Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Com mot so van de phap ly ve chu the cua hop dong nhuong quyen thuong mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.56 KB, 6 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ
VỀ CHỦ THỂ CỦA HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
ThS. Vũ Đặng Hải Yến
Khoa Pháp luật Kinh tế - ĐH Luật Hà Nội
Bài đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4 năm 2008

1. Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại
Xuất phát từ bản chất kinh tế cũng như bản chất pháp lý của hoạt động nhượng quyền
thương mại (NQTM), hợp đồng NQTM cũng giống như các loại hợp đồng thông thường khác,
là sự thoả thuận của các bên trong quan hệ NQTM về những vấn đề chính trong nội dung của
quan hệ này. Đây chính là cơ sở phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên trong hoạt động
nhượng quyền và cũng là cơ sở để giải quyết tranh chấp có thể sẽ phát sinh trong quá trình
các bên thực hiện hợp đồng.
Theo Hiệp ước EEC, “Hợp đồng NQTM là một thoả thuận trong đó, một bên là bên nhượng
quyền cấp phép cho một bên khác là bên nhận quyền khả năng được khai thác một “quyền
thương mại” nhằm mục đích xúc tiến thương mại đối với một loại sản phẩm hoặc dịch vụ
đặc thù để đổi lại một cách trực tiếp hay gián tiếp một khoản tiền nhất định. Hợp đồng này
phải quy định những nghĩa vụ tối thiểu của các bên, liên quan đến: việc sử dụng tên thông
thường hoặc dấu hiệu của cửa hàng hoặc một cách thức chung; việc trao đổi công nghệ giữa
bên nhượng quyền và bên nhận quyền; việc tiếp tục thực hiện của bên nhượng quyền đối
với bên nhận quyền trong việc trợ giúp, hỗ trợ thương mại cũng như kỹ thuật trong suốt thời
gian hợp đồng NQTM còn hiệu lực” [1].
Có thể nói, hợp đồng NQTM là một loại hợp đồng chứa đựng những đặc điểm tổng hợp của
rất nhiều loại hợp đồng khác nhau. Hợp đồng NQTM có chứa đựng những yếu tố của hợp
đồng li -xăng, đó là sự hướng tới việc sử dụng một số đối tượng của quyền sở hữu công
nghiệp như sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp. Bên cạnh đó, hợp đồng
này còn có những điểm tương đồng với hợp đồng chuyển giao công nghệ khi mà trong nội
dung của hợp đồng luôn xác định rõ việc bên nhượng quyền phải chuyển giao, cung cấp,
hướng dẫn cho bên nhận quyền các công nghệ đi kèm và các tài liệu hướng dẫn vận hành
công nghệ đó. Không những thế, bóng dáng của các hợp đồng cung ứng, hợp đồng đại lý
phân phối cũng hiện hữu trong hợp đồng NQTM. Với tính chất tổng hợp này, hợp đồng NQTM


và các vấn đề cụ thể liên quan tới chúng đã đặt việc nghiên cứu trước ngưỡng cửa của sự
phức tạp.
Mặc dù Hiệp hội NQTM của nước Đức đã đưa ra một khái niệm chính thức về hoạt động
NQTM, nhưng pháp luật thương mại của nước này lại không đề cập đến khái niệm hợp đồng
NQTM với tư cách là một loại hợp đồng đặc thù. Trong con mắt của người Đức, hợp đồng
NQTM chỉ là một loại hợp đồng hợp tác để phân phối sản phẩm. Tuy nhiên, do được nhìn
nhận là một loại thoả thuận theo chiều dọc giữa các tác nhân kinh tế (giữa nhà sản xuất và
người bán lẻ), hợp đồng NQTM lại trở thành một đối tượng xem xét của pháp luật cạnh
tranh [2]. Đối với nước Đức, hợp đồng NQTM chỉ được nhận biết thông qua sự so sánh chúng
với các hợp đồng phân phối hàng hoá, dịch vụ với các đặc tính: thứ nhất, trong hợp đồng
nhượng quyền, quan hệ cung ứng hàng hoá, dịch vụ từ phía bên nhượng quyền cho bên
nhận quyền không nhất thiết phải tồn tại với lý do bên nhận quyền có thể tự mình sản xuất
ra sản phẩm; thứ hai, bên nhượng quyền trao toàn bộ “quyền thương mại” dưới một thể
thống nhất cho bên nhận quyền; thứ ba, bên nhận quyền vẫn có tên thương mại của mình
trong con mắt pháp luật, mặc dù dịch vụ hoặc hàng hoá mà bên này cung cấp trên thị


trường lại không mang tên thương mại đã đăng ký với nhà nước.
Cũng tương tự như nước Đức, Cộng hoà Pháp cũng không ban hành một luật riêng cho hoạt
động NQTM. Ở đây, các án lệ, các quy định của Hiệp hội NQTM Pháp được coi là luật lệ chính
điều chỉnh hoạt động NQTM. Nói đến NQTM, người Pháp luôn nhắc tới một vụ án nổi tiếng có
liên quan - vụ Pronuptia de Paris - trong đó nội dung tranh chấp chính liên quan đến các thoả
thuận của một hợp đồng nhượng quyền từ một hãng bán áo cưới nổi tiếng của Pháp và một
cá nhân với tư cách là bên nhận quyền. Sau này, nghĩa là sau thời điểm có phán quyết của
Toà án về vụ Pronuptia vào năm 1986, hầu hết các vụ tranh chấp liên quan đến hợp đồng
NQTM đều được các Toà án ở Pháp và trong khối Cộng đồng chung châu Âu xem xét dưới góc
độ của án lệ Pronuptia. Khi giải quyết tranh chấp đối với Pronuptia, Toà Phúc thẩm Paris đã
lần đầu tiên công nhận hiệu lực của hợp đồng NQTM với tính chất không phải một dạng hợp
đồng phân phối sản phẩm mà là hợp đồng theo đó, một bên có thể mở rộng mạng lưới, kiếm
tìm lợi nhuận mà không cần đầu tư bằng tiền của chính mình [3]. Như vậy, ở Pháp, đây là

lần đầu tiên hợp đồng NQTM được nhìn nhận đúng với bản chất của nó. Có thể nói, hầu hết
những khái niệm về hợp đồng NQTM ra đời sau này ở một số nước châu Âu đều dựa trên
những đặc điểm chính mà các chủ thể của án lệ Pronuptia đã thoả thuận. Một thực tế là,
không phải quốc gia nào cũng có khái niệm riêng biệt để nhận biết hợp đồng NQTM. Tuy
nhiên, bằng cách này hay cách khác, loại hợp đồng này vẫn được phân biệt với các loại hợp
đồng khác như hợp đồng li -xăng hay hợp đồng đại lý phân phối sản phẩm.
Như vậy, hợp đồng NQTM là một tập hợp các thoả thuận của các bên chủ thể, trong đó các
bên phải đề cập đến ít nhất một số vấn đề chủ yếu liên quan đến:

thứ nhất, sự chuyển giao các yếu tố của quyền sở hữu công nghiệp, sở hữu trí tuệ
từ bên nhượng quyền sang bên nhận quyền nhằm khai thác thu lợi nhuận;

thứ hai, sự hỗ trợ của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền trong suốt quá
trình thực hiện hợp đồng;

thứ ba, nghĩa vụ tài chính cũng như các nghĩa vụ đối ứng khác của bên nhận quyền
đối với bên nhượng quyền.
Với khái niệm này, hợp đồng NQTM đã thể hiện được đúng bản chất pháp lý của hoạt động
NQTM, giúp cho công chúng có thể dễ dàng phân biệt được loại hợp đồng thương mại đặc
biệt này với một số loại hợp đồng khác có cùng một hoặc một số tính chất nhất định.
Ở Việt Nam, pháp luật không đưa ra định nghĩa về hợp đồng NQTM mà chỉ quy định về hình
thức của loại hợp đồng này tại Điều 285 Luật Thương mại năm 2005. Như vậy, có thể hiểu,
trên phương diện pháp luật, hợp đồng NQTM là một loại hợp đồng được các thương nhân ký
kết trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại, mà cụ thể ở đây chính là thực hiện hoạt
động NQTM. Vì vậy, hợp đồng này cũng phải có những đặc điểm chung của hợp đồng được
quy định ở chương VI của Bộ luật Dân sự và đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà pháp luật dân
sự đặt ra dưới góc độ của một loại giao dịch dân sự. Thêm vào đó, về cơ bản, nó phải thể
hiện được bản chất của giao dịch NQTM đã được định nghĩa tại Điều 284 Luật Thương mại
năm 2005.
Không đưa ra định nghĩa cụ thể về hợp đồng NQTM nói chung, nhưng Nghị định số

35/2006/NĐ-CP ngày 31/03/2006 của Chính phủ lại nêu định nghĩa về các dạng đặc biệt của
hợp đồng NQTM như: “hợp đồng phát triển quyền thương mại” (Khoản 8 Điều 3) hoặc “hợp
đồng NQTM thứ cấp” (Khoản 10 Điều 3). Đây là các dạng biến thể của hợp đồng NQTM, thể
hiện sự đa dạng về hình thức và phương thức NQTM nên việc đưa ra định nghĩa cụ thể về
những loại hợp đồng này trong luật là rất đúng đắn. Tuy nhiên, khi giải thích về nghĩa của cả
hai loại hợp đồng nói trên, các nhà làm luật vẫn sử dụng thuật ngữ “hợp đồng NQTM” để làm
cầu nối. Như vậy, việc pháp luật thương mại không đưa ra định nghĩa về hợp đồng NQTM mà
lại dùng chính thuật ngữ này để giải thích cho các thuật ngữ khác có liên quan là chưa đảm
bảo tính hệ thống và tính chính xác cần phải có đối với các quy định pháp luật trong bối
cảnh hiện nay.


2. Chủ thể của hợp đồng NQTM
Trong quan hệ NQTM tồn tại hai chủ thể quan trọng, đó là bên nhượng quyền và bên nhận
quyền. Về cơ bản, hợp đồng NQTM chính là những thoả thuận của hai chủ thể này về nội
dung của hoạt động nhượng quyền. Do NQTM là một hoạt động thương mại đặc thù nên hầu
hết các nước đều quy định chủ thể của quan hệ nhượng quyền phải là thương nhân, tồn tại
một cách hợp pháp, có thẩm quyền kinh doanh và có quyền hoạt động thương mại phù hợp
với đối tượng được nhượng quyền. Những đặc trưng về mặt chủ thể này của hợp đồng NQTM
đã làm cho hợp đồng loại này có những tính chất khác biệt so với các loại hợp đồng khác.
Đặc biệt, quan hệ nhượng quyền không chỉ dừng lại giữa bên nhượng quyền và bên nhận
quyền, mà đôi khi, trong quan hệ này còn có thể xuất hiện thêm bên nhận quyền thứ hai.
Theo đó, bên nhận quyền thứ hai là bên nhận lại quyền kinh doanh thương mại của bên
nhượng quyền từ bên nhận quyền thứ nhất. Trong trường hợp này, các bên lại phải có những
thoả thuận, ứng xử phù hợp với quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên, nhất là bên
nhượng quyền. Như vậy, dưới góc độ pháp luật, bên nhượng quyền trong hợp đồng NQTM là
thương nhân cấp quyền thương mại, bao gồm cả bên nhượng quyền thứ nhất và bên nhượng
lại quyền. Bên nhận quyền là thương nhân nhận quyền thương mại để khai thác, kinh doanh,
bao gồm cả bên nhận quyền thứ nhất (bên nhận quyền sơ cấp) và bên nhận quyền thứ hai
(bên nhận quyền thứ cấp).

Pháp luật thương mại Việt Nam cũng chỉ ra các đối tượng có thể trở thành chủ thể của một
quan hệ NQTM, bao gồm: bên nhượng quyền, bên nhận quyền, bên nhượng quyền thứ cấp,
bên nhận quyền sơ cấp và bên nhận quyền thứ cấp (Khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 3, Nghị định số
35/2006/NĐ-CP). Theo đó, hoạt động NQTM có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức: ở
hình thức cơ bản nhất, tồn tại các bên nhượng quyền và bên nhận quyền; ở hình thức phức
tạp hơn, các bên nhận quyền sơ cấp có thể được thực hiện việc nhượng lại quyền thương
mại cho các bên nhận quyền thứ cấp và trở thành bên nhượng quyền thứ cấp. Quy định này
đáp ứng được tính đa dạng với rất nhiều biến thể mà hoạt động NQTM chứa đựng.
Ngoài ra, pháp luật về NQTM của Việt Nam cũng có những quy định cụ thể về điều kiện đặt
ra đối với các thương nhân thực hiện hoạt động NQTM, đó cũng chính là những điều kiện về
mặt chủ thể của hợp đồng NQTM. Theo Điều 5, Điều 6 Nghị định 35/2006/NĐ-CP thì thương
nhân NQTM chỉ được phép cấp quyền thương mại khi đáp ứng đủ các điều kiện:

Hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã hoạt động được ít nhất 01
năm (nếu thương nhân Việt Nam là bên nhận quyền sơ cấp từ bên nhượng quyền
nước ngoài, thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo phương thức NQTM ít
nhất 01 năm ở Việt Nam trước khi tiến hành cấp lại quyền thương mại);

Đã đăng ký hoạt động NQTM với cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật (Sở Thương mại, Sở Thương mại - du lịch cấp tỉnh đối với hoạt động NQTM mang
tính nội địa; Bộ Thương mại đối với hoạt động NQTM có yếu tố nước ngoài);

Hàng hoá, dịch vụ kinh doanh thuộc đối tượng của quyền thương mại (không thuộc
danh mục hàng hoá cấm kinh doanh; nếu thuộc danh mục hàng hoá kinh doanh có
điều kiện thì phải đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của pháp luật).
Theo các quy định này thì điều kiện đặt ra đối với thương nhân nhượng quyền khá khắt khe
và phức tạp. Trong khi đó, đối với thương nhân nhận quyền, điều kiện chủ thể này dường như
đơn giản hơn và nhiều khi, pháp luật chỉ quy định thương nhân nhận quyền được phép nhận
quyền thương mại khi có đăng ký ngành nghề kinh doanh phù hợp với hoạt động NQTM.
Trên thực tế, pháp luật của một số nước đưa ra những yêu cầu khá khắt khe đối với bên

nhượng quyền, hầu hết những quy định này tập trung vào khả năng tài chính, thời gian hoạt
động, số lượng các cơ sở kinh doanh đã có… Thực chất mục đích của các yêu cầu khắt khe
được đặt ra đối với bên nhượng quyền là để cho bên nhận quyền, ở một mức độ nhất định


nào đó, tránh khỏi nguy cơ phải đối mặt với các rủi ro trong kinh doanh. Dưới góc độ kinh tế,
trong quan hệ NQTM, bên nhượng quyền bắt buộc phải có một hệ thống và cơ sở kinh doanh
có lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Hệ thống kinh doanh này phải có sự trải nghiệm thị
trường đủ để tạo ra một giá trị “quyền thương mại” hợp lý và tạo niềm tin cho bên nhận
quyền. Với lợi thế có sẵn đó, trong quan hệ với bên nhận quyền, bên nhượng quyền sẽ nhận
được một khoản vốn không nhỏ thu được từ khoản phí nhượng quyền mà bên nhận quyền
phải trả. Chính vì vậy mà đến lượt mình, pháp luật thương mại cần thiết phải thiết kế một hệ
thống các điều kiện cơ bản mà một doanh nghiệp nhượng quyền phải đáp ứng khi muốn kinh
doanh theo phương thức NQTM. Những yêu cầu về mặt pháp lý đối với bên nhượng quyền
thông thường được nhấn mạnh ở các vấn đề:




Thứ nhất, về hình thức doanh nghiệp tham gia ký kết hợp đồng NQTM với tư cách
là bên nhượng quyền: pháp luật của hầu hết các nước đều yêu cầu tư cách thương
nhân đối với bên này. Có nghĩa là, các đối tượng thuộc diện được trở thành bên
nhượng quyền trong một hợp đồng nhượng quyền không giới hạn ở hình thức tồn tại
của thương nhân, mà chỉ cần có dấu hiệu của một loại chủ thể đặc biệt được điều
chỉnh bởi pháp luật thương mại. Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam và các
nghị định hướng dẫn thi hành luật này không có quy định nào đặt ra các điều kiện về
mặt hình thức tồn tại của thương nhân đối với bên NQTM. Tuy nhiên, ở một số nước,
ví dụ như Trung Quốc, nước này yêu cầu bên nhượng quyền bắt buộc phải là doanh
nghiệp, mọi hình thức tồn tại khác của thương nhân đều không được coi là có quyền
thực hiện việc NQTM [4].

Thứ hai, thời gian hoạt động của bên nhượng quyền trong lĩnh vực dự định sẽ
nhượng quyền là một khoảng thời gian luật định. Khoảng thời gian này dài hay ngắn
phụ thuộc vào cách nhìn của pháp luật từng nước về sự phức tạp và tính chứa đựng
rủi ro của hoạt động NQTM. Thông thường, thời gian tối thiểu mà pháp luật thương
mại các nước quy định đối với hoạt động của bên nhượng quyền trước khi thực hiện
nhượng quyền là một năm (ví dụ như pháp luật Việt Nam). Ngoại lệ, cũng có những
quốc gia quy định một khoảng thời gian dài hơn là ba năm hoặc năm năm. Tuy nhiên,
có thể nói, việc quy định khoảng thời gian “thử thách” đối với bên nhượng quyền là
bao lâu không ảnh hưởng nhiều đến mức độ thành công hay rủi ro trong hoạt động
bằng phương thức nhượng quyền của bên nhận quyền sau khi hợp đồng NQTM đã
được ký kết. Quy định này chỉ mang tính chất dẫn đường, củng cố thêm niềm tin và
hỗ trợ cho sự lựa chọn thông minh và an toàn của bên nhận quyền. Khoảng thời gian
một năm theo quy định của pháp luật Việt Nam là tương đối ngắn. Trong khoảng thời
gian này, tên thương mại và các công nghệ đặc trưng của thương nhân không phải
lúc nào cũng đã được hình thành một cách trọn vẹn. Tuy nhiên, với tư cách là một lĩnh
vực hoạt động thương mại mới mẻ, NQTM phải được tạo mọi điều kiện để phát triển
một cách tương đối tự do và nhanh chóng. Vì vậy, quy định khoảng thời gian ngắn để
nhận biết giá trị “quyền thương mại” của bên nhượng quyền cũng là một trong những
cách thức tiếp cận có ý nghĩa của pháp luật thương mại Việt Nam.

Bên nhận quyền phải có tư cách độc lập về mặt pháp lý, tài chính và đầu tư; đồng thời chấp
nhận rủi ro đối với vốn bỏ ra để thực hiện việc tham gia vào hệ thống nhượng quyền của bên
nhượng quyền. Luật pháp cũng yêu cầu bên nhận quyền phải là bên có đủ khả năng tiến
hành các hoạt động kinh doanh sau khi nhận quyền kinh doanh của bên nhượng quyền. Cụ
thể, bên nhận quyền thường phải đáp ứng các yêu cầu về ngành nghề kinh doanh, giấy phép
kinh doanh, thậm chí là chứng chỉ hành nghề khi tham gia vào quan hệ NQTM nhất định.
Thông thường, pháp luật thương mại của các nước đều đặt ra những yêu cầu nhất định đối
với các đối tượng sẽ trở thành bên nhận quyền trong một quan hệ NQTM, bao gồm:
Một là, bên nhận quyền phải tồn tại dưới một tên thương mại riêng, xác định một tư cách
pháp lý hoàn toàn độc lập với bên nhượng quyền, mặc dù để bán hàng hoá và cung ứng dịch



vụ tới người tiêu dùng, bên nhận quyền phải sử dụng các dấu hiệu tập hợp khách hàng, nhận
biết thương nhân, trong đó bao gồm cả tên thương mại, của bên nhượng quyền. Khi xem xét
về hợp đồng NQTM, pháp luật thương mại Austria cũng đã nhấn mạnh về đặc trưng chủ thể
của bên nhận quyền, đó là bên hành động dưới tên thương mại riêng và trực tiếp chịu rủi ro
với hoạt động kinh doanh do bên này tiến hành (acting in his own name and at his own
risk) [5]. Như vậy, bên nhận quyền là bên được xác định dưới một tư cách chủ thể pháp lý
hoàn toàn độc lập với bên nhượng quyền, chịu mọi rủi ro trong hoạt động kinh doanh của
chính mình, không phụ thuộc vào bên nhượng quyền. Một khi điều kiện này được đáp ứng,
sự lạm dụng hợp đồng NQTM vào các mục đích khác của doanh nghiệp như thuê mướn lao
động mà không phải ký hợp đồng lao động và trả tiền bảo hiểm sẽ được ngăn chặn một cách
hiệu quả nhất.
Hai là, bên nhận quyền phải tồn tại dưới một hình thức pháp lý nhất định. Để đảm bảo cho
hệ thống nhượng quyền có thể phát triển và không bị phá vỡ bởi bất kỳ một bên nhận quyền
nào trong một loạt các bên nhận quyền đã ký kết hợp đồng NQTM, pháp luật một số nước
quy định bên nhận quyền phải có đủ năng lực chủ thể mà một trong những dấu hiệu nhận
biết chủ thể nhận quyền có đủ năng lực pháp lý, đó là chủ thể này phải tồn tại dưới hình
thức doanh nghiệp. Xét cho đến cùng, mức độ rủi ro của bên nhượng quyền khi tham gia ký
kết hợp đồng NQTM là khá cao. Bên nhượng quyền sẽ có khả năng phải đối mặt với nguy cơ
mất công nghệ, bí quyết kinh doanh. Mặt khác, bên nhượng quyền còn có khả năng phải
hứng chịu những tổn thất do sự đổ vỡ hệ thống nhượng quyền mà nguyên nhân chỉ xuất
phát từ sự thất bại của một bên nhận quyền duy nhất. Chính vì vậy, việc quy định những
điều kiện nhất định đối với bên nhận quyền cũng chính là một trong những biện pháp hạn
chế rủi ro cho bên nhượng quyền. Pháp luật thương mại Việt Nam không đề cập tới điều kiện
bắt buộc về mặt hình thức tồn tại cho bên nhận quyền. Điều này có phần phù hợp với điều
kiện của Việt Nam bởi trên thực tế, hầu hết các “quyền thương mại” được nhượng ở Việt
Nam chủ yếu chỉ được thiết lập dưới các dạng nhà hàng, quán ăn nhanh với quy mô tương
đối nhỏ hẹp, nằm trong khả năng có thể điều khiển được của hộ kinh doanh cá thể, thậm chí
là cá nhân kinh doanh. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, một quốc gia có cái nhìn tương đối khắt khe

với các chủ thể của quan hệ NQTM, pháp luật yêu cầu bên nhận quyền cũng phải là doanh
nghiệp. Trong cách tiếp cận coi doanh nghiệp là một loại thương nhân có quy mô tương đối
lớn so với các thương nhân khác như cá nhân kinh doanh, hộ kinh doanh cá thể thì việc quy
định bên nhận quyền phải là doanh nghiệp rõ ràng giúp cho các bên trong quan hệ nhượng
quyền có thể thành công hơn trong hoạt động thương mại mới mẻ và phức tạp này.
Xuất phát từ bản chất của quan hệ NQTM, hợp đồng NQTM là một dạng hợp đồng đặc biệt
trong lĩnh vực thương mại do tính chất phức tạp của nó như đã phân tích ở trên, việc nghiên
cứu, đánh giá một cách toàn diện các khía cạnh của hợp đồng NQTM, nhất là chủ thể của
loại hợp đồng này để từ đó chỉ ra những phương hướng, biện pháp cụ thể nhằm hoàn thiện
pháp luật về hợp đồng NQTM là một trong những công việc cần thiết trong bối cảnh phát
triển kinh tế hiện nay của Việt Nam. Điều này sẽ giúp cho pháp luật thương mại của Việt
Nam trở nên gần gũi và tương thích hơn với pháp luật của các nước khác trên thế giới, giúp
cho quá trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới có thể tiến những
bước nhanh hơn, chắc chắn hơn và hiệu quả hơn./.
==============================
CHÚ THÍCH


[1] Roberto Baldi, Distributorship, Franchising, Agency - Community and national Laws
and Prachtice in the EEC, Kluwer International, page 77,78.
[2] Graham and Trotman, Commercial Agency and Distribution Agreements, Laws and
practice in the Member States of the European Community, Association Internationale des
Jeunes Avocats, page 203, 204,205.
[3] Graham and Trotman, Commercial Agency and Distribution Agreements, Laws and
practice in the Member States of the European Community, Association Internationale des
Jeunes Avocats, page 203, 204,205.
[4] Legislation and regulation relevent to franchising in People’s republic of
China />[5] Geert Bogaert and Ulrich Lohmann, Commercial Agency and Distribution
Agreements, Laws and practice in the Member States of the European Community,
Association Internationale des Jeunes Avocats, page 95.




×