Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Đề tài quyền nhân thân theo quy định của bộ luật dân sự một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.99 KB, 35 trang )

A. Mở bài:
Quyền nhân thân là một trong những quyền rất quan trọng đuợc Luật Dân sự
Việt Nam - quyền nhân thân gắn liền với một chủ thể nhất định, gắn liền với giá trị
tinh thần, gắn liền với mỗi chủ thế nhất định và không chuyến giao đuợc về nguyên
tắc . Tại Việt Nam, quyền nhân thân đuợc quy định tại Điều 24 Bộ luật dân sự năm
2005.
Điều 24. Quyền nhân thân: Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật
này là quyền dân sự gắn liền với moi cá nhân, không thể chuyển giao cho người
khác, trừ trường hợp pháp luật cỏ quy định khác.
Bộ luật Dân sự Việt Nam dành 28 điều để làm rõ những điều liên quan đến
quyền nhân thân này, cụ thể đó là những quyền nhu: quyền đuợc khai sinh, khai tử,
đuợc cải chính họ tên, quyền hiến bộ phận cơ thể, quyền kết hôn, ly hôn, quyền xác
định giới tính, quyền tự do kinh doanh...
Mặc dù luật đã quy định cụ thể nhu vậy, nhung trong thực tiễn thi hành, các
vấn đề về quyền nhân thân luôn gặp nhiều vuớng mắc. Truớc các vấn đề đó, đề tài “
Quyền nhân thân theo quy định trong Bộ luật dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” là rất cấp thiết, cần có sự nghiên cứu, tìm tòi, đào sâu để làm rõ những vấn đề
còn vuớng mắc, đem lại sự hoàn thiện của pháp luật nói chung và luật dân sự nói
riêng.
B. Phần nội dung:
I. Khái niệm và phân loại quyền nhân thân.
1. Khái niệm quyền nhân thân

Điều 24 Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 quy định: “Quyền nhân thân được quy
định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với moi cá nhân, không thể
chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Quy
định này đã nêu lên khái niệm về quyền nhân thân thông qua hai đặc điếm cơ bản là:
gắn liền với cá nhân, không chuyến dịch.
1



Neu chỉ dừng lại ở những đặc điếm đó thì khái niệm quyền nhân thân sẽ
vuớng phải một số bất cập nhất định sau đây:
- Với hai đặc điểm nêu trên thực sự chua đủ để phân biệt quyền nhân thân với

các quyền dân sự khác, bởi lẽ có một số quyền tài sản cũng mang đủ hai đặc điểm
này.
Ví du: Pháp luật hôn nhân và gia đình quy định rằng quyền đuợc cấp duỡng
và nghĩa vụ cấp duỡng cũng đuợc gắn liền với những cá nhân nhất định nhu: giữa
cha mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà và cháu, giữa vợ và chồng.
Quyền yêu cầu cấp duỡng và nghĩa vụ cấp duỡng không thể thay thế bằng các
quyền, nghĩa vụ khác và cũng ‘‘“'không thế chuyến giao cho người khác” (Điều 50
Luật Hôn nhân và gia đình 2000). Quyền này là quyền tài sản chứ không phải là
quyền nhân thân.
- Điều 24 BLDS 2005 quy định rằng quyền nhân thân là quyền “gan liền với

moi cá nhân”, vậy thì các chủ thể khác (nhu pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác) có
các quyền nhân thân của mình không? Điều 604 và Điều 611 BLDS 2005 có đề cấp
đến “danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác”, vậy đây có được coi là quyền
nhân thân của pháp nhân và các chủ thể khác không? Điều 1 Nghị quyết số
01/2004/NQ- HĐTP ngày 28/04/2004, cũng như Điều 1 Nghị quyết số 03/2006/NQHĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Các quy
định đó đều hướng tới sự thừa nhận các quyền nhân thân đối với pháp nhân và các
chủ thế khác.
Các phân tích hên cho ta thấy phải chăng khái niệm quyền nhân thân nên
được mở rộng không những gắn với cá nhân mà với cả các chủ thế khác, đế phân
biệt quyền nhân thân với các quyền dân sự khác. Từ đó xây dựng một khái niệm
quyền nhân thân mới.
2. Phân loại quyền nhân thân:

2



BLDS 2005 liệt kê tương đối nhiều các quyền nhân thân (từ Điều 26 đến Điều
51). Điều 738 và Điều 751 BLDS 2005 còn quy định thêm một số quyền nhân thân.
Các quyền nhân thân này có thế được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, mỗi
tiêu chí thế hiện một khía cạnh pháp lý đặc thù. Thông qua các phân loại này chúng
ta sẽ hiếu được rõ nét hơn bản chất pháp lý của từng loại quyền nhân thân, từ đó
nhận diện được chính xác các hành vi xâm phạm và đề ra được phương thức bảo vệ
thích họp nhất.
Thứ nhất, dựa vào căn cứ phát sinh mà các quyền nhân thân có thế phân
thành nhóm các quyền nhân thân không gắn với tài sản (các quyền nhân thân không
gắn với tài sản này được công nhận đối với mọi cá nhân một cách bình đẳng và suốt
đời, không phụ thuộc vào bất cứ hoàn cảnh kinh tế, địa vị hay mức độ tài sản của
người đó) và nhóm các quyền nhân thân gắn với tài sản (quyền nhân thân gắn với tài
sản chỉ được xác lập cùng với sự hình thành của một tài sản vô hình, như tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học, sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch tích họp bán
dẫn, giống cây trồng, ...). Phân loại này được thế hiện tại khoản 1 Điều 15 BLDS
2005. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản được quy định từ Điều 26 đến
Điều 51 BLDS 2005. . . Các quyền nhân thân này được quy định tại khoản 2 Điều
738 và mục a khoản 1 Điều 751 BLDS 2005. Trong số các quyền này có một quyền
có thể chuyển giao được sang cho chủ thể khác - đó là quyền công bố hoặc cho phép
người khác công bố tác phẩm (theo quy định tại Khoản 1 Điều 742 BLDS 2005).
Thứ hai, dựa vào chủ thể mang quyền mà các quyền nhân thân có thể được
phân thành hai nhóm là: Nhóm các quyền nhân thân của cá nhân và nhóm các quyền
nhân thân của các chủ thế khác (không phải là cá nhân). Các quyền nhân thân của cá
nhân bao gồm các quyền nhân thân được quy định từ Điều 26 đến Điều 51 BLDS
2005 và các quyền nhân thân gắn với tài sản được quy định tại Điều 738 BLDS
2005. Các quyền nhân thân của pháp nhân, hộ gia đình, tổ họp tác có thể bao gồm:
quyền được bảo vệ danh dự, uy tín (được đề cập đến tại Điều 604 và Điều 611
3



BLDS 2005). Có thế thừa nhận thêm một số quyền nhân thân của pháp nhân như
quyền đối với tên gọi, quyền tự do kinh doanh đối với các chủ thể có đăng ký kinh
doanh.
Thứ ba, dựa vào đối tượng của quyền mà các quyền nhân thân được phân
thành 5 nhóm sau đây:
- Nhóm các quyền cá biệt hoá chủ thể, bao gồm: quyền đối với họ tên; quyền

thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền đuợc khai sinh, khai tử; quyền đối
với hình ảnh; quyền xác định lại giới tính; quyền đối với quốc tịch.
- Nhóm các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân, bao gồm: quyền đuợc

đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền
nhận bộ phận cơ thế nguời.
- Nhóm các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể: quyền đuợc bảo

vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật đời tu; quyền bất khả xâm phạm về chỗ
ở; quyền tự do tín nguỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cu hú; quyền lao động;
quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo.
- Nhóm các quyền liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình của cá nhân:

quyền kết hôn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền đuợc huởng sự chăm sóc giữa các
thành viên trong gia đình; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con;
quyền đuợc nuôi con nuôi và quyền đuợc nhận làm con nuôi.
- Nhóm các quyền đối với các đối tuợng của quyền sở hữu hí tuệ: quyền đặt

tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm hay trên văn
bằng bảo hộ (đối với sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch tích họp bán dẫn,
giống cây trồng), quyền đuợc nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm đuợc công bố,
sử dụng; quyền công bố hoặc cho phép nguời khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ

sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho nguời khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác
phẩm.

4


Thứ tư, Dựa vào thời hạn bảo hộ mà các quyền nhân thân đuợc phân loại
thành hai nhóm: Nhóm các quyền nhân thân đuợc bảo hộ vô thời hạn và nhóm các
quyền nhân thân đuợc bảo hộ có thời hạn.
- Nhóm các quyền nhân thân đuợc bảo hộ vô thời hạn bao gồm: quyền đối với

họ tên; quyền đối với hình ảnh; quyền đuợc bảo vệ danh dự, uy tín; quyền bí mật đời
tu; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, đuợc nêu tên thật hoặc bút
danh khi tác phẩm đuợc công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm,
không cho nguời khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm.
- Nhóm các quyền nhân thân đuợc bảo hộ có thời hạn bao gồm: quyền thay

đối họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền đuợc khai sinh, khai tử; quyền đuợc đảm
bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền đuợc bảo vệ nhân phẩm; quyền
hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể nguời; quyền xác định lại giới tính;
quyền kết hôn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền đuợc huởng sự chăm sóc giữa các
thành viên trong gia đình; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con;
quyền đuợc nuôi con nuôi và quyền đuợc nhận làm con nuôi; quyền đối với quốc
tịch; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín nguỡng, tôn giáo; quyền tự
do đi lại, tự do cu trú; quyền lao động, quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên
cứu, sáng tạo; quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền công bố hoặc cho phép nguời khác
công bố tác phẩm.
Thứ năm, dựa vào đặc điểm của hành vi xâm phạm mà chúng ta phân loại các
quyền nhân thân thành ba nhóm:
- Nhóm các quyền mà hành vi xâm phạm tác động vào chính chủ thế quyền,


bao gồm: quyền đuợc đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền hiến
bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người; quyền xác định lại giới tính;
quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền
được bảo vệ nhân phẩm, các quyền nhân thân liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia

5


đình; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao
động, quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo.
- Nhóm các hành vi xâm phạm tác động vào các chủ thế khác (không phải là

chủ thể quyền), bao gồm: quyền được bảo vệ danh dự, uy tín; quyền bí mật đời tư;
quyền đối với họ tên; quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm.
- Nhóm các hành vi xâm phạm tác động vào vật phẩm liên quan đến quyền,

bao gồm: quyền đối với họ tên; quyền đối với hình ảnh; quyền bí mật đời tư; quyền
bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền đối với quốc tịch; quyền bí mật đời tư; quyền đặt
tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên
thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự toàn vẹn
của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm.
Thứ sáu, dựa vào phương thức bảo vệ mà các quyền nhân thân được phân
thành hai nhóm: Nhóm các quyền được bảo vệ khi có yêu cầu và nhóm được bảo vệ
không phụ thuộc vào yêu cầu.
- Nhóm các quyền được bảo vệ khi có yêu cầu bao gồm: quyền đối với họ

tên; quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử;
quyền đối với hình ảnh; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể
người; quyền xác định lại giới tính; quyền đươc bảo vệ danh dự, uy tín; quyền bí

mật đời tư; quyền kết hôn; quyền bình đẳng vợ chồng; quyền ly hôn; quyền nhận,
không nhận cha, mẹ, con; quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con
nuôi; quyền đối với quốc tịch; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao động, quyền tự do kinh
doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo; quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng
tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm
được công bố, sử dụng; quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén,
xuyên tạc tác phẩm.
6


- Nhóm được bảo vệ không phụ thuộc vào yêu cầu bao gồm: quyền được đảm

bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm; quyền
được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình.
II. Quyền nhân thân theo quy định của Bộ luật dân sự. Một sế vấn đề lý
luận và thực tiễn.
1. Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể.

Khoản 3 Điều 32 BLDS năm 2005 quy định “việc thực hiện phương pháp
chữa bệnh mới trên cơ thế một người,... thì phải được sự đồng ỷ
của người đó; nếu người đó chưa thành niên, mất năng lực hành vi
dân sự hoặc là bệnh nhân bất tỉnh, thì phải có sự đồng ỷ của cha,
mẹ, người giám hộ, vợ hoặc chồng và con đã thành niên của người
đó; trong trường hợp có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của bệnh
nhân mà

7



không chờ được ỷ kiến của những người trên, thì phải có quyết định của người đứng
đầu cơ sở y tế”.
Qui định này đã đáp ứng được yêu cầu cấp bách và cần thiết trong việc cấp
cứu người bệnh. Tuy nhiên, việc trao quyền cho người đứng đầu cơ sở y tế quyết
định việc chữa bệnh khi không thế chờ được ý kiến của thân nhân, như cách qui định
trên, sẽ gây ra những hậu quả bất lợi cho nhân mạng của bệnh nhân và gây ra tâm
trạng bất an cho gia đình, những người thân thích nhất của bệnh nhân. Bởi lẽ, thực tế
hiện nay tại một số cơ sở chữa bệnh, người đứng đầu cơ sở chỉ là người quản lý mà
không nắm bắt hoặc hiểu biết hết về các lĩnh vực y khoa chuyên sâu. Do đó, để
những người này ra các quyết định về việc áp dụng phương pháp chữa bệnh mới, cắt
bỏ bộ phận cơ thể, cấy hoặc ghép nội tạng... thì rất mạo hiếm đối với sự an toàn cơ
thế và sinh mạng của người bệnh, trong khi chúng ta chưa có cơ chế giám sát chặt
chẽ về việc ra các quyết định này của người đứng đầu cơ sở chữa bệnh, nhất là đối
với các phòng khám cơ sở, các cơ sở chữa bệnh tư nhân... Vì thế, nên bổ sung thêm
đoạn cuối khoản 3 Điều 33 BLDS 2005 với nội dung như sau “... quyết định của
người đứng đầu cơ sởy tế, dựa trên kết luận của hội đồng y khoa của cơ sở chữa
bệnh đó gồm từ 3 bác sỹ chuyên khoa trở lên có liên quan đến căn bệnh cần phải xử
lý bằng các phương pháp y khoa kế trên, sau khi đã hội chan về căn bệnh đó. Kết
luận của Hội đồng phải được lập thành văn bản hoặc thế hiện trong hồ sơ bệnh án
của bệnh nhân”. Qui định như vậy sẽ hạn chế tối đa những sai lầm cá nhân của
người đứng đầu cơ sở y tế khi ra các quyết định hệ họng liên quan đến sự sống và
sức khỏe, sự an toàn cơ thể của bệnh nhân (trong khi pháp luật hiện hành không có
một qui định nào về trách nhiệm, chế tài hay biện pháp cần thiết để hạn chế sai lầm
của người này khi ra các qui định đó). Neu cẩn thận hơn, cần xác định thêm là cơ sở
y tế tuyến nào hoặc cấp nào mới có quyền ra những quyết định nói hên. Theo em, chỉ
nên cho phép những sơ sở chữa bệnh từ cấp huyện trở lên có đủ các bác sỹ chuyên
khoa có chuyên môn để có thể đưa ra các quyết định đúng đắn về phương pháp chữa



bệnh thích ứng mới được quyền quyết định việc áp dụng phương pháp chữa bệnh,
khi việc áp dụng các phương pháp đã kể trên (không bao gồm các phương pháp y
khoa cần thiết để cấp cứu bệnh nhân) trường họp khẩn cấp mà không thế chờ được ý
kiến của thân nhân người bệnh. Đồng thời, việc áp dụng các phương pháp đó phải
được thông báo cho những người thân thích nhất gồm những người được nêu trong
điều luật, nếu họ có yêu cầu, hừ trường họp việc thông báo đó xâm phạm bí mật đời
tư của bệnh nhân. Neu chỉ quan tâm đến việc áp dụng các phương pháp đặc biệt để
cứu chữa bệnh nhân mà không tạo ra cơ chế bảo đảm cho việc đó được thực hiện
một cách an toàn, thì đó sẽ là một thiếu sót nghiêm trọng - nguy cơ dẫn đến nhiều
hậu quả đáng tiếc không lường trước được.
2. Quyền của cá nhân đối với họ, tên.

Mỗi cá nhân sinh ra đều có tên gọi của mình do bố mẹ đặt cho đế phân biệt cá
nhân đó với những cá nhân khác. Có nhiều dấu hiệu đế phân biệt cá nhân này với cá
nhân khác nhưng có lẽ tên gọi là dấu hiệu đầu tiên đế cá biệt hoá cá nhân.
Điều 26 BLDS 2005 quy định:
1. Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định theo họ,

tên khai sinh của người đó.
2. Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình

đã được cơ quan nhà nước cỏ thẩm quyền công nhận.
3. Việc sử dụng bí danh, bút danh không được gây thiệt hại đến quyền, lợi ích

hợp pháp của người khác.
Như vậy, mặc dù một người có thế có nhiều tên gọi khác nhau như tên khai
sinh, tên thường gọi, biệt hiệu, bí danh ... nhưng khi tham gia quan hệ pháp luật, mỗi
cá nhân chỉ được công nhận mang một tên riêng đế phân biệt với những cá nhân
khác. Đó là tên khai sinh của người đó được ghi trong giấy khai sinh.
Tên của một người theo truyền thống, phong tục của Việt Nam thường bao

gồm họ, tên đệm và tên gọi. Họ của một người thường theo họ cha hoặc họ mẹ của


người đó. Theo quy định của Nghị định 158/2005/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch thì
pháp luật cũng không quy định việc khai sinh cho trẻ bắt buộc phải có họ. Do vậy,
việc lựa chọn họ cho trẻ theo họ cha hoặc họ mẹ hoặc một họ khác hoặc không có họ
là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người đi đăng ký khai sinh cho trẻ.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định tên khai sinh của một người cũng có
những khó khăn, phức tạp đặc biệt là trong trường họp người đó không được đăng
ký khai sinh. Trên thực tế đã có những trường họp do điều kiện hoàn cảnh mà rất
nhiều em bé không được khai sinh ví dụ như Báo Pháp Luật TP.HCM ngày 18-1 có
bài “Một phường có hơn 400 trẻ “vô danh ” phản ánh phường Bình Hưng Hòa A
(quận Bình Tân, TP.HCM) có hơn 400 trẻ em chưa có giấy khai sinh. Hầu hết cha
mẹ của các em là công nhân, người lao động có hộ khẩu ở tỉnh, không có tiền về quê
làm thủ tục khai sinh cho con... Có em sắp thi đại học vẫn chưa có giấy khai sinh.
Nhiều em không được nhận vào học tại các trường công mà phải học ở các lóp học
tình thương.
Quyền đối với họ tên là một quyền nhân thân của cá nhân. Cá nhân có quyền
nhân thân này kế từ khi sinh ra. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền nhân thân này lại
không phụ thuộc vào cá nhân, là những em bé không có năng lực hành vi dân sự mà
hoàn toàn phụ thuộc vào người khác, những người có quyền và trách nhiệm đăng ký
khai sinh cho trẻ. Trong hường hợp trẻ em không được đăng ký khai sinh do lỗi của
người lớn thì rõ ràng quyền và lợi ích của trẻ em đã bị xâm phạm. Vậy ai sẽ chịu
trách nhiệm trong những trường họp này và vấn đề trách nhiệm dân sự như bồi
thường thiệt hại có được đặt ra hay không?
Không những thế, trong trường họp trẻ em đã trở thành người lớn và có đầy
đủ năng lực hành vi dân sự mà vẫn chưa được đăng ký khai sinh thì có thế tự đi đăng
ký khai sinh cho mình không? Nghị định 158 chỉ quy định hường họp đăng ký khai
sinh cho trẻ em trong đó quy định rõ người đi đăng ký khai sinh phải là người khác
và thủ tục đăng ký khai sinh phải cần những giấy tờ nhất định. Như vậy, nếu pháp



luật không có quy định và giải thích rõ ràng thì người không được khai sinh đó mãi
vẫn là người không có họ, tên và không được tham gia vào các quan hệ pháp luật
dân sự cũng như các quan hệ pháp luật khác. Và như vậy, quyền nhân thân của cá
nhân sẽ chỉ là những quyền khách quan do pháp luật quy định mà sẽ không thể trở
thành những quyền năng chủ quan, cụ thể của cá nhân. Theo em, để khắc phục tình
trạng này, pháp luật cần quy định rõ hơn về trách nhiệm của nguời không thực hiện
việc khai sinh cho hẻ cũng nhu cần bổ sung thêm truờng họp một nguời có thể tự đi
đăng ký khai sinh cho chính mình.
Ngoài ra, hên thực tế còn diễn ra nhiều trường họp người này sử dụng họ, tên
của người khác trong các quan hệ xã hội cũng như quan hệ dân sự. Việc sử dụng này
không những gây tốn hại cho danh dự, uy tín mà còn gây thiệt hại về tài sản của cá
nhân. Hành vi này bị coi là hành vi bất họp pháp và sẽ phải chịu một trách nhiệm
pháp lý theo quy định của pháp luật.
3. Quyền xác định dân tộc.

Quyền xác định dân tộc là một quyền nhân thân của cá nhân được pháp luật
công nhân và bảo vệ. Theo quy định của BLDS năm 2005, Điều 28 thì cá nhân sinh
ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trong trường họp cha đẻ và
mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của người con được xác định là dân
tộc của cha đẻ hoặc dân tộc của mẹ để theo tập quán hoặc theo thoả thuận của cha
đẻ, mẹ đẻ.
Việt Nam là một quốc gia của 54 dân tộc cùng chung sống hoà thuận, trong đó
dân tộc Kinh chiếm 86% dân số; 53 dân tộc còn lại có số lượng dao động trcn dưới 1
triệu người như Tày, Nùng, Thái, Mường, Khmer cho đến vài trăm người như dân
tộc ơ Đu và Brâu.
Khác với quyền đối với họ, tên, dân tộc của cá nhân được xác định theo dân
tộc của cha hoặc của mẹ chứ không được hoàn toàn tự do lựa chọn và dân tộc của cá
nhân cũng sẽ được ghi vào giấy khai sinh khi trẻ đựơc đăng ký khai sinh.



Cũng giống như họ, tên, việc xác định dân tộc cho trẻ gặp khó khăn khi trẻ
sinh ra bị bỏ rơi hoặc không xác định được cha, mẹ. Theo quy định của khoản 3
Điều 16 Nghị định 158 thì trong trường họp khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi thì phần cha,
mẹ, dân tộc được bỏ trống. Quy định này tạo thuận lợi cho việc đăng ký khai sinh
cho hẻ được dễ dàng cũng như tạo được sự chính xác khi xác định dân tộc cho trẻ.
Tuy nhiên, quy định này lại có điếm hạn chế trong trường họp sau đó không thế xác
định được cha, mẹ đẻ của trẻ cũng như hẻ không được nhận làm con nuôi thì trẻ sẽ
lớn lên và sẽ mãi mãi không có dân tộc và như vậy thì quyền nhân thân của cá nhân
cũng không thế thực hiện được. Trong trường hợp này, pháp luật nên quy định dân
tộc của trẻ được xác định theo dân tộc Kinh hoặc theo dân tộc chiếm đa số ở địa
phương nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi. Khi đó mỗi cá nhân đều có được một dân tộc nhất
định và sau này khi xác định được cha, mẹ của trẻ thì có thể xác định lại dân tộc theo
quy định của pháp luật.
Vấn đề xác định lại dân tộc cũng là một trong những nội dung quyền nhân
thân của cá nhân. Theo quy định của Bộ luật dân sự thì người đã thành niên, cha đẻ
và mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên có quyền yêu cầu cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong hai trường họp:
- Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ, nếu cha đẻ, mẹ đẻ thuộc
hai dân tộc khác nhau.
- Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ trong trường hợp làm con nuôi
của người thuộc dân tộc khác mà được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi
do không biết cha mẹ đẻ là ai.
Nhà nước Việt Nam thi hành chính sách bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn
nhau giữa các dân tộc. Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển đồng đều, Chính phủ Việt
Nam ưu tiên đầu tư phát hiến kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi. Chính vì
vậy, đế hưởng lợi từ những chính sách của Nhà nước, trên thực tế có nhiều hường
họp muốn thay đổi dân tộc từ dân tộc này sang dân tộc khác. Trong trường họp này



pháp luật nước ta quy định rất chặt chẽ, các cá nhân không có quyền thay đổi dân tộc
mà chỉ có quyền xác định lại dân tộc theo những trường họp do pháp luật quy định.
Hơn nữa, chủ thể yêu cầu xác định lại dân tộc cũng rất hạn chế bao gồm người đã
thành niên, cha đẻ và mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên. Và
trong truờng họp cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên yêu
cầu xác định lại dân tộc cho người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi trở lên thì
phải được sự đồng ý của người chưa thành niên đó. Tuy nhiên, quy định này của
BLDS cũng có những điếm chưa thật họp lý:
Thứ nhất, Điều luật quy định người đã thành niên có quyền yêu cầu xác định
lại dân tộc. Tuy nhiên có hường họp người đã thành niên lại mất năng lực hành vi
dân sự thì người đó lại không thể tự mình thực hiện được quyền yêu cầu mà phải cần
có sự tham gia của người giám hộ.
Thứ hai, Điều luật quy định cha đẻ và mẹ đẻ của người chưa thành niên có
quyền yêu cầu. Quy định này được hiểu là phải có sự yêu cầu của cả cha và mẹ của
người chưa thành niên trong trường họp yêu cầu xác định lại dân tộc cho con. Điều
này cũng gây khó khăn trong trường họp cha, mẹ đã ly hôn, một bên ở nước ngoài
hoặc một bên đã chết...
Thứ ba, Điều luật quy định giám hộ của người chưa thành niên có quyền yêu
cầu nhưng không quy định người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có
quyền yêu cầu dẫn đến hên thực tế có những trường họp không xác định được người
nào là người có quyền yêu cầu trong trường hợp người đã thành niên mất năng lực
hành vi dân sự cần xác định lại dân tộc.
Vì vậy để quy định hợp lý và chặt chẽ hơn, điều luật cần quy định người có
quyền yêu cầu xác định lại dân tộc bao gồm: người có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ; cha, mẹ của người chưa thành niên hoặc người giám hộ.


4. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh.


Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì cá nhân có quyền đối với hình ảnh
của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Trong
truờng họp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì
phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó
đồng ý, hừ trường họp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có
quy định khác.
Hình ảnh của cá nhân thuộc lĩnh vực riêng tư của mỗi người. Tuy nó không có
gì bí mật, cần phải hạn chế sử dụng nhưng một khi muốn sử dụng những hình ảnh
của cá nhân ai đó, nhất là sử dụng khai thác vào mục đích kinh doanh (như in lịch, in
bìa sách, bao bì mẫu quảng cáo...) thì đều phải hỏi ý kiến “người chủ” hình ảnh đó.
Bởi về nguyên tắc, mọi cá nhân đều có quyền đối với hình ảnh của mình. Mỗi người
đều có quyền cho hay không cho người khác sử dụng hình ảnh của mình. Neu chưa
được sự đồng ý mà sử dụng đã là vi phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
Khái niệm hình ảnh của cá nhân được hiếu là bao gồm mọi hình thức nghệ
thuật ghi lại hình dáng của con người như ảnh chụp, ảnh vẽ, ảnh chép và suy rộng ra
có thể bao gồm cả bức tượng của cá nhân đó hoặc cả hình ảnh có được do ghi hình
(quay video). Đối với mỗi loại hình nghệ thuật cũng bao gồm nhiều loại khác nhau.
Ví dụ: ảnh chụp có thể bao gồm ảnh chân dung, ảnh nghệ thuật, ảnh tư liệu,
ảnh phóng sự... đều có thể chụp lại hình ảnh của con người; ảnh vẽ có thể bao gồm
vẽ truyền thần, vẽ ký hoạ ...
BLDS không quy định rõ như thế nào là đồng ý. Đồng ý ở đây được hiểu là có
sự thoả thuận giữa người sử dụng hình ảnh của cá nhân với cá nhân có hình ảnh đó
hay chỉ cần việc sử dụng hình ảnh không có sự phản đối của người có hình ảnh thì
được hiểu là người đó đương nhiên đồng ý. Theo em, việc sử dụng hình ảnh của cá
nhân vào bất kỳ mục đích gì mà không xin phép đều bị coi là vi phạm quyền nhân
thân về hình ảnh của cá nhân dù việc sử dụng đó có thế mang lại lợi ích hay gây thiệt


hại cho người có hình ảnh. Còn việc người có hình ảnh đó có khởi kiện hay không
thì đó lại là quyền của chủ thể trong quan hệ về tố tụng dân sự và người đó có quyền

lựa chọn.
Còn làm sao để được sự đồng ý thì hiện nay luật chưa “đả động” tới. Điều 31
BLDS nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự,
nhân phẩm, uy tín của người đó. Có việc này xảy ra tất nhiên phải bồi thường thiệt
hại về tinh thần. Nhưng trường họp không gây ra thiệt hại thì sao?
Trong thực tế lâu nay việc sử dụng “ảnh chùa” đã hở thành thói quen của mọi
người. Cùng lắm người nào “biết điều” cũng chỉ hỏi ý kiến của người sáng tác (chụp,
vẽ ảnh) chứ ít khi chịu tìm đến hỏi ý kiến của “nhân vật trong ảnh”. Bởi người ta vẫn
thường đinh ninh rằng người có hình ảnh được sử dụng đế ‘Tăng - xê” mình trước xã
hội đã là... “khoái” lắm rồi, cần gì phải hỏi ý kiến. Nhưng một khi chuyện lỡ rồi,
người có hình ảnh đó lại tìm cách làm khó dễ, việc xin lỗi không thôi chưa đủ. Tuỳ
theo giá trị sử dụng hình ảnh trong việc kinh doanh mà người có hình ảnh đòi phải
thanh toán bằng một khoản tiền vài triệu đồng, có khi vài chục triệu và vừa rồi có vụ
yêu cầu của phía chủ ảnh lên đến hàng trăm hiệu đồng.
Thử đặt câu hỏi, người sáng tác chụp ảnh đạt yêu cầu chỉ được hả thù lao cùng
lắm vài trăm ngàn hay vài triệu đồng mà nhân vật trong ảnh lại ra giá tới hàng trăm
triệu đồng thì có quá đáng không? Dù sao một khi không có luật định thì mạnh ai
nấy đòi, đòi cho bằng thích, đến khi vụ việc phải kéo nhau đến toà án thì toà cũng
chỉ theo thông lệ là... “việc dân sự muốn xử sao cũng được”
Lại thử đặt câu hỏi trong tình hình hiện nay nếu áp dụng gắt việc này thì mỗi
ngày toà phải xử bao nhiêu vụ nguời trong ảnh kiện báo chí và mỗi ngày báo chí
phải tốn bao nhiêu tiền để bù cho cái thông lệ sử dụng ảnh mà chua đuợc sự đồng ý
của nguời ta.
Tóm lại, quyền nhân thân trong đó có quyền của cá nhân đối với họ tên, hình
ảnh, dân tộc thuộc nhóm quyền tuyệt đối, thể hiện sự công nhận của Nhà nuớc đối


với các giá trị tinh thần của cá nhân. Bất kỳ hành vi xâm phạm quyền nhân thân nào
cũng sẽ phải chịu một trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm đó có thế là trách nhiệm
hình sự, hành chính hay dân sự. Theo quy định của BLDS thì khi quyền nhân thân

của cá nhân bị xâm phạm cá nhân có quyền:
1. Tự mình cải chính;
2. Yêu cầu nguời vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc

nguời vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai.
3. Yêu cầu nguời vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc

nguời vi phạm bồi thuờng thiệt hại.
Một sế vụ xài ảnh bị kiện:
- Tháng 1 -2003, cô Phan Thị Như Quỳnh gửi đơn khiếu nại Tống cục Du lịch

Việt Nam và tác giả Vũ Quốc Khánh vì sử dụng bức ảnh “Nụ cười Việt Nam ” có
ảnh của cô mà không xin phép. Bức ảnh này được nghệ sĩ nhiếp ảnh Vũ Quốc
Khánh chụp năm 1994, đến năm 2000 được Tống cục Du lịch Việt Nam chọn làm
biếu tượng “Việt Nam! Điếm đến của thiên niên kỷ mới!”
- Đầu năm 2004, gia đình bé Minh Khôi kiện Công ty Biti’s, đòi bồi thường

thiệt hại 154 triệu đồng vì Biti’s xài trái phép ảnh của bé Minh Khôi in trên bìa lịch,
tập quảng cáo. Thảng 9-2004, TAND quận 6 (TP.HCM) buộc Biti’sphải xin lỗi công
khai gia đình bé Khôi, chấm dứt vô điều kiện việc sử dụng trái phép hình ảnh của bé
và bồi thường gần ba triệu đồng.
- Tháng 2-2004, Công ty Điện toán và Truyền sổ liệu VDC (Tổng Công ty

Bưu chỉnh Viên thông Việt Nam) xài không xin phép ảnh “Hai bà cháu” trên thẻ gọi
điện thoại 1717. Đây là bức ảnh được nghệ sĩ Mạnh Đan chụp năm 1982. Sau đó,
VDC phổi hợp với đơn vị thiết kế mâu đến, gặp gia đình thân nhân người được chụp
ảnh đế nhận lôi, thoả thuận bồi thường...
- Tháng 12-2004, nhà nhiếp ảnh Nguyên Văn Trí phát hiện bức ảnh in trên tờ

vé số An Giang chỉnh là tấm ảnh có tên “Hoa sen ” mà ông chụp ở Đồng Tháp



Mười. Ông Trí đã hỏi Công ty Xo số kiến thiết An Giang và Công ty cố phần In An
Giang, được các nơi này cho biết lấy bông sen trên đĩa vi tỉnh, không đề tên tác giả
nên không biết và “mong tác giả thông cảm ”!
- Tháng 4-2006, luật sư Phạm Thành Long khiếu nại sân bay Tân Sơn Nhất

dùng bức ảnh “Ảo dài ” của ông làm pano ở đường vào sân bay. Bức ảnh này được
ông chụp nhân ngày khai giảng tại cống trường Trần Phú (Hà Nội), sau đó được
công bố lần đầu vào ngày 6-9-2004 trên mạng. Ông đã đăng ký bảo hộ quyền tác
giả đối với bức ảnh tại Cục Bản quyền (Bộ Văn hoá - Thông tin). Trước đó, bức ảnh
từng bị ... “xài chùa” 14 lần khiến ông phải khiếu nại nhiều tờ báo và doanh nghiệp.
Kết quả, một doanh nghiệp của Nhật đã phải bồi thường...
5. Qui định về quyển hiến bộ phận cơ thể hoặc hiến xác sau khi chết

Việc hiến tặng bộ phận cơ thế hay hiến xác cho khoa học hay chữa bệnh là
việc làm cao thượng của người quá cố, là một quyền dân sự thể hiện sự tự định đoạt
của cá nhân, cần phải được mọi người trong xã hội tôn trọng. Nhưng sự toàn vẹn cơ
thế người chết là một vấn đề nhạy cảm đối với bản thân người chết cũng như đối với
gia đình họ. Dân gian rất kiêng kỵ “cái chết không toàn thây” nên dù cho việc hiến
bộ phận cơ thế hoặc hiến xác của người chết là một nghĩa cử cao thượng đi nữa, thì
cũng rất dễ bị những người thân thích nhất phản đối, dẫn đến việc khó mà lấy được
xác hoặc bộ phận trên cơ thể của người chết. Cả về pháp lý và về đạo lý, người ta
không thể kiện ra tòa để yêu cầu một phán quyết ngay lập tức của tòa án về việc
buộc những người thân của người chết phải giao xác người. Cho dù đã cầm được
một quyết định có hiệu lực của tòa án, cơ quan thi hành án cũng khó có thế cưỡng
chế thân nhân người chết phải giao xác chết, trong khi gia đình của họ đang tố chức
việc tang. Neu cứ cưỡng chế để buộc những người này phải giao thi thể của người
chết, thì không phù họp với tình cảm và đạo lý con người. Do đó, việc hiến tặng xác
và bộ phận cơ thể như đã nói trên vừa phải được sự đồng ý của người quá cố trước



khi chết, đồng thời phải không có sự phản đối của những người thân thích của người
chết.
Điều 34 của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) quy định: “Cá nhân có
quyền hiến bộ phận cơ thế của mình hoặc hiến xác sau khi chết vì mục đích chữa
bệnh hoặc nghiên cứu khoa h ọ c . . T u y nhiên, quy định tại Điều 34 của BLDS
2005 về cá nhân được hiến còn có nhiều cách hiếu khác nhau. Có cách hiếu cho
rằng, cá nhân ở đây có thế là bất kỳ ai không phân biệt họ bao nhiêu tuổi, miễn là họ
không bị nhược điếm về thế chất, tâm thần và tự nguyện, quan điếm khác lại cho
rằng cá nhân hiến bộ phận cơ thế ở đây phải là người đã thành niên - mới có đầy đủ
khả năng nhận thức và điều khiến hành vi. Sở dĩ có các cách hiếu khác nhau như vậy
bởi vì trong Bộ luật chưa quy định điều kiện cụ thể với cá nhân ở đây là gì về độ
tuổi, về năng nhận thức, về sức khoẻ... Như vậy, chúng ta thấy Bộ luật quy định cũng
rất chung chung về việc cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thế khi còn sống
hoặc sau khi chết mà không quy định cụ thể về độ tuổi, sức khoẻ đối với người hiến.
về nội dung và về kỹ thuật liên quan đến vấn đề này, cần phải sửa đổi và bổ
sung những điểm sau đây:
a) Điều kiện về năng lực chủ thế.

Quyền hiến mô, bộ phận cơ thế sau khi chết là một quyền nhân thân quan
trọng, mặc dù là quyền nhưng không phải cá nhân nào muốn thực hiện cũng được
mà cá nhân đó phải đạt được những điều kiện nhất định, trong đó một điều kiện
không thế không nói đến đó là điều kiện về độ tuổi và điều kiện về khả năng nhận
thức cũng như điều khiến hành vi.
Như chúng ta đã biết, điều kiện về độ tuổi là một dấu hiệu định lượng quan
trọng đế xem xét cá nhân đó có đủ khả năng thực hiện quyền hiến mô, bộ phận cơ
thế hay không. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà ở các nuớc hên thế giới có sự
quy định khác nhau về độ tuổi đối với nguời hiến bộ phận cơ thể khi còn sống, đặc
biệt là hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết.



Vi dụ: ở nuớc ta, Điều 5 của Luật Hiến, lấy ghép mô bộ phận cơ thể nguời và
hiến, lấy xác năm 2006 quy định: “Nguời từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết
và hiến xác”.
b) Điều kiện về trình tự.

Những nguời có đủ điều kiện có quyền bày tỏ nguyện vọng hiến mô, bộ phận
cơ thế của mình với cơ sở y tế, khi nhận đuợc thông tin của nguời hiến mô, bộ phận
cơ thể, cơ sở y tế có hách nhiệm thông báo cho Trung tâm điều phối quốc gia về
ghép bộ phận cơ thể nguời. Sau khi nhận đuợc thông báo về truờng họp hiến xác, bộ
phận cơ thế nguời, Trung tâm điều phối quốc gia về bộ phận cơ thế có trách nhiệm
thông báo cho cơ sở y tế có đủ điều kiện về trang thiết bị, về đội ngũ cán bộ y tế để
tiến hành các thủ tục đăng ký cho nguời hiến. Khi nhận đuợc thông báo của Trung
tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể nguời, cơ sở y tế này có trách nhiệm
trực tiếp gặp nguời hiến để tu vấn thông tin có liên quan đến hiến, lấy mô, bộ phận
cơ thể và huớng dẫn việc đăng ký hiến theo mẫu đơn; thực hiện việc kiếm ha sức
khoẻ cho nguời hiến (đến đây, nguời hiến mô, bộ phận cơ thể nguời để đuợc hiến
phải đảm bảo đuợc điều kiện về sức khoẻ).
Một vấn đề đặt ra là liệu điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thế nguời sau khi chết
vào mục đích nghiên cứu khoa học có khác gì với điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thế
sau khi chết vì mục đích chữa bệnh không? ở đây, chúng ta có thể dễ dàng trả lời
đuợc là giữa chúng có sự khác nhau bởi mục đích của chúng là khác nhau. Vì vậy, có
thể thấy có nhiều truờng hợp không đủ điều kiện để hiến mô, bộ phận cơ thể vì mục
đích chữa bệnh, nhung vẫn có thể hiến và đuợc sử dụng và mục đích nghiên cứu
khoa học.
c) Điều kiện về sức khỏe.

Việc hiến mô, bộ phận cơ thế nói chung cũng nhu việc hiến xác, bộ phận cơ

thế sau khi chết nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc mang lại hay kéo


dài sự sống cho nguời bệnh. Thực tế hên thế giới và ở Việt Nam cũng đã xảy ra
những truờng họp việc lấy, ghép nhầm mô, bộ phận cơ thể của nguời hiến bị bệnh
(nan y) cho nguời bệnh đã gây ra những cái chết rất thuơng tâm hoặc truờng họp bác
sĩ lấy nhầm bộ phận cơ thế của nguời hiến dẫn tới tính mạng của nguời hiến bị đe
dọa nghiêm họng. Do đó, đế bảo đảm tính mạng, sức khoẻ cũng nhu tinh thần cho
nguời hiến, Luật đã đua ra những quy định về hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết
phải đuợc kiểm ha sức khoẻ, tuy nhiên lại chua quy định cụ thể nguời hiến cần phải
đáp ứng đuợc điều kiện gì về sức khoẻ. Vì vậy cần quy định cụ thể về điều kiên về
sức khỏe của nguời hiến.
Ví dụ: trong việc thực hiện kỹ thuật cấy ghép thận, gan... cho nguời bệnh thì
trong Quyết định này có chỉ rõ là nguời hiến về sức khoẻ không bị mắc các bệnh nan
y nhu: viêm gan B, nhiễm HIV,...
d) Một số kiến nghị.

* về trình tự, thủ tục đổi với người hiển xác, bộ phận cơ thế sau khi chết:
Cần phải sớm có quy định pháp luật về trình tự thủ tục đối với việc hiến mô,
bộ phận cơ thể nguời cho mục đích nghiên cứu khoa học cũng nhu quy định về điều
kiện đối với các tổ chức nhận xác, bộ phận cơ thể nguời để nghiên cứu khoa học.
Quy định này rất quan họng bởi, hiến xác, bộ phận cơ thể nguời vì mục đích chữa
bệnh là biện pháp ngăn chặn hậu quả, thì nghiên cứu khoa học lại giúp phát hiện và
phòng ngừa bệnh tật.
* về năng lực chủ thế của người hiến xác, bộ phận cơ thế sau khi chết:
về độ tuổi của nguời hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết truờng hợp nguời
chết mà không có thẻ đăng ký hiến xác, hiến bộ phận cơ thế nguời sau khi chết, theo
em Luật không nên giới hạn độ tuổi là đủ 18 tuổi trở lên mà nguời duới 18 tuổi cũng
có thể đuợc chấp nhận nếu đuợc gia đình hoặc nguời giám hộ họp pháp của nguời đó
đồng ý.



về năng lực chủ thế của nguời hiến là cần thiết trong truờng họp nguời đó hiến
mô, bộ phận cơ thế của mình khi còn sống hoặc đăng ký hiến sau khi chết. Tuy
nhiên, truờng họp mà nguời chết không đế lại di chúc mà gia đình họ làm đơn hiến
mô, bộ phận cơ thế của con mình nhằm mục đích cứu chữa nguời bệnh thì vấn đề
năng lực nhận thức của nguời đó lại không nên đặt ra, bởi cho dù nguời đó có thể bị
rơi vào truờng họp bị tâm thần hoặc mất năng lực hành vi đi chăng nữa thì cũng
không có nghĩa là bộ phận cơ thể nào của họ cũng bị ảnh huởng hoặc không sử dụng
đuợc để cứu chữa nguời bệnh.
* về sức khỏe đối với người hiến xác, bộ phận cơ thế sau khi chết:
Sức khỏe là điều kiện vô cùng quan trọng đối với nguời hiến trong quá hình
hiến mô, bộ phận cơ thể nguời nhằm cứu chữa nguời bệnh. Do vậy có thể dễ dàng
nhận thấy sức khỏe là điều kiện tiên quyết và quan trọng đối với mục đích cứu chữa
bệnh, bởi nó không chỉ ảnh huởng đến sức khỏe của nguời hiến mà nó còn ảnh
huởng đến sức khỏe của nguời nhận ghép. Tuy vậy, nếu sử dụng xác, bộ phận cơ thể
vào mục đích nghiên cứu khoa học thì không nhất thiết phải bắt buộc điều kiện về
sức khỏe của nguời hiến, bởi vì đích cuối cùng của nghiên cứu khoa học là nhằm tìm
nguyên nhân và cách thức phòng ngừa bệnh tật để cứu chữa nguời bệnh. Vì vậy, dù
là nguời có bệnh hay không có bệnh mà hiến xác, bộ phận cơ thế sau khi chết nhằm
mục đích giảng dạy và nghiên cứu khoa học thì đều có thể nhận đuợc.
* Một số kiến nghị liên quan khác:
Bên cạnh những kiến nghị trên đế hoàn thiện pháp luật về điều kiện hiến xác,
bộ phận cơ thể nguời sau khi chết, chúng ta cần phải quan tâm đến những vấn đề
sau:
Nên nghiên cứu quy định về điều kiện và hình tự, thủ tục cho phép nguời bị
tuyên tử hình có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết, đây là một
việc làm rất nhân văn và mang tính nhân đạo sâu sắc. Vì thế nên có quy định về điều
kiện hiến xác, bộ phận cơ thế đối với tử tù trong truờng họp họ muốn hiến, ngoài



những điều kiện chung về độ tuổi, năng lực nhận thức, sức khỏe... thì cần phải có
những quy định đầy đủ hơn nữa về vấn đề này.
Luật cũng nên quy định về điều kiện hiến, nhận, sử dụng mô, bộ phận cơ thể
sau khi chết để nghiên cứu khoa học một cách chặt chẽ bởi: thứ nhất, hiến xác, bộ
phận cơ thể là một trong hai mục đích quan trọng đuợc ghi nhận trong BLDS 2005
(đó là mục đích chữa bệnh và nghiên cứu khoa học); thứ hai, quy định đầy đủ về vấn
đề này nhằm tránh việc các tố chức, cá nhân lợi dụng đế bí mật bán mô, tạng vì mục
đích thuơng mại. Đồng thời cũng nên quy định những truờng họp mà nguời hiến xác,
bộ phận cơ thể nguời vì mục đích chữa bệnh, nghiên cứu khoa học nhung mục đích
đó không đuợc thực hiện, thì gia đình nguời hiến có thế đuợc lấy lại xác đế mai táng
theo nghi lễ truyền thống hoặc hoả thiêu. Các văn bản duới Luật cũng cần phải quy
định rõ vấn đề này.
6. Qui định về quyền xác định lại giới tính Điều 36 BLDS.

a) Xác định lại giới tỉnh của một nguời bị khuyết khiếm (sinh học) về giới,
muốn có sự can thiệp bằng y học đế xác định đúng giới tính của mình. Đây là một
việc rất cần thiết, là một quyền nhân thân chính đáng của cá nhân. Còn thay đổi giới
tỉnh là truờng hợp một nguời có giới tính bình thuờng, nhung không chấp nhận giới
tính tự nhiên của mình mà muốn thay đối hiện trạng đó đế chuyến sang giới tính
khác. Theo em, không nên thừa nhận quyền tự do thay đối giới tính đối với những
nguời bình thuờng mà chỉ nên dừng lại ở việc cho phép cá nhân đuợc phép xác định
lại giới, tính nếu họ bị dị tật bẩm sinh, vì các lẽ sau:
- Một là, việc thay đối giới tính của một nguời sẽ ảnh huởng rất lớn đến nhiều

vấn đề pháp lý phức tạp. Dĩ nhiên, nếu việc đó là cần thiết và mang lại một hiệu quả
xã hội thiết thực cho cá nhân và cho xã hội thì cho dù có phức tạp cũng nên làm. Tuy
vậy, trong nhiều truờng hợp, việc thay đổi giới tính cũng chẳng để làm gì cả. Pháp
luật trong truờng họp này cần phải thế hiện tốt chức năng bảo vệ, ốn định trật tự xã
hội mà ngăn cấm các truờng họp thay đối giới tính chỉ vì ham muốn cá nhân.



- Hai là, việc một nguời bình thuờng muốn thay đối giới tính là một tình trạng

bệnh tâm lý, nên dùng các biện pháp chữa bệnh lý hoặc các liệu pháp thích ứng
khác, chứ không nên cứ cho thay đối giới tính là xong. Ai cũng biết việc thay đối
giới tính sẽ tạo ra các hệ quả rất lớn về những biến đối cơ thế, nhu nguời có giới tính
bị thay đối sẽ không thế thực hiện đuợc các chức năng của giới tính mới (ví dụ:
nguời đàn ông bị thay đối thành đàn bà thì không thế mang thai và sinh con). Nguời
thay đối giới tính phải thuờng xuyên tiêm vào nguời các chất nội tiết tố cần thiết đế
“nuôi’ diện mạo mới của mình cũng nhu đế duy trì thế trạng của một con bệnh đuợc
ghép một bộ phận cơ thế nguời khác trên cơ thế của mình (hầu nhu phải uống thuốc
và tiêm thuốc suốt đời). Cơ thế tự nhiên bình thuờng của tạo hóa dành cho con nguời
là một cơ thế hoàn hảo nhất, không cần thiết phải có sự can thiệp của con nguời, hừ
những trường hợp bị khuyết tật bẩm sinh. Do đó, không nên qui định mở đường cho
sự can thiệp sâu bằng các biện pháp y khoa vào giới tính của cá nhân, với tư cách là
một giá trị nhân phẩm chung của con người trong xã hội.
- Ba là, điều kiện kinh tế và tâm lý của xã hội Việt Nam chưa cho phép tự do

thay đối giới tính. Trong quan hệ ứng xử xã hội, như trong tình yêu, trong quan hệ
giữa họ hàng thân thích với nhau mà có người thay đổi giới tính, thì họ sẽ nên gọi
như thế nào? Con cái hoặc anh chị em, bạn bè của người thay đổi giới tính sẽ kêu họ
là cha, anh, chú, cậu đối với một cô gái đã được thay đổi giới tính để thành đàn ông?
Những người thân sẽ có tâm hạng và tình cảm như thế nào, nếu người thân của họ
thay đối giới tính? Chắc chắn việc thay đối về giới tính sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tình
cảm, tâm lý và quan hệ thân thích giữa người thay đối giới tính với cha, mẹ hay con
cái của họ. Chưa kế việc thay đối giới tính là cách thức lẩn tránh pháp luật trong việc
kết hôn giữa những người đồng giới. Trong khi đó, đế có thế thay đối giới tính người
ta phải là người có khả năng kinh tế lớn, giàu có vì chi phí rất lớn và những tốn phí
đế duy trì tình trạng này đến suốt cuộc đời. Pháp luật quá mở rộng quyền tự do thay

đổi giới tính thì có thể sẽ xảy ra hậu quả xã hội và các hậu quả pháp lý khó lường.


Từ ba luận điếm trcn, em cho rằng không nên thừa nhận quyền tự do thay đối
giới tính tại Việt Nam mà chỉ nên cho phép xác định lại giới tỉnh như qui định của là
phù họp, nhưng phải kèm theo những điều kiện và thủ tục chặt chẽ hơn để phòng
ngừa những trường họp lợi dụng qui định này đế thay đối giới tính.
Theo tinh thần của Điều 36 BLDS, cá nhân có quyền xác định lại giới tính,
nhưng xét về mặt pháp lý thực chất là thay đổi giới tỉnh có điều kiện. Bởi lẽ, theo qui
định của điều luật, nhà làm luật thừa nhận “cá nhân có quyền xác định lại giới tính...
khi giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà
cần có sự can thiệp của y học... thì được xác định lại giới tính theo qui định của pháp
luật cũng có nghĩa là cho phép cá nhân được thay đổi giới tính xét về mặt pháp lý,
trừ trường họp có kèm những thủ tục pháp lý cần thiết để kiểm soát việc cho phép
xác định lại giới tính. Theo tinh thần của điều luật như vừa nêu, thì người ta sẽ dễ
dàng lợi dụng qui định này để thay đổi giới tính vì 2 lý do sau:
- Giới tính là một yếu tố thuộc về đời tư. Do đó, rất khó phát hiện và khó

chứng minh về việc họ có thực tế thay đối giới tính hay không đế làm chứng, khi
được yêu cầu làm chứng về việc chứng minh có sự thay đối giới tính mà không tuân
thủ các qui định của pháp luật.
- Sau khi phẫu thuật thay đổi giới tính, thì những “bằng chứng” hay “dấu

vết” đó không còn nguyên tình trạng ban đầu, trong khi người ta cũng không biết
chính xác là liệu trước đó, đương sự có bị “dị tật bẩm sinh ” hoặc bị khiếm khuyết về
giới tỉnh “mà chưa thế xác định chỉnh xác giới tinh ” thật sự hay không. Neu hồ sơ
sức khỏe hoặc bệnh án bị làm sai lệch hay ghi không trung thực, thì cơ quan có thẩm
quyền cũng khó có thế kiếm tra, xác minh được.
Hai yếu điểm nói trên tạo sơ hở để cho nhiều người lợi dụng để dễ dàng thay
đối giới tính cũng như tạo ra một cơ hội thuận lợi mở đường cho các chuyên gia giải

phẫu thẩm mỹ, các cơ sở chữa bệnh thiếu nghiêm túc và thiếu trách nhiệm mở ra các
dịch vụ về lĩnh vực này. Đe tránh khả năng lợi dụng điều luật nhằm thay đối giới tính


trái pháp luật đối với hẻ sơ sinh, thì nội dung Điều 36 BLDS phải được sửa đổi, bổ
sung thêm các điều kiện đế có thế xin xác định lại giới tính, chẳng hạn như phải có
kết luận pháp y hoặc kết luận của một Hội đồng y khoa gồm các bác sỹ chuyên khoa
có liên quan. Việc xác định lại giới tính cũng chỉ nên cho phép thực hiện tại các cơ
sở chữa bệnh của Nhà nước hoặc các cơ sở y tế được cấp phép hoạt động trong lĩnh
vực chăm sóc sức khỏe có liên quan đến việc điều chỉnh lại giới tính.
b) Việc cho phép một người có quyền xác định lại giới tỉnh cũng phải tỉnh đến
ỷ chỉ tự nguyện của người đó hoặc của người đại diện hợp pháp của cá nhân trong
trường hợp họ là người chưa thành niên, cũng như bằng chứng thế hiện sự đồng ỷ
đó.
Điều 36 BLDS không qui định nếu người muốn xác định lại giới tính là người
chưa thành niên thì ai sẽ là người quyết định việc xác định lại giới tính cho họ và nếu
họ đạt đến độ tuổi nhất định thì họ có quyền thế hiện ý chí của mình hay không?
Theo em, chỉ cho phép cha, mẹ (trong trường hợp không còn cha, mẹ hoặc cha mẹ
không có khả năng biếu lộ ý chí thì do ông bà nội và ông bà ngoại có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ) được quyết định việc xác định lại giới tính cho con (cháu) chưa
thành niên và nếu người có giới tính cần xác định lại từ đủ 9 tuổi trở lên, thì phải có
ý kiến của người đó. Theo Điều 36 BLDS thì nhà làm luật chỉ thừa nhận quyền được
xác định lại giới tính là quyền của cá nhân đương sự mà không tính đến trường họp
thay đối giới tính của người chưa thành niên. Như vậy, trong nhiều trường họp, cá
nhân không có khả năng biểu hiện ý chí, thì quyền này không thể được thực hiện. Vì
thế, cần sửa đổi, bố sung điều luật theo hướng xác định rõ khi cho phép người chưa
thành niên cần được xác định lại giới tính thì ai có quyền cho phép, quyết định và
hình thức thế hiện sự quyết định đó là hình thức gì. Theo em, nên chỉ dành cho cha,
mẹ hoặc trong trường họp không có cha mẹ, thì chỉ có ông bà nội và ông bà ngoại
mới có quyền quyết định; nếu đó là người chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên, thì

việc xác định lại giới tính của người đó phải có ý kiến của họ. Việc xác định lại giới


×