Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Đời sống văn hoá của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội trong thời kỳ hội nhập Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.34 KB, 88 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
SINH VIÊN..........................................................................................................6
1.1. Cơ sở lý luận về đời sống văn hóa sinh viên...........................................6
1.2. Cơ sở thực tiễn.......................................................................................18
1.3. Những nhân tố tác động đến đời sống văn hóa sinh viên trường Đại học
Nội vụ Hà nội...............................................................................................22
Chương 2. THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI..........................................................31
2.1. Môi trường vật chất phục vụ nhu cầu học tập và hoạt động văn hóa....31
2.2. Các phong trào học tập, văn hóa và hoạt động xã hội...........................43
2.3. Tiêu dùng sản phẩm văn hóa.................................................................50
2.4. Các mối quan hệ xã hội.........................................................................56
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI TRONG THỜI KỲ HỘI
NHẬP..................................................................................................................66
3.1. Nhóm giải pháp về nhận thức................................................................66
3.2. Nhóm hồn thiện về thể chế..................................................................69
3.3. Các giải pháp khác.................................................................................80
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ...................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................87


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăm lo cho công tác giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, đáp ứng quá trình hội
nhập và phát triển là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà
nước trong giai đoạn hiện nay. Thanh niên mà chủ yếu là học sinh, sinh viên là
nguồn nhân lực của đất nước trong tương lai. Hiện nay, nhiều trường đại học, cao
đẳng đầu tư kinh phí lớn để xây dựng cơ sở vật chất: giảng đường, nhà văn hoá,


sân thể thao, phòng học, thư viện, khu ký túc xá và các trang thiết bị phục vụ
giảng dạy,... tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên học tập, nghiên cứu và hưởng
thụ văn hoá đáp ứng nhu cầu về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực quốc gia.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, sinh viên đang đứng trước những thời cơ,
thuận lợi nhưng cũng phải đối mặt với khơng ít thách thức, khó khăn. Việc tiếp
thu những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới và mở rộng giao
lưu hội nhập quốc tế đã giúp sinh viên có nhận thức, tư duy phát triển, thị hiếu
thẩm mỹ nâng lên, sống có văn hố và biết tơn trọng kỷ cương xã hội. Nhưng
mặt trái của cơ chế thị trường đã tác động khơng nhỏ đến mơi trường sống của
tồn xã hội, đặc biệt là đời sống văn hoá của sinh viên. Trên cơ sở đó, nhu cầu
hưởng thụ văn hóa và tham gia các hoạt động văn hóa của thanh niên, học sinh,
sinh viên cũng có rất nhiều biến đổi theo chiều hướng tích cực và cả tiêu cực.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã có bề dày 45 năm lịch sử, nơi đây đã
đào tạo ra hàng chục ngàn sinh viên có đủ năng lực, phẩm chất, kiến thức góp
phần đáp ứng nguồn nhân lực cho đất nước. Sinh viên của trường luôn giữ được
truyền thống văn hố dân tộc, phẩm chất tốt đẹp của cha ơng ta từ xưa, như:
“tơn sư trọng đạo”, “hiếu học”, “kính thầy yêu bạn”, lối sống giản dị, chăm
chỉ… Trong định hướng phát triển của nhà trường vấn đề nâng cao chất lượng
đời sống văn hóa cho sinh viên ln được quan tâm, cơ sở vật chất phục vụ cho
học tập và sinh hoạt thường xuyên được bổ sung. Các thiết chế văn hóa dần dần
được hồn thiện và nâng cấp đáp ứng được nhu cầu hoạt động của sinh viên.
Trong xu thế tồn cầu hố, sinh viên có điều kiện tiếp xúc với những thiết
bị thông tin, khoa học hiện đại từ đó bổ sung kiến thức, tự khẳng định mình và
1


hồn thiện bản thân phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước. Tuy nhiên,
còn một bộ phận sinh viên chỉ quan tâm đến bản thân và nhu cầu trước mắt,
sống thực dụng, kém ý chí vươn lên, học đòi lối sống xa hoa, hưởng thụ, thiếu
trung thực trong học tập, tha hoá nhân cách, sa vào các tệ nạn xã hội khiến cho

gia đình, nhà trường và tồn xã hội lo lắng, cản trở sự phát triển của đất nước,
cần được giáo dục, định hướng. Mặt khác, các hoạt động định hướng cho sinh
viên cũng gặp khơng ít khó khăn, điều kiện ăn ở, sinh hoạt trong quá trình học
tập cịn thiếu thốn.
Mục tiêu đặt ra là, chúng ta cần tăng cường việc giáo dục nếp sống, lối
sống văn hóa và đạo đức cho sinh viên, giúp sinh viên tham gia xây dựng đời
sống văn hóa lành mạnh, phịng chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội, định hướng
để học sinh, sinh viên phấn đấu rèn luyện theo chuẩn mực“vừa hồng, vừa
chuyên” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.
Từ thực tế trên, chúng ta nhận thấy vị trí quan trọng của sinh viên nói
chung và sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội nói riêng đối với sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đời sống văn hoá là một yếu tố không
thể thiếu trong việc phát triển nhân cách, bồi dưỡng kỹ năng sống của sinh viên.
Trên cơ sở đó, nhóm chúng tơi quyết định chọn vấn đề: “Đời sống văn hoá của
sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội trong thời kỳ hội nhập - Thực trạng
và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Giáo dục thanh niên và xây dựng đời sống văn hố thanh niên trong đó có
tầng lớp sinh viên được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, trong đó có thể kể đến
một số cơng trình:
- “Văn hố với thanh niên, thanh niên với văn hoá. Một số vấn đề về lý
luận và thực tiễn” của Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2002), tập trung đề
cập một số vấn đề: nhu cầu, thị hiếu và năng lực văn hoá của thanh niên; những
tác động của văn hoá đến tư tưởng, tình cảm, lối sống của thanh niên.
- Tác giả Dương Tự Đam: “Văn hoá thanh niên và thanh niên với văn hoá
dân tộc”, Nxb Hà Nội, 2001.
2


- Tác giả Phạm Đình Nghiệp: “Giáo dục lý tưởng cách mạng cho sinh

viên hiện nay”, Nxb Thanh niên, 2001.
- TS. Đinh Thị Vân Chi: “Nhu cầu giải trí của thanh niên”, Nxb Chính trị
Quốc gia, 2002.
- Chương trình KX-07HN 1994, của tác giả Thái Duy Tiên chủ biên, đề
cập đến vấn đề thị hiếu nghệ thuật và thưởng thức nghệ thuật trong thanh niên
hiện nay với một số bài viết: “Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt
Nam trong điều kiện kinh tế thị trường”.
- GS.TS. Đặng Cảnh Khanh: “Thanh niên và văn hoá thanh niên” (Báo điện
tử Nhandan.com.vn) đã đề cập đến văn hoá thanh niên với những mặt tích cực và
tiêu cực như là “một tiểu văn hoá với văn hoá chung và với xã hội”.
- PGS.TS. Phạm Hồng Tung:“Văn hóa và lối sống của thanh niên Việt
Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập” (diendankienthuc.net) đề cập
đến lối sống và các xu hướng biến đổi lối sống của thanh niên Việt Nam trong
bối cảnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và tồn cầu hóa.
- Tác giả Thanh Hùng: “Mn màu đời sống sinh viên” (Báo Thanh niên
online), bài báo đặt ra những vấn đề trong đời sống sinh viên như: việc làm thêm
ngoài giờ học, sống thử và những tệ nạn sinh viên thường mắc phải.
- GS.TS. Đặng Cảnh Khanh Ngăn chặn những sai lệch chuẩn và giá trị
xã hội lối sống của thanh thiếu niên (Tuyengiao.vn)
- Tác giả Đỗ Huy “Một số vấn đề giáo dục thẩm mỹ cho thanh niên” Tạp
chí Văn hố nghệ thuật.
Tác giả các cơng trình nghiên cứu, các cuốn sách, bài viết trên đã đề cập
đến những vấn đề cốt lõi liên quan đến đời sống văn hố trong sinh viên hiện
nay, như: mơi trường văn hoá, lối sống văn hoá, thị hiếu thẩm mỹ, điều kiện sinh
hoạt vật chất, đời sống tinh thần, các mối quan hệ trong xã hội, đời sống văn hoá
trong thanh niên nói chung... Đây là nguồn tư liệu tốt, gợi mở quan trọng về lý
luận và thực tiễn để nhóm tác giả tiến hành khảo sát và nghiên cứu đề tài. Tuy
nhiên, trong những năm qua, chưa có đề tài nào tìm hiểu về đời sống văn hóa
của sinh viên tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. Đây vừa là thách thức vừa là
3



cơ hội cho nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu tại đơn vị của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Đánh giá thực trạng đời sống văn hố sinh viên trường Đại học Nội vụ trong
thời kỳ hội nhập, từ đó đề xuất những giải pháp có tính khả thi, cải thiện đời sống
văn hố, góp phần phát triển tồn diện (đức - trí - thể - mỹ).
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về đời sống văn hóa của sinh viên
- Khảo sát, đánh giá đời sống văn hóa của sinh viên trường Đại học Nội vụ
Hà Nội trong thời kỳ hội nhập
- Đề xuất các giải pháp cải thiện và nâng cao chất lượng đời sống văn hóa
cho sinh viên trong thời kỳ hội nhập.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Đời sống văn hoá của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
* Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về không gian: Sinh viên trường Đại học nội vụ Hà Nội (cơ sở
Hà Nội)
- Phạm vi về thời gian: Khảo sát đời sống sinh viên của trường 5 năm
(2011 – 2016).
- Phạm vi về nội dung: Đời sống văn hóa là một phạm vi rộng, ở đề tài
này nhóm tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các nội dung cụ thể về:
+ Các điều kiện sinh hoạt vật chất (môi trường, cảnh quan, khu ký túc xá,
sân luyện tập thể thao, thư viện, giảng đường...)
+ Các điều kiện sinh hoạt tinh thần (câu lạc bộ, các chương trình giao lưu,
tham quan, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể thao...).
+ Việc tiêu dùng các sản phẩm văn hóa (văn hóa đọc, văn hóa nghe nhìn,
văn hóa mạng internet….)

+ Các mối quan hệ trong xã hội (thầy cô giáo, bạn bè trong nhà trường,
ngoài xã hội...).
4


5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu;
- Phương pháp phỏng vấn sâu;
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp;
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp điều tra xã hội học.
6. Đóng góp mới của đề tài
* Đóng góp về lý luận:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về đời sống văn hóa và đời sống văn hóa của
sinh viên.
* Đóng góp về thực tiễn:
- Đánh giá khách quan thực trạng và một số nhân tố tác động đến đời
sống văn hoá sinh viên trường Đại học Nội vụ hà Nội.
- Đề xuất giải pháp góp phần nâng cao đời sống văn hoá trong sinh viên
trường Đại học Nội vụ hà Nội.
- Đề tài là tài liệu tham khảo phục vụ cho cơng tác quản lý của Phịng
Cơng tác sinh viên và cho giảng viên và sinh viên khi giảng dạy và học chuyên
ngành Quản lý văn hóa.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị đề tài được cấu trúc thành 3
chương:
Chương 1. Lý luận về đời sống văn hóa và Khái quát về sinh viên trường
Đại học Nội vụ Hà Nội
Chương 2. Thực trạng đời sống văn hóa của sinh viên trường Đại học Nội

vụ Hà Nội
Chương 3. Giải pháp nâng cao đời sống văn hóa của sinh viên trường Đại
học Nội vụ Hà Nội trong thời kỳ hội nhập.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA SINH VIÊN
1.1. Cơ sở lý luận về đời sống văn hóa sinh viên
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm đời sống văn hóa
Nói đến văn hóa và đời sống văn hóa các nhà khoa học trên thế giới và
trong nước đã từng ghi nhận rất nhiều quan niệm, khái niệm và định nghĩa khác
nhau.
Năm 1988, UNESCO phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hố
(1988-1997), ơng Federico Mayor (nguyên Tổng Giám đốc UNESCO) đã đưa ra
khái niệm: “Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của các cá
nhân và cộng đồng, trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động
sáng tạo ấy đã hình thành tạo nên hệ thống giá trị, các truyền thống, thị hiếu - đặc
trưng riêng của mỗi dân tộc”. Như vậy, có thể hiểu văn hóa bao gồm văn hóa vật
chất và tinh thần; văn hóa là sự sáng tạo của con người hướng tới giá trị Chân –
Thiện – Mỹ và là một trong những căn cứ phân biệt dân tộc này với dân tộc khác;
văn hóa có chức năng điều tiết xã hội, chức năng giáo dục, giao tiếp; v ăn hóa
về bản chất là một q trình phát triển mang tính đặc trưng cho một nhóm người
dân tộc.
Khái niệm “đời sống văn hóa” liên quan chặt chẽ và là biểu hiện bản
chất của “văn hố” trong q trình vận động biến đổi của nó. Là một khái niệm
rộng để chỉ tồn bộ các thành tựu có ý nghĩa văn hóa do con người sáng tạo ra

cùng các phương thức, cách thức mà con người sử dụng chúng trong đời sống
hàng ngày. Đời sống văn hóa là tồn bộ những giá trị văn hóa vật chất và văn
hóa tinh thần được tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực
của con người [8 Tr.156].
Trong cuốn sách Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hoá ở
nước ta, tác giả Hồng Vinh cho rằng:
Đời sống văn hố là một bộ phận của đời sống xã hội. Đời sống xã hội là
6


một phức thể những hoạt động sống của con người, nhằm đáp ứng nhu cầu của
con người. Trong đó các hoạt động văn hoá đáp ứng nhu cầu tinh thần, làm cho
con người tồn tại với tư cách là một sinh thể xã hội, tức là con người tồn tại như
một nhân cách văn hoá. Xã hội càng tiến hoá, nhu cầu văn hố và sự đáp ứng
nhu cầu đó càng cao, thể hiện trình độ phát triển Người. Các hoạt động nhằm
đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người, đó chính là hoạt động văn hố… [22
tr.162-163].
Từ khái niệm đó có thể hiểu đời sống văn hố chính là tổng thể sống động
các hoạt động văn hoá trong quá trình sáng tạo (sản xuất), bảo quản, phổ biến,
tiêu dùng các sản phẩm văn hoá và sự giao lưu văn hoá, nhằm thoả mãn nhu cầu
tinh thần của cá nhân và cộng đồng người.
Khi nói đến các giá trị văn hóa chúng ta muốn nói đến văn hóa ở thể tĩnh
của nó, thì khi nói đến đời sống văn hóa có nghĩa là nhằm để chỉ văn hóa ở thể
động của nó, tức biểu hiện của văn hóa trong đời sống hàng ngày ở mọi lúc, mọi
nơi. Từ đó có thể nói, xuất phát từ các nhu cầu văn hóa của con người, đời sống
văn hóa bao gồm tồn bộ những hoạt động sản xuất và tiêu thụ, sáng tạo và
hưởng thụ các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần, thơng qua các thiết chế văn
hóa và các thể chế văn hóa. Như vậy, nói đến đời sống văn hóa là nói đến mối
quan hệ tương tác giữa các yếu tố: nhu cầu văn hóa, hoạt động văn hóa và sản
phẩm văn hóa trong mơi trường văn hóa.

1.1.1.2. Khái niệm về đời sống văn hóa
Năm 1947, tại chiến khu Việt Bắc, với bút danh Tân Sinh, Bác Hồ đã viết
tác phẩm "Đời sống mới". Những vấn đề Người nêu ra thực chất là những vấn
đề về đời sống văn hoá. “Đời sống mới” là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở,
cách đi lại, cách làm việc; xây dựng tư tưởng yêu nước; đạo đức, tác phong cách
mạng; nếp sống văn hoá cho mỗi người và cộng đồng. Như vậy, có thể coi “Đời
sống mới” là bài viết đầu tiên đặt cơ sở lý luận cho việc xây dựng đời sống văn
hoá ở cơ sở ra đời sau cách mạng tháng Tám năm 1945.
Cụm từ “đời sống văn hố” xuất hiện nhiều trên báo chí vào những năm
80 của thế kỷ XX. Đến năm 1999, tác giả Hoàng Vinh cho rằng: “Đời sống văn
7


hoá” là bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm các yếu tố văn hoá tĩnh tại (các
sản phẩm văn hoá vật thể, các thiết chế văn hoá) cũng như các yếu tố văn hoá
động thái (con người và các dạng hoạt động văn hố của nó) [20, tr.32].
Có thể hiểu đời sống là hoạt động của con người; đối với cá nhân là hoạt
động của bản thân người đó từ khi sinh ra cho tới khi vĩnh biệt cuộc sống; đối
với cộng đồng là hoạt động của cộng đồng người trong thời khắc mọi người
đang sinh sống. Đời sống là quá trình diễn ra sự trao đổi các yếu tố vật chất và
tinh thần cung ứng cho hoạt động sản xuất và tái tạo sức sản xuất của con người.
Đời sống có đời sống cá nhân và đời sống xã hội. Đời sống cá nhân luôn chịu sự
chi phối của đời sống xã hội và đời sống cá nhân cũng có tác động tích cực đến
đời sống xã hội. Mục tiêu của hoạt động đời sống là nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống con người [20, tr.32-33].
Đời sống đó thể hiện ở ba mặt sau:
Đời sống vật chất: Đảm bảo yếu tố cho con người đó sinh tồn.
Đời sống tinh thần: Nhằm thoả mãn nhu cầu ý thức về tình cảm, lý trí,
nghị lực, tư tưởng của người đó.
Đời sống xã hội: Hình thành nhân cách con người. Mỗi người đều thông

qua cộng đồng để chứng minh, khẳng định phẩm chất của mình và hồn thiện
bản thân.
Đời sống văn hố có thể hiểu đó là tất cả những hoạt động của con người
tác động vào đời sống vật chất, đời sống tinh thần, đời sống xã hội để hướng con
người vươn lên theo quy luật cái đẹp, của chuẩn mực giá trị Chân - Thiện - Mỹ,
đào thải những biểu hiện tiêu cực, tha hoá con người [21, tr.19].
Đời sống văn hố ln có tính kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp, tạo
ra sự ổn định và là tiền đề phát huy, khẳng định những giá trị mới.
Đời sống văn hố ln có tính đổi mới, sáng tạo để đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao về vật chất và tinh thần của con người.
Đời sống văn hoá được hiểu một cách khái quát là hiện thực sinh động các
hoạt động của con người trong môi trường sống để duy trì, đồng thời tái tạo sản
phẩm văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần theo những giá trị và chuẩn mực xã hội
8


nhất định nhằm không ngừng tác động, biến đổi tự nhiên, xã hội và đáp ứng nhu
cầu đổi mới, nâng cao chất lượng sống của chính con người [21, tr.20].
Trong văn kiện Đại hội V của Đảng ta cũng đã nêu rõ: Một nhiệm vụ
cách mạng tư tưởng và văn hoá là đưa văn hoá thâm nhập vào cuộc sống hàng
ngày của nhân dân. Đặc biệt chú trọng đời sống văn hố cơ sở, bảo đảm cho mỗi
nhà máy, cơng trường, nông trường, lâm trường, mỗi đơn vị của lực lượng vũ
trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã,
hợp tác xã, phường, ấp, đều có đời sống văn hố.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII
xác định: Xây dựng mơi trường văn hố, tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình,
làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nơng trường, lâm trường,
trường học, đơn vị bộ đội...) các vùng dân cư đô thị, nông thôn, miền núi...đời
sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu văn hố đa dạng và khơng ngừng tăng lên của
các tầng lớp nhân dân.

Vậy đời sống văn hoá là những hoạt động của con người trong môi trường
sống nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất, tinh thần của cá nhân, cộng đồng hướng
tới những giá trị chuẩn mực. Những nhu cầu đó khơng ngừng tăng lên phục vụ
chất lượng sống ngày càng cao của con người, cộng đồng và toàn xã hội.
* Về nội dung đời sống văn hoá sinh viên
Từ cơ sở lý luận về đời sống văn hóa nói chung, chúng ta soi chiếu vào
đời sống văn hóa sinh viên. Nội dung đời sống văn hố sinh viên có thể được
hiểu là hoạt động của sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng, bao gồm:
- Các điều kiện sinh hoạt vật chất (môi trường, cảnh quan, khu ký túc xá,
sân luyện tập thể thao, thư viện, giảng đường...)
- Các điều kiện sinh hoạt tinh thần (câu lạc bộ, các chương trình giao lưu,
tham quan, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể thao...).
- Việc tiêu dùng các sản phẩm văn hóa (văn hóa đọc, văn hóa nghe nhìn,
văn hóa mạng internet….)
- Các mối quan hệ trong xã hội (thầy cô giáo, bạn bè trong nhà trường,
ngồi xã hội...). Đời sống văn hố có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành
9


và phát triển nhân cách của sinh viên, hướng sinh viên vươn đến những giá trị
Chân - Thiện - Mỹ trong cuộc sống.
Sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng là thế hệ tương lai của đất
nước. Sự phát triển, hoàn thiện các giá trị của thanh niên, sinh viên là yếu tố
quyết định sự phát triển tương lai của mỗi quốc gia. Để xây dựng đời sống văn
hoá sinh viên cần chú trọng những vấn đề sau:
- Xây dựng thế hệ sinh viên có văn hố chuẩn mực về tư tưởng, đạo đức,
lối sống.
- Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh trong các trường đại học.
- Xây dựng nếp sống văn hoá, quan hệ xã hội trong sinh viên.
- Củng cố xây dựng các thiết chế văn hoá của các trường cao đẳng, đại

học và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá cho sinh viên.
Như vậy, xây dựng đời sống văn hóa sinh viên là yếu tố quan trọng để
phát triển nhân cách, hình thành các giá trị đạo đức và lối sống trong sinh viên.
Xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa trong các trường đại học, cao đẳng là tạo ra
một môi trường văn hóa, nếp sống văn hóa để ở đó sinh viên học tập, vui chơi
giải trí lành mạnh, phát triển tồn diện về thể chất và trí tuệ.
1.1.1.3. Thời kỳ hội nhập
Theo TS.Phạm Quốc Trụ thì thuật ngữ “hội nhập quốc” tế trong tiếng Việt
có nguồn gốc dịch từ tiếng nước ngoài (tiếng Anh là “international integration”,
tiếng Pháp là “intégration internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng
chủ yếu trong các lĩnh vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ
khoảng giữa thế kỷ trước ở châu Âu, trong bối cảnh những người theo trường
phái thể chế chủ trương thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (ĐứcPháp) nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến tranh thế giới thông qua việc xây dựng
Cộng đồng châu Âu.
Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu, do bản chất xã hội của lao động
và quan hệ giữa con người. Các cá nhân muốn tồn tại và phát triển phải có quan
hệ và liên kết với nhau tạo thành cộng đồng. Nhiều cộng đồng liên kết với nhau
tạo thành xã hội và các quốc gia - dân tộc. Các quốc gia lại liên kết với nhau tạo
10


thành những thực thể quốc tế lớn hơn và hình thành hệ thống thế giới.
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội
như: kinh tế, chính trị, an ninh - quốc phịng, văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v.,
nhưng cũng có thể đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất, phạm vi
và hình thức rất khác nhau.
Hội nhập về văn hóa - xã hội là q trình mở cửa, trao đổi văn hóa với các
nước khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp thu các giá trị
văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa dân tộc; tham
gia vào các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa - giáo dục và xã hội khu vực và

hợp tác chặt chẽ với các nước thành viên hướng tới xây dựng một cộng đồng
văn hóa - xã hội rộng lớn hơn trên phạm vi khu vực và toàn cầu; ký kết và thực
hiện các hiệp định song phương về hợp tác - phát triển văn hóa - giáo dục - xã
hội với các nước.
Hội nhập văn hóa - xã hội có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm sâu sắc
quá trình hội nhập, thực sự gắn kết các nước với nhau bằng chất keo bền vững
hơn cả. Quá trình này giúp các dân tộc ở các quốc gia khác nhau ngày càng gần
gũi và chia sẻ với nhau nhiều hơn về các giá trị, phương thức tư duy và hành
động; tạo ra sự hài hòa và thống nhất ngày càng cao hơn giữa các chính sách xã
hội của các nước thành viên; đồng thời tạo điều kiện để người dân mỗi nước
được thụ hưởng tốt hơn các giá trị văn hóa của nhân loại, các phúc lợi xã hội đa
dạng; đặc biệt, hình thành và củng cố tình cảm gắn bó thuộc về một cộng đồng
chung rộng lớn hơn quốc gia của riêng mình.
Sự hội nhập quốc tế đã đưa đến sự tiếp xúc giữa các nền văn hóa, văn
minh. Vì vậy, xuất hiện các dự báo về xung đột giữa các nền văn minh. Nhiều
nhà nghiên cứu dự đoán rằng, nguồn gốc xung đột trong thế giới mới khơng cịn
là hệ tư tưởng và kinh tế nữa, mà là văn hóa vì văn hóa là cơ sở của các nền văn
minh. Như vậy, phải chăng văn hóa trong hội nhập quốc tế đang phải đảm nhận
một chức năng mới, chức năng giải tỏa xung đột văn hóa và liên kết văn hóa,
làm cơ sở, “dẫn đường” cho hội nhập kinh tế, khoa học, công nghệ và các lĩnh
vực khác? Đó là vấn đề đang tranh luận trong giới học giả, các chính trị gia trên
11


khắp thế giới và Việt Nam.
Tồn cầu hóa đã tác động khơng nhỏ tới giới trẻ, trong đó có sinh viên,
những người sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đổi mới, là đối tượng nhạy cảm
nhất trước những biến đổi vơ cùng nhanh chóng của đất nước ta và thế giới. Họ
trước hết mang đầy đủ những đặc điểm chung của con người. Nhưng bên cạnh
đó, họ cịn mang những đặc điểm riêng: trẻ, có tri thức, dễ tiếp thu cái mới, nhạy

cảm với các vấn đề chính trị - xã hội. Với những đặc điểm trẻ tuổi, có trình độ
và năng lực sáng tạo, khả năng tiếp nhận cái mới nhanh và linh hoạt, thích nghi
kịp thời với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại, nên tồn cầu hố đã tác
động khơng nhỏ tới đối tượng này.
1.1.2. Đặc điểm văn hóa của sinh viên
Từ điển Tiếng Việt (2001) định nghĩa, sinh viên là người học ở bậc Đại
học. Theo quy chế công tác học sinh, sinh viên trong các trường đào tạo của Bộ
Giáo dục và đào tạo thì “người đang học trong hệ Đại học và Cao đẳng thì gọi là
sinh viên”. Nhìn chung, khái niệm sinh viên nên hiểu theo nghĩa chung nhất: là
tất cả những người đã tốt nghiệp Trung học phổ thông và tương đương đang theo
học tại các trường Đại học và Cao đẳng thuộc mọi loại hình đào tạo.
Sinh viên là một bộ phận của thanh niên ở độ tuổi trưởng thành, chủ yếu
từ 18 đến 25 tuổi, đang học tập nghiên cứu và rèn luyện trong các trường đại học
và cao đẳng. Họ là một nhóm xã hội đặc thù, năng động, sáng tạo, nhạy cảm với
cái mới, ham hiểu biết, đang trau dồi kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng để hình
thành nhân cách chuẩn bị gia nhập đội ngũ trí thức, đội ngũ lao động, kỹ thuật
cao của đất nước. Độ tuổi từ 18 đến 25 nằm ở giai đoạn hai của tuổi thanh niên
(giai đoạn một từ 14, 15 đến 18 tuổi). Đây là độ tuổi mà con người đã có những
bước trưởng thành nhất định cả về mặt tâm sinh lý lẫn quan hệ xã hội.
Về mặt sinh học, đây là giai đoạn phát triển gần như hoàn chỉnh về sức
lực, thể chất và tinh thần của mỗi cá nhân đặc biệt là bộ não phát triển làm cho
khả năng hoạt động trí tuệ đã nảy sinh những nhu cầu.
Về mặt xã hội, sinh viên là những thanh niên đã được chọn lọc về nhiều
mặt, do vậy họ có năng lực và phẩm chất của mình và vận mệnh của dân tộc, đã
12


ý thức được trách nhiệm công dân, nghĩa vụ của mình với Tổ quốc. Trong khi
học tập, người sinh viên ý thức được vị trí của mình qua các chủ trương, chính
sách, quy định, quy chế hiện hành, vậy phải có sự tự điều chỉnh, tự rèn luyện, sự

vươn lên trong môi trường Đại học.
Về mặt tâm lý, là một bộ phận được tuyển chọn trong thanh niên, do đó,
sinh viên có những ưu điểm của thanh niên, hăng hái, giàu tinh thần xung
phong, thích cái mới và nhạy cảm với cái mới, cái tiến bộ, dễ thích nghi được
với hồn cảnh và muốn được thể nghiệm mình trong cuộc sống. Tuy nhiên, sinh
viên cũng có những khuyết điểm của sinh viên như ham chuộng hình thức, thiếu
thực tế, bệnh cá nhân, bệnh anh hùng.
Phương thức hoạt động cơ bản của sinh viên là học tập có tính chất
nghiên cứu dưới sự điều khiển của giảng viên, nhằm chiếm lĩnh tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo có liên quan đến nghề nghiệp trong tương lai của mình.
Hệ thống tri thức khoa học mà sinh viên tiếp cận ở nhà trường bao gồm:
tri thức cơ bản, tri thức cơ sở của chuyên ngành, tri thức chuyên ngành và tri
thức công cụ cùng với hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng về mặt lĩnh vực khoa
học, kỹ thuật, văn hóa nhất định nào đó. Hệ thống tri thức khoa học này được bổ
sung, tăng dần theo hướng phát triển đồng thời thỏa mãn cả ba yêu cầu: cơ bản,
hiện đại và thiết thực, nhằm đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.
Quá trình học tập của sinh viên là quá trình vận động, lớn lên về nhiều
mặt cả về thể chất lẫn tinh thần, đặc biệt là năng lực trí tuệ, tư duy độc lập, sáng
tạo ngày càng phát triển, khả năng khái quát học, trừu tượng hóa được nâng lên,
khối lượng ghi nhớ không ngừng tăng lên theo thời gian và cách ghi nhớ cũng
biến đổi.
* Đặc điểm của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội hàng năm tuyển sinh đào tạo khoảng gần
2000 sinh viên. Cho 06 ngành học gồm: Quản trị Nhân lực, Quản trị Văn phòng,
Lưu trữ học, Quản lý Nhà nước, Quản lý Văn hóa, Khoa học Thư viện. Khóa
học 2012 – 2016, Nhà trường tuyển sinh 4 ngành học, số lượng SV đăng ký học
các ngành được sắp xếp theo thứ tự từ cao đến thấp là: ngành Quản trị nhân lực
13



(chiếm 46%), ngành Quản trị Văn phòng (chiếm 32%), ngành Lưu trữ học
khoảng 15% và ngành Khoa học Thư viện (7%). Khóa học 2013 - 2017, số
lượng SV trúng tuyển vào trường có sự gia tăng cùng với sự mở rộng ngành đào
tạo, trong đó, hai ngành đào tạo Quản trị Văn phịng và Quản trị Nhân lực có số
lượng SV theo học chiếm 28% và 26%, tiếp đến là ngành Quản lý Nhà nước
(20%), Lưu trữ học (19%) và 7% SV học ngành Khoa học Thư viện. Khóa học
2014 – 2018, trường tiếp tục mở rộng thêm ngành đào tạo về Quản lý văn hóa
song tổng số SV khơng tăng hơn so với khóa học 2013 - 2017. Các ngành Quản
lý Nhà nước, Lưu trữ học, Quản trị Nhân lực, Quản trị Văn phòng chiếm tỷ lệ
SV tương đối cao và đồng đều nhau, sau đó là ngành Quản lý Văn hóa và Khoa
học Thư viện. Khóa học 2015 – 2019, trường tuyển sinh được tổng số 1299 SV
hệ đại học trong đó số SV ngành Quản lý Nhà nước chiếm 26,2 %, tiếp đó là
ngành Quản trị Nhân lực là 20,3%, ngành Quản trị Văn phòng chiếm 19,3%,
ngành Lưu trữ học chiếm 14,3%, ngành Quản lý Văn hóa chiếm 12,2%, ngành
Khoa học Thư viện chiếm 7,7%/ tổng số SV tồn khóa.
Sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội có sự chênh lệnh rất lớn về giới
tính, nữ chiếm hơn 70%, trong khi đó, nam chiếm khoảng hơn 20%/ tổng số sinh
viên tồn khóa. Tỷ lệ SV thuộc các dân tộc thiểu số được đào tạo ở Trường cũng
chiếm khá lớn, chiếm khoảng ¼ tổng số SV hệ đại học chính quy trên tồn
trường (Khóa học 2012 - 2016, SV là người thuộc các dân tộc thiểu số chiếm
khoảng 19%; Khóa học 2013 - 2017, SV là người thuộc các dân tộc thiểu số
chiếm khoảng 25%. Riêng hai khóa học là Khóa học 2014 – 2018 và Khóa học
2015 – 2019, SV dân tộc thiểu số chiếm 15%, giảm xuống 10% so với các năm
học trước đó). Về cơ cấu, SV người dân tộc Kinh chiếm 68,0%; SV người dân
tộc thiểu số chiếm 32,0%/. Đa số SV dân tộc thiểu số là người dân tộc Tày,
Hmông, Mường, Thái, Dao…
Về mặt sinh lý, cũng như sinh viên của các trường đại học khác, sinh viên
Đại học Nội vụ Hà Nội đang phát triển về thể chất, trí tuệ và đạo đức, có những đặc
điểm tâm sinh lý đặc trưng của lứa tuổi. Ở cấp độ cá nhân, sinh viên là người đang
trong giai đoạn phát triển nhanh về thể lực, định hình về nhân cách, tăng cường học

14


tập tiếp thu những tri thức, kỹ năng xã hội. Đây là thời kỳ lứa tuổi sinh viên phát
triển tư duy trừu tượng, đặc biệt là sự phát triển thế giới quan, nhân sinh quan, chứa
đựng hoài bão vươn tới lý tưởng cao đẹp, phát triển hứng thú nghề nghiệp… Sự
dần trưởng thành về thể chất của sinh viên cho phép họ có đủ sức khoẻ để tiến hành
đồng thời nhiều hoạt động học tập, lao động, thể thao, vui chơi, tham gia các hoạt
động văn hóa, hưởng thụ các sản phẩm văn hóa và các hoạt động xã hội khác một
cách thoải mái.
Về mặt tâm lý, sinh viên là giai đoạn lứa tuổi hình thành và phát triển
mạnh mẽ những phẩm chất nhân cách có ý nghĩa rất lớn đối với việc tự giáo
dục, tự hoàn thiện bản thân theo hướng tích cực như khả năng tự đánh giá, lòng
tự trọng, tự tin, ý thức… Tâm trạng của lứa tuổi sinh viên tuy đã ổn định và có ý
thức hơn nhiều so với lứa tuổi trước đó song cịn rất mới mẻ, non nớt và có
những biểu hiện phức tạp, mâu thuẫn. Một bộ phận sinh viên còn thụ động, chưa
thích nghi với mơi trường thay đổi. Sinh viên dễ nhạy cảm với cuộc sống, nhất
là những cái mới lạ, cộng với tâm lý chưa thật sự ổn định, lại ham thích và chạy
theo cái mới, chịu ảnh hưởng của lối sống đua đòi, thực dụng, hay thay đổi.
Thêm vào đó, sinh viên thường có tâm lý vội vàng, dễ bị kích thích, thiếu tự
chủ, chủ quan nên nếu khơng được định hướng đúng đắn, kịp thời thì sự lựa
chọn trong tiếp nhận cái mới dễ dẫn tới sai lầm, thái quá, ảnh hưởng đến sự lựa
chọn các giá trị văn hóa đúng đắn trong đời sống văn hóa của mình.
Về mặt xã hội, sinh viên Đại học Nội vụ Hà Nội có khát vọng được cống
hiến, mong muốn được xã hội ghi nhận. Họ cũng muốn được khẳng định vai trị, vị
trí của mình trong gia đình, trong tập thể, trong công việc, trong các mối quan hệ.
Các phẩm chất tâm lý cá nhân dần phát triển, tư tưởng và hành vi ngày càng có tính
độc lập.
Như vậy, sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội bên cạnh những yếu tố
thuận lợi của giới trẻ là có sức khỏe, ham hiểu biết thì cũng cịn gặp nhiều khó

khăn trong cuộc sống. Do vậy, rất cần thiết trong việc quan tâm định hướng giúp
đỡ thanh niên trong quá trình xây dựng nếp sống lành mạnh, có văn hóa cũng
như khuyến khích sinh viên tham gia vào các hoạt động văn hóa có tính giáo dục
15


cao để góp phần nâng cao hiệu quả đời sống văn hóa tinh thần cho sinh viên.
1.1.3. Vai trị của đời sống văn hóa sinh viên trong việc xây dựng chất
lượng nguồn nhân lực trường Đại học Nội vụ Hà Nội
1.1.3.1. Xây dựng đời sống văn hố góp phần nâng cao chất lượng học
tập và sinh hoạt của sinh viên
Xây dựng đời sống văn hóa trong trường đại học Đại học Nội vụ là tạo ra
một trật tự trong sinh hoạt, nề nếp trong học tập. Đồng thời, xây dựng đời sống
văn hóa là tạo ra một mơi trường hoạt động ngồi giảng đường cho sinh viên mà
ở đó sinh viên có thể hiểu nhau hơn, từ đó có sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ
nhau trong học tập.
Những hoạt động văn nghệ, thể thao, giải trí lành mạnh ngồi thời gian
học tập giúp các em thêm gắn bó với trường, lớp, với bạn bè và có thời gian thư
giãn sau những giờ học căng thẳng, tạo động lực thúc đẩy sự hưng phấn trong
học tập, sinh hoạt của sinh viên.
Xây dựng đời sống văn hóa trong nhà trường là phát huy tính chủ động,
sáng tạo trong sinh viên, tạo điều kiện để các em tham gia các hoạt động đồn
thể, cơng đồn, đồng thời, định hướng cho sinh viên những quan điểm, nhận
thức đúng đắn khi hưởng thụ các hoạt động văn hóa tinh thần và hình thành
những chuẩn mực trong giao tiếp, ứng xử xã hội.
Công tác xây dựng và nâng cao đời sống văn hoá cho sinh viên là một bộ
phận hữu cơ, quan trọng trong công tác giáo dục tồn diện học sinh, sinh viên,
góp phần xây dựng thế hệ con người Việt Nam với những phẩm chất tốt đẹp
theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khố VIII), đáp ứng u cầu cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.

Đặc biệt, trong suốt q trình học tập, sinh viên được tiếp xúc với nghệ
thuật, tham gia các chương trình biểu diễn đã giúp các em xây dựng thẩm mỹ
nghệ thuật tốt. Với những hoạt động vui mà học lành mạnh, bổ ích đã giúp sinh
viên thêm hăng say học tập, nhận thức được nâng lên, nâng cao ý thức cảnh giác
với các tệ nạn trong xã hội.

16


1.1.3.2. Xây dựng đời sống văn hố góp phần bồi dưỡng lý tưởng và hình
thành đạo đức, lối sống lành mạnh trong sinh viên
Lý tưởng là mục tiêu cao đẹp, là lẽ sống, là mục đích sống của thanh niên,
là ước vọng của tuổi trẻ muốn vươn tới cái hay, cái đẹp, cái tiến bộ trong cuộc
sống. Lý tưởng vừa là mục tiêu cao cả mà con người hướng tới, vừa là động lực
thúc đẩy con người hành động. Lý tưởng là sức mạnh diệu kỳ giúp thanh niên
vượt qua mọi khó khăn, thách thức. Nếu khơng có lý tưởng, con người mất
phương hướng, thiếu niềm tin, cuộc sống không có ý nghĩa. Bác Hồ đã từng nói:
“Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần
thiết”. Thực tế cho thấy, sự dưỡng dục của gia đình, nhà trường; sự định hướng
của các tổ chức đồn thể và một mơi trường lao động, học tập vui chơi, giải trí
lành mạnh là yếu tố quyết định việc hình thành lý tưởng, đạo đức cách mạng cho
thanh niên, sinh viên. Nhà trường là nơi chủ yếu để hình thành nhân cách, trang
bị kiến thức cơ bản, là môi trường rèn luyện tốt nhất cho thanh niên, học sinh,
sinh viên.
Giáo dục lý tưởng, nhân cách là một nội dung hết sức quan trọng bằng
việc đưa những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, và phương pháp
luận Mác - xít vào trong nhà trường thơng qua các hoạt động đoàn thể, xã hội
nhằm mục tiêu giáo dục truyền thống yêu nước, lý tưởng cách mạng, lý tưởng
nghề nghiệp cho sinh viên, giúp để sinh viên hăng hái phấn đấu trong học tập và
rèn luyện. Vì vậy, xây dựng đời sống văn hố sẽ góp phần trong việc bồi dưỡng

lý tưởng và hình thành đạo đức, lối sống lành mạnh trong sinh viên trường Đại
học Nội vụ hà Nội.
1.1.3.3. Xây dựng đời sống văn hố góp phần giữ gìn an ninh, trật tự
trong trường học
Ở bất cứ mơi trường nào, tầm vĩ mơ như trên tồn thế giới, trong mỗi
quốc gia hay tầm vi mô như ở một khu phố, một trường học thì việc giữ gìn an
ninh trật tự là việc rất quan trọng nó đảm bảo cho mỗi cá nhân trong đó được
sống an tồn và có điều kiện phát huy hết khả năng của mình. Đặc biệt trong
mơi trường giáo dục là các trường học thì việc đảm bảo an ninh, trật tự lại càng
17


cần được quan tâm chú trọng hơn bởi đây chính là nơi ươm mầm những thế hệ
tương lai của đất nước.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là nơi tập trung đông sinh viên từ nhiều
vùng, miền khác nhau nên dễ nảy sinh nhiều vấn đề gây mất trật tự, an ninh xã
hội… Nhu cầu cá nhân của sinh viên mở rộng quan hệ, giao lưu kết bạn cùng
với sự du nhập của văn hoá ngoại lai dẫn đến nhiều vấn đề phức tạp, như: lạm
dụng tình dục, sống thử, cờ bạc, rượu chè, ma tuý, tự tử… khiến công tác quản
lý sinh viên rất khó khăn.
Xây dựng đời sống văn hoá trong Trường Đại học Nội vụ Hà Nội gắn với
việc giáo dục lý tưởng, phẩm chất đạo đức, định hướng giáo dục thẩm mỹ để
cho sinh viên nhận thức đúng những giá trị tốt đẹp thông qua những hành động
và việc làm thiết thực, có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
Việc giữ gìn an ninh trật tự trong nhà trường, ký túc xá được thực hiện tốt
góp phần làm giảm đáng kể những hiện tượng tiêu cực như: sống thử, cờ bạc,
rượu chè, trộm cắp..., nâng cao đời sống văn hóa cho sinh viên. Cùng với việc
đầu tư kinh phí, trang bị cơ sở vật chất đảm bảo an toàn cho các khu ký túc xá,
nhà văn hoá, sân thể thao, căng tin…và các hoạt động văn hoá, câu lạc
bộ...thường xuyên dưới sự quản lý của nhà trường chính là đáp ứng nhu cầu

hưởng thụ văn hố của sinh viên, giữ gìn an ninh, trật tự trong trường học, khu
ký túc xá.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Hướng dẫn xây dựng đời sống văn hóa sinh viên của ngành Văn
hóa, ngành giáo dục và Đồn TNCS Hồ Chí Minh
Nghị quyết Đại hội Đại biểu tồn quốc Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh lần thứ X nêu rõ:
“Góp phần xây dựng lớp thanh niên giàu lịng u nước, u chủ nghĩa xã
hội, có bản lĩnh chính trị, ý thức chấp hành pháp luật, có đạo đức cách mạng và
lối sống đẹp, có ước mơ, hồi bão, khát vọng đưa đất nước vươn lên, có tri thức,
sức khoẻ, kỹ năng xã hội, năng lực chuyên môn, làm chủ khoa học công nghệ
hiện đại. Tiếp tục nâng cao chất lượng tổ chức Đoàn, mở rộng mặt trận đoàn kết
18


tập hợp thanh niên; phát huy vai trị xung kích cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, góp phần đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.”
[13, tr.78-79].
Ngày 19/8/2008, Bộ Giáo dục & Đào tạo - Bộ Văn hố Thể thao & Du
lịch - Trung ương Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cùng ký kế hoạch
liên tịch Số: 7575/KHLN/BGDĐT - BVHTTDL – TƯĐTN, Kế hoạch liên
ngành triển khai Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” với mục đích: Ngành Giáo dục và Đào tạo, ngành Văn hóa, Thể thao
và Du lịch và Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huy động nhân lực và hệ
thống cơ sở vật chất của mình để phối hợp thực hiện và huy động sự tham gia,
đóng góp của tồn xã hội triển khai Phong trào thi đua “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực” trong các nhà trường, qua đó ngành Giáo dục và
Đào tạo, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ

Chí Minh có điều kiện hồn thành tồn diện và hiệu quả hơn nhiệm vụ của
ngành mình, tổ chức mình.
Hưởng ứng phong trào do Ban chỉ đạo Trung ương phát động, ngành giáo
dục đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục trong cả nước với nhiều hoạt động thiết thực,
lồng ghép các nội dung cuộc vận động phong trào “Toàn dân đồn kết xây dựng
đời sống văn hố” với các phong trào khác hiện có, các hoạt động văn hố trong
các nhà trường, xây dựng các nhà trường thành các điển hình văn hố trong khu
vực. Xây dựng các trường học có đời sống văn hóa tốt, tạo sự chuyển biến quan
trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, nhằm phát triển nguồn
lực con người đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tiếp tục
phối hợp đẩy mạnh các phong trào thi đua trong ngành giáo dục, nhằm xây dựng
đời sống văn hóa trong các nhà trường, tạo môi trường sư phạm lành mạnh, văn
minh, lịch sự, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội trong trường học. Nội dung
chính như sau:
- Giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống yêu nước cách mạng và đạo
19


đức cho học sinh, sinh viên các bậc học.
- Tổ chức các cuộc vận động, các phong trào thi đua trong ngành giáo dục
nhằm tạo những chuyển biến về đời sống vật chất và tinh thần cho học sinh, sinh viên.
- Xây dựng và phát triển hệ thống thư viện trường học.
- Phối hợp chặt chẽ trên lĩnh vực xuất bản sách, báo, tài liệu, đồ dùng học tập.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã cùng với Bộ Văn hóa - Thơng tin ký kết
Chương trình phối hợp về việc thực hiện cuộc vận động phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” (Số 2723/CTCT ngày 12-4-2001). Thực
hiện chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương, các đơn vị đều thành lập Ban chỉ đạo
phong trào "Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hố" đơn vị mình và có báo
cáo về Bộ những hoạt động triển khai cuộc vận động phong trào ở cơ sở. Hầu hết
các trường đại học, cao đẳng trên cả nước đã thành lập ban chỉ đạo của đơn vị

mình theo mơ hình: Bí thư đảng uỷ (hoặc Phó hiệu trưởng) làm Trưởng ban,
phịng Cơng tác chính trị học sinh - sinh viên làm Phó ban trực gồm các thành viên
đại diện: cơng đồn, đồn thanh niên, phịng hành chính, ban quản lý ký túc xá…
Hầu hết các ban chỉ đạo cấp trường đều có kế hoạch phối hợp với địa phương thực
hiện tốt phong trào.
Đồng thời, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Trung ương Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã có nhiều chương trình hoạt động thiết thực
hưởng ứng cuộc vận động phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống
văn hóa”, đưa các nội dung cuộc vận động vào đời sống văn hóa trong nhà
trường, xây dựng trường học, các cơ sở giáo dục thành những đơn vị có đời sống
văn hóa tốt, thành lập các điểm sáng trong địa bàn dân cư. Nhiều hoạt động văn
hóa, thể thao cho cán bộ, giáo viên, học sinh sinh viên trong toàn ngành đã được
tăng cường, các cuộc vận động và phong trào hiện có của ngành giáo dục tiếp
tục được đẩy mạnh, đi vào chiều sâu và lồng ghép với nội dung của phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” như phong trào “Trường học có
đời sống văn hóa tốt”, “Xây dựng nhà trường văn hóa, học sinh văn minh, thanh
lịch, hiện đại”, “Học tập, rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp” hưởng ứng thực
hiện “Năm giao thông, kỷ cương và văn minh đô thị”. Bộ Giáo dục và Đào tạo
20


phối hợp với nhiều bộ, ngành tổ chức nhiều chương trình hoạt động nhằm nâng
cao đời sống văn hóa tinh thần cho học sinh, sinh viên như phối hợp với Đài
Truyền hình Việt Nam tổ chức cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia”, phối hợp
với Bộ Văn hóa - Thơng tin tổ chức “Liên hoan tiếng hát học sinh sinh viên”
thường kỳ… Nhiều đơn vị đã linh hoạt trong chỉ đạo thực hiện vừa đảm bảo
được yêu cầu chung của phong trào, vừa gắn được với các hoạt động tại địa
phương.
Bước đột phá trong cơng tác giáo dục tồn diện, nâng cao đời sống văn hoá
cho học sinh, sinh viên là Thông tư Số: 16/2015/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ

Giáo dục và Đào tạo ban hành “Quy chế đánh giá kết quả rèn luyện của người
học được đào tạo trình độ đại học hệ chính quy”. Trong đó đánh giá về ý thức và
kết quả tham gia các hoạt động chính trị - xã hội, văn hố, văn nghệ, thể thao,
phịng chống các tệ nạn xã hội, đánh giá về ý thức công dân và quan hệ cộng đồng.
Thông qua quy chế, việc đánh giá mặt rèn luyện học sinh, sinh viên đã được lượng
hố bằng các tiêu chí cụ thể về hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, các
hoạt động phong trào trong nhà trường. Quy chế đã tạo sự chuyển biến trong công
tác quản lý học sinh, sinh viên đối với lãnh đạo, cán bộ, giáo viên nhà trường và
cùng với sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức đoàn thanh niên, hội sinh viên, đã
tạo được khơng khí dân chủ, khách quan, nâng cao ý thức tự giác tham gia các
hoạt động văn hoá cho học sinh, sinh viên trong các nhà trường.
Ngày 17/6/2004 Trung ương Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bộ
Văn hóa Thể thoa & Du lịch đã ký kết chương trình (Số 65/CTPH/ĐTN-BVHTT)
phối hợp đẩy mạnh việc tổ chức hoạt động văn hoá trong thanh thiếu nhi… đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao về học tập, lao động sáng tạo, hoạt động văn hố văn
nghệ, vui chơi giải trí, xây dựng lối sống, nếp sống lành mạnh. Mục đích của
chương trình nhằm tạo điều kiện để phát huy vai trị của đồn thanh niên các cấp
tham gia có hiệu quả vào việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, thực hiện phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá…”.
Những năm qua, nhiều văn bản hướng dẫn cơng tác triển khai đời sống
văn hóa sinh viên đã ra đời, như: Quy định về công tác giáo dục phẩm chất
21


chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên trong các trường đại học, cao
đẳng, trung cấp chuyên nghiệp (2007); Quy chế đánh giá kết quả rèn luyện của
học sinh, sinh viên các cơ sở giáo dục đại học và trung cấp chuyên nghiệp hệ
chính quy (2007); Quy định về tổ chức hoạt động văn hóa cho học sinh, sinh
viên trong các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp, ban
hành kèm theo quyết định số 60/2008/QĐ-BGDĐT, ngày 5/11/2008 của Bộ

trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chỉ thị số 46 CT/TW của Ban Bí thư (7/2010)
về chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức
xã hội…
Các văn bản này là cơ sở pháp lý, định hướng hoạt động và đưa ra nội
dung cụ thể trong việc xây dựng đời sống văn hóa trong sinh viên.
1.3. Những nhân tố tác động đến đời sống văn hóa sinh viên trường Đại học
Nội vụ Hà nội
1.3.1. Tác động của kinh tế
Văn hố và kinh tế có sự gắn bó tác động sâu sắc với nhau. Văn hố là động
lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế, mặt khác, kinh tế phát triển là mảnh đất
thuận lợi cho sự phát triển văn hoá của cộng đồng. Với mối quan hệ đó, sự phát
triển của mỗi quốc gia, dân tộc chỉ có thể năng động hiệu quả, có tốc độ cao chừng
nào quốc gia đó đạt được sự phát triển kết hợp hài hoà giữa kinh tế với văn hoá.
Kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển của nền kinh tế thị trường và
những hệ lụy của nó. Kinh tế thị trường tác động và chi phối về mặt giá cả các
sản phẩm hàng hóa từ sản phẩm phục vụ cho nhu cầu thiết yếu hàng ngày như
đồ ăn uống, đồ tiêu dùng, sinh hoạt hàng ngày… đến sản phẩm phục vụ các nhu
cầu văn hóa như: thiết bị công nghệ, đồ điện tử, điện thoại di động… Bởi vậy,
với mức sống và điều kiện vật chất của đa phần sinh viên trường Đại học Nội vụ
Hà Nội không đủ để đáp ứng nhu cầu ăn uống, sinh hoạt hàng ngày bởi các
khoản chi phí tăng cao. Sinh viên muốn đáp ứng được nhu cầu vật chất phải có
điều kiện kinh tế gia đình khá giả, mức chu cấp sẽ tăng theo giá cả thị trường
hoặc sinh viên phải đi làm thêm để kiếm thêm thu nhập.
Khi nhu cầu vật chất cho đời sống hàng ngày chưa đủ đáp ứng, sinh viên
22


trường khơng thể có điều kiện để đáp ứng các nhu cầu khác như các hoạt động
vui chơi giải trí, du lịch, sử dụng các thiết bị số, các thiết bị điện tử cơng nghệ
cao…

1.3.2. Tác động của chính trị
Trong công cuộc đổi mới phát triển đất nước, đi đôi với xây dựng hình
ảnh con người Việt Nam năng động, tự tin, có nếp sống văn minh, hiện đại, phù
hợp với xu thế phát triển của thời đại, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công
tác bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ.
Bồi dưỡng, giáo dục nhân cách, tâm hồn thanh niên, sinh viên là một trong
những yếu tố cơ bản để hình thành nền tảng giá trị đạo đức của thế hệ trẻ. Vì vậy
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW Đảng khóa XI tại Đại hội Đại biểu Đảng
toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh:
“Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú,
đa dạng. Đưa phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hố” đi vào
chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hố trong các gia đình,
khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hoá thấm sâu
vào mọi mặt đời sống, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ
hằng ngày của cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng đối với các sản
phẩm độc hại. Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống có
văn hóa; xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội; ngăn chặn và
đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma tuý, cờ bạc...
Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn
và phát triển những giá trị truyền thống của văn hố, con người Việt Nam, ni
dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. [9].
Cụ thể hóa các đường lối, chủ trương đó vào từng phong trào, nội dung hoạt
động của học sinh, sinh viên là điều mà các ban ngành liên quan và toàn xã hội
luôn hướng đến. “Đối với thế hệ trẻ, làm tốt cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải
trí, phát triển thể lực, trí tuệ cho thế hệ trẻ. Khuyến khích, cổ vũ thanh niên nuôi
23



dưỡng ước mơ, hồi bão lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, cơng nghệ
hiện đại. Hình thành lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành
và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, góp phần quan trọng
vào sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thu hút rộng rãi thanh niên, thiếu niên và nhi
đồng vào các tổ chức do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm nịng cốt
và phụ trách.” [9].
Cơng tác giáo dục, đào tạo đặc biệt chú trọng đổi mới về hình thức, nâng
cao về chất lượng:
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các
yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất,
năng lực của người học. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị
kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học: yêu gia
đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả. Từng bước
hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học
tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo
dục, đào tạo gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu phát triển
nguồn nhân lực và thị trường lao động. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo
dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất, chất lượng; tăng quyền tự chủ và
trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Phát triển đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động và sử
dụng hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Phấn đấu
đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.” [9].
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển
đất nước trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố, do vậy, phải tạo chuyển
biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo. Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu
nước, u q hương, gia đình và tự tơn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng
nhân ái, ý thức tơn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp,
không cam chịu nghèo hèn.
Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh,

24


×