Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Sáng Kiến Kinh Nghiệm về công tác chủ nhiệm lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.76 KB, 25 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bước sang thế kỷ XXI, giáo dục và đào tạo nước ta đứng trước những
thử thách lớn, đó là xu hướng toàn cầu hóa ngày càng phát triển. Cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 phát triển như vũ bão. Kinh tế tri thức giữ vai trò đặc
biệt quan trọng trong sự phát triển đất nước. Tất cả những điều trên đòi hỏi
giáo dục phải thay đổi, chuyển mình để hướng tới xây dựng một nền giáo dục
cho tất cả mọi người, đó là nền giáo dục mang tính đại chúng, nhân văn, hi ện
đại.
Đặc biệt Hội nghị Trung ương 8, khóa XI đã ban hành Nghị quyết số
29- NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về: “Đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”
nhằm “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất
tiềm năng của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, hết lòng phục v ụ nhân
dân và đất nước; có hiểu biết và kỹ năng cơ bản, khả năng sáng tạo để làm
chủ bản thân, sống tốt và làm việc hiệu quả.” Mà trong hệ thống giáo d ục
quốc dân thì Tiểu học được xác định là bậc học nền tảng, sự hình thành và
phát triển của bậc học này là cơ sở, điều kiện phát tri ển các b ậc h ọc ti ếp
theo. Mục tiêu của bậc học này “Nhằm giúp cho học sinh hình thành những cơ
sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”.
(Điều 27, Luật Giáo dục)
Với mục tiêu như vậy có thể nói đây là bậc học đầu tiên có nhiệm vụ
phải xây dựng toàn bộ nền móng cho hệ thống giáo dục ph ổ thông, đ ặt c ơ s ở
vững chắc cho sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam xã hội ch ủ
nghĩa. Vì thế để giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện thì tr ường
học là nơi quan trọng nhất vì ở đó các em được đón nhận sự quan tâm dạy
bảo của các thầy cô giáo, sự giúp đỡ tận tình của bạn bè, được sống trong tập
thể lớp, được rèn luyện, được tham gia vào các hoạt động tập th ể bổ ích, phù
hợp với lứa tuổi để các em có điều kiện phát triển trí tuệ và năng khiếu của
1




bản thân. Có thể khẳng định trường học là vườn ươm cho nh ững tài năng
tương lai của đất nước.
Muốn có thế hệ học sinh (HS) có đủ đức, trí, thể, mỹ thì giáo viên (GV)
tiểu học phải là những “Ông thầy tổng thể”, bên cạnh việc giúp các em trau
dồi tri thức còn dạy các em cách làm người. Ngoài vai trò, nhiệm vụ như
những GV khác, giáo viên chủ nhiệm (GVCN) ở tiểu học còn mang sứ m ệnh
cao cả đó là sứ mệnh hình thành, nuôi dưỡng, chăm lo và phát tri ển nhân cách
HS. Có thể coi GVCN ở tiểu học là người lĩnh xướng của dàn nhạc để hoàn
thành bản giao hưởng, hình thành toàn vẹn nhân cách cho nh ững m ầm non
tương lai của đất nước. Công tác chủ nhiệm ở trường tiểu học đóng một vai
trò then chốt mà GVCN giống như một nhạc trưởng hay một vị tướng tài ba.
Họ là “linh hồn” của lớp học, là người quyết định mọi sự phát triển và tiến
bộ của lớp. Do đặc điểm lứa tuổi nên HS tiểu học thường đặt niềm tin tuyệt
đối nơi GVCN. Vì vậy ngoài việc dạy học, GVCN còn phải làm sao cho
trường, lớp thực sự là gia đình thứ hai, tạo điểm tựa, niềm tin, dẫn dắt mỗi
HS trong thời gian các em học tập tại trường và định h ướng đúng đ ắn cho các
em học lên bậc học cao hơn. Đội ngũ GVCN là một lực lượng hỗ trợ đắc lực
trong vai trò làm cầu nối giữa ba môi trường giáo dục gia đình, nhà tr ường và
xã hội.
Để công tác chủ nhiệm đạt hiệu quả cao thì GVCN phải là người tâm
huyết, yêu nghề, mến trẻ, thường xuyên trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ cũng
như kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp. Mỗi GVCN không những chỉ
vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm, tinh tường trong việc
nắm bắt tâm lý HS và khéo léo trong xử lý tình huống sư phạm mà còn phải
biết tổ chức, hướng dẫn cho tập thể lớp hoạt động; biết phát huy năng l ực t ự
quản của HS thông qua việc xây dựng “Hội đồng tự quản” do chính các em
đảm nhiệm. Vậy làm thế nào để hoàn thành nhiệm vụ này? Đó là một câu hỏi
khó không phải GVCN nào cũng tìm được câu trả lời. Thấy rõ vấn đề này,

nhiều GVCN luôn coi trọng cả hai lĩnh vực dạy chữ và dạy người trong công

2


tác giáo dục. Bên cạnh việc trang bị kiến thức cho HS họ còn luôn coi trọng
giáo dục đạo đức, kĩ năng sống cho các em.
Tuy vậy còn một số ít GVCN chưa nhận thức đầy đ ủ v ị trí, vai trò c ủa
công tác chủ nhiệm lớp, chưa có sự quan tâm thỏa đáng đ ến vấn đ ề này. Các
đồng chí ấy chỉ quan tâm đến việc dạy học mà chưa chú ý đ ến vi ệc hình
thành nề nếp, phẩm chất đạo đức và rèn kỹ năng sống cho các em. Vì v ậy mà
lớp chưa thực sự đoàn kết, hoạt động tự quản còn mờ nhạt. V ậy đ ể m ột l ớp
có nề nếp tự quản tốt, các em biết yêu thương, biết giao tiếp, ứng xử, biết
vượt khó vươn lên đạt thành tích cao trong học tập và rèn luyện thì th ầy cô
phải làm gì? Làm như thế nào cho có hiệu quả? Điều này thôi thúc tôi trăn trở,
tìm giải pháp thực hiện công tác chủ nhiệm lớp, bước đầu áp dụng đã có hiệu
quả rõ rệt. Chính vì vậy mà tôi mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm: “ Một
số biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục ở lớp 4B trường Tiểu học Bản Nguyên 1 ” với hy vọng góp một
phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.

3


II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng của vấn đề:
Công tác chủ nhiệm lớp và xây dựng đội ngũ GVCN thạo việc, tận tâm
là một nhiệm vụ trọng tâm trong kế hoạch phát triển giáo dục của mỗi nhà
trường. Làm tốt công tác chủ nhiệm lớp sẽ góp phần nâng cao chất l ượng
giáo dục, tạo niềm tin đối với cha mẹ học sinh (CMHS) và xã h ội. Trong giai

đoạn hiện nay, công tác chủ nhiệm lớp ngày càng đòi hỏi sự dày công c ủa
người GVCN. Bởi trong một xã hội đang phát triển, mặt trái của kinh t ế th ị
trường có tác động đến việc hình thành nhân cách của HS mà tr ẻ em ở l ứa
tuổi tiểu học ý thức tổ chức kỉ luật, các kĩ năng hoạt động còn h ạn ch ế. Bên
cạnh đó, do công việc bộn bề nên không ít CMHS đã giao phó việc giáo dục
con cái cho thầy cô và nhà trường. Vì vậy, thầy cô giáo ch ủ nhiệm gi ống nh ư
người cha, người mẹ thứ hai của các em. Chính vì thế mà công tác chủ nhi ệm
lớp đòi hỏi ở các thầy, cô phải có nhiều kinh nghiệm và sự hy sinh cao cả.
Trong quá trình công tác ở trường, tôi nhận thấy Ban giám hiệu rất quan
tâm đến công tác chủ nhiệm lớp, coi đó là nhân tố quan trọng góp phần quy ết
định chất lượng giáo dục toàn diện. Khi chọn người cho vị trí quan tr ọng này,
lãnh đạo nhà trường luôn cân nhắc, tính toán rất kỹ xem trình độ, năng lực của
giáo viên ấy còn thiếu mặt nào để bồi dưỡng trước khi phân công.
Phần lớn GV có tinh thần trách nhiệm cao, gắn bó với lớp, có trình độ
chuyên môn, tay nghề vững vàng, nhiệt tình giảng dạy. Nhiều năm, trường có
GV và HS đạt giáo viên giỏi, học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh. Nhiều đồng
chí GV dày dạn kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp, thuần thục các
công việc của GVCN từ việc điều tra cơ bản tình hình lớp mình chủ nhiệm,

4


chăm lo HS, công tác xã hội hóa giáo dục đến việc xây dựng mối quan hệ, phối
hợp với CMHS và các lực lượng giáo dục để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Đa số CMHS quan tâm đến việc học tập của con em mình. Chẳng
những họ mua sắm đầy đủ đồ dùng học tập, quan tâm đến việc học c ủa con
em mình mà còn biết hướng dẫn con tự học ở nhà, chú trọng đến các ho ạt
động giáo dục của GVCN.
Hầu hết HS lớp 4B do tôi làm chủ nhiệm đều ngoan ngoãn, đoàn kết,
thương yêu nhau. Phần lớn các em có khả năng tiếp thu khá. Một số em rất

thích tham gia các hoạt động tập thể.
Song bên cạnh đó còn có một số hạn chế nhất định về phía giáo viên, học
sinh và các lực lượng giáo dục.
- Còn một số đồng chí GV đôi lúc chưa thấy hết vai trò quan trọng của
công tác chủ nhiệm lớp. Vì vậy chỉ đầu tư nhiều cho công tác chuyên môn,
chưa thật sự chú ý đến các nội dung của công tác chủ nhiệm lớp, chỉ tập trung
hoạt động mạnh khi phát động thi đua.
- Hơn nữa lớp chủ nhiệm của tôi còn có một số em gặp khó khăn trong
học tập và rèn luyện. Các em có những hạn chế về năng lực tự phục vụ, tự
quản, ý thức tự giác hoàn thành nhiệm vụ, chấp hành nội quy trường, lớp chưa
cao. Một vài em kĩ năng sống, kĩ năng lắng nghe tích cực hạn chế, ch ưa t ự tin
trong giao tiếp, ngại tiếp xúc với người lạ. Một bộ phận HS chưa hứng thú
khi tham gia các hoạt động, các phong trào của lớp, của trường. Hội đồng tự
quản của lớp chưa hiểu hết quyền và trách nhiệm của mình. Do v ậy ch ưa
phát huy hết vai trò, quyền làm chủ trong trong các ho ạt đ ộng c ủa l ớp. Kĩ
năng lãnh đạo, kĩ năng tham gia, hợp tác trong các hoạt động của các Ban chưa
nhịp nhàng.
- Bên cạnh đó, một số gia đình dù nhận thấy việc h ọc vô cùng quan tr ọng
với tương lai của con em mình nhưng do tác động của sự thay đ ổi kinh t ế, nhi ều
gia đình bố mẹ đều đi làm ăn xa, con cái để lại cho ông bà trông nên ít có đi ều
kiện quan tâm đến các em. Cá biệt có gia đình nhận thức chưa đầy đủ do đó đã
phó mặc việc giáo dục con em mình cho nhà trường và GVCN . Và nhất là đôi
5


khi sự phối kết hợp giữa CMHS, các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường với
GVCN chưa kịp thời.
Xuất phát từ thực tế trên lại trải qua nhiều năm làm công tác chủ
nhiệm, tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp để làm tốt công tác chủ
nhiệm ở lớp 4B, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.

2. Các biện pháp giải quyết vấn đề:
*Biện pháp thứ nhất: Tìm hiểu, phân loại học sinh.
Với tôi việc tìm hiểu, phân loại HS là rất quan trọng vì công tác chủ
nhiệm được triển khai bắt đầu từ việc tìm hiểu và nhận diện được nhu cầu và
phong cách học tập của học sinh. Các thông tin đầy đủ về nhu cầu, kỳ vọng và
phong cách học tập của học sinh sẽ giúp tôi phác họa được kế hoạch tổ ch ức
triển khai và quản lí hiệu quả việc học tập và rèn luyện của học sinh, thúc đẩy
các quá trình tìm kiếm cơ hội hỗ trợ cho các em trong suốt quá học tập và rèn
luyện.
Do vậy ngay từ khi mới nhận lớp, tôi đã nhanh chóng thông qua lãnh
đạo trường; GVCN cũ và các giáo viên bộ môn, đến thăm gia đình HS, trò
chuyện, tâm sự với các em để nắm bắt hoàn cảnh gia đình, tính cách, những
hành vi đạo đức, đặc điểm tâm sinh lí, khả năng nhận thức, năng lực tư duy
của học sinh.
Qua tìm hiểu, nắm bắt thông tin tôi thu được kết quả như sau:
Về hoàn cảnh gia đình có 7 gia đình thu nhập khá, 15 gia đình thu nhập
trung bình, 3 hộ cận nghèo và 2 hộ nghèo. Trong đó 2 em có hoàn c ảnh gia
đình đặc biệt: 1 em cha mẹ li hôn, không có nhà ở, phải sống với ông bà ngoại
vì mẹ đi làm ăn ở nước ngoài, 1 em bố vi phạm pháp luật.
Về học tập có 4 em năng lực tiếp thu khá, 15 em năng l ực ti ếp thu trung
bình và 8 em còn gặp khó khăn trong học tập và rèn luyện.
Với những HS có hoàn cảnh đặc biệt, tôi cho lớp cùng bàn bạc, đưa ra
biện pháp giúp đỡ như luôn quan tâm, chia sẻ, động viên các em. Tôi dành thời
gian tìm đọc các tài liệu viết về “mô hình tảng băng của cấu trúc năng lực”.
Nghiên cứu đã giúp tôi có những nhận xét, đánh giá đúng về năng lực của m ỗi
6


em. Do đó, với những HS gặp khó khăn trong học t ập, kh ả năng t ập trung chú
ý chưa cao, tôi bố trí cho các em ngồi ở phía trên gần bàn c ủa GV nh ằm phát

hiện, tư vấn, giúp đỡ kịp thời những khó khăn mà các em g ặp ph ải. Công
nghệ thông tin đã giúp tôi tiếp cận với việc ứng dụng “Thuy ết đa trí tu ệ” c ủa
Howard Gardner vào giáo dục những học sinh gặp khó khăn trong cả học tập
cũng như phát triển năng lực, phẩm chất. Đây là cách tiếp cận mới trong
phương pháp dạy học sinh tiểu học theo định hướng đổi mới chương trình
giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trước tiên, tôi coi trọng sự đa dạng về
trí tuệ ở mỗi học sinh vì mỗi loại trí tuệ đều quan tr ọng và m ỗi em đ ều có ít
nhiều khả năng theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Qua quan sát, tìm hiểu,
chơi cùng các em, tôi xác định được dạng thông minh của t ừng h ọc sinh. Nh ờ
đó mà tôi đã chọn lựa phương pháp giáo dục sao phù hợp nhất với bản thân
từng em. Đặc biệt, trong mỗi tiết học, tôi đã linh ho ạt thay đ ổi ph ương pháp
và tăng cường áp dụng các kĩ thuật dạy học tích cực mà Phòng Giáo dục và
Đào tạo huyện Lâm Thao triển khai như: KWL, bản đồ tư duy, nhóm mảnh
ghép,… Đồng thời tôi còn nâng cao kĩ năng sử dụng tài li ệu, thi ết b ị d ạy h ọc
đa dạng hơn, phong phú hơn nhằm tạo ra môi tr ường h ọc t ập hi ệu qu ả và
hướng đến những học sinh cụ thể, giúp phát huy tối đa tiềm năng của mỗi em
theo khả năng của mình.
Việc hiểu rõ hoàn cảnh gia đình, tính cách, những hành vi đạo đức, kh ả
năng nhận thức, năng lực của HS lớp mình phụ trách giúp tôi có cơ sở để xây
dựng kế hoạch chủ nhiệm phù hợp với tình hình của lớp, có các biện pháp giáo
dục thích hợp với từng đối tượng HS, tránh được sự ngộ nhận, sai lầm, khiên
cưỡng trong quá trình giáo dục. Hơn nữa việc nắm chắc hoàn cảnh, năng lực,
sở trường, hạn chế của từng em đã phát huy những mặt mạnh và hạn chế
những điểm yếu, tạo sự chuyển biến tích cực trong HS, giúp các em có
hướng phấn đấu, vươn lên. Đặc biệt nhờ sự thường xuyên gần gũi chuyện trò
của tôi nên các em không còn nhút nhát mà rất tự tin, cởi mở, lịch sự trong giao
tiếp.

7



*Biện pháp thứ hai: Xây dựng tổ chức lớp theo mô hình trường tiểu
học mới VNEN.
Để nâng cao chất lượng giáo dục, theo tôi việc xây dựng n ề n ếp l ớp là
“rường cột” của vấn đề vì một lớp có nề nếp thì HS có m ột môi tr ường giáo
dục tốt để học tập và rèn luyện, các hoạt động giáo dục sẽ có hiệu quả.
Tuy nhiên để xây dựng một lớp học có nề nếp tốt, công việc quan trọng
hàng đầu là xây dựng đội ngũ tự quản. Bởi nếu đội ngũ tự quản có năng l ực
lãnh đạo tốt thì việc xây dựng nề nếp lớp sẽ rất thuận lợi. Đ ặc bi ệt n ếu bi ết
phát huy vai trò tự quản của từng HS, của từng Ban thì mọi hoạt động của lớp
sẽ tốt hơn. Cho nên ngay từ đầu năm học, để giảm bớt sức lực cho công tác chủ
nhiệm, tôi đã dành thời gian tìm hiểu năng lực lãnh đạo của HS, tiến tới xây
dựng tiêu chí đội ngũ tự quản phải có ý thức trách nhiệm, năng động, nhiệt tình.
Đồng thời các em cũng phải là người “nói được, làm được”. Để có hội đồng tự
quản thạo việc, tận tâm, tôi định hướng để các em ứng cử, lựa chọn, bình bầu
lãnh đạo Hội đồng tự quản. Lãnh đạo Hội đồng tự quản được bầu do sự tín
nhiệm của tập thể lớp, nhưng dù thế nào tôi vẫn khéo léo để là người có ý kiến
quyết định cuối cùng. Sau đó, tôi cho các em tự đăng kí vào các Ban, bầu các
Trưởng Ban luân phiên. Tôi khích lệ, động viên để HS tự xung phong nhận trách
nhiệm nhằm làm cho mỗi thành viên đều có ý thức xây dựng tập thể lớp vững
mạnh.
Tiếp theo, tôi lập kế hoạch bồi dưỡng năng lực tự quản và thường xuyên
kiểm tra hoạt động của Hội đồng tự quản . Chẳng hạn, với Ban học tập tôi
hướng dẫn các em xây dựng nề nếp học tập, thành lập “Đôi bạn cùng tiến”, chia
sẻ kinh nghiệm học tập. Hay với Ban đối ngoại, tôi hướng dẫn các em một số kĩ
năng giao tiếp, ứng xử. Tôi mạnh dạn áp dụng những điều đã tiếp thu được
trong chương trình Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên Tiểu học để xây dựng tập
thể HS thành một tập thể tự giáo dục. Đó là một tập thể có mục đích chung, có
hoạt động chung, có kỉ luật tự giác và có dư luận tập thể lành mạnh.


8


Công việc này đòi hỏi rất nhiều đến trí tuệ, nghệ thuật của giáo viên.
Vì vậy, tôi không nóng vội mà kiên trì, tôn trọng, khuyến khích những k ết qu ả
mà HS đã đạt được dù là nhỏ nhất.
Những việc làm trên đã thu được hiệu quả rõ rệt. 100% học sinh trong
lớp luôn có đủ sách vở, đồ dùng học tập. Các em có nề nếp tốt, thực hi ện đầy
đủ nội quy của lớp, của trường, lễ phép với các thầy cô và người trên, giao
tiếp tự tin, đoàn kết với bạn bè. Các em biết phân công nhiệm vụ trong nhóm
rất rõ ràng, mỗi HS đều bình đẳng trong các hoạt động của nhóm. Từ đó các
em nắm được quyền và trách nhiệm đối với tập thể. Các kĩ năng lãnh đạo, kĩ
năng hợp tác của học sinh được hình thành và phát triển. Hơn nữa em nào cũng
tích cực, hứng thú học tập, học bài làm bài đầy đủ, có thói quen rèn chữ giữ vở
sạch đẹp. Đặc biệt nhờ có môi trường tốt để học tập và rèn luyện nên ý thức
tự giác, kỷ luật của HS được hình thành trong hoạt động học tập và các hoạt
động khác còn tôi có nhiều thời gian hơn cho công tác soạn giảng, nhờ đó kết
quả giáo dục được cải thiện, nâng cao.
*Biện pháp thứ ba: Làm tốt công tác đánh giá kết quả giáo dục.
Đánh giá kết quả giáo dục là một trong những nội dung l ớn và h ết s ức
quan trọng trong công tác chủ nhiệm lớp. Bởi lẽ nó không chỉ phản ánh hiệu
quả, chất lượng giáo dục mà còn phản ánh nội dung, phương pháp giáo dục
nói chung và của GVCN nói riêng.
Hơn nữa, việc đánh giá đúng là động lực giúp HS nỗ lực phấn đ ấu, phát
huy ưu điểm, khích lệ, động viên các em vươn lên, mang lại hiệu qu ả giáo
dục.
Do đó để làm tốt công việc này ngoài việc nắm chắc các văn bản
hướng dẫn về đánh giá của Bộ Giáo dục & Đào tạo tôi còn r ất quan tâm đ ến
khía cạnh đánh giá HS đảm bảo tính toàn diện, tính phát tri ển và tính giáo d ục
sâu sắc, đảm bảo cho các em được tham gia vào quá trình tự nhận xét.

Việc đánh giá học sinh theo Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT bổ sung một
số điều của Quy định đánh giá học sinh tiểu học ban hành kèm theo Thông tư
9


30/2014/TT-BGDĐT đã giúp tôi hoàn thiện hơn về cách đánh giá mọi hoạt
động của các em. Nó còn giúp tôi thực sự là ng ười sưởi ấm tâm h ồn, xây
dựng lòng tin vào tiềm năng, sức mạnh bản thân của HS, phát huy sở trường
của từng em. Ngoài ra cách đánh giá này rất thiết thực trong việc giúp HS ch ủ
động, tự tin thực hiện nhiệm vụ học tập. Bên cạnh đó, tôi còn b ồi d ưỡng cho
các em kỹ năng nhận xét để các em vừa biết tự nhận xét mình, vừa bi ết nh ận
xét bạn, giúp nhau cùng tiến bộ. Nhờ làm tốt việc bồi dưỡng kỹ năng nh ận
xét nên HS lớp tôi biết tự nhận xét, tham gia nhận xét, góp ý bạn ngay trong
các hoạt động và cả sau khi thực hiện từng hoạt động, từng nhiệm vụ giáo
dục rồi báo cáo kết quả với GV, các em còn biết thảo luận, hướng dẫn, giúp
đỡ bạn hoàn thành nhiệm vụ.
Khi đánh giá HS, tôi tập trung vào đánh giá mức độ đạt chuẩn kiến
thức, kĩ năng và một số biểu hiện năng lực, phẩm chất theo mục tiêu giáo dục
tiểu học. Đánh giá lòng nhân ái, vị tha, tinh thần hướng thiện, đoàn kết, giúp
đỡ bạn bè, kính trọng người lớn, bảo vệ của công, bảo vệ môi trường, ý th ức
cộng đồng và hợp tác. Đánh giá tinh thần tự giác, tích cực học tập, tinh thần
trách nhiệm với công việc, trong đó tôi coi trọng sự ti ến b ộ c ủa HS, không so
sánh học sinh này với HS khác, không tạo áp lực cho học sinh và cha m ẹ h ọc
sinh. Đặc biệt khi nhận xét học sinh, tôi luôn nhắc mình ph ải tuân th ủ nghiêm
ngặt nguyên tắc khen trong mọi trường hợp, nếu phải “chê” thì “chê” tế nhị
và gắn động viên. Tôi luôn kiểm soát cảm xúc và cảm tính ch ủ quan c ủa b ản
thân khi nhận xét, không sử dụng các từ có nguy cơ gây mất niềm tin hay làm cho
học sinh tiêu cực. Khi tôi khen thì khen trực tiếp HS còn khi góp ý thì t ập trung
vào hành vi của các em chứ không tập trung vào con người. Tôi luôn suy nghĩ,
tìm lời nhận xét mô phạm, chuẩn mực, chất chứa tình cảm, sự tin yêu đ ối v ới

học sinh.
Chẳng hạn, khi đánh giá môn học và hoạt động giáo dục c ủa HS, tôi căn
cứ theo chuẩn kiến thức, kĩ năng từng môn học, quan sát qua các hoạt động
học tập của các em. Do năng lực của học sinh trong lớp không đồng đều nên
tôi chấp nhận sự khác nhau về thời gian, mức độ hoàn thành nhiệm vụ rồi ghi
10


vào sổ nhật ký các biểu hiện mà các em đạt được làm cơ sở để ghi nhận xét
từng học sinh. Đối với việc đánh giá sự hình thành, phát triển các năng l ực
của học sinh, tôi căn cứ vào các biểu hiện như năng lực tự phục vụ, tự quản;
hợp tác; tự học và tự giải quyết vấn đề. Còn đ ối với việc đánh giá sự hình
thành, phát triển các phẩm chất của các em, tôi căn cứ vào các biểu hi ện là
chăm học, chăm làm; tự tin, trách nhiệm; trung thực, kỉ luật; đoàn k ết, yêu
thương. Ngoài quan sát, theo dõi các hoạt động của HS, trao đổi với GV bộ
môn và CMHS, tôi còn đặc biệt quan tâm tích hợp việc học tập và làm theo
tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, các kĩ năng sống đ ể nh ận xét,
đánh giá các em. Hơn nữa tôi còn quan tâm đến tiến độ hoàn thành từng
nhiệm vụ của học sinh để áp dụng biện pháp cụ thể kịp thời, đúng đối tượng,
nhằm giúp đỡ các em vượt qua khó khăn.
Việc làm này đem lại hiệu quả vô cùng to lớn, giúp tôi khơi dậy những
cảm xúc tự nhiên, sự tự tin vào tiềm năng bản thân các em qua lời nhận xét.
Tôi đã kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ để động viên, khích lệ HS
và phát hiện những khó khăn chưa thể vượt qua, có giải pháp đ ể h ướng d ẫn,
giúp đỡ các em kịp thời. Đồng thời HS còn biết cùng nhau thi đua khắc phục
khó khăn, phấn đấu vươn lên học tập và rèn luyện tốt.
*Biện pháp thứ tư: Luôn nêu gương để học sinh noi theo.
Khoa học giáo dục đã chứng minh, các em HS trong quá trình hình thành
nhân cách luôn chịu tác động bởi 3 yếu tố Gia đình - Nhà trường - Xã hội. Nếu
ở gia đình, cha mẹ là người lấy chính tấm lòng lương thiện, chất phác của mình

làm tấm gương dạy con đạo làm người, làm việc phải có đạo lí. Thì ở trường,
GVCN bằng chính nhân cách của mình là tấm gương tác động tích cực đến việc
hình thành các phẩm chất, nhân cách cho các em.
Do đặc điểm tâm sinh lý, l ứa tu ổi ti ểu h ọc các em h ọc sinh r ất hay
“bắt chước”, “thần tượng hóa”, nhất là các em ở đầu cấp học. Có lúc cha mẹ
nói các em không nghe mà chỉ nhất nhất làm theo thầy cô giáo.
Để nêu gương cho HS, trước hết tôi tạo cho mình chữ “Uy”. Chữ “Uy” ở
đây là uy tín, là lòng kính trọng, tin yêu, là sự khâm phục, ngưỡng mộ của trò
11


đối với thầy. Thầy có “Uy” thì thầy khuyên, thầy dạy trò mới vâng theo. Tôi
tạo uy tín với HS từ những việc làm nhỏ nhất, đó là lời nói, hành động, là trang
phục, tư thế tác phong, cách cư xử mẫu mực và sự hấp dẫn trong từng tiết
học. Bên cạnh chữ “Uy”, tôi còn tạo cho mình chữ “Tâm”. Đó chính là lòng
thương yêu trẻ, là trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp. Tôi giáo dục HS
bằng chính tình yêu thương của mình. Qua thực tế nhiều năm công tác, tôi thấy
HS yêu quí thầy cô nào thì thích học, vâng và nghe theo lời thầy cô ấy. Nh ững
dấu ấn của tâm hồn trẻ thơ ở các lớp tiểu học thường là dấu ấn do người
GVCN hình thành. Vì vậy tôi luôn ý thức ngoài việc đầu tư thời gian, công sức
cho chuyên môn còn dành thời gian, công sức cho trau dồi các kiến thức về mọi
mặt của cuộc sống. Khi đã có mặt ở trường, trong bất kì hoàn cảnh nào, tôi
cũng hết sức mẫu mực, mô phạm trong từng lời nói, việc làm, hành động, tư
thế tác phong, cư xử có văn hóa, kiềm chế những cảm xúc nóng giận, nhất
quán giữa lời nói và việc làm.
Những việc làm của tôi có tác động rất lớn đối với học sinh. Các em vâng
lời, nghe theo lời khuyên bảo của tôi. Khi đến lớp, các em luôn ăn mặc gọn gàng,
nói năng lịch sự, hòa nhã, tích cực tự giác học tập, rèn luyện góp phần xây dựng
tập thể lớp vững mạnh.
*Biện pháp thứ năm: Quan tâm học sinh về mọi mặt. Động viên,

khen thưởng kịp thời.
Bất cứ một hoạt động nào hay công tác thì việc động viên khen thưởng kịp
thời của GV đối với HS là nguồn cổ vũ lớn lao, là dộng lực thúc đẩy các em vươn
lên trong học tập và rèn luyện.
Trong quá trình dạy học, tôi thường xuyên theo dõi để kịp th ời uốn n ắn
những biểu hiện lệch lạc, động viên những cố gắng dù là nhỏ nhất của mỗi
học sinh. Với một số HS đi học muộn, chỉ một lần đi học đúng gi ờ, tôi đã
tuyên dương các em trước lớp. Nhờ đó số HS đi học muộn giảm dần và chấm
dứt. Tôi còn nhẹ nhàng khuyên bảo các em cách ăn mặc lịch sự, g ọn gàng;
cách bảo vệ sức khỏe, cách phòng chống tai, tệ nạn. Với những vi ph ạm nh ỏ
không mang tính chất nghiêm trọng, tôi cho các em tự phân tích, tìm hiểu
12


nguyên nhân, cùng nhau bàn bạc, thảo luận trước lớp để đưa ra bi ện pháp
khắc phục hợp lý. Trong mọi vi phạm của HS tôi luôn bi ết t ự ki ềm ch ế c ảm
xúc “tức giận” của mình, phân tích, lắng nghe có cách xử lý phù hợp, không có
những hành vi đánh mắng các em. Tôi còn tranh thủ mọi lúc, dành thời gian trò
chuyện, chơi với các em để chia sẻ, tạo sự gần gũi, sự đồng cảm.
Với tôi thương yêu, độ lượng với HS như chính người mẹ và quyết đoán
đầy trách nhiệm trước các em như chính người cha giúp HS thấy được sự quan
tâm, che chở, bảo vệ của cô giáo. Hơn nữa việc gần gũi, thấu hiểu, chia sẻ
cùng HS như chính người bạn của các em sẽ tạo điều kiện để HS thấy rõ
những ưu điểm cần phát huy, những hạn chế cần khắc phục, tự hoàn thiện
bản thân. Tôi luôn quan tâm tạo điều kiện về cả vật chất lẫn tinh thần, chia sẻ,
động viên kịp thời những niềm vui, nỗi buồn, những khó khăn trong học tập
cũng như trong cuộc sống của học sinh.
Bên cạnh việc động viên, tôi hướng dẫn Hội đồng tự quản xây dựng
nội dung, tiêu chí, khen thưởng cụ thể, thống nhất để làm căn cứ trong các
đợt thi đua của lớp. Trong tiêu chí khen thưởng, coi tr ọng nguyên t ắc khen

thưởng đúng người, đúng việc, đảm bảo dân chủ, công khai, công bằng.
Chẳng hạn, lớp có phần thưởng dành cho:
+ HS hoàn thành xuất sắc các nội dung học tập và rèn luyện.
+ HS có thành tích v ượt tr ội hay ti ến b ộ v ượt b ậc.
+ HS tích cực tham gia các hoạt động của lớp.
+ “Đôi bạn cùng tiến” có nhiều tiến bộ nhất.
+ Nhóm xây dựng tập thể tự quản tốt.
+ Ban hoạt động có hiệu quả nhất.
Phần thưởng tuy chỉ là quyển vở, chiếc bút chì, quyển truyện tranh
nhưng tạo ra những động cơ lành mạnh, kích thích mọi thành viên t ự c ố g ắng
vươn lên và tự khẳng định mình trước tập thể.
Vì luôn quan tâm HS về mọi mặt lại rất coi trọng công tác động viên, khen
thưởng kịp thời nên tôi đã giúp các em yên tâm, phấn khởi, cố gắng vươn lên.

13


*Biện pháp thứ sáu: Phối hợp với các lực lượng giáo dục tổ chức t ốt
hoạt động trải nghiệm.
Ngoài giờ học văn hoá trên lớp thì hoạt động trải nghiệm là điều kiện
để rèn kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, rèn luyện tinh thần tập thể, tình yêu
quê hương, đất nước rất có hiệu quả. Mỗi lần tham gia là các em m ột l ần
được thể hiện tinh thần tập thể, ý thức tôn trọng kỷ luật, gi ữ gìn danh d ự cho
tập thể lớp. Đặc biệt là tính tự quản, kĩ năng giao tiếp thể hiện rất rõ.
Hiểu rõ vấn đề này, tôi phối hợp với giáo viên Tổng phụ trách Đội và
các giáo viên trong trường tổ chức cho các em tham gia mô hình trường học gắn
với cuộc sống như chăm sóc di tích lịch sử đình làng Bản Nguyên, tham gia
trồng và chăm sóc rau, hay tham gia chợ quê,.. tôi nhận thấy các em rất tự giác
trong công việc. Nhất là khi cô giáo phân công nhiệm vụ cho các nhóm thì các
em tự bảo nhau làm nhiệt tình, hăng say, hoàn thành tốt công việc, ít khi cần sự

nhắc nhở của cô giáo.
Điều làm cho tôi hứng thú nhất khi tham gia các hoạt động trải nghiệm là các
em hay hỏi và tôi đã kiên nhẫn, vui vẻ và sẵn lòng trả lời câu hỏi cho học
sinh. Vì ở độ tuổi tiểu học, học sinh rất hay tò mò về mọi thứ xung quanh
và việc các em lúc nào cũng đặt câu hỏi với người là điều dĩ nhiên. Đó là
một dấu hiệu tốt chứng tỏ các em thông minh và ham hiểu biết.
Qua quá trình tổ chức thực hiện các nội dung của hoạt động trải
nghiệm, lớp tôi luôn được lãnh đạo và các giáo viên trong trường đánh giá cao.
Các em gắn bó và hiểu nhau hơn. Học sinh trong lớp đoàn kết, thương yêu,
giúp đỡ nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn để học tập và rèn luyện. Các em
luôn biết cảm thông, chia sẻ, biết tự bảo vệ mình. Hơn nữa các em r ất yêu
trường, yêu lớp, yêu làng xóm; luôn có ý thức giữ gìn và phát huy truyền
thống của nhà trường, của địa phương; có ý thức bảo vệ môi tr ường. Các em
còn mạnh dạn tham gia các phong trào thi đua của trường và đã gặt hái được
những thành công. Nếp sống lành mạnh và ứng xử văn minh các em đ ược
hình thành và phát triển. Đặc biệt các hoạt động trải nghiệm chính là môi

14


trường tốt để mỗi em phát triển khả năng sáng tạo, tự học, năng lực và kỹ
năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống.
* Biện pháp thứ bảy: Tổ chức tốt Hội nghị cha mẹ học sinh.
Tổ chức tốt Hội nghị cha mẹ học sinh là một trong những nội dung rất
quan trọng, tạo mối liên hệ chặt chẽ và uy tín của giáo viên đối với CMHS nên
đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị thật chu đáo các nội dung, có năng lực tổ chức,
biết phối kết hợp với ban đại diện CMHS để thu hút được sự ủng hộ của các
bậc cha mẹ cho các phong trào của lớp.
Kinh nghiệm nhiều năm làm GVCN cho tôi thấy việc b àn bạc, trao đổi,
thống nhất các biện pháp giáo dục, x ây dựng Chi hội CMHS thành lực lượng

tham gia trực tiếp vào hoạt động của lớp chủ nhiệm là đặc biệt quan trọng. Ở đâu
chúng ta làm tốt công tác dân vận, biết dựa vào dân thì ở đó ta gặt hái thành
công. Bởi vậy tôi đã cố gắng hết mình để tổ chức tốt các hội nghị CMHS. Đặc
biệt là hội nghị đầu năm, đây là lần gặp gỡ đầu tiên của tôi với CMHS sau khi
nhận lớp. Để tạo uy tín đối với CMHS, tôi chuẩn bị chu đáo nội dung, tranh
thủ sự giúp đỡ của lãnh đạo trường và một số phụ huynh có uy tín trong lớp để
thu hút sự đồng tình nhất trí cao trong các phong trào của lớp. Trong cuộc họp,
tôi thông báo những khó khăn, thuận lợi, nội quy, quy định của lớp, của trường,
quy định giờ đưa đón học sinh, quy định về chuẩn bị đồ dùng sách vở, phương
pháp kết hợp giáo dục giữa phụ huynh và giáo viên chủ nhiệm. Bầu Ban đại
diện CMHS. Đề nghị phụ huynh tham gia các hoạt động giáo dục như thực
hiện các công việc của lớp học, tham gia hoạt động trải nghiệm và giúp đỡ một
số em có hoàn cảnh đặc biệt của lớp.
Trong các hội nghị, tôi tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc không phê bình học
sinh trước toàn thể phụ huynh; lắng nghe và cùng phụ huynh điều chỉnh biện
pháp giúp đỡ học sinh tiến bộ. Xác định rõ các cuộc gặp gỡ với CMHS cần
thiết thực và hiệu quả nên mỗi buổi họp CMHS, tôi còn cung cấp thêm cho họ
những kiến thức về tâm lí, sư phạm, về quá trình học tập cũng như hướng dẫn
cách thức quan sát, động viên các hoạt động của học sinh, giúp học sinh tự học

15


ở nhà cũng như giúp các em tự tin vươn lên theo tinh thần của Thông tư
22/2016/TT- BGDĐT.
Thông qua các hội nghị CMHS, tôi có cơ hội được bày tỏ cách làm việc
của mình trên lớp đồng thời tôi cũng hiểu được những tâm tư, nguyện vọng của
CMHS, cùng họ bàn bạc, thống nhất cách giáo dục học sinh. Công việc này đã tạo
được sự đồng thuận, sự quan tâm của CMHS đối với việc học của con em họ,
khơi dậy phong trào học tập từ trong nhân dân.

* Biện pháp thứ tám: Giáo viên chủ nhiệm tích cực tự học và không
ngừng rèn luyện.
Cuộc đời dạy học của mỗi giáo viên tiểu học thường gắn liền với công
tác chủ nhiệm lớp. Tuy mỗi người có một dấu ấn riêng với HS nhưng giáo
viên chủ nhiệm đều phải là người thầy giỏi về chuyên môn, giàu kinh nghiệm
sống, đồng thời là một nghệ sĩ tâm lý tài năng, xử lý khéo léo các tình huống
sư phạm.
Hiểu rõ vấn đề này, tôi luôn xây dựng cho mình kế hoạch làm việc
khoa học, hợp lí, dành nhiều thời gian cho công tác tự học, t ự rèn đ ể nâng cao
phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi m ới
phương pháp giảng dạy. Tôi tham gia đầy đủ các lớp bồi dưỡng về tình hình
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và các Nghị quyết của xã, c ủa huyện và c ủa
tỉnh. Ngoài tích cực tham gia đầy đủ các lớp học do ngành và tr ường t ổ ch ức,
tôi còn tăng cường dự giờ, thăm lớp của giáo viên trong và ngoài tr ường để
học hỏi kinh nghiệm về công tác giảng dạy và công tác chủ nhiệm lớp. Qua
các phương tiện thông tin đại chúng, tôi còn thường xuyên cập nh ật các thông
tin về tình hình đất nước, công cuộc đổi mới giáo dục, tham kh ảo các lo ại tài
liệu về xử lý các tình huống sư phạm, tham gia tr ải nghi ệm các ho ạt đ ộng xã
hội tại địa phương.
Nhờ tinh thần tự học, tự bồi dưỡng nên vốn hiểu biết v ề giáo d ục,
chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc điểm tâm lý, sinh lý của học sinh ti ểu h ọc,
các
16


công việc của người GVCN, tình hình và nhu cầu phát tri ển giáo d ục ti ểu
học, phong tục, tập quán, các hoạt động thể thao, văn hoá, lễ hội truyền thống
của địa phương của tôi được nâng cao. Vốn kiến thức và hiểu biết đó đã giúp
tôi lựa chọn phương pháp giảng dạy, hình thức tổ chức dạy học, cách ứng x ử

sư phạm trong các hoạt động giáo dục đạo đức, tri thức, thẩm mỹ, thể chất
phù hợp với từng đối tượng học sinh. Đặc biệt nhờ xác định được nh ững ảnh
hưởng của tình hình kinh tế, văn hóa cũng như phong tục, tập quán của đ ịa
phương, của cộng đồng tới việc học tập và rèn luyện của học sinh đã giúp tôi
có những biện pháp thiết thực, hiệu quả trong nâng cao chất l ượng gi ảng d ạy
và giáo dục.
3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Sau một năm áp dụng các biện pháp đã nêu trên vào làm công tác ch ủ
nhiệm ở lớp, tôi vui mừng vì sự đầu tư của mình có kết quả. Từ một lớp đứng
cuối bảng, lớp tôi đã được lãnh đạo nhà trường và tập thể giáo viên đánh giá là
có sự tiến bộ vượt bậc.
Dưới đây là bảng tổng hợp thành tích kết quả học tập và rèn luyện của
học sinh trước và sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
* Kết quả đầu năm (năm học 2016 -2017, theo tổng hợp từ lớp 3 chưa có Thông tư 22/2016/TT- BGDĐT):
HOÀN THÀNH

HOÀN THÀNH

ĐẠT VỀ NĂNG LỰC

MÔN HỌC

SL
27

ĐẠT VỀ PHẨM CHẤT

CHƯƠNG TRÌNH

KHEN THƯỞNG


LỚP HỌC

%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
100
27
100
27
100
27
100
7
25,9
*Kết quả cuối năm (năm học 2016- 2017, khi đã áp dụng sáng kiến, áp

dụng Thông tư 22/2016/TT- BGDĐT):
NĂNG LỰC

Tốt

SL
12


PHẨM CHẤT

Đạt

%
44,4

SL
15

%
55,6

Tốt

SL
12

%
44,4

HOÀN THÀNH CT

Đạt

SL
15

%

55,6

- Giải nhì Văn nghệ chào mừng ngày 20-11.
- Giải nhất Chợ quê chào mừng 26- 3.
- Giải nhất thi Giới thiệu sách.

17

LỚP HỌC

SL
27

%
100

KHEN THƯỞNG

SL
12

%
44,4


- Danh hiệu cháu ngoan Bác Hồ: 27 em
- Danh hiệu cả năm của lớp: Xuất sắc
Nhìn vào thành tích cuối năm, Tôi thật sự vui mừng vì kết quả học tập
và rèn luyện được cải thiện và nâng cao. Các em có ý thức, kỉ luật tốt, có ý
thức tự học, biết lắng nghe tích cực, không khí thi đua học tập rất sôi nổi ngay

trong từng giờ học. Học sinh lớp tôi được các thầy cô đánh giá là mạnh dạn , tự
tin khi bày tỏ ý kiến. Hơn nữa, tập thể lớp 4B của tôi thực sự là nơi giúp đỡ,
khơi gợi tiềm năng, tạo điều kiện học tập và rèn luyện theo các h ướng khác nhau
giúp mỗi học sinh thành công trong học tập cũng như trong cuộc sống của các
em, giúp các em trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước.
Trong các hoạt động học tập, khi tôi tổ chức cho các em tự học và h ọc
theo nhóm thì hầu hết các em đều biết phối hợp, giúp đỡ nhau để cùng hoàn
thành nhiệm vụ. Nhiều em có năng lực tổ chức và quản lý nhóm rất tốt.
Năng lực, phẩm chất của các em được hình thành và phát tri ển. Các em
có năng lực tự phục vụ, tự quản tốt, biết giữ vệ sinh thân thể, ăn, mặc gọn
gàng, nhiều em biết lựa chọn trang phục rất phù hợp. Đến lớp, em nào cũng
có đầy đủ đồ dùng học tập. Việc giữ gìn, bảo quản sách vở, đồ dùng h ọc t ập
được các em thực hiện tốt. Các em đã tích cực chuẩn bị bài ở nhà, luôn sẵn
sàng tham gia các phong trào của lớp, của trường.
Nhiều em trước đây rất nhút nhát, rụt rè thì nay đã mạnh dạn trình bày ý
kiến và mong muốn của mình trước tập thể. Nhất là các em h ọc sinh có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn, trước đây sống khép mình do mặc cảm tự ti thì nay đã
cởi mở, hòa đồng cùng với các bạn. Một số em, tuy cha mẹ bận đi làm công ti
đến 9, 10 giờ đêm mới về nhưng do biết tự học, lại bi ết chia s ẻ k ết qu ả h ọc
tập với bạn, với cả nhóm, biết tìm kiếm sự trợ giúp kịp th ời ng ười khác, nên
kết quả học tập của các em được nâng cao. Điều này khiến tôi rất hài lòng.
Bên cạnh đó, đội ngũ tự quản của lớp thực sự năng động hơn. Nhiều em
dám t ự ch ị u trách nhi ệm v ề các vi ệc làm c ủa mình. H ơn n ữa các em r ất
trung thực, kỉ luật, đoàn kết, biết bảo vệ của công, luôn có ý th ức gi ữ gìn và
bảo vệ môi trường, tích cực tham gia hoạt động tập thể, ho ạt đ ộng xây d ựng
18


trường, lớp. Hơn nữa các em rất yêu trường, lớp, kính trọng người lớn, biết
ơn thầy giáo, cô giáo; yêu thương, giúp đỡ bạn. Em nào cũng yêu gia đình,

quan tâm chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh em và biết thể hiện tình yêu và s ự
quan tâm đó bằng hành động cụ thể.
Đặc biệt cha mẹ học sinh hiểu rõ hơn về trách nhiệm của gia đình trong
việc kết hợp với nhà trường để quản lí, giáo dục, đ ầu t ư nhi ều h ơn , tạo điều
kiện về không gian, thời gian cho học sinh học tập và rèn luy ện. Tích cực tham
gia đánh giá quá trình và kết quả học tập, rèn luyện, quá trình hình thành và
phát triển năng lực, phẩm chất của con em mình; tích c ực h ợp tác v ới GVCN
trong các hoạt động giáo dục học sinh. Nhất là CMHS luôn cùng con em mình
tham gia các hoạt động trải nghiệm, biết rèn cho các em ý thức tự học, động
viên, khích lệ học sinh khắc phục khó khăn, phát huy ưu điểm và các năng l ực
nổi trội, các phẩm chất tốt đẹp, điều chỉnh hoạt động, ứng xử kịp thời đ ể
tiến bộ.
Tuy công tác chủ nhi ệm lớp vẫn được coi là vừa “khó”, vừa “khổ”
nhưng nhờ kiên trì, tôi đã xây dựng được một tập thể tự giáo dục, một Hội đồng
tự quản năng động, trách nhiệm, hoạt động có hiệu quả. Học sinh lớp tôi có m ột
môi trường giáo dục tốt để học tập, rèn luyện. Các em đã được phát tri ển toàn
diện cả mặt thể chất lẫn tinh thần. Các bậc cha mẹ cũng đã quan tâm đến việc
học của con mình, đến hoạt động của nhà trường. Hội CMHS thực sự trở thành
một lực lượng giáo dục cùng tham gia thực hiện mục tiêu, nội dung giáo d ục c ủa
lớp. Hiệu quả giáo dục được nâng cao.

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
19


1. Kết luận:
Để xây dựng một nhà trường vững mạnh, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện thì vai trò người GVCN cực kỳ quan trọng, bởi nó trực tiếp ảnh
hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Làm tốt công tác
chủ nhiệm lớp là quan tâm đến sự phát triển của HS về kiến thức, kỹ năng, về

các giá trị đạo đức, tinh thần. Muốn có được điều này thì phương pháp giáo
dục học sinh của GVCN là vô cùng quan trọng. Chính vì vậy, GVCN cần phải
biết tổ chức công việc khoa học, phối hợp nhịp nhàng, linh hoạt trong các hoạt
động giảng dạy cũng như giáo dục học sinh của lớp nhằm đạt tới mục tiêu giáo
dục.
Muốn công tác chủ nhiệm lớp đạt hiệu quả cao thì đòi hỏi GVCN ph ải
có những biện pháp hợp lý; phải tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích để nắm được
đặc điểm, hoàn cảnh, tâm sinh lý, trình độ, năng lực của từng học sinh; phải biết
phát huy năng lực tự quản; rèn luyện kĩ năng sống, nề nếp, lễ nghĩa cho mỗi học
sinh. Đặc biệt nên biết cách giao tiếp nhằm gây ấn tượng với phụ huynh, biết
cách kiềm chế, điềm tĩnh, kiên trì, mềm mỏng, mạnh dạn và tự tin nhằm tìm ra
các hướng giải quyết hiệu quả để thành công hơn trong công tác chủ nhiệm của
mình. Chính vì vậy, bên cạnh việc trau dồi năng lực chuyên môn, GVCN lớp còn
cần phải học tập để có nghiệp vụ của một nhà tổ chức, một nhà tâm lý, một nhà
giáo dục, phải tự rèn luyện để có tấm lòng của một người cha, người mẹ, phải
là “tấm gương sáng cho học sinh noi theo”. Nói một cách khác, muốn hoàn thành
tốt nhiệm vụ GVCN lớp, người thầy phải bỏ ra nhiều công sức, trí tuệ và đôi
khi cả tiền bạc của chính mình.
Mặt khác, công tác chủ nhiệm thành công hay không còn phụ thuộc vào
sự quản lý của lãnh đạo nhà trường, sự phối hợp của các lực lượng giáo dục.
Nhưng để đạt được mục đích giáo dục cuối cùng thì GVCN không
những phải nhiệt tình mà còn phải không ngừng rèn luyện, đ ổi m ới, sáng t ạo
trong các biện pháp sao cho phù hợp với lớp mình phụ trách.
Trên cơ sở áp dụng 8 biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm ở lớp
4B, trường Tiểu học Bản Nguyên 1 bước đầu có th ể kh ẳng đ ịnh các bi ện
20


pháp này là có tính khả thi. Có thể nói trách nhiệm của GVCN trong công tác
giáo dục học sinh là vô cùng quan trọng, nhất là trong giai đo ạn hi ện nay, khi

tất cả mọi hoạt động của nhà trường đều phải tập trung vào mục tiêu “Phát
triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Vì vậy, tôi
tin rằng sáng kiến này có thể áp dụng được một cách linh hoạt, sáng t ạo ở
những lớp, những trường tiểu học có điều kiện, hoàn cảnh t ương t ự nh ư l ớp
4B, như trường Tiểu học Bản Nguyên 1 của tôi.
Không có công thức chung cho công tác chủ nhiệm, nhưng trước tiên
cần phải có cái tâm, có lòng nhiệt tình và phương pháp hợp lý thì sẽ đem lại
thành công. Hãy làm hết khả năng của mình để trong tâm trí của những học trò
thân yêu ghi lại một hình ảnh đẹp về người thầy chủ nhiệm.
2. Những ý kiến đề xuất.
Để sáng kiến này áp dụng thuận lợi, tôi xin có một số kiến nghị như sau:
* Với Địa phương:
Tăng cường đầu tư CSVC, làm tốt công tác tuyên truyền để các đoàn
thể, các bậc phụ huynh cùng tham gia phong trào giáo dục.
* Với Nhà trường:
- Động viên, khen thưởng thỏa đáng cho GVCN.
- Tiếp tục duy trì cuộc thi giáo viên chủ nhiệm giỏi.
Sáng kiến của tôi đã hoàn thành nhưng chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng
nghiệp để sáng kiến của tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
Bản Nguyên, tháng 11 năm 2017
Người viết

Đinh Thị Hằng

21


ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH TRƯỜNG
...............................................................................................................................

...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................

22


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Từ, ngữ

STT

Viết tắt

1

Giáo viên chủ nhiệm

GVCN

2

Cha mẹ học sinh

CMHS


3

Giáo dục

GD

4

Giáo viên

GV

5

Học sinh

HS

TÀI LIỆU THAM KHẢO
23


1. Đảng Cộng sản Việt Nam “Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI”, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, năm 2012.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tạp chí “Giáo dục Tiểu học”, Nhà xuất bản Giáo
dục, năm 2007.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo “Điều lệ trường Tiểu học”.
4. Bùi Văn Huệ “Giáo trình tâm lí học tiểu học”, Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007.
5. Nguyễn Kì “Patrice Pelpel- Tự đào tạo để dạy học”, Nhà xuất bản Giáo dục,
năm 2005.

6. Hà Nhật Thăng “Công tác chủ nhiệm ở trường Tiểu học”, năm 2012.
7. Hà Nhật Thăng “Giáo viên chủ nhiệm trong các hoạt động ở trường Tiểu
học”, năm 2012.

MỤC LỤC
Nội dung
24

Trang


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng của vấn đề
2. Các biện pháp để giải quyết vấn đề
Biện pháp thứ nhất: Tìm hiểu, phân loại học sinh.
Biện pháp thứ hai: Xây dựng tổ chức lớp theo mô hình trường tiểu
học mới VNEN.
Biện pháp thứ ba: Làm tốt công tác đánh giá kết quả giáo dục.
Biện pháp thứ tư: Luôn nêu gương để học sinh noi theo.
Biện pháp thứ năm: Quan tâm học sinh về mọi mặt. Động viên,
khen thưởng kịp thời.
Biện pháp thứ sáu: Phối hợp với các lực lượng giáo dục tổ chức tốt
hoạt động trải nghiệm.
Biện pháp thứ bảy: Tổ chức tốt Hội nghị cha mẹ học sinh.
Biện pháp thứ tám: Giáo viên chủ nhiệm tích cực tự học và không
ngừng rèn luyện.
3. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.

2. Những ý kiến đề xuất.

25

1
4
4
5
5
7
8
10
11
13
14
15
16
19
19
20


×