quý, 6 tháng, năm và lập “ Biên bản
thẩm định số liệu thu BHXH bắt buộc “.
BHXH huyện: Tổ chức, hướng dẫn thực hiện thu BHXH, cấp sổ
BHXH đối với NSDLD và NLĐ theo phan cấp quản lý.
BHXH Bộ Quốc Phòng, Bộ Công An, Ban Cơ yếu Chính phủ: Trực
tiếp thu BHXH, cấp sổ BHXH đối với NLĐ do Bộ Quốc Phòng, Bộ Công
an, Ban Cơ yếu Chính phủquản lý; xây dựng kế hoạch thu và báo cáo quyết
toán thu BHXH, cấp sổ BHXH hàng năm với cơ quan BHXH Việt Nam.
b) Lập và giao kế hoạch thu hàng năm
BHXH cấp huyện : Căn cứ vào số thu của năm trước và dự đoán biến
động của năm sau lập nên một kế hoạch thu ( có sự phân bổ từng nhóm đối
tượng) gửi lên cho BHXH tỉnh trước ngày 05/11 hàng năm.
BHXH cấp tỉnh:
-Lập kế hoạch thu của các đối tượng thuộc phạm vi trách nhiệm

(thẩm quản lý) của BHXH tỉnh; tổng hợp kế hoạch của các huyện và của
a)

21


tình gửi lên BHXH Việt Nam trước ngày 15/11 hàng năm.
- Căn cứ dự toán thu của BHXH Việt Nam, tiến hànhphân bổ dự toán
thu BHXH cho các đơn vị trực thuộc BHXH tỉnh và BHXH huyện trước
ngày 20/01 hàng năm.
BHXH Bộ Quốc Phòng, Bộ Công An, ban Cơ yếu Chính phủ: Lập kế
hoạch thu BHXH cho các đơn vị trực thuộc BHXH Việt Nam trước ngày
15/01 hàng năm.
BHXH Việt Nam: Căn cứ tình hình thực hiện kế hoạch năm trước và
khả năng phát triển lao động năm sau của các địa phương, tổng hợp , lập và
giao dự toán thu BHXH cho BHXH tỉnh và BHXH Bộ Quốc Phòng , Bộ
Công An, Ban Cơ yếu Chính Phủ trước ngày 10/01 hàng năm.
c) Quản lý tiền thu
BHXH tỉnh và BHXH huyện không được sử dụng tiền thu BHXH
vào bất cứ mục đích gì (trường hợp đặc biệt phải được Tổng giám đốc
BHXH Việt Nam chấp thuận bằng văn bản).
Hằng quý, BHXH tỉnh và BHXH huyện có trách nhiệm quyết toán
số tiền 2 % đơn vị được giữ lại, xác định số tiền chênh lệch thừa, thiếu;
đồng thời gửi thông báo quyết toán cho Phòng thu hoặc bộ phận thu để
thực hiện kip thời số tiền NSDLĐ chưa chi hết vào tháng đầu của quý sau.
BHXH Việt Nam thẩm định số thu BHXH định kỳ 6 tháng hoặc hàng
năm đối với BHXH tỉnh, BHXH thuộc Bộ Quốc Phòng, Bộ Công An, Ban
Cơ yếu Chính phủ.
d) Thông tin báo cáo thu
BHXH tỉnh, huyện: Mở sổ chi tiết thu BHXH; thực hiện ghi sổ BHXH

theo hướng dẫn. Thực hiện chế độ báo cáo tình hình thu BHXH bắt buộc
định kỳ tháng, quý, năm như sau:
-BHXH huyện: báo cáo tháng trước ngày 22 hàng tháng, báo cáo quý
trước ngày 20 tháng đầu của quý sau.
-BHXH tỉnh: báo cáo tháng trước ngày 25 hàng tháng, báo cáo quý
trước ngày cuối tháng của tháng đầu quý sau.
BHXH Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ Yếu Chính phủ: thực
hiện báo cáo thu BHXH 6 tháng đầu năm trước ngày 30/07 và báo cáo
năm trước ngày 15/02 năm sau.
e) Quản lý hồ sơ, tài liệu thu
BHXH tỉnh, huyện: Cập nhật thông tin, dữ liệu của người tham gia
BHXH để kịp thười cho công tác nghiệp vụ và quản lý.
BHXH tỉnh: Xây dựng hệ thống mã số đơn vị tham gia BHXh áp dụng
22


trong địa bàn theo hướng dẫn của BHXH Việt Nam.
BHXH các cấp: Tổ chức phân loại, lưu trữ và bả quản hồ sơ, tài liệu
thu BHXH đảm bảo khoa học để thuận tiện khai thác sử dụng. Thực hiện
ứang dụng CNTT để quản lý người tham gia BHHX, cấp sổ BHXH cho
người tham gia BHXH bắt buộc.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác thu BHXH
1.3.1.Chính sách tiền lương
Chính sách tiền lương Giữa chính sách tiền lương và chính sách
BHXH nói chung và công tác thu BHXH nói riêng có mối quan hệ rất chặt
chẽ với nhau. Chính sách tiền lương là tiền đề và cơ sở cho việc thực hiện
chính sách BHXH, bởi vì cơ sở để tính toán mức đóng và hưởng BHXH
của chúng ta hiện nay là phụ thuộc vào tiền lương tối thiểu do Nhà nước
quy định. Ví dụ : mức lương tối thiểu vùng 1 năm 2012 là 2.000.000 đồng ,
từ ngày 01/01/2013 đến hết ngày 31/12/2013 áp dụng mức lương tối thiểu

vùng 1 là 2.350.000 đồng, từ ngày 01/01/2014 đến hết ngày 31/12/2014
mức lương tối thiểu vùng 1 là 2.700.000 đồng , còn từ ngày 01/01/2015 đến
hết ngày 31/12/2015 áp dug mức lương tối thiểu vùng 1 là 3.100.000
đồng , còn từ ngày 01/01/2016, 3.500.000 đồng là mức lương tối thiểu
vùng 1. Như vậy khi Nhà nước nâng lương tối thiểu, điều đó đồng nghĩa
với việc tăng mức đóng BHXH và đương nhiên số thu BHXH cũng tăng
lên. Thêm vào đó đối với các lao động đóng BHXH theo thang bảng lương
Nhà nước quy định, mức đóng còn phụ thuộc vào hệ số lương, vì thế khi
Nhà nước điều chỉnh lại thang bảng lương thì mức đóng BHXH cũng tăng
lên.
1.3.2. Dân số và lực lượng lao động
NLĐ là đối tượng tham gia BHXH, họ là những người trong độ tuổi
lao động, là những người trực tiếp tạo ra của cải cho xã hội. Như vậy, nếu
một quốc gia có dân số “già “ tức là số người trong độ tuổi lao động chiếm
tỷ lệ thấp trong tổng dân số sẽ dẫn đến việc mất cân đối quỹ BHXH bởi vì
số người tham gia đóng góp vào quỹ ngày càng ít trong khi số người hưởng
các chế độ hưu trí ngày càng tăng.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, dân số đang “trẻ” đang có lợi
thế rất lướn về nguồn lực lao động tham gia đóng góp vào quỹ BHXH. Vì
vậy, Việt Nam cần có chính sách phù hợp để những NLĐ này được tham
gia BHXH.
1.3.3. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phản ánh khả năng tiết
kiệm, tiêu dung và đầu tư của Nhà nước.Vì thế nếu một quốc gia có tốc độ
23


tăng trưởng kinh tế cao và ổn định thì chắc chắn đời sống của người dân sẽ
cao và ổn định thì chắc chắn đời sống của người dân sẽ cao dần lên, tình
hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi vì thế

các chủ doanh nghiệp cũng sẵn sàng tham gia BHXH cho NLĐ từ đó làm
giảm tình trạng trốn tránh trách nhiệm tham gia BHXH cho NLĐ của các
chủ doanh nghiệp.
Bên cạnh đó tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững phản ánh
nhiều người lao động có thu nhập cao thông qua quá trình lao động, đây là
điều kiện tiền đề để ngừo lao động có cơ hôi tham gia BHXH.
Thêm nữa, khi đời sống kinh tế cao thì nhận thức của người lao động
cũng cao lên, ngoài việc ý thức đảm bảo cuộc sống hàng ngày cho bản thân
và gia đình họ, họ mong muốn có khoản trợ giúp khi không may gặp các
rủi ro xã hội như: ốm đau, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử
tuất, thai sản, thất nghiệp khiến cho họ bị mất hoặc bị giảm thu nhập. Tất cả
những yếu tố trên tác động tích cực làm tăng thu BHXH.
1.3.4. Chính sách lao động – việc làm
Phát triển nguồn nhân lực là đỉnh cao nhất, là mục tiêu cuối cùng và
là động lực mạnh nhất của mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội quốc
gia; Chính sách trung tâm của thời đại chúng ta là chính sách con người và
sự tham gia của con người vào tiến trình phát triển xã hội và tiến bộ xã hội.
Chính sách lao động – việc làm không chỉ đảm bảo ổn định chính trị xã hội
mà còn trực tiếp góp phần vào củng cố và nâng cao chất lượng, sức mạnh
kinh tế của đất nước. Nhìn từ góc độ BHXH, chính sách lao động việc làm
có ảnh hưởng đến khu vực kinh tế ngoài nhà nước và ảnh hưởng trực tiếp
đến việc tham gia đóng BHXH của NLĐ và NSDLĐ vì:
Khi Nhà nước chú trọng đào tạo nghề, nâng cao chất lượng lao động
trên các phương diện về chuyên môn, kỹ năng nghề, kỹ năng ứng xử, giao
tiếp, ý thức chấp hành pháp luật,...điều đó sẽ giúp nâng cao chất lượng thị
trường lao động , các doanh nghiệp tiết kiệm được môt phần chi phí cho
đào tạo. Lực lượng này sẽ có cơ hội việc làm cao, ổn định và thu nhập tốt
tác động trực tiếp làm tăng số lao động tham gia BHXH và do dó làm tăng
mức đóng BHXH.
Việc ưu tiên dành vốn đầu tư của Nhà nước và huy động vốn trong

toàn xã hội để giải quyết việc alfm sẽ làm chuyển dịch cơ cấu lao động, số
người làm công ăn lương sẽ tăng lên, cũng là lý do làm tăng tỷ trọng lao
động xã hội tham gia BHXH; Việc phát triển thị trường lao động, hình
thành hệ thống thông tin thị trường việc làm là yếu tố quan trọng giúp cho
24


NLĐ dễ dàng tìm được việc làm phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ, tay
nghề của mình.
1.3.5.Nhận thức của người tham gia
Nhận thức của người tham gia tốt là nhân tố thiết yếu để công tác
quản lý đối tượng tham gia BHXH đạt kết quả cao. Chính sách ra đời chỉ là
sự hướng dẫn chung nhất, để chính sách đi vào thực tế nhất định phải có sự
chấp hành tốt nhất chính sách đó. Ý thức tham gia BHXH của đối tượng
thuộc diện tham gia, bao gồm NLĐ và NSDLĐ từ lâu đã trở thành mối
quan tâm hàng đầu trong công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH. Các
chủ SDLĐ thường vì lợi nhuận mà không muốn tham gia BHXH cho NLĐ
của mình. Phần lớn họ đều mới chỉ nhận thấy lợi ích trước mắt mà chưa
nghĩ đến hậu quả lâu dài khi rủi ro không may xảy đến vớ NLĐ của họ.
Còn đối với NLĐ, do kém hiểu biết, thu nhập không cho phép hoặc lo sợ bị
mất việc khiến họ không dám lên tiếng đòi hỏi quyền lợi của mình. Khi ý
thức của các đối tượng tham gia thấp, tức là không có sự hợp tác từ phía
các đối tượng tham gia, chắc chắn công tác quản lý đối tượng thâm gia
BHXH sẽ gặp khó khăn. Ở những nước dân trí phát triển, công tác quản lý
đối tượng tham gia gặp ít trở ngại hơn bởi người dân rất tự giác chấp hành
chính sách.
Như vậy, để số huy động vào quỹ BHXH ngà càng cao nhằm
đảm bảo cho quỹ BHXH được cân đối lâu dài, ổn định thì việc nâng cao
hiệu quả thu BHXH là một trong những công việc được đặt ra hàng đầu.
Tuy nhiên để có thể nâng cao hiệu quả thu BHXH chúng ta cần pahri giải

quyết hài hòa và căn cứ vào các nhân tố tác động đến công tác thu, qua đó
chúng ta tìm ra những nhân tố tác động tích cực để phát huy tiền năng thế
mạnh, tìm ra những nhân tố tác động tiêu cực để có biện pháp hạn chế và
điều chỉnh kịp thời.

25


×