BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN VIỆT HÙNG
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TẠI THỊ XÃ HỒNG LĨNH, TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
2
NGHỆ AN - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN VIỆT HÙNG
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TẠI THỊ XÃ HỒNG LĨNH, TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHẠM VĂN THANH
2
NGHỆ AN - 2015
LỜI CẢM ƠN
Với tất cả tình cảm chân thành của mình, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng
biết ơn hội đồng khoa học và đào tạo chuyên ngành Chính trị học, Trường Đại
học Vinh đã giảng dạy, quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập cũng như hoàn thành luận văn. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc tới Tiến sỹ Phạm Văn Thanh, người đã hết sức quan tâm đâu tư nhiều
công sức, nhiệt tình hướng dẫn để bản thân tôi hoàn thành Luận văn tốt nghiệp
này.
Xin chân thành cảm ơn Thị ủy, Ủy Ban Mặt trận Tổ quốc và 6 phường,
xã thuộc thị xã Hồng Lĩnh đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi thực hiện
khảo sát và cung cấp số liệu để tôi thực hiện công trình nghiên cứu của mình.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên và đồng hành cùng với tôi trong quá
trình học tập nghiên cứu và thực hiện Luận văn.
Trong suốt quá trình nghiên cứu thực hiện Luận văn, bản thân tôi đã hết
sức nổ lực và cố gắng, song không thể tránh khỏi những sai sót. Với tinh thần
nghiêm túc và cầu thị, rất mong nhận được sự đóng góp của quý Thầy, Cô và
đồng nghiệp để việc nghiên cứu đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, tháng 10 năm 2015
Tác giả
Nguyễn Việt Hùng
3
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA..................................................................................................1
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................................................2
MỤC LỤC..............................................................................................................................................3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT..............................................................................................................4
A. MỞ ĐẦU..........................................................................................................................................5
1. Tính cấp thiết của đề tài......................................................................................................5
2. Mục đích của đề tài...........................................................................................................10
3. Nhiệm vụ ..........................................................................................................................10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.....................................................................10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu........................................................................10
6. Ý nghĩa của đề tài..............................................................................................................11
7. Kết cấu của đề tài..............................................................................................................11
B. NỘI DUNG......................................................................................................................................12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ..........................................................................................12
1.1. Lý luận chung về dân chủ và quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở...................................12
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam
về dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở........................................................23
1.3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.......................................................................................29
Kết luận chương 1.................................................................................................................42
Chương 2
THỰC TRẠNG VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN
TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TẠI THỊ XÃ HỒNG LĨNH,
TỈNH HÀ TĨNH ...................................................................................................................................43
2.1. Khái quát đặc điểm, tự nhiên, kinh tế - xã hội thị xã Hồng Lĩnh.....................................43
4
2.2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh trong việc thực hiện quy chế
dân chủ cơ sở ..............................................................................................................52
Kết luận chương 2.................................................................................................................70
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT
NAM TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TẠI THỊ XÃ HỒNG LĨNH,
TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY....................................................................................................................72
3.1. Phương hướng phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong việc thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở tại thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh .............................................................72
3.2. Giải pháp phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở tại thị xã Hồng Lĩnh, tĩnh Hà Tĩnh hiện nay.........................................75
Kết luận chương 3.................................................................................................................91
C. KẾT LUẬN.......................................................................................................................................93
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................96
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
Chữ viết tắt
HTCT
HĐND
MTTQVN
QCDC
TTND
UBMTTQ
UBND
UBTVQH
Nội dung
Hệ thống chính trị
Hội đồng Nhân dân
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Quy chế dân chủ
Thanh tra Nhân dân
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Ủy ban Nhân dân
Ủy ban Thường vụ Quốc hội
5
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ không chỉ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà còn là
động lực, là mục tiêu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ lâu, Đảng ta luôn coi trọng phát huy quyền làm
chủ của Nhân dân, dựa vào dân, nên đã đưa cách mạng nước ta vượt qua mọi
gian nan thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dân chủ hóa đời
sống xã hội đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là một trong những nội
dung cốt lõi, trọng tâm. Đặc biệt là dân chủ hóa đời sống xã hội từ cơ sở.
Thấm nhuần quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đưa ra phương châm: “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra, giám sát”. Để phương châm đó trở thành hiện thực của
đời sống xã hội, ngày 18/02/1998 Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khóa VIII)
đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở và
đã xác định: “Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách
mạng, của công cuộc đổi mới”. Tiếp đó, ngày 15/5/1998, để cụ thể hóa Chỉ thị
này, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định 29/NĐ/CP về ban hành "Quy chế thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn" nhằm phát huy sức sáng tạo của Nhân
dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, tăng cường đoàn kết
toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng, chính quyền,
đoàn thể vững mạnh, góp phần thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh".
Trong Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị Trung
ương Đảng (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện QCDC đã quy định trách
nhiệm của UBMTTQVN và các đoàn thể Nhân dân bao gồm ba nhiệm vụ lớn
để đưa quy chế vào thực tiễn đời sống, xã hội: “MTTQ và các đoàn thể Nhân
6
dân tuyên truyền, giáo dục rộng rãi hội viên, đoàn viên và Nhân dân Chỉ thị
này và các QCDC ở cơ sở; làm cho mọi người hiểu và sử dụng đúng các quyền
của mình được quy định trong QCDC cơ sở, đồng thời chấp hành đầy đủ trách
nhiệm, nghĩa vụ của công dân; Mặt trận và các đoàn thể phối hợp với chính
quyền trong việc thực hiện và giám sát thực hiện QCDC ở cơ sở” [2, tr 4].
Trong 17 năm qua việc triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở là một thời
gian cũng khá dài và thực tế đã cho thấy những kết quả đạt được rất quan
trọng, có những bước phát triển mới. Tuy vậy, vẫn còn bộc lộ những thiếu sót,
yếu kém như: công tác chỉ đạo của MTTQ ở một số xã, phường trong thị xã
Hồng Lĩnh chưa đều, chưa phát huy hết quyền làm chủ của Nhân dân còn bị vi
phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; còn bị động lúng túng trong việc đề ra
các biện pháp chỉ đạo phù hợp với tình hình, đặc điểm của từng địa phương;
tính hình thức còn khá phổ biến trong nhiệm vụ triển khai thực hiện QCDC của
các cấp ủy Đảng, chính quyền và MTTQ. Việc kiện toàn, cũng cố nâng cao
chất lượng hoạt động của UBMTTQ ở một số địa phương chưa được tập trung
đúng mức; Một số cán bộ xã, phường chưa nắm bắt được QCDC và công tác
Mặt trận tham gia thực hiện QCDC; hoạt động giám sát của Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội ở một số xã, phường còn kém; công tác tuyên truyền
vận động Nhân dân học tập nắm vững các quan điểm của Bộ Chính trị, nội
dung quyền làm chủ trực tiếp trong quy chế còn làm lướt, hình thức; việc lồng
ghép các nội dung công tác Mặt trận tham gia thực hiện QCDC với ba nội
dung cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư” chưa chặt chẽ và đồng bộ.
Để không ngừng tăng cường hiệu quả của việc thực hiện QCDC ở cơ sở
và góp phần xem xét, đánh giá vấn đề một cách khách quan, khoa học, việc đi
sâu nghiên cứu, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện trên phạm vi toàn quốc
hay từng địa phương cụ thể đều có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
Từ lâu, vấn đề dân chủ đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nhà hoạt
7
động chính trị cũng như các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khoa học xã hội và
nhân văn ở trong nước và trên thế giới. Dân chủ và thực hiện QCDC ở cơ sở, vai
trò của MTTQ trong hệ thống chính trị đã được đề cập trong nhiều nghị quyết
của Đảng, văn bản, quyết định của Chính phủ và đã có nhiều công trình nghiện
cứu (ở cấp độ luận văn, luận án, bài viết trên các tạp chí, các cuốn sách…) để
bàn về đề tài này ở những góc độ, khía cạnh khác nhau và được chia nhiều nhóm
vấn đề.
- Nhóm thứ nhất, những công trình đã được nghiên cứu sâu về vấn đề
dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã được đăng thành sách và các
bài viết trên các báo, tạp chí: Đồng chí Đỗ Mười (1998) “Phát huy quyền làm
chủ của nhân dân ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản số 20; PGS. TS Dương Xuân
Ngọc (chủ biên) Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (năm 2000), Quy
chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - một số vấn đề lý luận thực tiễn, Nxb Chính trị
Quốc gia Hà Nội; Trương Quang Được (năm 2002) “Tiếp tục đẩy mạnh việc
xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, số 12; TS.
Nguyễn Văn Sáu - GS. Hồ Văn Thông (chủ biên 2002), Thực hiện quy chế dân
chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
Phan Xuân Sơn (Chủ biên, 2003) các đoàn thể nhân dân với việc bảo
đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. TS. Lương
Gia Ban (Chủ biên, 2003) Dân chủ và thực hiện QCDC ở cơ sở, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. Bộ Nội vụ (năm 2001) hướng dẫn triển khai QCDC cơ sở,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nhóm vần đề này các tác giả đã nghiên cứu một cách sâu sắc và làm
sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn thực hiện QCDC ở cơ sở.
- Nhóm thứ hai, các cuốn sách, luận văn, bài báo, bài viết trên các tạp
chí về MTTQVN, Mặt trận Tổ quốc với việc thực hiện QCDC ở cơ sở.
PGS.TS Nguyễn Lương Bằng (2012) “Giám sát phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong bối cảnh ở Việt Nam hiện nay”, Tạp
8
chí Đại học Sài Gòn, số 13, T2/2013 Tr 39-45. PGS.TS Nguyễn Lương Bằng
(năm 2012). Bài viết “Vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể đối với ổn định và tăng trưởng kinh tế vĩ mô ở Việt Nam”, kỷ yếu
hội thảo khoa học,Trường Đại học Vinh, tháng 4 năm 2012 Trang 16-19.
Trong hai bài này tác giả đã phân tích sâu sắc ưu điểm, nhược điểm về vai trò
của tổ chức Mặt trận và các đoàn thể trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện
nay, đồng thời đề xuất những giải pháp để phát huy các tổ chức trong đó có bối
cảnh của Việt Nam hiện nay.
Tác giả Lê Bá Lợi (2009) “Mặt trận tổ quốc Hồng Lĩnh với việc thực
hiện QCDC ở cơ sở”, Tạp chí Mặt trận tổ quốc Việt Nam, số 71. Bài viết này
tập trung trình bày những kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế trọng
việc thực hiện QCDC của Mặt trận tổ quốc thị xã Hồng Lĩnh, đề ra những giải
pháp thực hiện tốt việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn công tác Mặt trận (2009), của Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Công trình tập trung nghiên cứu những vấn đề về cơ sở lý luận, nội dung, đặc
điểm, vai trò, hoạt động… của công tác MTTQVN. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam (2007), Lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, quyển III (19742004), Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập trung nghiên cứu về lịch sử hình
thành của MTTQVN trong lịch sử.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2006), Sổ tay công tác
Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền (lưu hành nội bộ), xưởng in tổng hợp
cục công nghiệp quốc phòng, tập trung nêu lên những hoạt động của
MTTQVN, cũng như việc thực hiện QCDC ở cơ sở, về Luật của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các Nghị quyết, Thông tư Liên tịch, Thông tri, Nghị định của
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Nhóm vấn đề này các tác giả tập trung trình bày về lý luận và thực tiễn
của MTTQVN, cũng như tình hình thực hiện QCDC ở cơ sở tại các địa
phương.
9
- Nhóm thứ ba, các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Nhà nước, Chính phủ
trong việc thực hiện QCDC ở cơ sở, vừa định hướng nghiên cứu, vừa định
hướng tổ chức thực hiện.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết TW 3 (khóa VIII), nêu rõ
yêu cầu tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ nhân dân qua
các hình thức dân chủ đại nghị và dân chủ trực tiếp; Bộ Chính trị Trung ương
Đảng (ngày 18/02/1998) ra Chỉ thị 30 CT/TW về xây dựng và thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở. Đã quy định Ủy ban MTTQVN và các tổ chức đoàn thể
chính trị xã hội phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục rộng rãi tới hội
viên, đoàn viên và Nhân dân, Chỉ thị này và các quy chế dân chủ ở cơ sở, sử
dụng đúng quyền và nghĩa vụ công dân đã được quy định trong quy chế dân
chủ, phối hợp với chính quyền trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Chính phủ (11/5/1998), ban hành Nghị định 29/1998/NĐ-CP (nay là
Nghị định số 79/2003/NĐ-CP). Ủy Ban Thường vụ Quốc hội (2007), Pháp
lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007. Pháp lệnh nêu rõ những
quy định chung, những nội dung công khai để Nhân dân biết, những nội
dung Nhân dân bàn và quyết định, những nội dung Nhân dân tham gia ý
kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định, những nội dung Nhân
dân giám sát, điều khoản thi hành trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở
xã, phường, thị trấn.
Các công trình nghiên cứu, bài viết nói trên cung cấp những vấn đề lý
luận và thực tiễn về MTTQVN, về dân chủ, thực hiện dân chủ ở cơ sở, cũng
như tình hình thực hiện quy chế dân chủ ở địa phương. Tuy nhiên việc nghiên
cứu về đề tài “ Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở tại thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay” thì vẫn
chưa có công trình nào. Với tầm quan trọng trên, chúng tôi chọn vấn đề: "Phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực hiện quy chế
10
dân chủ ở cơ sở tại thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay" làm đề tài
luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Chính trị học góp phần thiết thực vào giải
quyết một vấn đề có tính cấp thiết hiện nay.
2. Mục đích của đề tài
Nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cũng như làm rõ thực trạng hoạt
động của MTTQ trong hệ thống chính trị ở Thị xã Hồng Lĩnh về việc thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.
Đề xuất những giải pháp nhằm phát huy vai trò tích cực của UBMTTQVN
trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, tăng cường khối đại đoàn kết, góp
phần thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng thị xã Hồng Lĩnh ngày càng
giàu mạnh, dân chủ, văn minh trong giai đoạn mới.
3. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận về vị trí, vai trò chức năng của MTTQVN đối
với vấn đề dân chủ, đoàn kết trong thời kỳ mới; việc tham gia thực hiện quy
chế dân chủ.
- Phân tích thực trạng UBMTTQ thị xã Hồng Lĩnh tham gia thực hiện
quy chế dân chủ ở xã, phường; nguyên nhân và những kinh nghiệm thực tiễn.
Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy vai trò tích
cực của MTTQVN đối với việc thực hiện QCDC ở cơ sở tại thị xã Hồng
Lĩnh, Hà Tĩnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng
Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: Trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh
+ Về thời gian: trong giai đoạn hiện nay (từ năm 2007 đến nay)
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
11
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam về dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
5.2. Phương pháp
Phương pháp luận:
Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước.
Phương pháp cụ thể:
Phương pháp tổng hợp; phương pháp phân tích; phương pháp so sánh;
phương pháp thống kê; phương pháp điều tra xã hội học để tiến hành thực hiện
Luận văn.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Qua việc điều tra, nghiên cứu, phân tích quá trình thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở; những đóng góp của ủy ban MTTQVN trên địa bàn thị xã
Hồng Lĩnh, Luận văn khái quát một số kết quả, chỉ ra những hạn chế và
nguyên nhân của nó; đồng thời đề xuất những phương hướng, giải pháp cụ thể
nhằm phát huy vai trò của MTTQVN trong việc tăng cường thực hiện quy chế
dân chủ phù hợp với điều kiện của địa bàn, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng
dạy chuyên đề, đồng thời cũng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng
trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị
cơ sở vững mạnh ở một số huyện, thị, thành phố trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, các phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
12
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
1.1. Lý luận chung về dân chủ và quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm dân chủ và dân chủ ở cơ sở
Dân chủ là một khái niệm đa nghĩa, phức tạp, thuộc phạm trù chính trị
có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. “Dân chủ” là một từ ghép gồm 2 chữ: “demos”
(có nghĩa là người bình dân, dân chúng) và “kratia” (chữ gốc là “kratos” - có
nghĩa là quyền cai trị, là sức mạnh). Do vậy, từ “Demoskratia” có nghĩa là
quyền lực của Nhân dân, chính quyền của Nhân dân. Dân chủ là một chính
quyền “của dân, do dân và vì dân”. Như vậy, dân chủ là một thể chế do dân
làm chủ và dân chủ trước hết là chế độ chính trị trong đó quyền lực tối cao
thuộc về Nhân dân, do Nhân dân thực thi, tự bản thân thực thi hoặc thông qua
các đại biểu mà mình bầu ra.
Bản chất của Nhà nước ta được khẳng định trong Hiến pháp, là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Tuy vậy, trong thực tế, một số bộ phận cán bộ,
công chức Nhà nước chưa thực sự là người công bộc của dân như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã mong muốn. Nếu không thực hiện dân chủ, Nhà nước sẽ trở nên
độc tài, chuyên chế, do đó dân phải học để làm chủ; Nhà nước phải bảo đảm cơ
chế để lắng nghe dân. Do vậy, nói tới dân chủ có nghĩa là nói đến mối quan hệ
giữa dân và chính quyền mà ở đó chính quyền phải lắng nghe dân, phải tạo
điều kiện để người dân được quyết định hoặc tham gia quyết định những vấn
đề liên quan đến cuốc sống và sự phát triển của mỗi người, của cả cộng đồng,
điều này có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng ở cấp xã, phường, thị trấn.
13
Cơ sở là đơn vị ở cấp dưới cùng, nơi trực tiếp thực hiện các hoạt động
như sản xuất, công tác,…của một hệ thống tổ chức, trong quan hệ với các bộ
phận lãnh đạo cấp trên. Như vậy, cấp cơ sở là cấp xã trong quan hệ với cấp địa
phương (gồm cấp tỉnh và cấp huyện) và với cấp Trung ương.
Chính quyền cơ sở là chính quyền cấp xã. Bởi vì, căn cứ vào việc phân
bổ dân cư và lãnh thổ thành đơn vị hành chính thì chính quyền cấp xã và cấp
tương đương là cấp chính quyền cơ sở. Vì đây là cấp chính quyền cuối cùng
gần và sát dân nhất. Còn thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố và tương đương là theo
đơn vị dân cư - với tư cách là những cộng đồng người nhỏ nhất sinh sống cùng
nhau. Ở đây, đời sống dân cư diễn ra tự quản là chính.
Dân chủ ở cơ sở là dân chủ ở cấp xã, phường, thị trấn và thôn, làng, ấp,
bản, tổ dân phố (là các hình thức cộng đồng dân cư như đã nêu). Dân chủ ở cơ
sở chủ yếu là thực hiện hình thức dân chủ trực tiếp và các hình thức tự quản
của cộng đồng dân cư. Dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa vô cùng to lớn, vì cơ sở là
nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của Nhân dân một cách trực tiếp
và rộng rãi nhất.
1.1.1.2. Khái niệm về quy chế dân chủ ở cơ
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Nhân dân ta đã đạt được những thành quả quan trọng. Đất nước đã được
độc lập, tự do, thống nhất và ngày nay toàn Đảng, toàn dân đang ra sức phấn
đấu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng cũng bộc lộ những yếu kém,
khuyết điểm, tình hình tiêu cực, suy thoái phẩm chất vẫn có chiều hướng phát
triển, quyền làm chủ của Nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh
vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà
cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa ngăn chặn, đẩy
lùi được.
14
Trước tình hình đó, Nghị quyết TW 3 khóa VIII (6/1997) nêu rõ yêu
cầu: Tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền là chủ của dân qua các hình
thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; tiếp tục hoàn thiện Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đảm bảo trong sạch, vững mạnh và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng và quản lý Nhà nước.
Ngày 18/2/1998, Bộ chính trị Trung ương Đảng đã ra chỉ thị 30/ CT-TW
về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở nhằm “Giữ vững và phát huy quyền
làm chủ của dân, thu hút Nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, tham gia kiểm
kê, kiểm soát Nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ
và nạn tham nhũng” [2, tr.1], UBTVQH (khóa X) ra Nghị quyết số 45 - 1998/
NQ - UBTVQH 26/2/1998 về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã.
Nghị quyết giao Chính phủ ban hành quy chế thực hiện dân chủ với các định
hướng nội dung cụ thể. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nghị quyết của
UBTVQH, ngày 11/5/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 29/1998/
NĐ - CP (nay là Nghị định số 79/2003/ NĐ - CP) về việc ban hành QCDC.
Nghị quyết nêu rõ: Điều 1: Ban hành kèm theo Nghị định này bản Quy chế
thực hiện dân chủ ở xã. Điều 2. Quy chế này áp dụng với cả phường và thị
trấn. Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ hướng dẫn việc áp dụng quy chế này đối
với phường và thị trấn. [9, tr.1].
Quy chế dân chủ ở cơ sở bao gồm cả dân chủ trong các cơ quan hành
chính Nhà nước và các đơn vị doanh nghiệp Nhà nước với các văn bản quy
định riêng. Những văn bản trên đây từ chủ trương của Đảng đến việc thể chế
hóa bằng các văn bản pháp luật của Nhà nước thể hiện sự quan tâm của Đảng,
Nhà nước ta đối với việc xây dựng thể chế về dân chủ ở cơ sở. Thực hiện
phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”, thể hiện
bản chất Nhà nước là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở gồm các văn bản quy phạm pháp luật
15
quy định những biện pháp làm chủ trực tiếp của Nhân dân ở cơ sở xã, phường,
cơ quan hành chính Nhà nước và đơn vị doanh nghiệp Nhà nước. Đó là những
điều Nhân dân phải được biết, những việc Nhân dân được làm để Nhà nước
quyết định hoặc Nhân dân được quyết định và những việc Nhân dân được giám
sát, kiểm tra, nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của Nhân dân.
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã là văn bản quy phạm pháp luật quy định
cụ thể những việc HĐND và UBND xã phải thông tin kịp thời và công khai để
dân biết; những việc dân bàn và quyết định trực tiếp, những việc dân tham gia
ý kiến trước khi cơ quan Nhà nước quyết định; Những việc dân giám sát, kiểm
tra và các hình thức thực hiện quy chế dân chủ ở xã nhằm phát huy quyền làm
chủ, sức sáng tạo của Nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần
to lớn của Nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện dân sinh, nâng
cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết, xây dựng Đảng bộ, chính
quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn và khắc phục
tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng của một số cán bộ, Đảng viên và
các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quy chế thực hiện
dân chủ ở xã, vì vậy thực chất là một định chế pháp lý bảo đảm quyền làm chủ
của dân.
1.1.2. Đặc điểm, nội dung và vai trò của việc thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở
1.1.2.1. Đặc điểm của quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
Thứ nhất, khác với các quy chế thông thường, quy chế thực hiện dân chủ
là một văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể hóa và luật hóa phương châm: “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” bằng một nghị định của Chính phủ căn cứ
vào nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Nghị định số 45 - 1998/NĐ UBTVQH 26/2/1998 về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn).
16
Thứ hai, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở là sự cụ thể hóa dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân gắn liền với cơ
chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.
Thứ ba, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở phát huy chế độ dân chủ đại
nghị, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của chính quyền địa phương,
cơ sở, quy định những nghĩa vụ cụ thể của chính quyền trong việc bảo đảm
quyền dân chủ của người dân ở cơ sở.
Thứ tư, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở thực hiện chế độ dân chủ trực
tiếp ở cơ sở để nhân dân bàn bạc và trực tiếp quyết định những công việc quan
trọng, thiết thực, gắn với quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân.
Thứ năm, Có sự tham gia của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở mọi
khâu trong thực hiện quy chế ở cơ sở để phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ của
nhân dân trong việc thực thi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ sáu, Mục đích của việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã là
nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, động viên sức
mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội,
cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết xây
dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh, ngăn
chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng của một số cán
bộ, Đảng viên và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ bảy, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở thể hiện yêu cầu dân chủ
phải trong khuôn khổ của Hiến pháp Và Pháp luật, đi đôi với trật tự, kỷ cương,
quyền đi đôi với nghĩa vụ; kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ, vi
phạm Hiến pháp, Pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích tập thể,
quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân.
1.1.2.2. Nội dung của quy chế thực hiện dân chủ cơ sở
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã do Chính phủ ban hành ngày 15/5/1998
17
(nay là Nghị định số 79/2003/NĐ- CP) gồm Lời nói đầu, 7 chương và 25 điều.
Về nội dung, quy chế quy định những quyền của Nhân dân ở cơ sở được
biết và hình thức biết những thông tin liên quan đến pháp luật, chủ trương
chính sách của Nhà nước, đặc biệt là những thông tin liên quan trực tiếp đến
đời sống dân sinh. Quy chế cũng quy định những việc để nhân dân bàn và
quyết định cũng như những hình thức thực hiện; Quy định những việc nhân
dân ở cấp xã có quyền giám sát, kiểm tra và những phương thức để thực hiện
giám sát, kiểm tra; Việc xây dựng cộng đồng dân cư thôn, làng, bản, ấp và
những hình thức tổ chức. Đặc biệt, để thực hiện phương châm “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”, quy chế quy định cơ chế thực hiện dưới
hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, trong đó ở cấp cơ sở, dân
chủ trực tiếp là quan trọng.
QCDC cơ sở quy định cụ thể các loại công việc để: dân biết, dân bàn,
dân kiểm tra, giám sát.
Về dân biết, quy chế quy định quyền của mọi người dân được thông tin
về những chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước, các vấn đề liên quan
trực tiếp đến đời sống hàng ngày của Nhân dân tại cơ sở…và nghĩa vụ của
chính quyền phải thông tin kịp thời và công khai cho người dân.
Về dân bàn, có 2 loại gồm:
- Một loại công việc cho dân bàn và quyết định trực tiếp
- Một loại công việc do dân bàn và tham gia ý kiến, Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân xã quyết định.
Các việc dân bàn và quyết định trực tiếp là các loại việc có huy động sự
đóng góp của dân để xây dựng cơ sở hạ tầng và xây dựng hương ước, quy ước
nội bộ. Đây là quy định rất mới không những thực hiện quyền là chủ của Nhân
dân mà còn chống được tệ nạn tham nhũng, lãng phí.
Về kiểm tra, giám sát, quy chế quy định dân giám sát, kiểm tra các loại
công việc từ hoạt động của HĐND, UBND đến các việc giải quyết khiếu nại,
18
tố cáo của công dân, kết quả quyết toán công trình do dân đóng góp, việc quản
lý sử dụng đất đai, thu chi các quỹ, việc thực hiện chính sách đối với người có
công với nước…dân giám sát, kiểm tra tức là thực hiện quyền lực của mình
trong quá trình quản lý đất nước. Lê nin đã từng nói: Nếu Nhà nước không tiến
hành kiểm kê, kiểm soát toàn dân đối với việc sản xuất và phân phối các sản
phẩm thì chính quyền của những người lao động, nền tự do của họ sẽ không
thể duy trì được.
1.1.2.3. Vai trò của quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
Nước Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một chế độ phong kiến
nữa thuộc địa, ở đó mang nặng dấu ấn của chế độ chuyên chế quân sự. mặc dù
trong xã hội lúc bấy giờ đã có yếu tố dân chủ truyền thống làng, xã và yếu tố
sơ khai của dân chủ tư sản nhưng chưa đáng kể. Do vậy, nền tảng dân chủ ở cơ
sở của ta thiếu hụt truyền thống trong lịch sử. Điều đó gây không ít khó khăn
cho việc xây dựng một nước dân chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quy chế ra đời là một đòi hỏi tất yếu của quá trình thực hiện dân chủ ở
nước ta, quy chế không chỉ đơn thuần là một phản ứng chính trị của Đảng và
Nhà nước trước những tình hình phức tạp của những điểm nóng ở cơ sở mà thể
hiện cái nhìn hướng tới cơ sở, coi trọng cái gốc ở cơ sở nên mang tính chiến
lược, căn bản, lâu dài. Lần đầu tiên định hướng chính trị về dân chủ, phương
châm để thực hiện dân chủ như “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã
được cụ thể hóa trong một văn bản quy phạm pháp luật. Vì vậy, quy chế thực
hiện dân chủ ở cơ sở có vai trò hết sức to lớn.
Thứ nhất, thực hiện quy chế đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân
lao động, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân,
do dân, vì dân ngay ở cấp chính quyền cơ sở ở nước ta hiện nay.
Trong một thời gian dài trước đây, nhiều địa phương đã không thực sự
quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng của nhân dân trong việc giải quyết các vấn
đề của làng xã. Do vậy khi QCDC được triển khai, người dân rất phấn khởi và
19
nhiệt tình hưởng ứng. Nơi nào làm tốt việc xây dựng và thực hiện quy chế, nơi
ấy sẽ xây dựng được phong trào sinh hoạt chính trị rộng lớn, có tác dụng đến
nhiều mặt đời sống xã hội. Thông qua quá trình học tập, xây dựng và thực hiện
quy chế, cán bộ Nhân dân thấy rõ hơn quyền cũng như trách nhiệm của mình
trong việc xây dựng đời sống dân chủ ở cơ sở, ý thức làm chủ, ý thức công dân
của người dân đã có sự chuyển biến khá rõ. Ngay từ trong cộng đồng dân cư
nhỏ hẹp như xã, phường, người dân đã có thể trực tiếp bày tỏ chính kiến của
mình, trực tiếp quyết định và giám sát các công việc của cộng đồng xã hội.
Với những thông tin về chính sách, pháp luật, về nội dụng các hoạt động
của địa phương, của cơ sở được đua ra kịp thời và công khai, với những điều
người dân được bàn bạc, thảo luận và trực tiếp quyết định hoặc tham khảo cho
cho sự quyết định của cấp chính quyền cơ sở, người dân đã từng bước học làm
chủ, tập làm chủ và dần biết làm chủ.
Thứ hai, thực hiện dân chủ ở cơ sở là một giải pháp hạn chế sự tha hóa
quyền lực của nhà nước. Quyền lực chính trị của Nhân dân lao động được thể
hiện tập trung thông qua quyền lực của Nhà nước. Với hình thức dân chủ đại
diện, quyền lực Nhà nước sẽ được giao cho một số người đảm nhận, chịu trách
nhiệm quản lý, điều hành công việc chung. Những quy luật chung là khi tập
trung quyền lực thì dễ dẫn đến lạm quyền, lộng quyền. Những người đại diện
cho quyền lực của Nhân dân rất dễ rơi vào sự tha hóa, độc đoán, quan liêu nếu
không có một cơ chế kiểm soát quyền lực. Trong thời gian qua ở nước ta, hiện
tượng người có chức có quyền đã lợi dụng quyền lực để mưu cầu lợi ích riêng
cho mình không phải là ít. Họ dựa vào địa vị của mình, mặc dù địa vị mà họ có
được là do Nhân dân bầu ra để nhận hối lộ, tham nhũng, làm trái với mục tiêu
của Đảng. Họ trở nên những người xa lạ với dân, với Đảng với Nhà nước. Bộ
máy chính quyền trở nên quan liêu, bảo thủ trì trệ nó không còn đại diện được
cho lợi ích của Nhân dân, của toàn xã hội nữa mà chính nó lại vi phạm đến lợi
ích của Nhân dân lao động, đến lợi ích mà nó đại diện.
20
Để hạn chế sự tha hóa quyền lực Nhà nước, cần phải làm trọng sạch bộ
máy lãnh đạo của Đảng và chính quyền ngay ở từng cơ sở. Từ khi triển khai
thực hiện quy chế, người dân đã biết sử dụng quyền làm chủ của mình để đấu
tranh với những hiện tượng tiêu cực ấy. Từ những quy định rõ ràng các việc
cần thông báo cho dân biết, những việc dân được bàn, những việc dân được
giám sát, kiểm tra tài chính công khai, minh bạch đã làm hạn chế rất nhiều biểu
hiện tha hóa của một số cán bộ, đảng viên trong bộ máy Nhà nước.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ làm cho Nhân dân lao động từng
bước thể hiện quyền làm chủ mà còn làm cho các cấp ủy đảng, chính quyền,
đảng viên nhận thức rõ hơn về quyền làm chủ của Nhân dân cũng như ý thức
được trách nhiệm phục vụ Nhân dân, phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương phép
nước. Ở những nơi làm tốt việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ, ý thức
xây dựng cộng đồng, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền được nâng lên.
Nó không chỉ góp phần nâng cao ý thức cán bộ, đảng viên và nhân dân về thực
hiện và phát huy dân chủ và quyền làm chủ của Nhân dân mà còn làm chuyển
biến một bước về phương thức lãnh đạo của Đảng, điều hành, quản lý của
chính quyền ở cơ sở. Nhân dân đã mạnh dạn, thẳng thắn, cởi mở chân thành
phê bình cán bộ, đảng viên, đóng góp xây dựng tổ chức Đảng giúp tổ chức
Đảng loại được nhiều cán bộ đảng viên kém phẩm chất, năng lực, thoái hóa
biến chất.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một cuộc cách mạng sâu sắc đến ý thức và
phong cách, phương thức lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của chính quyền cơ
sở đối với sự tôn trọng quyền làm chủ của người dân. Từ đó cán bộ bớt đi thái
độ hống hách, cựa quyền, nhũng nhiễu dân; làm cho mối quan hệ giữa dân với
chính quyền cởi mở hơn, suy nghĩ của người dân về chính quyền ngày một tốt
đẹp hơn, góp phần làm cho chính quyền hoạt động có hiệu quả hơn.
Thứ ba, Thực hiện dân chủ ở cơ sở khơi dậy sức mạnh tiềm tang của
nhân dân lao động. Phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân lao
động trong quá trình xây dựng Nhà nước và xã hội, giải quyết những vấn đề
21
lớn từ quốc tế dân sinh đến những việc của đời sống cộng đồng, đời sống dân
cư. Thông qua các hoạt động dân chủ trực tiếp tại cơ sở, người dân có điều
kiện tham gia ý kiến, có điều kiện tập duyệt và trưởng thành trong vai trò của
người làm chủ đích thực. Khi Đảng, Nhà nước quan tâm, biết lắng nghe và học
hỏi dân, biết bồi dưỡng và nâng cao đời sống của dân thì nhân dân không chỉ
nói lên điều mình mong muốn mà còn gợi ý, kiến nghị và chỉ ra rằng Đảng và
Nhà nước cần phải hành động như thế nào, bằng phương pháp cụ thể nào để
giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội. Chính những những sang kiến đầy tâm
huyết của dân đã tạo nên nguồn trí tuệ quý giá không gì thay thế được cho
những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo ra những
bước phát triển vững chắc của đất nước trên con đường phát triển và hội nhập.
Thứ tư, thực hiện dân chủ ở cơ sở gắn với phát triển xã hội. Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất
nước. Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Phát triển văn
hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển
văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là xây dựng chăm lo con người có
nhân cách, lối sống tốt đẹp, với đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình,
trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa,
trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh
tế và văn hóa; cần chú trọng đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong
phát triển kinh tế. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ thể sáng tạo, đội ngũ tri
thức giữ vai trò quan trọng.
Từ khi có Nghị quyết TW5 (khóa VIII) và Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị
Trung ương Đảng, các địa phương đã kết hợp chặt chẽ cả hai nội dung: Triển
khai quy chế dân chủ với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa khu dân cư” nhắm khắc phục những vấn đề nhức nhối về tư tưởng đạo
đức, lối sống và xây dựng môi trường văn hóa văn minh, lành mạnh trong từng
22
gia đình, làng xã, vận động nhân dân xây dựng nếp sống văn minh, lối sống
lành mạnh, bài trừ các hủ tục, tệ nạn xã hội và mê tín dị đoan.
Bên cạnh, tổ chức công tác tuyên truyền các chủ trương chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tuyên truyền thực hiện cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tổ chức các ngày lễ, tết.
Thực hiện Chỉ thị 27 của Bộ Chính trị trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Tiếp
tục thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục; đẩy mạnh công tác y tế, dân số kế
hoạch hóa gia đình, công tác vệ sinh môi trường.
Thứ năm, Thực hiện dân chủ ở cơ sở tạo ra pháp lý để Mặt trận tổ quốc
các cấp và các tổ chức chính trị xã hội thực hiện được vai trò cầu nối giữa Nhà
nước và nhân dân trong phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Mặt trận tổ quốc Việt Nam tuyên truyền, vận động nhân dân phát huy
quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm
chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát các hoạt động của cơ quan
Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước; tập hợp ý chí,
nguyện vọng của Nhân dân để phản ánh kiến nghị kịp thời với Đảng và Nhà
nước; tham gia xây dựng củng cố chính quyền Nhân dân; cùng nhà nước chăm
lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của Nhân dân. MTTQVN, các
tổ chức thành viên thông qua hoạt động phối hợp tuyên truyền vận động Nhân
dân chỉ đạo triển khai xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện QCDC,
phát huy tốt vai trò đại diện quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần tạo ra môi
trường dân chủ lành mạnh ở cơ sở, góp phần cũng cố, kiện toàn tổ chức Đảng,
chính quyền các cấp.
Do vậy, việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở là một cách thiết
thực nhất, là cơ sở cho Nhân dân lao động được làm chủ một cách thực sự trên
mọi phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Đó cũng là một cách làm
hiệu quả nhất để Nhân dân lao động được đảm bảo quyền lực chính trị của
mình, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
23
hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân, gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi
ích của nhân dân, của dân tộc, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân.
Xây dựng một nhà nước thực sự của Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, với
lý tưởng dân chủ, nhân đạo, công bằng, tất cả vì hạnh phúc của Nhân dân.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng cộng sản Việt Nam về dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về dân chủ
Dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin là một phạm trù lịch
sử gắn liền với xã hội có giai cấp và được biến đổi dưới nhiều hình thức khác
nhau trong điều kiện của các hình thái kinh tế - xã hội. Trong xã hội xã hội chủ
nghĩa “dân chủ” có một chất lượng mới, nội dung “quyền lực thuộc về Nhân
dân” được phát triển đầy đủ trên cơ sở một nền kinh tế phát triển cao, giải
phóng sức sản xuất, vượt qua lợi ích ích kỷ của giai cấp thống trị. Nhờ vậy,
dân chủ là yếu tố bảo đảm cho quá trình giải phóng và phát triển toàn diện con
người, đem lại cho họ quyền làm chủ cuộc sống, quyền sáng tạo và sản xuất
của cải vật chất, tinh thần cho xã hội dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, trước hết là một hình thức Nhà nước. Nhà nước đó, một mặt thực
hiện dân chủ và mặt khác thực hiện trấn áp với giai cấp khác trong xã hội, V.I
Lênin viết dân chủ là một quá trình phát triển, là kết quả của các cuộc đấu
tranh của Nhân dân. do vậy dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa là một hiện
tượng hợp quy luật, là bước phát triển cao hơn về chất so với các kiểu dân chủ
trong lịch sử mà bản chất của nó là nhằm giải phóng con người khỏi áp bức,
bóc lột và tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.
Trong chế độ dân chủ, Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà
nước. Điều đó được thể hiện ở chỗ: Nhân dân tự tổ chức (bầu cử) quyền lực
Nhà nước; Nhân dân có quyền tham gia quản lý và quyết định những vấn đề
quan trọng của Nhà nước (trưng cầu dân ý); Nhân dân có quyền kiểm tra, giám
sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Tư tưởng này của C.Mác về sau được