MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Trang
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI BỘ MÁY NHÀ
NƯỚC VÀ YÊU CẦU NĂNG LỰC CÁN BỘ
1.1.
Vị trí, vai trò, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
7
7
1.1.1 Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống
chính trị nước ta
7
1.1.2 Nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo qui định của
Hiến pháp và pháp luật
10
1.1.3 Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
12
1.2.
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với
Bộ máy Nhà nước
17
1.2.1 Khái niệm, đặc trưng của hoạt động giám sát
17
1.2.2 Cơ sở pháp lý và đặc trưng hoạt động giám sát của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam đối với Bộ máy Nhà nước
19
1.3.
Năng lực và năng lực cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trong hoạt động giám sát
25
1.3.1 Khái niệm năng lực
25
1.3.2 Năng lực cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động
giám sát
26
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CỦA CÁN BỘ MẶT TRẬN
TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
30
Tổ chức bộ máy của cơ quan Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam các cấp
30
2.1.1 Cơ cấu tổ chức cơ quan Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam
30
2.1.
2.1.2
Cơ cấu tổ chức cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cấp tỉnh, cấp huyện
32
2.1.3 Cơ cấu tổ chức cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cấp xã
34
2.2.
Tổng quan về đội ngũ cán bộ của hệ thống tổ chức Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay
35
2.2.1 Cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị
35
2.2.2 Biên chế và ngạch bậc công chức của cán bộ mặt trận các cấp
hiện nay
36
2.3.
Nội dung hoạt động giám sát của đội ngũ cán bộ Mặt trận
đối với hoạt động của bộ máy Nhà nước
38
2.3.1 Giám sát chương trình, quá trình lập pháp
38
2.3.2 Giám sát hoạt động của Quốc Hội
39
2.3.3 Giám sát hoạt động của cơ quan Hành pháp
41
2.3.4 Giám sát hoạt động của cơ quan tư pháp
43
2.3.5 Tham gia và giám sát công tác đặc xá hàng năm
45
2.4.
Thực trạng chung về cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
hiện nay
46
2.4.1 Về chất lượng đào tạo
46
2.4.2 Về năng lực hoạt động
47
2.5.
Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế về năng lực cán
bộ Mặt trận trong hoạt động giám sát bộ máy nhà nước
hiện nay
48
2.5.1 Những hạn chế
48
2.5.2 Nguyên nhân
49
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC
CÁN BỘ MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG HOẠT
ĐỘNG GIÁM SÁT BỘ MÁY NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY
56
Quan điểm nâng cao năng lực cán bộ Mặt trận nhằm thực
hiện chức năng giám sát
56
3.1.1 Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
của Đảng ta về vai trò cán bộ
56
3.1.2 Hoạt động giám sát của cán bộ Mặt trận phải góp phần bảo vệ
thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
59
3.1.3 Hoạt động giám sát của cán bộ Mặt trận phải góp phần tích
cực vào việc xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa
60
3.1.
3.1.4 Hoạt động giám sát của cán bộ Mặt trận phải đảm bảo phát
huy quyền làm chủ của nhân dân
3.2.
61
Các giải pháp nâng cao năng lực cán bộ Mặt trận trong
hoạt động giám sát Bộ máy Nhà nước
61
3.2.1 Đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò; về đội ngũ cán bộ của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
61
3.2.2 Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và công tác cán bộ
Mặt trận
64
3.2.3 Các giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc các cấp
65
3.2.4 Củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cấp cơ sở
74
3.2.5 Chủ động phối hợp với Nhà nước trong việc thực hiện hoạt
động giám sát.
79
3.2.6 Xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý về hoạt động giám sát
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
81
3.2.7 Từng bước nâng cao văn hoá dân chủ cho nhân dân
85
PHẦN KẾT LUẬN
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
93
PHỤ LỤC
98
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ những ngày đầu xây dựng và củng cố chính quyền nhà nước,
Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến vấn đề công tác cán bộ và nhận
thức sâu sắc công tác cán bộ là một trong những công tác có ý nghĩa quyết định
tới việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị và các mục tiêu kinh tế mà Đảng và Nhà
nước đã đặt ra trong thời kỳ phát triển của Cách mạng, của đất nước.
Nhìn lại lịch sử dân tộc Việt Nam, trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm tới việc nâng cao năng lực đội ngũ cán
bộ, công chức coi đó là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục liên quan đến vận
mệnh của Đảng, của chế độ.
Trong nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đòi hỏi bên cạnh việc phải bảo
đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, tạo ra được một cơ chế tổ chức và
thực hiện quyền lực nhân dân mạnh mẽ, có hiệu lực, hiệu quả; tạo lập được ý
thức tuân thủ pháp luật ngày càng cao của tất cả mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân
thì đồng thời phải bảo đảm có sự kiểm soát chặt chẽ bộ máy quyền lực, tránh
sự lạm dụng, thao túng làm tha hoá quyền lực của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi
ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân … Nói tóm lại, quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân” [17, tr.698]. Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá VII) khẳng định:
Cải cách bộ máy Nhà nước còn bao hàm một nội dung quan
trọng là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Các đoàn thể nhân
dân tham gia xây dựng, quản lý, giám sát và bảo vệ Nhà nước. Nhà
nước dựa vào các đoàn thể nhân dân để phát huy quyền làm chủ và
2
sức mạnh có tổ chức của nhân dân. Đó cũng chính là sức mạnh của
bản thân Nhà nước [10, tr.467].
Yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị, đặc biệt là đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng và cách thức quản lý của Nhà nước đòi hỏi phải có sự tham gia
rộng rãi của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và sự tham gia trực tiếp của nhân
dân vào quá trình hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị, liên
hiệp tự nguyện rộng rãi nhất của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, là hình ảnh
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng của mọi
tầng lớp, thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo... trong xã hội trong quá trình
thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng trong các giai đoạn phát triển của
đất nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vị trí quan trọng trong hệ thống chính
trị bởi tính đặc trưng của tổ chức mình. Mục tiêu cao nhất về tổ chức và hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc để phát huy sức mạnh toàn dân tộc, chung sức, đồng lòng thực hiện
các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, cùng nhau xây
dựng một nước Việt Nam độc lập, hoà bình, thống nhất và giàu mạnh.
Để đạt được mục tiêu trên đây, một trong những vấn đề vừa cấp bách,
vừa có tính chiến lược trong nhiệm vụ xây dựng chính quyền của dân, do dân,
vì dân là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải thực hiện tốt vai trò giám sát đối
với hoạt động của bộ máy Nhà nước đã được khẳng định trong Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X:“Hoạt động của Đảng và Nhà nước phải
chịu sự giám sát của nhân dân” [9, tr.304], “Phát huy vai trò và tạo điều kiện
thuận lợi để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng đường lối,
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, thực hiện vai trò
giám sát và phản biện xã hội” [9, tr.305].
Một vấn đề quan trọng, có tính quyết định hiệu quả của công tác Mặt
trận tham gia quản lý Nhà nước, cụ thể là giám sát hoạt động của bộ máy Nhà
3
nước là năng lực của đội ngũ cán bộ Mặt trận. Hiện nay, đội ngũ cán bộ của
hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tuy đã được tăng cường về số
lượng và chất lượng, nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế: Đội ngũ cán bộ còn
thiếu và chưa đồng bộ về cơ cấu, chất lượng,...; ở một số lĩnh vực công tác,
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Việc nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ của
hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm đáp ứng nhiệm vụ tham gia xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền, tăng cường hiệu quả công tác quản lý của
Nhà nước là việc làm hết sức cần thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
Từ những vấn đề nói trên cho thấy cần nghiên cứu, làm rõ, đưa ra
những đánh giá khách quan và đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực của
đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong hoạt động giám sát
bộ máy Nhà nước là hết sức cấp thiết hiện nay.
Với nhận thức như vậy, tôi lựa chọn đề tài: “Nâng cao năng lực của cán
bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động giám sát bộ máy Nhà nước”
làm luận văn tốt nghiệp cao học, chuyên ngành quản lý hành chính công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ luôn là yêu cầu đặt ra trong mọi giai
đoạn lịch sử. Từ những yêu cầu phát triển toàn diện đất nước, quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu tạo nên những yếu tố kinh tế,
xã hội mới đòi hỏi người cán bộ phải nâng cao năng lực để đáp ứng yêu cầu
và nhiệm vụ mới đề ra.
Thời gian qua đã có một số đề tài, chuyên đề, bài viết, bài nói, các hội
thảo khoa học đưa ra những nghiên cứu mang tính lý luận và thực tiễn về
Mặt trận và cán bộ Mặt trận. Tuy nhiên cụ thể bàn đến vấn đề năng lực của
đội ngũ cán bộ Mặt trận trong hoạt động giám sát bộ máy Nhà nước thì chưa
có một đề tài nào nghiên cứu. Có thể nêu một số công trình, chuyên đề liên
quan đến đề tài như sau:
- Bộ Lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam (1930-2004).
4
- Chuyên đề của Ban Tổ chức cán bộ, cơ quan Uỷ ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách và lực lượng cộng tác
viên của hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới".
- Công trình do các tác giả Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương
chủ biên: "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức chính trị- xã hội ở nước ta hiện nay ”.
- Công trình xây dựng dự thảo 3 Quy chế giám sát và phản biện xã hội
của Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (bao gồm tờ trình và các dự
thảo 3 quy chế).
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về năng lực cán bộ và thực trạng
năng lực của cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động giám sát
bộ máy Nhà nước, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng
lực cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động giám sát bộ máy
Nhà nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về:
+ Hoạt động tham gia quản lý Nhà nước của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, trọng tâm nhiệm vụ giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với
hoạt động của bộ máy Nhà nước.
+ Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với
hoạt động giám sát bộ máy Nhà nước.
- Đánh giá thực trạng năng lực đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đối với nhiệm vụ giám sát của Mặt trận.
- Từ những quan điểm chung của Đảng, Nhà nước đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Mặt trận trong hoạt động giám
sát bộ máy Nhà nước.
5
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân; trọng tâm là các nội
dung liên quan đến nhiệm vụ giám sát về hoạt động của bộ máy Nhà nước.
- Nghiên cứu đội ngũ cán bộ Mặt trận để đưa ra các giải pháp góp phần
nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tham
gia hoạt động giám sát bộ máy Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn
hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu
Cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được đề cập trong luận văn này là
Cán bộ, công chức được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, theo quy định
của “Luật cán bộ, công chức” được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua, ngày 13/11/2008.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lên nin.
- Phương pháp logic kết hợp với phương pháp lịch sử.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, thống kê.
- Phương pháp khảo sát và tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp lý, thực tiễn về vai trò, nhiệm vụ của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động giám sát bộ máy Nhà nước.
- Phân tích đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam hiện nay với nhiệm vụ giám sát bộ máy Nhà nước.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Mặt trận
trong hoạt động giám sát đối với bộ máy Nhà nước góp phần tăng cường hoạt
động của bộ máy Nhà nước trong thời kỳ mới.
6
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò giám sát của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đối với bộ máy Nhà nước và yêu cầu năng lực cán bộ.
- Chương 2: Thực trạng về năng lực của cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong hoạt động giám sát bộ máy Nhà nước.
- Chương 3: Quan điểm và các giải pháp nâng cao năng lực cán bộ Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động giám sát bộ máy Nhà nước giai đoạn
hiện nay.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
VÀ YÊU CẦU NĂNG LỰC CÁN BỘ
1.1. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, NHIỆM VỤ, NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
1.1.1. Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống
chính trị nước ta
Ngay từ khi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chú ý
đến việc tập hợp quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp
với từng giai cấp, tầng lớp, từng giới, từng tôn giáo, từng ngành nghề, từng
lứa tuổi; hơn nữa còn phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách
mạng. Người cho rằng: cách mạng giải phóng dân tộc là sự vùng dậy của cả
một dân tộc để đánh đổ ách thống trị của nước ngoài. Giai cấp vô sản không
thể tự mình làm nổi mà phải liên minh với các lực lượng yêu nước trong dân
tộc. Người chỉ rõ: Cuộc cách mạng trong một nước thuộc địa là một cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ. Để đưa cuộc cách mạng đó đến thắng lợi có thể và cần
phải thành lập một Mặt trận Dân tộc Thống nhất rộng rãi đoàn kết tất cả các
giai cấp và tầng lớp xã hội mong muốn được giải phóng khỏi ách thuộc địa.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) chỉ gần 10 tháng,
Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, được thành lập ngày 18/11/1930.
Trải qua chặng đường lịch sử cách mạng 80 năm, những hình thức tổ
chức và tên gọi khác nhau từ Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam (18-111930), Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương (11-1936), Mặt
trận thống nhất Dân chủ Đông Dương (3-1938), Mặt trận Thống nhất dân tộc
phản đế Đông Dương (11-1939), Việt Nam Độc lập đồng minh hội (19-51941), Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (29-5-1946), Mặt trận Liên Việt (7-
8
3-1951), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (10-9-1955), Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam (20-12-1960), Liên minh các Lực lượng Dân tộc,
Dân chủ và Hoà bình Việt Nam (20-4-1968), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(mới) (4-2-1977). Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một hình thức cụ thể của Mặt
trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, tổ chức có quá trình lịch sử ra đời và hoạt
động rất vẻ vang, không ngừng lớn mạnh, đã có những đóng góp to lớn vào
thắng lợi vĩ đại của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam và trở thành một thành tố quan trọng trong hệ thống
chính trị của nước ta.
Khi Đảng chưa giành được chính quyền thì Mặt trận là liên minh chính
trị của công nông với các lực lượng dân tộc tiến bộ, trực tiếp tổ chức thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng, vận động đoàn kết nhân dân đấu tranh
chống thực dân và phong kiến giành chính quyền về tay nhân dân; đồng thời
trong nhiều thời kỳ, Mặt trận còn thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ của
chính quyền ở vùng mới giải phóng. Sau khi giành được chính quyền, Mặt
trận cùng với Đảng, Nhà nước đều là công cụ để thực hiện và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chính sách
Mặt trận là chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận là công tác rất quan
trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”, “Trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Dân tộc thống
nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng nước ta”.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ví trí của Mặt trận càng
được củng cố với chức năng chủ yếu xây dựng, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân, góp phần tạo nên sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân;
là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước; động viên nhân dân phát huy
quyền làm chủ, hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc
vận động cách mạng, công cuộc đổi mới của đất nước. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã xác định:
9
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với
nền dân chủ ngày càng được hoàn thiện thì vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam ngày càng quan trọng, càng được mở rộng. Nghị quyết Đại hội X của
Đảng nêu rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong
việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện
cho quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhân dân; đưa các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hoá xã hội, quốc
phòng, an ninh vào cuộc sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận xã hội”.
Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không chỉ được khẳng
định trong ý thức của nhân dân, trong đường lối, chủ trương của Đảng mà còn
thể chế rõ trong Hiến pháp, các đạo luật và pháp lệnh, đặc biệt là trong Luật
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Điều 9 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định:
"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các
tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn
dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia
xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng nhà nước chăm lo và bảo
vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền
làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động
của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước".
Năm 1999, Nhà nước thể chế hoá Nghị quyết Đại hội Đảng VIII và qua
tổng kết 10 năm đổi mới đã ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong
đó tại Khoản 2, Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qui định: "Mặt trận
10
Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính
trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối
đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp
thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên, góp phần giữ
vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Việc pháp luật khẳng định "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của
hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” càng
khẳng định vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong xã hội và trong
hệ thống chính trị, mỗi yếu tố của hệ thống chính trị đều có chức năng riêng
biệt, nhưng có mối quan hệ hỗ trợ mật thiết, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và
đều vì lợi ích chung của dân tộc.
1.1.2. Nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo qui định của
Hiến pháp và pháp luật
Điều 2 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qui định nhiệm vụ của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam là:
- Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí
về chính trị và tinh thần trong nhân dân. Đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong
những nội dung chủ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh và đã được Đảng ta khẳng
định trong đường lối cách mạng: Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là
nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của
cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; trong đó có vai trò đặc biệt quan trọng
11
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận tập hợp, xây dựng, củng cố khối đại
đoàn kết trên cơ sở vì lợi ích chung của dân tộc và bằng cách vận động, thuyết
phục, hiệp thương dân chủ - thống nhất hành động. Bởi vậy, có thể nói rằng, tổ
chức và hoạt động của Mặt trận là sự thống nhất từ đa dạng "Không có sự đa
dạng khác nhau thì không thành Mặt trận, nhưng không có sự tương đồng và
thống nhất về lợi ích chung của Tổ quốc thì cũng không thành Mặt trận".
- Tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp
và pháp luật. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tuyên truyền, thuyết phục, tổ chức vận
động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước thông qua các tổ chức thành viên và các cuộc vận động, các phong
trào cách mạng mang tính toàn dân. Đây cũng là một trong những yếu tố quy định
vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở của chính quyền nhân dân.
- Tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với
Đảng và Nhà nước. Tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công
chức nhà nước.
Với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, tham gia xây
dựng Đảng, xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân là nhiệm vụ quan trọng
của Mặt trận để bảo góp phần làm cho Đảng và Nhà nước mạnh hơn, qua đó
thực thi chủ quyền của nhân dân tốt hơn, đồng thời làm cho bản thân tổ chức
Mặt trận mạnh hơn bởi vì Đảng là thành viên và cũng là hạt nhân lãnh đạo Mặt
trận, còn Nhà nước là thiết chế đảm bảo các điều kiện cho hoạt động của mọi
thành viên hệ thống chính trị (pháp luật, chính sách, tài chính...).
Sở dĩ giám sát trở thành một nhiệm vụ cơ bản của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là vì những lý do sau:
Mặt trận là tổ chức quần chúng rộng lớn nhất, đại diện cho mọi tầng lớp
nhân dân. Chỉ có thông qua hoạt động giám sát, Mặt trận mới có thể giúp nhân
12
dân kiểm soát được việc sử dụng quyền lực đã uỷ quyền của mình cho các cơ
quan quyền lực. Thực hiện giám sát là Mặt trận đã thực hiện sự uỷ quyền của
mọi tầng lớp nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội. Nếu không thực hiện
tốt chức năng giám sát thì Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không thể hoàn thành
vai trò đại diện bảo vệ lợi ích cho mọi tầng lớp nhân dân.
Giám sát là nhu cầu tự thân của Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp
quyền Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta. Bản thân hoạt động giám sát đã tạo ra sự
chế ước từ bên ngoài để Đảng cầm quyền và Nhà nước không thể tuỳ tiện trong
việc hoạch định đường lối và tổ chức thực thi các quyết sách. Giám sát góp
phần vào việc giáo dục đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên về đạo đức, lối
sống, ý thức và kỹ năng thực thi công vụ.
- Cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với
nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.
1.1.3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam
Cùng với quá trình phát triển của cách mạng, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam có quá trình lịch sử ra đời và hoạt động rất vẻ vang. Trong quá trình hoạt
động, để nâng cao vị trí, vai trò, đóng góp tích cực vào những thành tựu
chung của đất nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã từng bước xây dựng hệ
thống tổ chức bộ máy và cán bộ của mình ngày càng hoàn thiện; thường
xuyên đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động.
Tổ chức bộ máy- cán bộ của hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là thuộc về thể chế chính trị - xã hội của Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là một bộ phận, một thành tố cấu thành hệ thống chính trị của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là một bộ phận nằm trong thể chế
chính trị - xã hội của Việt Nam, nên lẽ đương nhiên nó được quy định bởi
13
Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác của Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể, Điều 9, Chương I của Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt nam năm 1992 (sửa đổi) ghi: “Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị,
các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong
các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt
Nam định cư ở nước ngoài”. Hiến pháp là bộ luật cao nhất của Nhà nước ta
đã quy định rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị”.
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam (Khóa X) thông qua tại kỳ họp thứ 5 cũng khẳng định: “Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị”. Như vậy, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cùng với Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân với tư cách
là “tổ chức bộ máy”, các thành tố làm nên một chỉnh thể thống nhất là hệ
thống chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo.
Trong hệ thống chính trị, mỗi thành tố có tính độc lập tương đối, cùng
tác động, chi phối lẫn nhau và đều hướng đến thực hiện mục tiêu chung. Cụ
thể, xem xét từ góc độ cơ sở lý luận về tổ chức bộ máy - cán bộ của hệ thống
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho thấy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngoài việc
là một bộ phận, một thành tố của hệ thống chính trị, còn là một tổ chức độc
lập có tư cách pháp nhân bên cạnh Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân,
do Đảng lãnh đạo.
Tùy theo yêu cầu của cách mạng đòi hỏi, đặc điểm, điều kiện thực tế
đất nước mà tổ chức bộ máy và cán bộ của hệ thống tổ chức mặt trận sẽ có sự
biến đổi, phát triển cho phù hợp. Ở nước ta hơn nửa thế kỷ qua, xét về tổ chức
bộ máy Mặt trận cũng đã có nhiều thay đổi. Từ Mặt trận có tính chất hiệu
triệu, kêu gọi ban đầu, đến hình thành tổ chức bộ máy là các Hội (Hội Cứu
quốc, Hội Việt minh…) đến Mặt trận có tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ và
14
các yếu tố, điều kiện hoạt động kèm theo, được qui định trong Luật, Điều lệ
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Từ năm 1955 trở về trước, do nhiều nguyên nhân khác nhau tổ chức bộ
máy Mặt trận còn chưa rõ ràng, ổn định. Tại Đại hội lần thứ nhất Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam (9-1955) đã quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và bầu ra Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (gọi chung là Ban
Mặt trận Trung ương). Ở các khu tự trị, thành, tỉnh thì lập Ban Mặt trận Khu
tự trị, tỉnh, thành. Ở cấp huyện, châu, thị xã không thành lập Ban Mặt trận mà
chỉ thành lập Đảng đoàn Mặt trận.
Ở giai đoạn này không có Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp cơ
sở. Công tác Mặt trận ở cấp cơ sở chủ yếu được giao cho cấp ủy Đảng, các
đoàn thể nhân dân “Mỗi cấp ủy cần có một Ban phụ trách công tác mặt trận
và dân vận. Khi cần thiết, Ban này sẽ danh nghĩa Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
để hiệu triệu” [53, tr.217-218]. Như vậy, hình thức Mặt trận khi cần cho cấp
cơ sở xã, đường phố lúc này là Hội nghị đại biểu các giới quần chúng do
chính cấp ủy đảng đứng ra tổ chức. Mỗi Đảng ủy xã, khu phố cử một đổng chí
đảng ủy viên có uy tín, trình độ phụ trách công tác Mặt trận. Nơi có vấn đề
phức tạp về tôn giáo, dân tộc có thể có thêm hình thức Ban Liên lạc Mặt trận,
do cấp huyện phê chuẩn, công nhận. Hiện trạng tổ chức Mặt trận nói trên kéo
dài đến năm 1977. Sau Đại hội hợp nhất 3 tổ chức Mặt trận là Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh
các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam thành Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, từ cuối năm 1977 trở đi Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở xã,
phường, thị trấn mới chính thức thành lập và từng bước hình thành Tổ Công
tác mặt trận, Ban Công tác mặt trận ở các khu dân cư.
Trên cơ sở đất nước đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính trị nói chung, hệ thống tổ chức bộ
máy và cán bộ mặt trận nói riêng cũng có sự đổi mới và phát triển nhanh
15
chóng nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình cách mạng đã có nhiều thay đổi.
Hiến pháp của Nhà nước năm 1980, 1992 (Sửa đổi), Luật Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đều có điều khoản quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Căn cứ vào Hiến pháp, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã xác định có
tính định hướng, tính nguyên tắc cho tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam “Tổ chức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được
thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống
nhất hành động. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở mỗi cấp là cơ quan
chấp hành của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp…”, “Thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là các tổ chức và cá nhân…”, “Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam có bộ máy giúp việc. Tổ chức, biên chế bộ máy giúp việc của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam các cấp do cơ quan có thẩm quyền quy định”; “Kinh
phí hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do ngân sách Nhà nước cấp
theo quy định của pháp luật”…Tất cả những điều quy định trên dù là vắn tắt,
song là cơ sở rất quan trọng cho việc thể chế, cụ thể hóa về tổ chức bộ máy và
cán bộ của hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Điều lệ Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các văn bản khác của Đảng, Nhà nước và Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam.
Tại Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một lần nữa vị trí, vai trò làm
cơ sở cho tổ chức bộ máy và cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lại được
khẳng định. Cùng với việc nhắc lại quy định trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đã có các điều khoản cụ thể khẳng định trực tiếp hoặc gián tiếp về tổ
chức bộ máy và cán bộ của hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, như
quy định về thành viên, nghĩa vụ và quyền của thành viên; nguyên tắc tổ
chức, hoạt động và cơ cấu; cơ quan lãnh đạo các cấp và quan hệ giữa Mặt trận
với các cơ quan Nhà nước, với nhân dân; kinh phí hoạt động, tài sản của Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc các cấp.
16
Tổ chức bộ máy của hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có 2 loại
hình cơ bản, chủ yếu nhất, bao gồm: hệ thống các tổ chức thành viên và hệ
thống Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp.
Do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp
tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội
và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc,
các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài…Chính vì tính chất,
đặc điểm nói trên nên khi nói tới Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là nói tới một tổ
chức tập hợp rộng rãi, bao gồm các thành viên. Có thể nói, đây là loại hình tổ
chức rất độc đáo, riêng có của thể chế chính trị Việt Nam và nhờ nó đã góp
phần tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tạo ra sức mạnh, động lực cho dân
tộc. Theo quy định của Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bao gồm: các tổ chức và cá nhân tự nguyện gia
nhập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trên cơ sở tán thành Điều lệ Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp công
nhận. Thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quyền và nghĩa vụ khi
tham gia Mặt trận. Thành viên dù là tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp…trước hết bản thân nó là một tổ chức
có vị trí, vai trò độc lập, có tư cách pháp nhân, có chức năng, nhiệm vụ theo
quy định của pháp luật, có hệ thống tổ chức bộ máy và cán bộ (Đảng Cộng
sản, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh…). Các tổ chức nói trên khi tham
gia vào “tổ chức liên minh” với tư cách cũng là một tổ chức. Tuy nhiên, đây
là loại hình tổ chức rất đặc biệt, rất linh hoạt và mềm dẻo. Hiệu quả và tác
dụng thực tế của hoạt động Mặt trận, sự liên minh hay hình thức tổ chức bộ
máy này phụ thuộc chủ yếu ở sự phối hợp và thống nhất hoạt động với nhau.
Nếu tổ chức tốt thì loại hình, dạng thức, tổ chức bộ máy này sẽ mang lại
hiệu quả rất to lớn. Thực tế sự tồn tại của Mặt trận hơn nửa thế kỷ qua chính
17
là sự khẳng định, là câu trả lời rõ nhất cho hình thức tổ chức bộ máy đặc biệt
nói trên.
Loại hình cơ bản, chủ yếu thứ hai của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải
kể đến hệ thống Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp. Theo quy định
hiện hành được Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ghi nhận thì, Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam các cấp là cơ quan chấp hành giữa hai kỳ Đại hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. Theo đó, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam được quy định theo 4 cấp hành chính là: Trung ương; tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh); huyện, quận, thị xã, thành phố
trực thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện) và xã, phường, thị trấn (gọi chung là
cấp xã). Ở dưới cấp xã, phường, thị trấn có Ban Công tác Mặt trận ở các khu
dân cư, cộng đồng dân cư. Tính từ cấp Trung ương đến cấp tỉnh, thành phố,
huyện, quận, xã, phường thì Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan
chấp hành giữa 2 kỳ Đại hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp có cơ
quan bộ máy giúp việc, có nghĩa là có tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ.
Những nguyên tắc để duy trì tổ chức bộ máy và hoạt động của hệ thống ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam này ngoài Điều lệ quy định, còn được quy
định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác từ Trung ương đến cấp cơ sở.
1.2. HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT
NAM ĐỐI VỚI BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
1.2.1. Khái niệm, đặc trưng của hoạt động giám sát
Khái niệm "giám sát" hiện nay được dùng rất phổ biến trong các khoa
học như chính trị học, luật học, hành chính học... và trong nhiều văn bản Nghị
quyết của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước cũng như trong thực tiễn
đời sống, song nội hàm của nó còn có nhiều cách hiểu khác nhau:
Theo từ điển Luật học định nghĩa: "Giám sát là sự theo dõi, quan sát
hoạt động mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sáng tác động
bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu
18
sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã
xác định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh".
Trong cuốn tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội X của
Đảng Cộng sản Việt Nam (Nxb Chính trị Quốc gia, tr184) nêu khái niệm giám
sát như sau:
Giám sát là theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá
nhân, tổ chức cộng đồng người đối với cá nhân, tổ chức, cộng đồng
khác trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, trong việc thực
hiện Hiến pháp, pháp luật, đường lối, quan điểm của Đảng, chính
sách của Nhà nước, các quyền lợi, nghĩa vụ của công dân, của các
tổ chức chính trị - xã hội và kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu,
xử lý đối với cá nhân, tổ chức có những hành vi sai trái [45, tr.184].
Trong Từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh chủ biên thì "Giám sát là
xem xét và đàn hạch".
Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì: "Giám sát là theo
dõi và kiểm tra có thực hiện đúng những điều quy định không" [36].
Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên hiểu: "Giám sát là
theo dõi, kiểm tra việc thực thi nhiệm vụ" [61].
Từ điển Quản lý xã hội ghi: "Giám sát là kiểm tra; theo dõi nhằm mục
đích kiểm tra việc chấp hành luật, nghị quyết, quyết định quản lý..."
Từ các định nghĩa và cách hiểu về "giám sát" ở trên, có thể chỉ ra những
đặc trưng của giám sát, đó là:
- Giám sát là hoạt động của chủ thể biểu hiện qua theo dõi, quan sát,
xem xét, nhận định về việc làm của đối tượng chịu sự giám sát.
- Mục đích của giám sát là xem xét việc làm của đối tượng bị giám sát
có đúng những điều quy định, những quy chế, chuẩn mực đã đặt ra hay không
để có những biện pháp can thiệp và hướng hoạt động của đối tượng đi đúng
hướng (Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết, các văn bản pháp quy...).
19
- Giám sát là hoạt động mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục.
- Sự tác động qua lại giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát có
mối quan hệ pháp lý, gắn với quyền và trách nhiệm của mỗi bên.
Như vậy, có thể quan niệm: Giám sát là quá trình theo dõi, quan sát,
phân tích, nhận định về hành vi của đối tượng bị giám sát xem có vi phạm
những chuẩn mực của chủ thể quyền lực hay không để có những tác động
điều chỉnh đối tượng thực hiện đúng các yêu cầu chuẩn mực mà chủ thể
quyền lực đề ra.
1.2.2. Cơ sở pháp lý và đặc trưng hoạt động giám sát của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam đối với Bộ máy Nhà nước
- Hoạt động giám sát của Mặt trận đối với chính quyền lần đầu tiên
được đề cập trong Nghị quyết của Đại hội đại biểu Thanh niên cứu quốc toàn
xứ Bắc Kỳ tháng 11/1945: "Mặt trận Việt Minh, Thanh niên cứu quốc hội có
nhiệm vụ ủng hộ Chính phủ và Bộ Thanh niên. Sự ủng hộ ấy phải thiết thực
(bằng việc làm không phải bằng lời nói suông), sáng suốt (thấy cái hay cái dở)
và tích cực (giám sát và đề nghị)". Tuy nhiên, quyền giám sát của Mặt trận mới
chính thức được ghi nhận tại Điều 9 Hiến pháp năm 1992: "Mặt trận giám sát
hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức Nhà
nước". Nhân dân có quyền giám sát trực tiếp và có quyền gián tiếp giám sát cơ
quan nhà nước, cán bộ, công chức, đảng viên (thông qua Mặt trận và các đoàn
thể để thực hiện).
Sau Hiến pháp năm 1992, trong nhiều văn bản pháp luật, trong đó có
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Nhà nước đã từng bước thể chế hoá quyền
giám sát của Mặt trận trên nhiều lĩnh vực như: giám sát việc thi hành pháp
luật về khiếu nại tố cáo của công dân; giám sát việc thi hành pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính, thi hành Luật đất đai, thi hành Luật thuế, thi hành
Luật nghĩa vụ quân sự, giám sát hoạt động tố tụng hình sự, dân sự, hành
chính, lao động; giám sát hoạt động của đại biểu dân cử trong việc thực hiện
20
trách nhiệm người đại biểu... Như vậy, xét về quyền giám sát của Mặt trận
trong việc thi hành chính sách, pháp luật của các cơ quan nhà nước là rất rộng
(cho đến tháng 10 năm 2009, đã có 54 văn bản quy phạm pháp luật liên quan
đến quyền giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân). Đó là sự thể hiện đường lối, chính sách của Đảng về thực hiện dân chủ
Xã hội Chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trên thực tế, quyền
giám sát của Mặt trận đã đi vào cuộc sống, đã thu được những kết quả và kinh
nghiệm nhất định. Song có thể nói đây vẫn là khâu yếu nhất và còn nhiều lúng
túng mà Mặt trận cần phải tập trung nghiên cứu tháo gỡ.
- Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hoạt động
giám sát nhân dân. Điều 12, Luật Mặt trận Tổi quốc Việt Nam ngày 12 tháng
6 năm 1999 nêu rõ:
"Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát mang
tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà
nước, nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước,
đại biểu dân cử, cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật."...
"Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tạo điều kiện để
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện nhiệm vụ giám sát. Khi nhận được kiến
nghị của Mặt trận thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm xem
xét, trả lời trong thời hạn theo quy định của pháp luật."
Như vậy, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc quan sát,
phát hiện, xem xét, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền về hoạt động của các
cơ quan Đảng, Nhà nước và cán bộ, công chức, đảng viên trong việc thực
hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật, các chương trình, dự án, đề án và
quy chế, quy định có hiệu lực của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; việc thực
21
hiện chức trách, nhiệm vụ, phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, công
chức, đảng viên.
Khác với giám sát Nhà nước, giám sát của Mặt trận và đoàn thể không
mang tính quyền lực nhà nước mà mang tính quyền lực của nhân dân, với cơ chế
là "theo dõi, phát hiện, kiến nghị" cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết chứ
không có cơ chế trực tiếp áp dụng chế tài như đình chỉ, bãi bỏ....
Mục đích hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cùng
với công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra Nhà nước nhằm góp phần xây dựng
Đảng, xây dựng và củng cố chính quyền, làm cho Bộ máy Nhà nước ngày
càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động ngày càng có hiệu lực, hiệu quả để
thực thi quyền lực của của nhân dân.
Đối tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bao gồm:
Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước.
Giám sát cán bộ, công chức nhà nước.
Giám sát đại biểu dân cử.
Giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước.
Nội dung hoạt động của cơ quan Nhà nước rất rộng, Luật Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam chưa quy định cụ thể phạm vi giám sát đến đâu, nhất là giám
sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, thì giám sát những cơ quan nào? từ thực
tiễn hoạt động và điều kiện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nội dung giám
sát hoạt động của cơ quan Nhà nước chủ yếu tập trung vào: “giám sát việc thi
hành pháp luật của cơ quan Nhà nước, tập trung vào những pháp luật liên
quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, liên quan đến các tầng lớp
xã hội do Mặt trận trực tiếp vận động, liên quan đến tổ chức và hoạt động
của Uỷ ban Mặt trận và tổ chức thành viên”. Giám sát văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân và kiến nghị xử lý văn
bản trái pháp luật (Điều 9, khoản 4, luật ban hành văn bản Quy phạm pháp
luật của Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân).
22
Tuỳ đặc điểm địa phương và chương trình công tác Mặt trận hàng năm
mà xây dựng kế hoạch giám sát việc thực hiện pháp luật, pháp quy của chính
quyền địa phương như: giám sát thực hiện Luật đất đai, Luật thuế, Luật nghĩa
vụ quân sự, Luật bảo vệ môi trường, các pháp luật về chính sách đối với
người có công, chính sách xã hội, Nghị quyết của Hội đồng Nhân dân,...
Giám sát cán bộ, công chức Nhà nước:
Phạm vi của nội dung giám sát cán bộ, công chức Nhà nước bao gồm:
Nghĩa vụ của cán bộ, công chức Nhà nước, đạo đức, văn hoá giao tiếp của cán
bộ, công chức, những việc cán bộ, công chức không được làm. (Các nội dung trên
được quy định trong Luật Cán bộ - công chức và các văn bản hướng dẫn của
Đảng, Chính phủ, Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm
chống lãng phí và văn bản pháp luật có liên quan).
Hình thức, cơ chế giám sát cán bộ, công chức, Đảng viên ở khu dân cư
được cụ thể hoá ở Nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ và Uỷ ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam (số 05, ngày 21/04/2006) ban hành bằng hình thức Quy
chế, trong đó, quy định rõ mục đích giám sát, nguyên tắc giám sát, đối tượng giám
sát, quyền trách nhiệm của chủ thể giám sát và đối tượng bị giám sát, nội dung
giám sát, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức khi trả lời kiến nghị giám sát.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát cán bộ, công chức còn được quy
định cụ thể trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn với hình
thức “lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt do Hội đồng nhân dân cấp
xã bầu”, đó là Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân
dân, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân, Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân do Ban
Thường trực Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã chủ trì tổ chức việc lấy phiếu
tín nhiệm. Giám sát cán bộ, công chức theo quy định của Luật phòng chống
tham nhũng; Luật thực hành tiệt kiệm, chống lãng phí.
Giám sát hoạt động của đại biểu dân cử:
Nội dung giám sát hoạt động của đại biểu dân cử, bao gồm: giám sát
tiêu chuẩn đại biểu và việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu dân cử. Hiện chưa