Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Phân cấp quản lý cán bộ, công chức hành chính trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.8 KB, 110 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC

1.1. Phân cấp quản lý: khái niệm, bản chất, đặc điểm, nguyên tắc
1.2. Phân cấp quản lý cán bộ, công chức hành chính cho các cấp chính
quyền địa phương
1.3. Nội dung phân cấp và quản lý cán bộ, công chức hành chính
1.4. Những bài học kinh nghiệm về phân cấp quản lý quan lại trong
các triều đại phong kiến nước ta

7
7
14
17
24

Chương 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
HÀ NỘI

2.1. Số lượng, chất lượng cán bộ, công chức thành phố Hà Nội
2.2. Đặc điểm về bộ máy hành chính và về đội ngũ cán bộ, công chức
hành chính Thành phố Hà Nội
2.3. Phân tích thực trạng phân cấp quản lý cán bộ, công chức hành
chính của Thành phố Hà Nội


2.4. Những mặt hợp lý và chưa hợp lý trong phân cấp quản lý cán bộ,
công chức Thành phố Hà Nội, nguyên nhân chưa hợp lý

28
28
32
36
43

Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ
PHÂN CẤP QUẢN LÝ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH
CHÍNH CHO CÁC CẤP CHÍNH QUYỀN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Những định hướng cơ bản cho việc đề xuất giải pháp
3.2. Những giải pháp thực hiện phân cấp quản lý cán bộ, công chức
trên địa bàn thành phố Hà Nội
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

56
56
59
80
82
85


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của tề tài
Phân cấp quản lý cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành
chính nói riêng là một nội dung quan trọng của phân cấp quản lý nhà nước.
Phân cấp quản lý cán bộ, công chức hành chính trên địa bàn thành phố Hà
Nội phải xuất phát từ nội dung phân cấp quản lý giữa Chính phủ và chính quyền
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo Nghị quyết 08/2004/NQ- CP ngày
30/6/2004 và được cụ thể hóa trên địa bàn thành phố theo sơ đồ tổng quát sau:
Phân cấp quản lý quy hoạch, kế hoạch
Phân cấp đầu tư phát triển
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Phân cấp quản lý đất đai, tài nguyên, tài
sản nhà nước
Phân cấp quản lý doanh nghiệp
Phân cấp quản lý các hoạt động sự nghiệp
dịch vụ công
Phân cấp quản lý tổ chức bộ máy và cán
bộ, công chức
Phân cấp quản lý cán bộ, công chức trên
địa bàn Hà Nội
THÀNH PHỐ
QUẬN/HUYỆN/ THỊ

XÃ/PHƯỜNG/THỊ
TRẤN


2
a. Một trong những quan điểm và nhiệm vụ trọng yếu dự định chương
trình cải cách hành chính nhà nước trên phương diện phân cấp quản lý cho

giai đoạn 2011-2020 là:
- Thông qua cải cách hành chính, tiếp tục làm rõ và phù hợp chức năng,
nhiệm vụ, trách nhiệm của từng cơ quan hành chính là thực hiện phân công,
phân cấp rõ ràng và phù hợp, phân định rõ trách nhiệm giữa các cấp chính
quyền (Trung ương, các cấp chính quyền Địa phương), giữa tập thể và người
đứng đầu cơ quan hành chính.
- Xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất năng lực đáp
ứng yêu cầu phát triển toàn diện đất nước.
- Thực hiện phân cấp hợp lý giữa Trung ương và các cấp chính quyền địa
phương, bảo đảm sự kiểm tra của Trung ương đối với địa phương trong triển
khai phân cấp để khi cần thiết có những điều chỉnh can thiệp kịp thời.
b. Xây dựng nhà nước pháp quyền và hiện đại hóa nền hành chính ở Việt
Nam nhất thiết phải có đội ngũ cán bộ, công chức hành chính chuyên nghiệp
có tri thức và năng lực quản lý về kinh tế, xã hội, pháp luật, hành chính, kỹ
năng thực thi công vụ, có tinh thần trách nhiệm, tận tụy phục vụ nhân dân.
Hơn nữa trong thời kỳ hội nhập quốc tế, đội ngũ cán bộ, công chức vừa có
bản lĩnh, vừa chủ động sáng tạo và nhạy bén với sự thay đổi.
c. Cán bộ, công chức là một bộ phận của lực lượng lao động có hàm
lượng trí tuệ cao, là nhân tố quyết định nâng cao chất lượng lãnh đạo, quản
lý. Trong những năm qua lãnh đạo Hà Nội luôn coi trọng công tác cải cách
hành chính, trước hết là thủ tục hành chính và chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức là khâu đột phá. Một nghiên cứu độc lập về chương trình tổng thể
CCHC nhà nước giai đoạn 2011-2020 đã khảo sát thống kê, điều tra trực tiếp
cán bộ công chức ở 6 bộ và 9 tỉnh thành phố trong mục tiêu nâng cao chất
lượng đội ngũ CBCC là “ điểm nghẽn” nhất, đem lại kết quả kém nhất (về số


3
lượng, cơ cấu hợp lý; chuyên nghiệp; hiện đại; có phẩm chất tốt; đủ năng lực
thực thi công vụ). Thực tiễn ở Hà Nội chỉ ra cần có những giải pháp phân cấp

quản lý cán bộ, công chức như thế nào để góp phần phát huy lợi thế, điểm
mạnh của đội ngũ hiện có, thu hút nhân tài.
- Ông Phí Thái Bình, Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội, trong Hội
nghị Tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình CCHC, giai đoạn 2001-2010
(ngày 6/12/2010) đã nhấn mạnh: Hà Nội là một trong những địa phương
người dân phàn nàn nhất và lo lắng nhất về lối làm việc của đội ngũ CBCC.
Thủ đô "mất điểm" là do tình trạng cấp dưới nhìn cấp trên trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ mà không xem cấp mình cần giải quyết tốt chức năng, nhiệm
vụ gì. Đó là nguyên nhân chính khiến quá trình giải quyết công việc ùn ứ.
Chất lượng đội ngũ CBCC chưa đáp ứng yêu cầu, CBCC có trình độ chuyên
môn và tính chuyên nghiệp cao chưa nhiều, thái độ phục vụ nhân dân chưa
tốt, vẫn còn biểu hiện hách dịch, cửa quyền, tham ô, tham nhũng. Vì vậy, "Hà
Nội sẽ đẩy mạnh việc phân cấp giữa thành phố với các quận, huyện, thị xã để
giảm bớt các khâu trung gian trong quản lý hành chính nhà nước, mà không
trái với các quyết định của Trung ương. Một trong những nội dung quan trọng
về cải cách hành chính những năm tiếp theo là cải cách tổ chức bộ máy hành
chính và xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức".
- Bà Nguyễn Thị Vinh, Phó Giám đốc Sở Nội vụ, bức tranh cán bộ, công
chức thành phố là “nơi thừa vẫn thừa, nơi thiếu vẫn thiếu”.
- Ông Trần Ngọc Sơn, Trưởng ban tổ chức Huyện ủy Từ Liêm băn khoăn:
“Chính sách cán bộ xã, thị trấn còn nhiều bất cập chậm được bổ sung, sửa đổi,
không tương xứng với trách nhiệm của cán bộ, nhưng chưa thu hút được lực
lượng cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn cao về công tác tại cơ sở”.
- Ông Bùi Ngọc Trường, Bí thư Đảng ủy thị trấn Phùng, huyện Đan Phượng:
“Hệ số lương của Bí thư Đảng ủy và chủ tịch UBND xã hiện nay chỉ được hưởng 2


4
bậc (2,65 và 2,85), trong khi đó, lực lượng công chức cấp xã lại được hưởng theo hệ
số lương công chức, lương cao hơn Bí thư và Chủ tịch cùng cấp”.

- Là một học viên cao học tại Học viện Hành chính, tôi được trang bị
nhiều kiến thức về công vụ, công chức và đặc biệt về phân cấp quản lý hành
chính nhà nước, lại đang công tác tại phòng Nội vụ huyện Từ Liêm, tôi lựa
chọn đề tài “Phân cấp quản lý cán bộ, công chức hành chính trên địa bàn
thành phố Hà Nội”. Đến nay trên địa bàn thành phố, chưa có luận văn Thạc
sỹ, luận án tiến sỹ, đề tài khoa học nghiên cứu về vấn đề này, làm luận văn tốt
nghiệp Thạc sỹ hành chính công.
2. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu lý luận về phân cấp quản lý cán bộ, công chức; Tình hình
thực tế phân cấp quản lý cán bộ, công chức trên địa bàn Thành phố Hà Nội,
mặt hợp lý và chưa hợp lý và đề xuất các định hướng, giải pháp góp phần đẩy
mạnh phân cấp quản lý cán bộ, công chức trên địa bàn thành phố Hà Nội
trong những năm sắp tới.
3. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt mục đích như trên, luận văn bao gồm những nhiệm vụ sau đây:
- Trình bày những nội dung phân cấp quản lý cán bộ, công chức nói
chung và cán bộ, công chức hành chính nói riêng, một số kinh nghiệm về
phân cấp quản lý quan lại trong các triều đại phong kiến Việt Nam.
- Phân tích thực trạng, những mặt hợp lý và chưa hợp lý trong phân cấp
quản lý cán bộ, công chức hành chính trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay
(Sau khi hợp nhất với Hà Tây từ ngày 01 tháng 8 năm 2008).
- Đề xuất các định hướng và các giải pháp góp phần thực hiện phân cấp
quản lý công chức hành chính trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Ngoài ra luận văn cũng có những cố gắng nhất định, thông qua phân
cấp góp phần nhỏ bé khắc phục khuyết điểm lớn nhất, trầm trọng nhất và kéo
dài nhất mà các văn kiện của Đảng và Nhà nước nhấn mạnh nhiều lần:


5
+ Chậm đổi mới công tác cán bộ;

+ Thiếu các giải pháp cụ thể để phát huy dân chủ, phát hiện và sử dụng
người tài;
+ Chưa hoạch định được các cơ chế chính sách, các phương pháp, quy
trình khoa học nhằm bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức;
+ Đánh giá cán bộ, công chức luôn luôn là khâu yếu;
+ Còn nhiều thủ tục giấy tờ phiền hà, hình thức.
Vì vậy một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức tha hóa quyền hạn, tha
hóa lao động không hoàn thành nhiệm vụ và bị dư luận lên án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu: Phân cấp quản lý cán bộ, công chức hành chính
nhà nước.
b. Phạm vi nghiên cứu: Trên địa bàn thành phố Hà Nội mở rộng. Việc
tách bạch địa bàn Hà Nội trước và sau hợp nhất không còn thích hợp với tình
hình thực tế. Hiện nay, Thành phố Hà Nội mới bắt đầu tổ chức, khảo sát, phân
tích, đánh giá và xây dựng các giải pháp phân cấp trên tất cả các lĩnh vực,
trong đó có phân cấp quản lý cán bộ, công chức. Do đó, luận văn tập trung
phân tích mặt hợp lý và chưa hợp lý về phân cấp quản lý cán bộ, công chức,
kể cả những kinh nghiệm tốt của Hà Tây trước đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ của Đề tài, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau đây:
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp, rút ra nhận xét, kết luận.
- Phương pháp điều tra, trưng cầu ý kiến cán bộ, công chức.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn, thông qua hệ thống văn bản pháp quy,
các báo cáo tổng kết, đặc biệt các văn bản của Đảng về tổ chức, cán bộ, kiểm
tra có mối quan hệ mật thiết, định hướng cho việc thực thi phân cấp cán bộ,
công chức hành chính.


6

6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa lý luận chung về phân cấp quản lý cán bộ, công chức.
- Tổng hợp một số bài học kinh nghiệm về phân cấp quản lý quan lại
trong cá triều đại phong kiến Việt Nam.
- Phân tích thực trạng phân cấp quản lý cán bộ, công chức hành chính của
thành phố Hà Nội, những mặt hợp lý và chưa hợp lý, nguyên nhân chưa hợp lý.
- Đề xuất những định hướng giải pháp góp phần thực hiện phân cấp quản
lý cán bộ, công chức hành chính trên địa bàn thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về phân cấp quản lý cán bộ, công chức.
Chương 2: Thực trạng phân cấp quản lý cán bộ, công chức hành chính
trên địa bàn thành phố Hà nội.
Chương 3: Những giải pháp góp phần thực hiện phân cấp quản lý cán bộ,
công chức hành chính trên địa bàn thành phố Hà Nội.


7
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
1.1. PHÂN CẤP QUẢN LÝ: KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM, NGUYÊN TẮC

Khái niệm: Phân cấp quản lý không phải là mục đích tự thân mà nó xuất
phát từ thực tiễn quản lý trong điều kiện nhà nước trung ương không thể tự
quản lý được mọi vấn đề của các vùng miền, địa phương khác nhau trong
phạm vi quốc gia. Kể từ thời phong kiến lại đây, các loại hình nhà nước khác
nhau trên thế giới đều phải tiến hành sự phân cấp, tức là hình thành tổ chức bộ
máy từ cấp trung ương đến địa phương, cơ sở để phân giao quyền, trách
nhiệm cho các cấp địa phương, cơ sở thực hiện sự quản lý trên tất cả các lĩnh

vực từ kinh tế, văn hóa, giáo dục, nguồn lực, nhân lực, dân tộc, tôn giáo cho
đến an ninh quốc phòng.
Có thể khẳng định rằng khái niệm về phân cấp là một trong những khái
niệm phức tạp nhất của hành chính công, gắn với nhiều khái niệm liên quan.
Để đơn giản vấn đề, chúng tôi trình bày sơ đồ sau đây:
Phân công

Phân cấp

Phân quyền

Tản quyền
Uỷ quyền
Giao quyền
Xã hội hoá
Cổ phần hoá DNNN
Tư nhân hoá
Tự quản


8

Trong các tài liệu đã xuất bản ở Việt Nam, thì khái niệm sau đây là thoả đáng
hơn cả: Phân cấp quản lý là việc phân giao công việc quản lý nhà nước, trong đó
có quản lý hành chính nhà nước cho các đơn vị hành chính, có tư cách pháp
nhân, những quyền hạn và những nguồn lực nhất định dưới sự kiểm tra của Nhà
nước để vừa đảm bảo điều hành tập trung, thống nhất của Chính phủ - đồng thời
phát huy dân chủ, nâng cao tính chủ động, sáng tạo của địa phương và cơ sở.
Cũng có thể nêu khái niệm trên đơn giản hơn:
- Phân cấp quản lý là phân giao công việc quản lý nhà nước trong hệ

thống tổ chức.
- Phân cấp quản lý là phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách
nhiệm giữa các cấp chính quyền.
Ở Việt Nam hiện nay thuật ngữ "decentralization" được dịch là phi tập
trung hoá, phân cấp và phân quyền, từ đó ta có khái niệm:
- Phân cấp quản lý là sự trao quyền (power devolution) quyết định, hành
chính, tài chính cho các đơn vị hành chính ở địa phương.
- Phân cấp quản lý là giao bớt một phần quyền quản lý cho cấp dưới, quy
định quyền hạn và nhiệm vụ cho mỗi cấp.
Như vậy, điều kiện cơ bản cho phân cấp quản lý là:
- Có hệ thống pháp luật.
- Sự phân chia nhiệm vụ giữa các cấp.
- Tài chính của chính quyền địa phương.
- Phạm vi lãnh thổ chính quyền địa phương.
- Sự giám sát cơ quan lập pháp.
- Năng lực chính quyền địa phương.
- Có sự tham gia của các thành phần xã hội vào công việc của địa
phương.


9
- Phối hợp giữa Trung ương và địa phương.
Bản chất của sự phân cấp quản lý chính là sự phân chia quyền hạn, nghĩa
vụ, trách nhiệm và lợi ích từ trung ương đến địa phương đối với cá đối tượng
quản lý ôm đồm, độc quyền nhằm hạn chế sự độc quyền, quan liêu của nhà
nước trung ương. Nói cách khác, phân cấp quản lý là sự chuyển giao ổn định
thẩm quyền, nhiệm vụ và trách nhiệm từ cơ quan quản lý cấp trên cho cấp
dưới trực thuộc để cấp dưới thực hiện sự quản lý một cách chủ động, năng
động và sáng tạo trong phạm vi hành chính dân cư của mình.
Đặc điểm của phân cấp quản lý.

Một là, mô hình phân cấp quản lý nhà nước được thực hiện theo hệ thống
thứ bậc từ trên xuống dưới; sự phân cấp càng xuống dưới thì càng mở rộng về
số lượng đầu mối thực hiện; chẳng hạn số huyện nhiều hơn tỉnh, số xã nhiều
hơn huyện.
Hai là, khi xác định nội dung, nhiệm vụ phân cấp quản lý là có tính đến
sự khác nhau về địa lý, dân cư, kinh tế, văn hóa… của địa phương này với địa
phương khác; chẳng hạn phân cấp quản lý tỉnh Hưng Yên là không có nội
dung phân cấp quản lý rừng hay biển.
Ba là, phân cấp quản lý thường có sự thay đổi, điều chỉnh vì nó phụ
thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa của từng thời kỳ; chẳng hạn ở
thời kỳ đầu của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (từ năm 1946 đến
1954), các cấp quản lý hành chính đều hướng vào nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ
thành quả cách mạng, chống thù trong giặc ngoài. Sau năm 1954, sự phân cấp
quản lý đã có sự điều chỉnh để các cấp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây
dựng chủ nghĩa xã hội miền bắc; chi viện miền nam đấu tranh thống nhất
nước nhà.

Sau khi kết thúc cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm

lược, cả nước thống nhất cho đến nay, sự phân cấp quản lý nhà nước được
hình thành bốn cấp: Trung ương (Chính phủ) - tỉnh, thành phố trực thuộc


10
trung ương - huyện, quận, thị xã - xã, phường, thị trấn. Chịu trách nhiệm quản
lý hành chính nhà nước trên tất cả lĩnh vực thuộc phạm vi quốc gia là tập thể
chính phủ và Thủ tướng chính phủ; ở phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương là ủy ban nhân dân và chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố; ở phạm
vi huyện, quận là ủy ban nhân dân và chủ tịch ủy ban nhân dân huyện, quận; ở
cấp cơ sở là ủy ban nhân dân và chủ tịch ủy ban nhân dân xã, phường, thị

trấn.
Về phân cấp quản lý hành chính nhà nước các lĩnh vực và chuyên ngành:
- Cấp chính phủ có các bộ, đứng đầu là bộ trưởng; Thủ tướng Chính phủ
chịu trách nhiệm chung.
- Cấp tỉnh có Văn phòng UBND, các sở, đứng đầu là chủ tịch ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm chung.
- Cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đứng đầu là có các
phòng, đứng đầu là chủ tịch ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
chịu trách nhiệm chung.
- Cấp xã, phường, thị trấn đứng đầu là có chủ tịch ủy ban nhân dân và cán
bộ, công chức được phân công trực tiếp thực hiện.
Nguyên tắc phân cấp quản lý
Một là, sự phân cấp quản lý nhà nước phải trên cơ sở hiến định; chẳng
hạn Hiến pháp 1946 đã phân định các cấp hành chính thực hiện sự quản lý
nhà nước bao gồm: trung ương (chính phủ) Kỳ (liên tỉnh: bắc kỳ, trung kỳ,
nam kỳ), tỉnh, huyện, xã. Nhưng có thể thấy sự phân cấp quản lý hành chính
của nhà nước ta từ sau năm 1954 đến nay vừa căn cứ theo Hiến pháp, Luật tổ
chức chính phủ, Luật tổ chức và hoạt động HĐND; vừa thực hiện theo sự chỉ
đạo của Đảng. Đây là một vấn đề liên quan đến sự chùng chéo, nhiều tầng nấc
và kém hiệu quả trong phân cấp quản lý.


11
Hai là, phân cấp quản lý phải bảo đảm tính thống nhất, thông suốt từ
trung ương đến địa phương, cơ sở trong hoạt động quản lý và thực hiện
chính sách, pháp luật, những quy định thủ tục do chính phủ ban hành; đồng
thời phải tạo điều kiện thuận lợi cho các công dân Việt Nam không phân
biệt giới tính, tôn giáo, dân tộc, địa vị xã hội thực hiện các quyền và nghĩa
vụ cơ bản của họ theo quy định của Hiến pháp. Tính thống nhất về chính
sách và pháp luật không chỉ là căn cứ chung cho tất cả các cấp chính

quyền, các địa phương thực hiện sự quản lý hành chính nhà nước; mà còn
là công cụ ngăn ngừa các hiện tượng tùy tiện, cục bộ, cát cứ, địa phương
chủ nghĩa, cách bức với trung ương.
Ba là, phân cấp quản lý bảo đảm nguyên tắc Đảng cầm quyền, lãnh đạo
nhà nước. Nguyên tắc đó được thể hiện ở quy định người đứng đầu các cơ
quan, các cấp quản lý trong hệ thống hành chính nhà nước đều phải là đảng
viên của Đảng cộng sản Việt Nam và mục tiêu, nội dung, phương thức quản lý
của bộ máy hành chính phải thể hiện bản chất chính trị của nhà nước.
Bốn là, phân cấp quản lý phải bảo đảm nguyên tắc cấp dưới phục tùng
cấp trên; trên dưới trong ngoài có sự ràng buộc, kiểm soát lẫn nhau để cùng
thực hiện các chính sách, pháp luật và những quy định thủ tục do trung ương
và cấp trên ban hành. Thực hiện nguyên tắc này là nhằm bảo đảm kỷ cương,
kỷ luật, trách nhiệm công vụ; bảo đảm các yếu tố văn hóa dân chủ được thực
hành, duy trì trong mỗi cấp. Theo đó các tệ quan liêu, cửa quyền, độc quyền,
tham nhũng, hối lộ, gian lận, v,v.. nếu có trong bộ máy quản lý cũng sẽ được
ngăn chặn, xóa bỏ.
Năm là, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong phân cấp quản lý
nhà nước; tức là trong hoạt động phân cấp, cấp dưới ngoài nhiệm vụ báo cáo,
cung cấp thông tin, kiến nghị, đề xuất lên cấp trên thì còn có quyền chủ động,


12
sáng tạo trong hoạt động quản lý nhằm phát huy thế mạnh của địa phương phù
hợp với đường lối chính sách, pháp luật của nhà nước.
Sáu là, phân cấp quản lý gắn liền với sự liên kết, phối hợp giữa các cấp,
các ngành trong hoạt động quản lý; chẳng hạn giữa cấp tỉnh và các bộ, giữa
các sở, các phòng với nhau để thực hiện sự quản lý lãnh thổ và quản lý lĩnh
vực, chuyên ngành trên một địa bàn hành chính dân cư. Chỉ đạo hoạt động
phối hợp đó là cấp quản lý bên trên; thí dụ hoạt động phối hợp giữa các tỉnh,
các bộ là do chính phủ chỉ đạo; giữa các sở, ban, ngành là do ủy ban nhân dân

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo.
Bảy là, phân cấp quản lý phải bảo đảm cho mỗi cấp, nhất là cấp bên dưới
có đủ những điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính, cán bộ để thực hiện sự
quản lý có hiệu lực, hiệu quả. Trong điều kiện tiến hành cải cách hành chính,
sự phân cấp quản lý phải gắn với mục tiêu tinh gọn bộ máy, xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức chuyên nghiệp; thực hành tiết kiệm, công khai minh bạch
về tài chính; chống tham nhũng, lãng phí, cửa quyền, v,v..
Phân cấp quản lý không phải là sự tùy tiện mà là nó một sự nghiên cứu
mang tính khoa học bao gồm các khoa học tổ chức, khoa học quản lý, khoa
học hành chính, khoa học chính trị, khoa học lịch sử và các ngành khoa học
liên quan khác.
Có thể nói do thiếu tư duy, tầm nhìn khoa học về phân cấp quản lý nhà
nước, cho nên trong nhiều thập kỷ trước đây ở nước ta vấn đề phân cấp quản
lý nhà nước có những hiện tượng sau:
- Phân cấp theo hướng: càng ở cấp cao càng tập trung quyền, bao ôm
nhiều việc và duyệt cấp cho cấp dưới, làm cho cấp dưới luôn ở thế bị động và
xin cấp trên xét duyệt. Đó là cơ chế: bao cấp xin - cho kéo dài nhiều thập kỷ,
vẫn còn quán tính cho đến nay.


13
- Phân cấp nhưng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm không rõ dẫn đến
hiệu quả quản lý thấp.
- Phân cấp chồng chéo, nhiều tầng nấc, có những việc nhiều cấp, nhiều cơ
quan (đảng, chính quyền, đoàn thể) cùng tham gia quản lý, tạo thành sự manh
mún cắt khúc, vướng víu cũng là nguyên nhân làm giảm hiệu quả quản lý.
- Phân cấp nhưng các điều kiện cơ sở vật chất, tài chính, kể cả hệ thống
văn bản pháp luật luôn ở tình trạng yếu kém thiếu đồng bộ làm cho phân cấp
trở thành hình thức, nửa vời.
- Phân cấp quản lý chưa gắn với yêu cầu hoàn thiện, nâng cao chất lượng

các văn bản pháp luật và hệ thống kiểm tra, thanh tra, giám sát.
Đề cao tư duy khoa học về phân cấp quản lý sẽ tránh được hiện tượng
nhập, tách tùy tiện (nay nhập mai tách) gây lãng phí tiền của; đặc biệt là góp
phần giảm thiểu tình trạng phân cấp mang tính hình thức, nửa vời, nhiều tầng
nấc và tính khả thi sau phân cấp không cao. Vì thế, vấn đề phân cấp quản lý
có liên quan mật thiết với việc tổ chức thực hiện sự phân cấp. Nghị quyết số
08/2004/NQ-CP “Về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa
Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” đã được
thực hiện gần 6 năm gắn với chương trình tổng thể cải cách nền hành chính
nhà nước. Nhưng có thể thấy khâu tổ chức thực hiện triển khai sự phân cấp
còn chưa được nhanh chóng, dứt khoát; việc tổ chức thực hiện hoạt động quản
lý của các cấp sau khi phân cấp cũng chưa đồng bộ, khoa học; các cấp bên
dưới vẫn chưa phát huy được tính năng động, chủ động, vẫn ít nhiều thụ động,
trông chờ cấp trên.
Một thực tế rõ nhất là trong những mục tiêu của chương trình tổng thể cải
cách nền hành chính nhà nước có nội dung tổ chức lại bộ máy từ Chính phủ
đến các cấp địa phương. Bộ máy Chính phủ từ 70 đầu mối thời kỳ 1986 đến
nay còn 30: số bộ 22, cơ quan thuộc Chính phủ là 8; theo đó ở cấp tỉnh cơ


14
quan chuyên môn còn 20 -25. Giảm về bộ máy, nhưng vấn đề nhân sự không
giảm mà lại bị chồng lấn, dồn toa. Sự không đồng bộ giữa việc tinh giản số
lượng bộ máy với tinh giản biên chế cũng trở thành một nguyên nhân làm cho
cải cách bị chậm trễ, hiệu quả thấp. Nhìn chung cho đến nay, chức năng của
từng cơ quan hành chính nhà nước vẫn còn chồng chéo về thẩm quyền và
nhiệm vụ quản lý nhà nước. Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, các bộ và chính
quyền địa phương các cấp vẫn còn ôm đồm quá nhiều việc. Phân cấp trung
ương - địa phương vẫn không đạt được mục tiêu mà Chương trình tổng thể cải
cách hành chính giai đoạn 2001-2010 đã xác định là: “Đến năm 2005, về cơ

bản xác định xong và thực hiện được các quy định mới về phân cấp quản lý
hành chính nhà nước giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính
quyền địa phương”.
1.2. PHÂN CẤP QUẢN LÝ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH CHO CÁC
CẤP CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG

Cán bộ, công chức là một thành tốt của quản lý nguồn nhân lực, gắn liền
với phát triển tổ chức được thể hiện qua sơ đồ sau:
Quản lý nguồn nhân lực

Phát triển nguồn nhân lực

Phát triển tổ chức

Quản lý nhân sự


15

Phân cấp quản lý cán bộ, công chức hành chính
của 3 cấp chính quyền

- "Nguồn nhân lực" là khái niệm rộng hơn "nhân sự", nó bao hàm không
chỉ những người hiện đang làm việc cho tổ chức mà gồm cả những người có
khả năng làm việc trong tương lai.
- "Nhân sự" là lực lượng lao động hiện có và đang làm việc cho tổ
chức thuộc bộ máy hành chính, bộ máy thực thi quyền hành pháp. Theo
luật hiện hành của Việt Nam, nhân sự hành chính nhà nước bao gồm: Cán
bộ lãnh đạo do bầu cử; công nhân do tuyển dụng, bổ nhiệm và những nhân
viên hợp đồng. Như vậy, cán bộ, công chức hành chính nhà nước là toàn bộ

những người đang làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước từ Trung
ương đến cơ sở (cấp xã).
- Bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam được thiết kế thành 4 cấp với
một đội ngũ cán bộ, công chức rất đông đảo.
HỆ
THỐNG
TỔ CHỨC

Chính quyền
Trung ương

CỦA
ĐẢNG
CẦM
QUYỀN
ĐẶC BIỆT

Quản lý cán
bộ công chức
Trung ương

ĐỐI VỚI




ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ
LÃNH


Cơ quan quản
lý cán bộ công
chức bộ,
ngành

Chính quyền
địa phương

ĐẠO
Quản lý cán
bộ công chức
địa phương

Bộ Nội vụ
Vụ Tổ chức cán
bộ bộ, ngành


16

Cơ quan quản
lý cán bộ công
chức tỉnh,
thành phố
 Sở Nội vụ T,TP
 Phòng Nội vụ Q,
H, TX, TP, Sở,
ngành chuyên
môn


- Phân cấp quản lý cán bộ, công chức hành chính địa phương là sự phân
giao rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp
chính quyền địa phương, của từng cơ quan tổ chức (Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ,
Phòng tổ chức - cán bộ) trong quá trình quản lý, sử dụng những người hiện
đang làm việc ở các cơ quan hành chính (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã).
Thực chất của phân cấp là quy định cấp nào có thẩm quyền quản lý cán
bộ, công chức loại gì, chức năng, nhiệm vụ cụ thể nào (từ ban hành chính
sách, tổ chức bầu cử, tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng đến
đánh giá, khen thưởng, trừng phạt).
Xét về lâu dài, khi xã hội càng phát triển thì việc phân cấp quản lý cán
bộ, công chức là một tất yếu khách quan. Điều đáng lưu ý sự phân cấp phải
gắn liền với cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính và gắn liền với nội dung cụ thể
của phân cấp.
Chiều rộng và chiều sâu của phân cấp quản lý cán bộ, công chức là tùy
thuộc vào việc quy định rõ ràng trên các mặt:
+ Cơ quan nào có thẩm quyền ban hành thể chế, chính sách, văn bản pháp luật.
+ Cơ quan và cá nhân nào có quyền quy định số lượng, chất lượng, biên chế.
+ Cơ quan nào có quyền tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng.
+ Cơ quan nào được quyền tham gia trong quá trình quản lý, sử dụng.


17
+ Cơ quan nào có quyền quy định và giải quyết chính sách đãi ngộ, tiền
lương, phụ cấp.
+ Ai có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm.
+ Cơ quan nào có thẩm quyền đánh giá, khen thưởng, trừng phạt.
Đồng thời các mặt nói trên, từng bước được cụ thể hoá cho từng cấp
chính quyền. Khi nào đất nước có tỷ lệ đô thị hoá cao, chính quyền địa
phương tự quản thì lúc đó sự phân cấp quản lý cán bộ, công chức sẽ được giải
quyết trọn vẹn vào từng cấp như một số nước trên thế giới hiện nay.

Hiện nay Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức trong việc quản lý
đội ngũ cán bộ, công chức và việc phân cấp quản lý phải tính đến:
 Thách thức về trí tuệ hoá, chuyên môn hoá, văn hoá hoá là phần quan
trọng tạo nên năng lực cán bộ, công chức.
 Thách thức về nâng cao phẩm chất, đạo đức trong hoạt động công vụ.
 Thách thức về cải cách hệ thống chính sách nhằm khuyến khích họ làm
việc có hiệu quả, khuyến khích người tài năng.
 Thách thức về nâng cao chất lượng và hiệu quả của đội ngũ và bộ máy
quản lý cán bộ, công chức.
 Thách thức về thích ứng với bộ máy thể chế công vụ, công chức các
nước trong quá trình hội nhập quốc tế.
1.3. NỘI DUNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC

Trong phân cấp quản lý nhà nước, phân cấp quản lý cán bộ, công chức là
một nội dung quan trọng nhất vì cán bộ, công chức là lực lượng quyết định
bản chất, sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên thực tế.
Ở nước ta, cán bộ, công chức là một khái niệm ghép, là những người làm
việc trong hệ thống chính trị bao gồm: các cơ quan đảng, các cơ quan lập


18
pháp, hành pháp, tư pháp thuộc nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội do
nhà nước lập ra.
Để tìm hiểu nội hàm phân cấp quản lý cán bộ, công chức và nâng cao
hiệu quả quản lý cán bộ, công chức, trước hết cần nắm vững khái niệm về cán
bộ, công chức đã được quy định trong các văn bản pháp luật.
Khái niệm, hay thuật ngữ cán bộ ở Việt Nam hiện nay theo quy định của
Luật cán bộ, công chức ngày 13/11/2008 được xác định như sau:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ

nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của
Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi
chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau
đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước [24, tr.8].
Như vậy, khái niệm cán bộ là gắn với bầu cử, giữ chức vụ, chức danh
theo nhiệm kỳ và thường có sự luân phiên thay đổi vị trí công việc theo sự
phân công của tổ chức, đoàn thể.
Khái niệm công chức theo Luật cán bộ, công chức ngày 13/11/2008 được
xác định như sau:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà
không phải là sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phải
là sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng cộng sản Việt Nam,


19
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị
sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [24, tr.8-9].
Trong Luật cán bộ, công chức cũng xác định rõ đối tượng trong diện phân
cấp quản lý, đó là đội ngũ cán bộ xã phường, thị trấn.
Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là

công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong
Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó bí
thư đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức
cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [24, tr.9].
Như vậy có thể nhận thấy những dấu hiệu đặc trưng của công chức: (1)
những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong
cả hệ thống chính trị, trong hệ thống lập pháp, hành pháp, tư pháp. (2) làm các
công việc có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật hành chính. Sự khác
nhau giữa cán bộ và công chức chỉ là ở chỗ cán bộ là do bầu cử, còn công
chức là do tuyển dụng. Nhưng trên thực tế ở nước ta, việc chuyển đổi khái
niệm cán bộ thành công chức và từ công chức thành cán bộ thường diễn ra
nhanh chóng như chớp, nhiều trường hợp không theo quy định, nguyên tắc
nào. Người ta không bỗng dưng mà trở thành cán bộ, muốn trở thành cán bộ
thì phải do ai đó, tổ chức nào đó có tư cách pháp nhân, có thẩm quyền pháp lý
đứng ra tuyển dụng theo một cách nào đó.
Ở nước ta, khái niệm công chức lần đầu tiên được xác định trong văn bản
chính thức của nhà nước, đó là Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 do Chủ tịch


20
Hồ Chí Minh ký ban hành. Tại Điều 1 của Sắc lệnh quy định: “Những công
dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường
xuyên trong các cơ quan Chính phủ ở trong hay ngoài nước đều là công chức
theo quy chế này, trừ trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định”.
Theo quy định này thì khái niệm công chức có ba đặc trưng:
(1) Là công dân Việt Nam;
(2) Được chính quyền tức là các cấp chính quyền, các cơ quan thuộc
Chính phủ (hệ thống hành chính) tuyển dụng;

(3) Giữ một chức vụ thường xuyên.
Đặc trưng thứ ba này được hiểu là một loại công việc, một chức vụ có
phân thứ hạng, ngạch, bậc tương đối ổn định.
Ba đặc trưng nêu trên về công chức cũng đã đủ phản ánh đặc trưng chung
của công chức hành chính công ở các nhà nước phát triển trên thế giới.
Các văn bản pháp luật sau này về cán bộ, công chức đã kế thừa, bổ sung
về khái niệm công chức; nhưng về cơ bản khái niệm công chức vẫn có ba đặc
trưng nêu trên; còn đặc trưng “hưởng lương từ ngân sách nhà nước” nêu ra
cũng có thể nói là thừa vì đã đi làm nhà nước thì nhà nước phải trả lương là
đương nhiên.
Trong hàng ngũ cán bộ, công chức thuộc hệ thống chính trị có đội ngũ
cán bộ, công chức hành chính. Cán bộ, công chức hành chính là những người
làm việc trong các cơ quan chính phủ, trực thuộc chính phủ, các cơ quan có
chức năng quản lý hành chính nhà nước thuộc chính phủ và các cơ quan thuộc
Uỷ ban nhân dân các cấp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách.
Nói về phân cấp quản lý cán bộ, công chức thì cả hệ thống chính trị bao
gồm hệ thống các cơ quan của Đảng; hệ thống các cơ quan đoàn thể chính trị xã hội và hệ thống nhà nước cũng đều tiến hành phân công, phân cấp quản lý
cán bộ, công chức thuộc hệ thống của mình. Điều này đã được minh chứng


21
trên thực tế từ trước đến nay là một cán bộ, công chức trong một cơ quan
hành chính nhà nước thường có ba đến bốn tổ chức quản lý.
Tại Điều 5 của Luật Cán bộ, công chức cũng đã xác định những nguyên
tắc quản lý và phân cấp quản lý cán bộ, công chức như sau:
1. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước.
2. Kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế.
3. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ trách nhiệm cá nhân và
phân công, phân cấp rõ ràng.
4. Việc sử dụng, đánh giá, phân loại cán bộ, công chức phải dựa trên

phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực thi hành công vụ.
5. Thực hiện bình đẳng giới.
Năm nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức mà Luật cán bộ, công chức
xác định như thế, xét cho kỹ thì không có gì mới so với sự quản lý cán bộ,
công chức trước đây.
Về phân cấp quản lý cán bộ, công chức hành chính trong hệ thống hành
chính nhà nước, Bộ Nội vụ là cơ quan của Chính phủ được Luật Tổ chức
Chính phủ xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý
cán bộ, công chức hành chính từ cấp chuyên viên chính trở lên. Dưới Bộ nội
vụ là Sở nội vụ được quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm
quản lý cán bộ, công chức hành chính của tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương và cấp huyện, dưới Sở nội vụ là Phòng nội vụ thực hiện quản lý cán bộ,
công chức hành chính trên địa bàn huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
và cấp xã. Cấp ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chỉ được phân công quản
lý cán bộ, công chức thực thi nhiệm vụ, đồng thời chủ tịch ủy ban nhân dân xã
nhận xét, đánh giá cán bộ, công chức báo cáo lên cấp trên để cấp trên xem xét
quyết định việc tuyển dụng, điều chuyển và đào tạo, bồi dưỡng. Trong mỗi cơ
quan, cấp chính quyền còn có bộ phận làm công tác tổ chức - cán bộ cũng có


22
chức năng quản lý cán bộ, công chức. Tùy theo tư cách pháp nhân của mỗi cơ
quan, mỗi cấp mà bộ phận này có tên gọi khác nhau, thí dụ là vụ tổ chức cán
bộ thì ở cấp bộ, cấp tổng cục; là phòng, ban tổ chức cán bộ thì ở cấp cục,
quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Phân cấp cho các cấp, các chủ thể có thẩm quyền quản lý cán bộ, công
chức bao gồm các nội dung: (có thể gọi là 18 danh mục công việc lớn).
1- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ,
công chức.
2- Xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán bộ, công chức.

3- Quy định chức danh và cơ cấu cán bộ, công chức.
4- Quy định ngạch, chức danh, mã số công chức; mô tả, quy định vị trí việc
làm và cơ cấu công chức để xác định số lượng biên chế.
5- Quyết định biên chế cán bộ, công chức.
6- Tuyển dụng công chức.
7- Điều động, luân chuyển, biệt phái cán bộ, công chức.
8- Bổ nhiệm công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
9- Bổ nhiệm vào ngạch, chuyển ngạch, nâng ngạch công chức.
10- Đánh giá cán bộ, công chức.
11- Quản lý việc xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm.
12- Thực hiện chế độ hưu trí đối với cán bộ, công chức.
13- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
14- Quản lý hồ sơ cán bộ, công chức.
15- Thực hiện chế độ báo cáo về công tác quản lý cán bộ, công chức.
16- Khen thưởng cán bộ, công chức.
17- Kỷ luật đối với cán bộ, công chức.
18- Giải quyết khiếu nại, tố cáo của cán bộ, công chức.

Từ Bộ Nội vụ cho đến các Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ và các Vụ, Phòng,
Ban tổ chức - cán bộ thuộc các cơ quan hành chính nhà nước đều có chức
năng thực hiện và tham mưu cho lãnh đạo về những nội dung công việc nêu
trên. Phân cấp quản lý cán bộ, công chức hành chính theo một hệ thống thứ
bậc và có những nội dung quản lý như vậy thì chất lượng, hiệu quả quản lý


23
cán bộ, công chức sẽ là thước đo tính khoa học, tính hợp lý của sự phân cấp
quản lý. Khi đã phân cấp quản lý cán bộ, công chức mà hiệu quả quản lý cán
bộ, công chức thấp thì có nghĩa là sự phân cấp đó chưa khoa học, chưa hợp lý;
môi trường, điều kiện quản lý chưa tốt; chủ thể quản lý yếu kém về năng lực.

v.v...
Phân cấp quản lý cán bộ, công chức chính quyền trung ương không tách rời
với sự phân cấp đối với chính quyền địa phương. Để phân cấp cán bộ, công chức
hành chính trên địa bàn Hà Nội không thể không xem xét đến.
Một số kết quả đạt được trong phân cấp quản lý cán bộ, công chức
nhà nước nói chung ở tầm vĩ mô, quốc gia:
+ Nhìn chung, sự phân cấp quản lý cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay
đã đạt được những kết quả, nhất định trong đó kết quả lớn nhất là tạo được sự
ổn định về tư tưởng, chính trị và sự gắn bó của đội ngũ cán bộ, công chức đối
với nhà nước.
+ Công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức tiếp tục được cải cách theo
hướng rõ hơn về phân công, phân cấp; đã có sự phân định khá rõ về trách
nhiệm, thẩm quyền quản lý đội ngũ cán bộ, công chức hành chính của Thủ
tướng chính phủ, của các bộ và chính quyền địa phương. Thẩm quyền và trách
nhiệm trong bổ nhiệm, sử dụng, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức cũng
đã được xác định khá rõ cho người đứng đầu các cơ quan hành chính và thủ
trưởng các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công.
+ Chủ trương, quan điểm của Đảng về tách rõ hành chính với doanh
nghiệp, với sự nghiệp đã được cụ thể hóa và triển khai thông qua các quy
định, thể chế về công chức hành chính, viên chức sự nghiệp. Đây chính là căn
cứ pháp lý cho việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả phân cấp quản lý cán bộ,
công chức hành chính.


24
+ Đã tiến hành rà soát, đánh giá lại hệ thống các tiêu chuẩn chức danh
công chức hiện có để từ đó có những điều chỉnh cũng như ban hành mới một
số chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ, các ngạch công chức, viên chức. Cho đến
nay đã có khoảng hơn 200 chức danh tiêu chuẩn cán bộ, công chức đang được
sử dụng.

+ Đã có sự phân công giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức; theo đó các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức các bộ, ngành
trung ương tập trung vào bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước ngạch cán sự,
chuyên viên, chuyên viên chính; các trường của tỉnh, ngoài đối tượng là cán
sự, chuyên viên, chuyên viên chính còn bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước
cho cán bộ, công chức cấp xã. Học viện Chính trị - Hành chính quản lý thống
nhất việc xây dựng chương trình, giáo trình, tài liệu.
Tuy nhiên còn nhiều hạn chế, yếu kém trong phân cấp quản lý cán bộ, công
chức nhà nước
+ Phân cấp quản lý cán bộ, công chức nói chung còn mang tính hình
thức, giấy tờ, sự vụ.
+ Phân cấp quản lý cán bộ, công chức chồng chéo giữa các cấp theo hệ
thống dọc và giữa các cấp trong cả hệ thống chính trị. Có thể thấy một cán bộ,
công chức nước ta có đến vài cấp, vài cơ quan quản lý.
+ Phân cấp quản lý cán bộ, công chức trong mỗi cơ quan vẫn theo cách
nghĩ, cách làm cũ từ nhiều năm trước đây và chưa thật sự sâu sát, chưa thực
sự dân chủ, công khai, minh bạch.
+ Phân cấp quản lý chưa tạo ra sự công bằng về quyền, nghĩa vụ và lợi
ích cũng như sự đồng thuận về nhận thức chính trị, pháp luật trong đội ngũ
cán bộ, công chức. Phần lớn các cơ quan đều có những mâu thuẫn phát sinh từ
sự thiếu công khai, công bằng trong việc thực hiện các chính sách, chế độ đối
với cán bộ, công chức như đi học, chuyển ngạch, lên lương, đánh giá, khen


×