Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Com binh luan quy pham xung dot ve con nuoi co yeu to nuoc ngoai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.27 KB, 7 trang )

QUY PHẠM XUNG ĐỘT VỀ CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
GÉRA
ÉRALD GOLDSTEIN
GOLDSTEIN
Giáo sư Khoa Luật
Đại học Montréal, Québec, Canada

I.

VẤN DỀ VỀ NỘI DUNG CỦA QUYẾT DỊNH DỒNG Ý CHO CON NUOI BLDS Québec quy

định quy phạm giải quyết xung đột như sau:
Điều 3092.
Các quy định điều chỉnh quyết định đồng ý cho con nuôi và điều kiện để trẻ em được nhận làm con nuôi
là quy định pháp luật của nước nơi con nuôi cư trú. Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi thuộc phạm vi
điều chỉnh của pháp luật của nước nơi người xin nhận con nuôi cư trú.
Như vậy, pháp luật của nước nơi con nuôi cư trú sẽ quy định về quyết định đồng ý cho con nuôi và các
điều kiện theo đó quyết định từ chối cho con nuôi của cha mẹ đẻ có thể ngăn cản việc xin nhận con
nuôi. Pháp luật của nước nơi con nuôi cư trú cũng sẽ quy định trẻ em thuộc nhóm đối tượng nào thì có
thể được nhận làm con nuôi. Ngược lại, pháp luật của nước nơi cư trú của người xin nhận con nuôi được
áp dụng để xác định hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi, về nguyên tắc là pháp luật Québec (Québec
không có trẻ em thuộc diện được cho làm con nuôi). Quy định trên rất dễ hiểu, bởi vì đây là vấn đề liên
quan đến môi trường sống sau này của con nuôi; quy
định như vậy sẽ bảo đảm công bằng giữa các con nuôi lớn lên trong cùng một môi trường sống hoặc
trong cùng một gia đình.
Ngược lại, Điều 3092 không nêu rõ luật áp dụng đối với điều kiện về người xin con nuôi (trong trường
hợp của Québec). Tuy nhiên, căn cứ vào một số điều của BLDS, chúng ta có thể ngầm suy luận rằng luật
điều chỉnh điều kiện đối với người xin con nuôi là luật nơi cư trú của người xin con nuôi. Phương án giải
thích pháp luật này đã được ghi nhận trong án lệ Québec.
Ban đầu, các quy định này được bổ sung bằng các quy phạm thực chất nhằm áp dụng đối với nuôi con
nuôi trong nước. Tuy nhiên, sau đó, các quy phạm này cũng được sử trong các trường hợp liên quan đến


nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Như vậy, quá trình xin con nuôi đăng ký tại Québec phải trải qua hai
giai đoạn: Ở giai đoạn một, Tòa án ra quyết định tạm giao con nuôi cho người nhận nuôi tại Québec.
Nếu sau 6 tháng kể từ ngày có quyết định tạm giao, mọi việc vẫn ổn thỏa thì Tòa án sẽ chuyển sang
giai đoạn hai là ra quyết định cho nhận con nuôi tại Québec. Điều 568 quy định như sau:
Điều 568.
Trước khi ra quyết định tạm giao con nuôi cho người nhận nuôi, Tòa án phải đảm bảo rằng người xin
nhận con nuôi đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện nuôi con nuôi và đặc biệt là quyết định đồng ý cho con
nuôi là quyết định hợp thức.
Đồng thời, liên quan đến việc công nhận quyết định cho nhận con nuôi của nước ngoài, Điều 574
BLDS Québec còn bổ sung một điều kiện công nhận đặc biệt như sau:
Điều 574.
Tòa án được yêu cầu công nhận quyết định cho nhận con nuôi của Tòa án nước ngoài phải đảm bảo rằng
các quy định về quyết định đồng ý cho con nuôi cũng như các điều kiện để trẻ được nhận làm con nuôi
đã được tuân thủ.
Như vậy, trước khi ra quyết định cho nhận con nuôi tại Québec, Tòa án Québec phải kiểm tra xem quyết
định đồng ý cho con nuôi có hợp thức hay không; hoặc trước khi công nhận quyết định cho nhận con
nuôi của nước ngoài, Tòa án Québec cũng phải đảm bảo rằng thẩm phán nước ngoài đã tuân thủ các
quy định về quyết định đồng ý cho con nuôi.
Trong trường hợp liên quan đến con nuôi có yếu tố nước ngoài, Điều 568 BLDS Québec quy định hai điều
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp


kiện: Một là phải có quyết định đồng ý cho con nuôi; hai là quyết định đồng ý cho con nuôi phải hợp
thức. Như vậy, vấn đề đặt ra là tính hợp thức của quyết định đồng ý cho con nuôi sẽ được xác định theo
pháp luật của nước nào? Tương tự, "các quy định" liên quan đến quyết định đồng ý cho con nuôi nêu
tại Điều 574
BLDS Québec là quy định của pháp luật nước nào? Trong khi đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 3092
BLDS Québec, pháp luật áp dụng đối với quyết định đồng ý cho con nuôi chỉ có thể là pháp luật của
nước nơi con nuôi cư trú.
Tuy nhiên, nếu giả sử quyết định đồng ý cho con nuôi được đưa ra hợp thức trên cơ sở tuân thủ pháp

luật nước gốc của con nuôi, thì để đảm bảo việc tuân thủ quyết định này và tránh các xung đột có thể
xảy ra, pháp luật nước ngoài (ví dụ là pháp luật Việt Nam), tức pháp luật quy định tính hợp thức của
quyết định đồng ý cho con nuôi, sẽ giới hạn phạm vi nội dung của quyết định này như thế nào? Phạm vi
này có bao gồm các điều kiện đối với người xin nhận con nuôi theo quan niệm của pháp luật nước đó
hay không, ví dụ quy định về kết hôn giữa những người khác giới, quy định về khoảng cách tuổi tác?
Tóm lại, các quy định này chủ yếu sẽ đặt ra vấn đề về phạm vi điều chỉnh của pháp luật nước nơi con
nuôi cư trú đối với quyết định đồng ý cho con nuôi, ít nhất là trong 3 trường hợp sau: 1/ Khi pháp luật của
nước nơi con nuôi cư trú không quy định về vấn đề con nuôi hoặc nghiêm cấm nuôi con nuôi; 2/ Khi
pháp luật của nước nơi con nuôi cư trú cho phép nuôi con nuôi nhưng lại quy định các điều kiện đối với
người xin nhận con nuôi chặt chẽ hơn pháp luật của nước nơi người xin nhận con nuôi cư trú và 3/ Khi
pháp luật của nước nơi con nuôi cư trú quy định hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi khác với pháp luật
của nước nơi người xin nhận con nuôi cư trú.

1. Luật áp dụng đối với quyết định đồng ý cho con nuôi
Trường hợp cha mẹ đẻ và con nuôi cư trú tại một nước mà pháp luật không cho phép nuôi con nuôi(pháp
luật của các nước Hồi giáo), nếu cha mẹ để đồng ý cho con nuôi, thì quyết định đồng ý cho con nuôi đó
có hợp thức hay không ? Tòa án Québec sẽ giải quyết trường hợp này như thế nào ? (Vấn đề này không
đặt ra đối với pháp luật Việt Nam vì Việt Nam có quy định về nuôi con nuôi).
8

Vụ việc A.B.M. liên quan đến quyết định về việc giám hộ trẻ em cư trú tại Pakistan của Tòa án nước
này. Lưu ý rằng Pakistan là nước theo pháp luật Hồi giáo truyền thống và không cho phép nuôi con
nuôi. Khi Tòa án Pakistan ra quyết định, trẻ em thuộc diện giám hộ vẫn đang cư trú tại Pakistan; nhưng
sau đó, trẻ đã được người giám hộ cư trú tại Québec đưa sang Québec. Vụ trưởng Vụ Bảo vệ trẻ em và
Viện trưởng Viện Công tố Québec đã bác yêu cầu ra quyết định tạm giao con nuôi cho người nhận nuôi
với lý do rằng quyết định đồng ý cho con nuôi và điều kiện để trẻ em được nhận làm con nuôi không phù
hợp với pháp luật của nước nơi con nuôi cư trú, bởi vì Pakistan không cho phép nuôi con nuôi.
Người xin nhận con nuôi đã lập luận rằng do con nuôi hiện đã cư trú ở Québec từ 2 năm nay, nên
không thuộc phạm vi áp dụng của Điều 3092 BLDS Québec, bởi vì trường hợp này là nuôi con nuôi
trong nước. Tòa án Québec công nhận rằng quyết định về việc giám hộ của Pakistan cho phép chuyển

nơi cư trú của trẻ em thuộc diện giám hộ, nhưng trong trường hợp nuôi con nuôi, nơi cư trú của con nuôi
phải là nơi cư trú gốc của con nuôi trước khi ra quyết định về việc giám hộ, tức là Pakistan.
Tuy nhiên, Tòa án vẫn chấp nhận ra quyết định tạm giao con nuôi cho người nhận nuôi với lý do, tuy
pháp luật Pakistan không cho phép nuôi con nuôi nhưng Pakistan lại có một tập quán theo đó một khi có
quyết định về việc giám hộ, người giám hộ được phép đưa trẻ em thuộc diện giám hộ ra ngoài lãnh thổ
của Pakistan để nhận làm con nuôi. Quyết định cho nhận con nuôi của nước ngoài sẽ được công nhận tại
Pakistan. Như vậy, theo quan điểm của Tòa án Québec, trong một chừng mực nhất định, vẫn có thể coi là
pháp luật Pakistan cho phép nuôi con nuôi. Cách giải thích rộng về thuật ngữ "pháp luật nơi cư trú" theo
Điều 3092 BLDS Québec đã là một trong những yếu tố của phương án giải quyết thuận lợi cho việc nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Tóm lại, theo quy phạm xung đột của Québec, quyết định đồng ý cho non nuôi thuộc phạm vi điều chỉnh
của pháp luật nước nơi con nuôi cư trú. Điều này tương đối phù hợp khi hệ thuộc luật nơi cư trú tuân
9
thủ nguyên tắc áp dụng pháp luật có liên quan chặt chẽ nhất đến vấn đề đang được xem xét .

8

[2002] R.J.Q. 1161 (Tòa án Québec, 19 tháng 2 năm 2002).
Về vấn đề này, pháp luật Pháp cũng chấp nhận một giải pháp tương tự, đó là nếu luật nhân thân (pháp luật quốc tịch) của con
nuôi cấm nuôi con nuôi, thì sẽ không được đăng ký nuôi con nuôi (Điều 370-3 khoản
2 BLDS Pháp), trừ trường hợp con nuôi là trẻ chưa thành niên sinh ra hoặc thường trú tại Pháp (sẽ có quốc tịch Pháp); hoặc nếu
pháp luật của nước mà người xin nhận con nuôi mang quốc tịch cấm nuôi con nuôi thì sẽ không được đăng ký nuôi con nuôi (Điều
370-3 khoản 3 BLDS Pháp). Trong một số trường hợp (ví dụ con
9

Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp


nuôi sinh ra tại Pakistan nhưng thường trú tại Pháp), quy định này không áp dụng nguyên tắc lựa chọn pháp


2. Luật áp dụng đối với điều kiện về người xin con nuôi.
Vấn đề xác định luật áp dụng cũng được đặt ra đối với các điều kiện về người xin con nuôi ở Québec.
Theo án lệ Québec, pháp luật Québec, tức pháp luật nơi người xin con nuôi cư trú, là pháp luật duy
nhất có thẩm quyền điều chỉnh các điều kiện đối với người xin con nuôi tại Québec10. Về nguyên tắc,
điều này khác với quy định tại Điều 37
Nghị định số 68 ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Việt Nam theo đó người xin con nuôi phải tuân thủ đồng
thời các điều kiện (tối thiểu) của pháp luật Việt Nam (về nguyên tắc, có hiệu lực áp dụng với tư cách là
pháp luật của nước mà con nuôi mang quốc tịch) và của pháp luật của nước nơi người xin con nuôi
thường trú (xem thêm Điều 105
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000).
Tất nhiên, việc nuôi con nuôi chỉ có hiệu lực tại Québec nếu quyết định đồng ý cho con nuôi của cha mẹ
đẻ hoặc của cơ quan có thẩm quyền đã được đưa ra một cách hợp thức và tuân thủ quy định pháp luật
của nước nơi cư trú của cha mẹ đẻ hoặc của cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đó.
Theo quy định pháp luật của một số nước về điều kiện xin con nuôi, chỉ những người
độc thân hoặc những cặp vợ chồng khác giới mới được xin con nuôi (xem thêm Điều
36 Nghị định số 68 ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Việt Nam), các trường hợp khác không được xon con
nuôi, ví dụ các cặp vợ chồng đồng giới. Như vậy, nước gốc của con nuôi có thể quy định các điều kiện
đối với công dân của nước mình hoặc công dân nước ngoài khi xin con nuôi tại nước mình.
Về vấn đề này, Điều 36 Nghị định số 68 ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Việt Nam có quy định các điều
kiện như sau đối với trẻ em cho làm con nuôi:
« Trẻ em chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của cả hai người là vợ chồng. Vợ
chồng phải là những người khác giới có quan hệ hôn nhân ».
Về mặt văn bản, Điều 36, Nghị định 68 quy định các điều kiện này đối với trẻ cho làm con nuôi. Nhưng,
như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể tự hỏi liệu đây có phải là điều kiện đối với trẻ cho làm con nuôi,
hay là điều kiện đặt ra đối với người xin con nuôi thì đúng hơn ? Theo tôi, khi xem xét quy định tại Điều
36, thẩm phán Québec sẽ xếp các điều kiện này vào nhóm điều kiện đối với người xin con nuôi. Như
vậy, về nguyên tắc, trước thẩm phán Québec, các điều kiện này sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp
luật Québec, tức pháp luật của nước nơi người xin con nuôi cư trú (pháp luật Québec dường như cũng
cho phép kết hôn giữa những người đồng giới) chứ không phải là pháp luật Việt Nam, tức pháp luật
của nước nơi con nuôi cư trú.

Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể bác lại quyết định tạm giao con nuôi cho người xin nhận con nuôi
nuôi giữ theo Điều 568 BLDS Québec hoặc quyết định công nhận quyết định cho nhận con nuôi của
nước ngoài theo Điều 574 BLDS Québec, với lý do rằng quyết định đồng ý cho con nuôi của cha mẹ đẻ
hoặc của cơ quan có thẩm quyền đã không được tuân thủ, bởi vì quyết định này thuộc phạm vi điều
chỉnh của pháp luật nước nơi cư trú của cha mẹ đẻ hoặc của cơ quan có thẩm quyền (Điều 3092 BLDS
Québec). Đồng thời, khó có thể nói rằng quyết định này đã được đưa ra một cách hợp thức vì lợi ích của
cặp vợ chồng đồng giới, khi điều này lại trái với quy định pháp luật của nước nơi cha mẹ đẻ cư trú.
Như vậy, dù quyết định đồng ý cho con nuôi đã được đưa ra trên thực tế thì vẫn phải
đảm bảo đây là quyết định hợp thức. Do đó, quyết định này sẽ không được coi là hợp
luật có liên quan chặt chẽ đến vấn đề đang được điều chỉnh. Đây là điều khiến cho quy định này bị nhiều người phản đối.
10
Vả lại, phương án của pháp luật Pháp cũng tương tự (Điều 370-3 khoản 1 BLDS Pháp, về nguyên tắc, công nhận pháp luật của
nước mà người xin nhận con nuôi mang quốc tịch).

thức theo pháp luật của nước nơi cha mẹ đẻ cư trú (pháp luật Việt Nam), trừ trường hợp pháp luật của
nước này có quy phạm thực chất áp dụng trong tư pháp quốc tế quy định rằng cha mẹ đẻ hoặc cơ
quan có thẩm quyền được phép ra quyết định đồng ý cho con nuôi cho người nước ngoài một cách hợp
thức theo các điều kiện khác với nuôi con nuôi trong nước.
Về vấn đề này, tôi xin lấy một vụ án đã được Tòa án Québec giải quyết làm ví dụ minh họa. Đó là Vụ án
Pháp luật về gia đình - 369611 liên quan đến việc người xin con nuôi vi phạm một điều kiện của pháp
luật nước nơi con nuôi cư trú. Cụ thể là, theo quy định của pháp luật Guinée, người xin con nuôi phải
hơn con nuôi ít nhất 15 tuổi. Tuy nhiên, trong vụ việc này, người xin con nuôi đã không đáp ứng được
tiêu chí đó. Điều này đã dẫn đến xung đột pháp luật giữa một bên là quy định về nghĩa vụ tuân thủ các
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp


quy phạm pháp luật về quyết định đồng ý cho con nuôi của cha mẹ đẻ và bên kia là quy định tại khoản
2 Điều 3092 BLDS Québec theo đó, pháp luật điều chỉnh điều kiện đối với người xin con nuôi là pháp luật
của nước nơi người đó cư trú, tức pháp luật Québec. Thẩm phán đã khẳng định rằng các điều kiện
đối với người xin con nuôi không nằm trong nhóm các điều kiện về quyết định đồng ý cho con nuôi

hay nhóm các điều kiện về trẻ cho làm con nuôi thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 574. Do vậy, nội
dung của quyết định đồng ý cho con nuôi chỉ liên quan đến các điều kiện đối với cha mẹ đẻ.
Phương án giải thích theo hướng hạn chế này cũng có lý. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể bác lại phương
án này với lý do đã nêu, đó là quyết định đồng ý cho con nuôi phải hợp thức (Điều 568 BLDS Québec)
hoặc các quy định về quyết định đồng ý cho con nuôi phải được đảm bảo tuân thủ (Điều 574 BLDS
Québec). Trong khi đó, pháp luật Guinée lại không cho phép người xin con nuôi làm điều này. Do vậy, có
thể thấy rằng, trong pháp luật Guinée, một người dường như không được phép đồng ý đối với một hành
vi mà pháp luật nhìn nhận là bất hợp pháp.
Tuy nhiên, khi dẫn chiếu cụ thể đến vi phạm này, bản án của Tòa án Guinée vẫn chấp nhận cho nhận
nuôi con nuôi. Quyết định của Tòa án Québec không đưa ra căn cứ của Tòa án nước ngoài trong việc
nhận nuôi con nuôi trái với quy định của nội luật. Có thể, Tòa án Guinée đã xây dựng hoặc sử dụng một
quy phạm thực chất riêng để áp dụng đối với vấn đề con nuôi có yếu tố nước ngoài. Dù sao, Tòa án
Québec cũng có căn cứ để xác định rằng các quy định về quyết định đồng ý cho con nuôi của pháp luật
nước nơi cha mẹ đẻ cư trú đã được đảm bảo tuân thủ (ở đây, các quy định này có nguồn gốc án lệ
hơn là quy định pháp luật). Chúng ta không thể chặt chẽ hơn Tòa án nước ngoài.

3. Luật áp dụng đối với hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
Vấn đề về tuân thủ quyết định đồng ý cho con nuôi của cha mẹ đẻ hay tính hợp thức của quyết định
đồng ý cho con nuôi không chỉ liên quan đến nội dung của quyết định này mà còn liên quan đến luật áp
dụng đối với hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi tại Québec cũng như hệ quả pháp lý của việc công
nhận quyết định cho nhận con nuôi của nước ngoài tại Québec. Lưu ý rằng theo quy định tại khoản 2
Điều 3092 BLDS Québec, hệ quả pháp lý của quyết định cho nhận con nuôi đăng ký tại Québec thuộc
phạm vi điều chỉnh của pháp luật nước nơi người xin con nuôi cư trú12.

11

[2000] R.D.F. 777 (Tòa án Québec, 14 tháng 6 năm 2000).
Pháp luật Pháp cũng có một quy định tương tự. Thực vậy, theo quy định tại Điều 370-4 BLDS Pháp, "hệ quả của việc nuôi
con nuôi đăng ký tại Pháp do pháp luật Pháp quy định". Về nguyên tắc, pháp luật Việt Nam cũng quy định tương tự. Điều 105
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định như sau: "Trong trường hợp việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực

hiện tại Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, việc chấm dứt nuôi con nuôi được xác định theo quy
định của Luật này".
12

Trong khi đó, pháp luật Québec lại quy định chế định "con nuôi đầy đủ" (Điều 577
BLDS Québec) theo đó việc nuôi con nuôi có hệ quả cắt đứt quan hệ giữa con nuôi với cha mẹ đẻ. Ngoài
ra, quy định này còn được bổ sung tại Điều 581 BLDS về quyết định cho nhận con nuôi của nước ngoài:
Điều 581.
Việc công nhận quyết định cho nhận con nuôi của Tòa án nước ngoài có hiệu lực như quyết định cho
nhận con nuôi của Tòa án Québec kể từ thời điểm Tòa án nước ngoài ra quyết định cho nhận con nuôi13.
Tuy nhiên, trong trường hợp cha mẹ nuôi cư trú ở Québec muốn nhận trẻ em cư trú ở nước ngoài làm
con nuôi thì câu hỏi đặt ra là khi cha mẹ đẻ đồng ý cho con nuôi, liệu họ có biết rằng chế định nuôi con
nuôi ở Québec có hệ quả cắt đứt vĩnh viễn quan hệ pháp lý giữa cha mẹ đẻ với con nuôi hay không? Về
điểm này, khó có thể biết chắc về nội dung quyết định đồng ý cho con nuôi: đồng ý xác lập quan hệ cha
mẹ - con cái giữa con nuôi và người nhận nuôi (nuôi con nuôi không đầy đủ) không mặc nhiên đồng
nghĩa với việc đồng ý cắt đứt quan hệ giữa cha mẹ đẻ với con nuôi (nuôi con nuôi đầy đủ). Nếu cha mẹ
đẻ đồng ý cho con nuôi nhưng không biết rằng theo quy định của pháp luật Québec, có hiệu lực áp dụng
tại Québec, việc nuôi con nuôi có hệ quả pháp lý khác với quy định của pháp luật nước nơi mình cư trú,
thì có thể kết luận rằng quyết định đồng ý cho con nuôi của cha mẹ đẻ đã không được đảm bảo tuân
thủ.
14

Chính vì vậy, trong bản án liên quan đến Bảo vệ trẻ em 898 , Tòa án Québec đã từ chối công nhận
quyết định cho nhận con nuôi theo chế định con nuôi không đầy đủ của Tòa án Bénin, khi pháp luật
Bénin cũng có quy định về chế định con nuôi đầy đủ. Căn cứ cụ thể của Tòa án Québec như sau:

Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp


« Công nhận việc nuôi con nuôi đăng ký ở nước ngoài theo hình thức con nuôi không đầy đù có hiệu

lực như việc nuôi con nuôi đăng ký tại Québec là trái với quyết định đồng ý cho con nuôi của cha mẹ đẻ
mà Tòa án Québec có nghĩa vụ đảm bảo việc tuân thủ quyết định đó » (Điều 574 và 3092 BLDS Québec)
Hơn nữa, nếu cha mẹ đẻ đồng ý cho con nuôi theo chế định con nuôi đầy đủ trong khi pháp luật nước
nơi họ cư trú chỉ cho phép chế định con nuôi không đầy đủ, thì quyết định đồng ý cho con nuôi này
cũng không được coi là hợp thức theo quy định pháp luật của nước đó.
Tuy nhiên, để đi đến giải pháp khác, chúng ta cũng có thể lập luận rằng nội dung của quyết định đồng ý
cho con nuôi không liên quan đến hệ quả của việc nuôi con nuôi. Thực chất, lập luận trên đây là lập luận
15
của Tòa án Québec trong vụ việc về Pháp luật về gia đình - 2954 . Thực vậy, thẩm phán Québec đã
công nhận quyết định cho nhận con nuôi của Tòa án Cameroun trong khi cha mẹ đẻ đã biết được hệ quả
của chế định nuôi con nuôi trong pháp luật Québec, với lý do sau:
[...] Khi được yêu cầu công nhận một quyết định cho nhận con nuôi, Tòa án thụ lý vụ việc không có
nghĩa vụ kiểm tra tính thống nhất trong pháp luật giữa hai nước về hệ quả của việc nuôi con nuôi, [...]
bởi vì, về vấn đề này, pháp luật Québec không quy định việc áp dụng kết hợp cả hai hệ thống pháp luật
có liên quan [...], mà chỉ ưu tiên áp dụng pháp luật của nước nơi người xin con nuôi cư trú.
nước ngoài thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, việc chấm dứt nuôi con nuôi được xác định theo pháp luật của
nước nơi thường trú của con nuôi".
13
Trái lại, pháp luật Pháp lại quy định rằng việc nuôi con nuôi đăng ký tại nước ngoài phát huy hiệu lực tại
Pháp giống như hiệu lực của việc nuôi con nuôi tại nước ngoài (Điều 370-5 BLDS Pháp).
14
[1997] R.J.Q. 1806 (Tòa án Québec, 4 tháng 4 năm 1997).
15
[1998] R.J.Q. 1317 ( Tòa án Québec, 24 tháng 2 năm 1998).

Nếu chế định nêu trong quyết định cho nhận con nuôi của nước ngoài là chế định con nuôi không đầy
đủ, thì việc cho phép chế định này có hiệu lực tại Québec như chế định con nuôi đầy đủ sẽ liên quan
đến hai nhóm đối tượng: Một là người xin con nuôi, thông qua việc xác lập quan hệ cha mẹ - con cái
giữa con nuôi và người nhận nuôi và hai là cha mẹ đẻ, bởi vì nuôi con nuôi sẽ có hệ quả cắt đứt quan hệ
cha mẹ - con cái giữa con nuôi và cha mẹ đẻ. Do vậy, chúng ta có thể lập luận ngược lại rằng theo quy

định tại các Điều 568 (hoặc 574) và 3092 BLDS Québec, cần phải kết hợp đồng thời các điều kiện về
tính hợp thức của quyết định đồng ý cho con nuôi cũng như quy định về quy chế nhân thân của người
nhận nuôi và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi của cả pháp luật nước nơi cư trú của cha mẹ đẻ
và người xin nhận con nuôi (Điều
3092 khoản 2 BLDS Québec). Tuy nhiên, lập luận này sẽ dẫn chúng ta trở lại với án lệ của Québec về áp
dụng kết hợp các luật áp dụng, trong đó Tòa án Québec đã từ chối quy định áp dụng theo kiểu này.
II.

NHẬN XÉT CHUNG VỀ AN LỆ CỦA QUEBEC VỀ NUÔI CON NUÔI

Như chúng ta đã thấy, án lệ Québec hiện nay không thống nhất về giới hạn chính xác của nghĩa vụ tuân
thủ quyết định đồng ý cho con nuôi của cha mẹ đẻ. Hoàn toàn dễ hiểu tại sao thẩm phán luôn chú trọng
đến việc bảo đảm tuân thủ quyết định đồng ý cho con nuôi của cha mẹ đẻ, ít nhất là về quyền lợi của
họ; bởi vì nghĩa vụ này của thẩm phán đã được quy định tại các Điều 568 và 574. Tuy nhiên, nhìn vào
thực tiễn án lệ, có thể thấy đa số các thẩm phán đều có xu hướng giải thích các quy định pháp luật của
Québec theo hướng có lợi cho việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Xu hướng này được thể hiện dưới
hai hình thức: hoặc thẩm phán giải thích thuật ngữ "pháp luật của nước nơi cư trú của con nuôi" theo
nghĩa rộng và coi đây là hệ thống pháp luật của nước nơi con nuôi cư trú, bao gồm cả tập quán và án
lệ; hoặc thẩm phán giới hạn nội dung của quyết định đồng ý cho con nuôi bằng cách loại trừ các điều
kiện nuôi con nuôi và hệ quả của việc nuôi con nuôi và viện dẫn quy định theo đó tính hợp thức của
quyết định này phải được xác định theo pháp luật Québec.
Có thể tránh được các vấn đề rắc rối nêu trên bằng nhiều cách:

1. Có cơ chế thông tin hiệu quả giữa các bên; biện pháp này rất khó thực hiện trên thực tế vì làm thế

nào để biết rằng quy định pháp luật của Québec đã được giải thích rõ ràng và chính xác ở nước
ngoài?

2. Thông qua điều ước quốc tế.
3. Làm rõ thêm các quy định của pháp luật Québec bằng cách giới hạn nghĩa vụ tuân thủ quyết định

đồng ý cho con nuôi của cha mẹ đẻ trong những nội dung thực sự liên quan trực tiếp đến vấn đề
này (bao gồm cả hệ quả của chế định nuôi con nuôi đầy đủ).

Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp


4. Công nhận quy phạm thực chất của pháp luật nước ngoài, ví dụ khoản 3 Điều
370-3 BLDS Pháp, nhưng loại trừ đi những vấn đề liên quan đến nội dung của quyết định đồng ý
cho con nuôi của pháp luật nước nơi cha mẹ đẻ cư trú; vấn đề
này sẽ được điều chỉnh theo pháp luật của Québec (trên cơ sở vẫn giữ nguyên các
điều kiện đối với quyết định đồng ý cho con nuôi).
Theo tôi, việc chỉ giới hạn nội dung của quyết định đồng ý cho con nuôi trong những vấn đề có liên quan
đến quyết định này chứ không phải các điều kiện đối với người xin nhận con nuôi là hoàn toàn phù hợp
và thực tế của đa số án lệ cũng đã chỉ ra điều đó. Bởi vì chế định con nuôi đầy đủ sẽ có hệ quả trước hết
đối với cha mẹ đẻ. Nhưng trong trường hợp cha mẹ đẻ sẵn sàng chấp nhận các hệ quả này thì có lẽ nên
ưu tiên áp dụng quan điểm về nuôi con nuôi của Québec hơn là quan điểm của pháp luật nước ngoài
nhằm bảo đảm công bằng giữa các trẻ em được nhận nuôi tại Québec: như vậy sẽ phù hợp với lợi ích
của trẻ em.
Tuy nhiên, cũng không đảm bảo được rằng phương án này sẽ hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Công
ước La-Hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác quốc tế về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, ký ngày 29
tháng 5 năm 1993. Bởi vì theo Công ước này, các cơ quan có thẩm quyền của nước gốc có vai trò quyết
định trong việc xác định trẻ em có đủ "tiêu chuẩn để được nhận làm con nuôi" hay không. Ngoài ra,
cũng không thể biết chắc những người xin nhận con nuôi ở Québec có thực sự muốn áp dụng phương án
này hay không.
III.

NHỮNG SỬA DỔI, BỔ SUNG MỚI DAY PHAP LUẬT CỦA
NUOI CON NUOI: BƯỚC PHAT TRIỂN TỤT LUI?

QUEBEC VỀ VẤN DỀ


Đạo luật ngày 22 tháng 4 năm 2004 (Luật hướng dẫn thi hành Công ước về bảo vệ trẻ em và hợp tác
quốc tế về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, L.Q. 2004, Chương 3) đề xuất phương án giải thích
khoản 1 Điều 568 BLDS Québec như sau:
« Trước khi ra quyết định tạm giao con nuôi cho người xin nhận con nuôi, Tòa án phải đảm bảo rằng
người xin nhận con nuôi đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện nuôi con nuôi và đặc biệt là quyết định đồng ý
cho con nuôi đã được đưa ra một cách hợp thức nhằm cho con nuôi theo chế định cắt đứt quan hệ cha
mẹ - con cái giữa con nuôi và gia đình gốc.»
Điều 574 cũng sẽ được sửa đổi theo hướng tương tự, bởi vì Điều này sẽ được giải thích như sau:
« Trong trường hợp được yêu cầu công nhận quyết định cho nhận con nuôi của một Tòa án khác ngoài
lãnh thổ Québec, Tòa án Québec phải đảm bảo rằng các quy định về quyết định đồng ý cho con nuôi
cũng như các điều kiện để trẻ được nhận làm con nuôi đã được tuân thủ và quyết định đồng ý cho con
nuôi được đưa ra nhằm cho con nuôi theo chế định cắt đứt quan hệ cha mẹ - con cái giữa con nuôi và
gia đình gốc. »
Như vậy, hai quy định trên đã được sửa đổi theo hướng bổ sung điều kiện đối với quyết định đồng ý
cho con nuôi của cha mẹ đẻ. Cụ thể, cha mẹ đẻ sẽ phải chấp nhận trên thực tế việc cho con nuôi theo
chế định con nuôi đầy đủ quy định trong pháp luật của Québec. Do đó, nếu trước đây, hệ quả của việc
nuôi con nuôi liên quan đến cha mẹ đẻ được xác định theo pháp luật của nước nơi người xin con nuôi
cư trú (khoản 2
Điều 3092) thì hiện nay, vấn đề này đã được đưa vào nội dung của quyết định đồng ý cho con nuôi, có
nghĩa là áp dụng pháp luật của nước nơi cư trú của trẻ. Tuy nhiên, do
quyết định đồng ý cho con nuôi thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật của nước nơi
cư trú của con nuôi (khoản 1 Điều 3092), nên cần kiểm tra xem pháp luật này có cho phép chế định con
nuôi đầy đủ hay không. Nếu pháp luật này không cho phép thì dù quyết định đồng ý cho con nuôi đã
được đưa ra một cách thực chất thì vẫn chưa đủ: quyết định đồng ý cho con nuôi còn phải tuân thủ pháp
luật của nước nơi con nuôi cư trú. Nếu pháp luật của nước nơi con nuôi cư trú cũng không cho phép nuôi
con nuôi theo chế định con nuôi đầy đủ thì sẽ việc nuôi con nuôi đó không được công nhận tại Québec
và bản án, quyết định cho nhận con nuôi của Tòa án nước ngoài cũng không được công nhận theo Điều
574.
Như vậy, pháp luật về nuôi con nuôi của Québec đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng chấp nhận quan

điểm thiểu số hiện nay trong án lệ. Tuy nhiên, việc đưa quan điểm thiểu số nêu trên vào luật không có
nghĩa là loại bỏ hoàn toàn quan điểm của đa số trong án lệ. Theo quan điểm của đa số này, điều kiện đối
với người xin con nuôi không thuộc nhóm các điều kiện liên quan đến quyết định đồng ý cho con nuôi;
quyết định này phải đảm bảo tính hợp thức theo quy định pháp luật của nước nơi con nuôi cư trú. Tóm
lại, hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều về việc xác định luật áp dụng đối với các vấn đề nêu trên.
Xét trên quan điểm của nước xin con nuôi, những sửa, đổi bổ sung nêu trên sẽ gây hạn chế ở mức độ
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp


nhất định đối với việc xin con nuôi là người nước ngoài, nên có thể sẽ gặp phải sự phản đối của hiệp hội
cha mẹ nuôi. Nhưng xét trên quan điểm của nước cho con nuôi, những sửa đổi, bổ sung đó đã đưa ra
thêm những điều kiện ràng buộc liên quan đến quyết định đồng ý cho con nuôi, một điều kiện trực tiếp
liên quan đến cha mẹ nuôi, nên chúng ta có thể hiểu tại sao nước gốc của con nuôi lại nhìn nhận sửa đổi
này như một sự phát triển hợp lý.
KẾT LUẬN
Trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, quả là rất khó có thể đáp ứng được yêu cầu của tất cả
các bên có liên quan, đặc biệt là rất khó để khẳng định chắc chắn rằng quan điểm nào bảo vệ được tốt
hơn lợi ích cao nhất của trẻ em. Chúng ta hoàn toàn có thể đặt câu hỏi, và thực tế câu hỏi này đã được
đặt ra, đó là liệu có thể chấp nhận quan điểm cho rằng nên xem xét lợi ích cao nhất của trẻ em trong
từng trường hợp cụ thể, vì đối với lĩnh vực nhạy cảm này, mỗi quy định chung có thể kéo theo các hệ
quả khác nhau trong từng trường hợp cụ thể. Trong pháp luật Québec, điều khoản ngoại lệ quy định tại
Điều 3082 BLDS có thể là cần thiết. Tuy nhiên, do không dự liệu hết được các trường hợp có thể xảy ra,
cùng với nguy cơ có thể bị giải thích tùy tiện, nên quy định này sẽ không tạo điều kiện cho sự phát triển
của hoạt động nuôi con nuôi.
Có lẽ, phương án hay nhất, đó là không chỉ dừng lại ở những quy phạm xung đột chung, cứng nhắc, ít
phù hợp với từng trường hợp cụ thể, mà nên đưa ra một tập hợp các quy phạm xung đột chi tiết trong đó
nêu rõ tiêu chí để xác định luật áp dụng đối với từng nội dung cụ thể, kèm theo phương án giải quyết
xung đột đó. Đây chính là con đường mà pháp luật Pháp, sau một thời gian nghiên cứu, đã lựa chọn.
Pháp luật Việt Nam dường như cũng đi theo hướng này (ví dụ, pháp luật Việt Nam nêu rõ các điều kiện
nuôi con nuôi đối với những người cư trú tại khu vực biên giới hoặc người không quốc tịch).


Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp



×