Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Quá trình xác lập và khai thác chủ quyền của các chúa nguyễn và vương triều nguyễn trên vùng biển tây nam bộ( từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX) (2013) nguyễn thế trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.92 MB, 13 trang )

QUÁ TRÌNH XÁC LẶP VÀ KHAI THÁC CHỦ QUYÈN
CỦA CÁC CHÚA NGUYỄN VÀ VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN
TRÊN VỪNG BIỂN TÂY NAM B ộ (TỪ THÉ KỶ XVIII
ĐẾN NỬA ĐẦU THE KỶ XIX)
Nguyễn Thế Trung'

1. Tầm quan trọng của vùng biển Tây Nam trong vịnh Thái Lan
Vùng biển đảo Tây N am trong vịnh Thái Lan (The gulf o f Thailand), thuộc
chủ quyền Việt Nam gồm toàn bộ phần biến đảo tỉnh Kiên Giang và một phần vùng
phía Tây tỉnh Cà Mau, nằm về phía Đông Nam của vịnh và phía Tây của đồng bằng
sông Cửu Long. Vùng biển đảo này kéo dài từ Hòn Khoai (Cà Mau) đến mũi Nai
(Hà Tiên) sang phía Bắc đảo Phú Quốc. Đây là khu vực có nguồn tài nguyên phong

phú, đa dạng; gồm tài nguyên thủy hải sản, tài nguyên dầu khí, tài nguyên du lịch ,
vận tải biển,...đặc biệt là tài nguyên vị thế (vị thế địa tự nhiên, vị thế địa kinh tế, vị
thế địa chính trị)1.
Phú Quốc và Thổ Chu là tuyển đảo tiền tiên-biên giới, thành trì vững chắc bảo
vệ nước ta từ phía Tây Nam. Nhóm đảo từ Thổ Chu đến Hòn Khoai là tuyến đảo
tiền tiêu. Các đảo như quần đảo Bà Lụa, Hòn Rái, quần đảo Nam Du là nhóm tuyến
trong,...Các hòn đảo trong vịnh tạo cho vùng lãnh hải Việt Nam rộng thêm hàng
ngàn kilômét vuông. Các mũi nhô phía Bắc đảo Phú Quốc quyết định hình hài của
đường biên giới biển hình thành trong tương lai và độ rộng của hành lang biển bao
quanh phía Bắc. Trong khi đỏ, đảo Thổ Chu lại có lợi ích quan trọng trong việc
hoạch định đường biên giới biển và xác định, phân chia vùng chồng lấn với các
nước láng giềng2.

* Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Trần Đức Thạnh (2007), “Một số dạng tài nguyên v ị thế biển Việt Nam”, Tạp chí Khoa học
và Công nghệ biến T7, Hà Nội, số 4, trang 80 - 93.
2. Lê Đức An, Uông Đình Khanh, Nguyễn Ngọc Thành, “Tài nguyên vị thế các đảo ven bờ
Nam bộ với vấn đề an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế-xã hội”, Tạp chí Khoa học và


Công nghệ biển T9 (2009), số 4, tr 77-87
771


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉƯ HỘI THẢO QUỐC TẾ LÀN THỨ T ư

Không chỉ có ý nghĩa an ninh-quốc phòng, vùng biển đảo này còn có ý nghĩa
lớn trong việc phát triển kinh tế, các thách thức từ biến đổi khí hậu và nước biển
dâng, hiện tượng xâm nhập mặn và sinh kế cho cộng đồng cư dân ven biển và
hải đảo.

2.
Chúa Nguyễn và vưoiig triều Nguyễn xác lập chủ quyền trên vùng biến
đảo Tây Nam
Mở đầu cho công cuộc xác lập chủ quyền của chính quyền Đàng Trong tại
vùng biển đảo từ Hòn Khoai đến mũi Nai là sự kiện năm 1708. Sau nhiều năm sinh
sống tại Chân Lạp và Xiêm, Mạc Cửu đến vùng Long Kỳ, umở tiệm hút, trưng mua
việc thu thuê hoa chi các sòng bạc lớn đê làm giàu”, “chiêu tạp dân xiêu dạt đến
các nơi Phú Quốc, cần Bột, Gia Khê, Luống Cày, Hương úc, Cà Mau lập thành 7
xã thôn”. 7 địa điểm này là những khu vực ven biển, trải dài từ mũi Cà Mau sang cả
một phần đất thuộc Campuchia ngày nay. Hiểu rõ tương quan lực lượng giữa Chân
Lạp-Đàng Trong-Xiêm, Mạc Cửu dâng vùng biển đảo và đất liền Hà Tiên cho chúa
Nguyễn vào năm 1708. Hành động của Mạc Cửu và sự đồng ý của chính quyền
Đàng Trong là chính sách có tầm chiến lược cho cả hai bên. c ầ n phải nói thêm rằng
vùng đất từ mũi Cà Mau đến Hà Tiên đến cuối thế kỷ XVII, trên danh Ii&hĩa, thuộc
Chân Lạp nhưng trên thực tế, vương quốc hưng thịnh một thời này không có khả
năng quản lý những vùng đất thuộc Nam bộ. Vì vậy, đây vẫn !à vùng đất hoaníí vu,
dân cư rất thưa thớt.
Chính sách của chúa Nguyễn đối với Hà Tiên là để “ một khoảng không gian


tự do để xây dựng và phái triển'' và chỉ thực sự can thiệp khi cần thiết. Chính
quyền Đàng Trong giữ quyền bổ nhiệm quan tổng trấn, chia đơn vị lãnh thồ đẩt liền
và biển đảo, viện írợ quân sự, lương thực,...những quyền quan trọng nhất xét về
phương diện chủ quvền lãnh thố và ỉãnh hải. Đặc biệt, việc thành lập đội Bắc Hải ở
vùng biển phía Nam cho thấy vùng biển đảo này đã thực sự nằm dưới sự kiểm soát
của chính quyền Đ àns Trong.
Được chúa Nguyễn giao quyền về kinh tế, quân sự và chủ động Irons ne;oại
giao, hai thế hệ đầu của dòne họ Mạc lãnh trách nhiệm trấn áp cướp biển, chống
quân xâm iược và phát triến kinh tế. Mạc Cửu đã “...dựng thành quách, lập doanh

ngũ, đặt tiêu cá, làm nhiều nhà khách để đón tiếp hiền tài. Dân đến ở ngày càng
đông, Hà Tiên trở thành một đô hội nhơ'1. Đến thời Mạc Thiên Tứ, ông tăng cường

1. Đặng Hoàng Giang, '‘Quan hệ Hà Tiên-Thuận Hóa thòi kỳ khai thiết đồng bằng miền Tây
(từ đầu đến nửa sau thế kỷ XVIII)”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Num Ả, số 6/2010, tr 72-76,
2. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Đại Nam liệt truyện tiền biên, tập 1, Nxb
Thuận Hóa, tr 174.
772


Q U Á TRÌNH XÁC LẦP V À KHAI THÁC CHỦ QUYỀN C Ủ A CÁC C H Ú A NGUYỄN.

khả năng chiến đấu của quân đội, "đ ặ t nha thuộc, kén bô q u â n ngũ, đắp thành xây
lũy”. Thành lũy do họ Mạc xây dựne khá chắc chắn. Vào năm 1834, trona lời tâu
của Tham tán Hồ Văn Khuê từ Hà Tiên về Gia Định, thành trì này vần còn1. Một hệ
tliốne phòng thủ hai vòng Rồm các lũy ven bờ và trên các đảo như Phú Quốc, Kim
Dữ đã được xây dựng. Hơn 60 năm đầu của thế kỷ XVIII, vùng biển, ven biển và
hải đảo Tây Nam, đặc biệt là khu vực Hà Tiên, Rạch Giá, Phú Quốc ehi nhận sự
dóng eóp ló'n lao của dòng Mạc trên nhiều mặt.
Cuộc chiến tranh với Tây Sơn, vừa là “ thách thức khắc


hội

lịchsử kv /ạ”

n g h iệ t ”

vừa là một “cơ

cho việc loại bỏ ảnh hưởng của dòne họ Mạc, tiến tới việc trực
tiếp cai quản của chính quyền Đàng Tronạ trên vùng biến đảo Tây Nam. Với lực
lượng lính để lại trên các đảo, cùng các căn cứ x â y dựng tại khu vực ven biển, hải
đảo và các con sông2 cũng như việc trực tiếp phân chia các đơn vị lãnh thổ đất liền
và biển đảo3, Nguyễn Ánh đã trực tiếp kiểm soát vùns biển đảo này. Có thể nói, từ
vai trò người “ b ả o h ộ ” , chính quyền Đàng Trong đã xác lập được chủ quyền trên
vùng biển đảo Tây Nam bộ một cách hòa bình và tự nhiên nhất. GS.TSKH.

1. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực
lục, tập 4, Nxb Giáo dục, năm 2007, tr 132.
2. Phú Quốc, Thổ Clui là hai đảo Nguyễn Ánh ẩn t r ố n trước những cuộc tấn công cùa Tây Sơn.
Tuy không đáng kế và thậm chí là rất ít nhưng chắn hẳn một bộ phận những binh sĩ đã trốn
để ở lại. Đồng thời, cũng có những binh sĩ trung thành và những nhóm dân cư định cư sẵn
tại dây nhằm che chở, phục vụ cho Nguyễn Ánh.
- Khoảng t háng 5/1782, Tây Sơn đem quân t ấ n công đào buộc chúa Nguyễn đang đóng quân
ờ phí Nam đào phải chạy sang Côn Đào. Quân Xiêm do được Nguyễn Ánh cầu viện cũng bị
Tây Sơn đánh lui. Sau khi chiến thắng, chỉ một bộ phận nhỏ quân lính ở lại canh giũ’ đảo.
Đen năm 1783, Nguyễn Ánh đã quay trở lại và chiếm đảo Phú Quốc.
- Năm 1797, khi N g u y ễ n Phúc Ánh đem 10.000 quân sang giúp Xiêm La đánh Miến Điện đã
ghé đảo. Sau khi giúp Xiêm ồn định tình hình, Nguyễn Ánh đã đế lại đây 2000 quân với hai
mục đích chính. Một, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ đảo và ven đảo trước nguy cơ xâm lược

của Xiêm, Cao Miên và cả cuớp biển. Thứ hai, đội quân này sẽ làm nhiệm vụ khai thác các
nguồn tài nguyên trên đảo. Đây là hình thức phổ biến mà các chúa Nguyễn và vua Nguyễn
thường tiến hành để xác lập và khai thác chủ quyền các vùng vừa mới giành đưọ'c.
3. - Năm 1788, Nguyễn Ánh đem hai đạo Kiên Giang và Long Xuyên lệ thuộc vào dinh Vĩnh
Thanh, sau đặt hai huyện Kiên Giang và Long Xuyên do đạo quản hạt.
- Năm 1791, chúa Nguyễn cho sỏ' Phú Quốc lệ thuộc vào Long Xuyên, phàm công việc quân
dân đều do đấy hết;
“ lấy thom luận quân Thành sách là Nguỵen Tiến Bảo làm Ký lục Vĩnh Trấn,
thu thuế sai dư của quân và dân sở Phú Quốc. (Tiền thuế cùa hạng tráng, quân, dân thực
nạp và của hạng lão tật thi y theo lệ bốn dinh. Những thú binh, mộ phu, người Minh Hương,
người Đường (Hoa Kiều) thì mỗi người 3 quan".

- N ă m 1795,

773


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN THÚ T ư

Vũ Minh Giang đúng khi nhận xét '"Chúa Nguyễn là người bào hộ cho quá trình

khai phá này và việc khăng định quvền quản lý lãnh thổ là một hệ quả tự nhiên. Quá
trình thụ đắc vùng đất Nam Bộ của chúa Nguyễn chủ yếu thông qua khai phá hoà
bình kết hợp với đàm phản ngoại giao để khẳng định chủ quyền. Đó là phương thức'
được thừa nhận là phù hợp với thông lệ lịch sử và các văn bản quốc tế hiện hành"’1.
Năm 1802. vương triều Nguyễn được thành lập. Tầm quan trọng của khu vực
biển đảo Tây Nam được các vua Nguyễn ý thức rõ ràng. Trong bức thư ?ửi vua
Xiêm năm 1809, Nguyễn Ánh khăng định “ Hà Tiên vốn là bờ cõi của triều đình, từ

các vua trước của ta dựng cờ lập trân tiết, cha con Mạc Thiên Tứ đều hãy giữ tròn

chức vụ nên trao chức cho, chứ đây không phải là khuê điền thái ấp (ruộng đất cắp
cho chư hầu), không thể viện làm thế nghiệp được"2. Năm 1832, sau khi đánh diệt
giặc Chà Và, M in h Mạng nghĩ: Côn Lôn thủ và Hà Tiên Phú Quốc thủ đều là những
nơi xung yếu, dân ở đông đúc, thế mà thường có giặc biển ẩn hiện. Liền truyền dụ
cho quan thành chọn đất hai chô thủ ấy, xây đặt pháo dài, liệu cấp súng đcm, khí
giới, thuyền bè, phái quân đóng giữ"4.
Chính sách khai khẩn đất hoang bàng đồn điền trên vùng đất liền nói chung và
vùng biển, ven biển và hải đảo nói riêng là một biện pháp hiệu quả của nhà Nguyễn.
Bởi, về mục tiêu kinh tế, việc khai hoang sẽ tăng cường diện tích đất nông nghiệp,
lượng lúa gạo và các mặt hàng khác nhiều hơn, đảm bảo nhu cầu của người dân ven
biển và hải đảơ .về mục tiêu chính trị, khẩn hoang, ỉập ấp là một biện pháp nhằm

khẳng định và khai thác chủ quyền hiệu quả. vấn đề an ninh-quốc phòng của vùnẹ
biên giới đất liền và biển đảo Tây Nam cũng được đảm bảo nhò' vào hệ thống làng
ấp và cộng đồng dân cư5.

1. Vũ Phi Hoàng, vấn đề chủ quyền lãnh thổ irony luật pháp và tập quán quốc tế, Báo cáo Hội

thảo Việt Nam học lần thứ 111 (Hà Nội, 12/2008), Bàng điện từ tại Báo cáo ở
/>2. GS.TSKH. Vũ Minh Giang, “Chù quyền lãnh thổ cùa Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ”,
trong Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (2001 - 2006), Nxb Thế giới, Hà Nội, 2006.
3. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực
lục, tập 1, Nxb Giáo dục, năm 2002, tr 769.
4. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, V i ệ n Sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn,
lục, tập 3, Nxb Giáo dục, năm 2007, tr 384

Đ ại

Nam thực


5. Năm 1824, neay tại Hà Tiên đã mở mang 37 thôn xã, ruộng được 348 khoảnh. Năm 1826,
đặt ra chí Kiên Hùng ở Hà Tiên cho 500 dân miền núi biệt nạp chia làm 10 đội, đổi họ tên và
no'i ở theo chữ Hán. Đại Nam nhất thống chí cho biết diện tích khai phá ở tỉnh Hà Tiên (năm
1836) 1.699 mẫu.
774


Q U Á TR ÌN H X ÁC LẬP VÀ KHAI THÁC CHỦ QUYỀN C Ủ A CÁC C H Ú A NGUYỄN...

Suốt hơn năm mươi năm, chính quyền nhà Nguyễn cũng hoàn thành nhiệm vụ
trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo Tâv Nam. Đó là tiến hành phân chia các đơn vị
hành chính, quản lý dân cư; tổ chức cho neười dân khai thác, đẩy mạnh và quản lý
các hoạt động kinh tế, trấn áp cưóp biển, đẩy lùi các cuộc xâm lược của Xiêm. Đặc
biệt, những ghi chép từ địa bạ triều Nguyễn cho thấy rõ việc phân chia đơn vị hành
chính và quản lý dân cư được tiến hành khá chặt chẽ. Đơn cử như đảo Phú Quốc.
Năm 1819. sở Phú Quốc được đặt lệ thuộc quản hạt của trấn Hà Tiên vì có
đườne, biển £ần Hà T iên1, Lê Văn Ý làm Thủ ngự sở. Năm 1819-1820, sở này có
các xã thôn Dương Cảng Đông thôn, Vĩnh Thạnh thôn, Tân Qui thôn, Phước Sơn
thôn, An Hòa thôn, Phước Lộc thôn, c ẩ m Sơn thôn, Tiên Tỉnh thôn Thái Thạch
thôn. Phú Đông thôn, Mỹ Thạnh thôn, Minh Hươne thuộc2. Đến năm 1836, tổng
Phú Quốc gồm 10 thôn: An Thới thôn, Hàm Ninh thôn, Phú Đông thôn, Thới Thạnh
thôn, Cẩm Sơn thôn, Mỹ Thạnh thôn, Phước Lộc thôn, Dương Đông thôn, Tân Tập
thôn, Tiên Tỉnh thôn3.
Năm 1835, nhà Nguyễn phân chia các đảo trong vịnh thuộc về các ba huyện
trong tỉnh Hà Tiên. Cách chia là căn cứ vào vị trí của đảo rồi đổi ngang với đất liền
đế sát nhập cho thuận tiện. Theo đó, Hòn Khoai, Hòn Chuối thuộc về huyện Long
Xuyên (Cà Mau ngày nay), Hòn Tre, Hòn Rái, Hòn Son,..thuộc về huyện Kiên
Giang. Phú Quốc thuộc về huyện Hà Châu (tức huyện Hà Tiên trước khi đổi tên).
Đại Nam thực lục ghi lại sự kiện này như sau: “ tuần phủ Hà Tiên, Trần Chấn, tâu


nổi; Các đảo ngoài biển thuộc tỉnh (Hà Tiên) từ trước đều lệ thuộc vảo tỉnh Long
Xuyên. Vậy xin xét xem đào lởn nhỏ nào đỏi ngang với huyện hạt nào, thì đôi thuộc
vào huyện ấy, cho đúng với tên trong so sách. ( Vũ Dữ [ Hòn Khoai], Ba Tiêu dữ
[Hòn Chuối] thuộc huyện Long Xuyên; Trúc Dữ [Hòn Tre], Thát Dữ [Hòn Rái],
Nghệ Dữ, Cổ Luân dữ đều thuộc huyện Kiên Giang; Hỏa thạch dữ, Luân dữ, Xưởng
Dữ, Tranh Dữ, Phú Quốc dữ, Thổ Châu Dữ [Hòn Son], Kích Sơn đều thuộc huyện
Hà Châu. Kích Sơn nguyên tên là hòn Chông. Lại nữa, các xã thôn ở đảo Phú Quốc
trước thuộc tống Quảng Xuyên, huyện Long Xuyên, nay đổi thuộc Hà Châu. Vậy xin
nhân
đất,
là tổng Phú Quốc,
chuẩn y lời tâu”A.

tên gọi

vua

1. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam
lục, tập 1, Nxb Giáo dục, n ă m 2002, t r 999.

thực

2. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nạuyễn: tinh Hà Tiên (Kiên Giang, Minh
Hải%Nxb Tp.HCM, tr 85-86.
3. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nqnyễn: tỉnh Hà Tiên (Kiên Giang, Minh
H ả i), NxbTp.HCM.tr 101-103.
4. V i ệ n K h o a h ọ c x ã h ộ i V i ệ t N a m , V i ệ n S ử h ọ c , Q u ố c s ử q u á n t r i ề u N g u y ễ n ,

Đại Nom thực


lục, tập 4, Nxb Giáo dục, năm 2007, tr 656.

775


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUÓC TÉ LẦN THỦ TƯ

Việc phân chia và quản lý đơn vị lãnh thố, dân cư đi liền với việc điều tra
nghiên cứu, vẽ bàn đồ và hải trình đường biển cua các vua Neuyễn. Việc phát hiện
Xiêm La Quốc lộ trình tập lục1 và Hải trình chí lược của Phan Huy Chú,...cho thấy,
về cơ bản, chính quyền nhà Nguyễn đã nấm được thông tin về điều kiện địa lý tự
nhiên, tài nguyên thiên nhiên, dân cư và hoạt động kinh tể trong vùng biển đảo này.
Trong suốt hơn 50 năm, chiến tranh tại vùng Hà Tiên xảy ra liên miên. Sau
mỗi lần như vậy, chính quyền họ Neuyễn cử người xây việc xây dựng lại các pháo
đài, chốt canh ở vùng cửa biển và trên đảo. Hệ thống ven bờ biển gồm lũy Thị Vạn,
các pháo đài Kim Dữ, pháo đài Phú An, các hảo Lô Khê, Giana, Thành, Tiên Thới,
Đàm Chiết thuộc huyện Hà Châu; huyện Kiên Giang thì có cửa tấn Kiên Giang, cửa
tấn Đại Môn, Hoàng Giang, Hiệp Phố...Đặc biệt, trên đảo Phú Quốc, Minh Mạnh
cho xây dựng hai thành Phú Quốc (năm 1833)2 và Hàm Ninh ( năm 1838)3 với quy
mô lớn, được trang bị vũ khí và có suất đội cùng vài chục biền binh4. Đe đảm bảo
vừng chắc cône cuộc bảo vệ vùng biển đảo này, nhà Nguyễn thành lập các đội Phú
Cường5 ở Phú Quốc đế bảo vệ đảo, đội Hà Phú6, . . .làm nhiệm vụ tuần tra và các đội
khác nhàm khai thác một số tài nguyên trên đảo. Đặc biệt, Minh Mạng nhiều lần chỉ
dụ những đợt tập dợt cho nhân dân Phú Quốc về mặt quân sự để người dân tự bảo
vệ mình trước giặc biến.
Hệ thống lũy Giang Thành, sông Vĩnh Tế, các pháo đài Kim Dữ, Hòn Tre,...
cùng đồn Phú Quốc và Hàm Ninh,., tạo thành một hệ thống phòng thủ đất liền-hải
đảo. Điều này cho thấy, tầm nhìn của người đứng đầu và một bộ phận quan lại của
chính quyền cai trị thời đó. Sự kết hợp của hệ thốne phòng thủ và sức mạnh của
thủy quân đã giúp họ Nguyền đánh bại tất cả các cuộc tấn công của hải tặc, đám bảo

cho các thuyền buôn và đời sống của neười dân vùng biển, ven biển và trên các đảo
vào năm 1805, 1817, 1822, 1825, 1828, 1830, 1837,... Hệ thống phòng thủ biển
đào cũng góp phần không nhỏ trone công cuộc chống Xiêm thành công và giành
1. Phạm Hoàng Quân, “Xiêm La Quốc lộ trình tập lục”, Tạp chí Nghiên cím vò Phát triển, số 6
(89), 2011, tr. 61-83.
2, 3. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực
lục, tập 5, Nxb Giáo dục, năm 2007, tr. 240-241.
4.

Khoa học xã hội Việt Nam, V i ệ n Sừ học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nơm thực
lục, tập 2, Nxb Giáo dục, năm 2007, tr. 39;
Viện

5. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực
lục, tập 3, Nxb Giáo dục, năm 2007, tr. 87.
6. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Quốc sử quán triều Nguvễn, Đại Num thực
lục, tập 4, Nxb Giáo dục, năm 2007, tr. 898.
776


Q U Á TRÌNH X Á C LẬP V À KHAI TH Á C CHỦ QUYỀN CỦA CÁC C H Ú A NGUYỀN...

ảnh hưởng lớp trên đất Chân Lạp. Đỉnh điểm là việc thành lập Trấn Tây thành' và
tiến hành điều tra vùng đất neoài biên giới này2.
Hoạt động khai thác quyển chủ quyền vùng biển Tây Nam bộ dưới thời chúa
Nguyễn và vương triều Nguyễn
Quá trình xác lập chủ quyền đi liền với công cuộc khai thác quyền chủ quyền
trên vùng biến đảo Tây Nam trong vịnh Thái Lan. Hai quá trình này diễn ra song
song và có sự tương hổ lẫn nhau. Chính quá trình khai thác là hình thức khẳng định
chủ quyền hiệu quả nhưng chính việc xây dựng các đơn vị hành chính và quân đội

đã giúp người dân có được sự đảm bảo, bảo vệ nhừne thành quả khai thác tốt nhất.
Đối với một khu vực thường xuyên có chiến tranh, thì việc chính quyền nhà
Nguyễn xác định được chủ quyền, ốn định dân cư không chỉ có ý nghĩa đối với
người Việt mà cả người Hoa và các thành phần dân tộc ít người khác.
Trong giai đoạn đầu của công cuộc này, neười dân đến trước, chính quyền đến
sau. Trong giai đoạn sau, khi chính quyền thành lập các đơn vị hành chính, xây
dựng đồn lũy bảo vệ thì nhân dân đến càng đône, quá trình khai thác diễn ra mạnh
mẽ hơn. Chính sự kết hợp giữa chính quyền và nhân dân đã tạo nên sức mạnh tổng
hợp, đảm bảo cho công cuộc xác lập và khai thác chủ quyền biến đảo đạt hiểu quả
cao nhất.
Dưới thời chính quyền Đàng Trona;, tuy không trực tiếp quản lý và tổ chức

khai thác nhưng chúa N guyễn là ngư ời bào hộ cho quá trình khơi phá*. Hoạt động
kinh tế chủ yếu của neười dân là khai thác nguồn tài nguyên lâm sản, hải sản. Hoạt
động tiêu biểu cho vùng ven biển là nghề khai thác mật ong và lông chim, đánh bắt
thủy hải sản. Theo những ghi chép của Phủ Biên tạp lục, Gia Định thành thông chỉ
và Đại Nam thực lục, việc khai thác các loại gỗ quý, tre, mây, dầu rái...đều có
những thử thuế quy định rõ ràng4. Các sản phẩm đáp ứng cho ngành đóng thuyền,
1. Trấn Tây thành có 33 phủ và 2 huyện với bộ máy cai trị gồm một Tướng quân, một Tham
tán đại thần, một đề đốc, một Hiệp tán cơ vụ, hai Lãnh binh, hai phó Lãnh binh và nhiều
quan chức khác.
2. “Trấn Tây phong thổ ký”: The Customs of Cambodia, Chinese Southern Diaspora Studies,
Volume 1, 2007, translation © Li Tana 200, page 148-157.
3. GS.TSKH Vũ Minh Giang, Chù quyển lãnh thỏ cùa Việt Nam trên vùng đất Nam bộ trong
Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (2001 - 2006), Nxb Thế giới, Hà 'Nội, 2006.
cho h a i dinh Trấn Diên và Phiên Trấn mộ người lập các
neat biệt nạp (Nâu dầu rái, moi người moi năm nộp 8 vò; nậu dầu trám, mỗi người nộp 800

4. - Năm 1790, Nguyễn Ánh “ra lệnh


cân, đèn nến lớn m oi n q ư ời nộp 1 câ y d ài 4 thước, lư n g tròn 1 thư ớ c 2 tá c, nến nhỏ 40 c â y ;

nậu mâv sắt máy nước, mỗi người nộp 14.000 sợi, moi sợi dài 7 thước, bể ngang 3 phân;
777


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU I-IỘI THẢO QUỒC TÉ LẦN THÚ TƯ

nhu cầu xây đựnẹ tại địa phương,.. .vừa là mặt hàne xuất khẩu. Nổi tiếng nhất là

huvền phách san ở trấn HàTiên, có
khôi lượng như đồng, sắc đen như sắt, người ỉa nói dùng nó có thê lảnh được gió
độc, tiện làm tràng h ạ t..."1. Tuy nhiên, khả năns và quy mô khai thác các nguồn tài
huyền phách Phú Quốc. Lê Quý Đôn viết:

nguyên còn nhiều hạn chế. Bởi. dân số còn thấp và chỉ tập truna ở những khu vực
nhất định.
Nổi bật nhất suốt thời kỳ Mạc Cửu và Mạc Thiên Tứ là hoạt động thươne mại
tại hai cảng chính Hà Tiên và Rạch Giá. Vị trí tự nhiên2 cùng điều kiện thời gian
thuận lợi3 là hai yếu tổ tiên quyết giúp thương cảng Hà Tiên nhanh chóng trở nèn
phồn thịnh. Sự thuận lợi này được bô sunti bởi chính thương thương mại mềm dẽo và
khéo léo, linh hoạt - như là sự kết hợp bởi tài năng con n&ười. kinh nghiệm buôn bán
v à sự trải nghiệm sống-của Mạc Cửu, được duy trì v à phát huy bởi Mạc Thiên Tứ.

nâu lá buôn, mỏi người 4.000 lá; nậu buôm ló, mối nẹười 80 bó; thuế thán thì nộp lệ
thường; dao dịch đểu mien” rviện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Quốc sử quán
triều Nguyễn, Đại Nơm thực lục, tập I, Nxb Giáo dục, năm 2002, tr 263).
- Năm 1791, Nguyễn Ánh định lệ biệt nạp dầu rái cho đạo Long Xiiycn (dân ờ hòn Sơn Lại )
mỗi năm phải nộp 5 vò dầu rái, 100 cây nến hạng nhỏ, được miễn thuế thân (Viện Khoa học
x ã hội V i ệ t N a m , V i ệ n S ử h ọ c . Q u ố c s ử q u á n t r i ề u N g u y ễ n , Đ ạ i Nam thực lụ c, t ậ p 1, N x b


Giáo dục, năm 2002, tr 276).
- Năm 1791, Nguvễn Ánh định lệ biệt nạp dầu rái cho đạo Long Xuyên (dàn ở hòn Sơn Lại )
mồi năm phải nộp 5 vò dầu rái. 100 cây nến hạng nhỏ, được miễn thuế thân (Viện Khoa học
xã hội Việt Nam, Viện Sử học. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nom thực lục, tập 1, Nxb
Giáo dục, năm 2002, tr 276).
1. Lê Quý Đôn (2007), Phù biên tạp lục, Nxb Văn hóa thông tin, tr 424.

2. Đặc biệt, vị trí địa lý nối liền với vùng hạ Bassac cùng nguồn hàng ở Campuchìa đã giúp
thương mại Hà Tiên phát triển rực rỡ, đặc biệt dưới thời Mạc Thiên Tứ.
Hà Tiên là một trong những thành phố như dọc bờ biển vịnh Thái Lan như Bang Plasoi (bây
giờ là Chonburi), Rayong, Chantaburi và Trat cùng hàng loại thương cảng ở Đông Nam A
hải đảo tạo thành một “Water Frontier’. Trong suốt thế kỷ XVII, XVIII, thương mại trên
biển diễn ra hầu khắp các đại dương. Thươne thuyền các nước phương Tây và phương Đông
đã gặp gỡ, trao đổi, buôn bán hàng hóa với nhau (Chingho A. Chen, “Mac Thien Tu and
Phraya Taksin, a Survey on their Political Stands, Conflicts and Background”, in
Proceedings of the Seventh 1 AHA Conference, 22-26 August 1977, Bangkok,
Chulalongkorn University Press, 1979. Vol. 11.), A. Reid and L. Castles, Pre-Colonial State
Systems in Southern Asia, Kuala Lumpur, MBRAS Monographs 6, 1975.
3. Trong suốt thế kỷ XVII. XVIII, thương mại trên biển diễn ra hầu khắp các đại dương.
Thương thuyền các nước phương Tày và phương Đông đã gặp gỡ, trao đổi, buôn bán hàng
hóa với nhau (Chingho A. Chen, "Mac Thien Til and Phraya Taksin, a Survey on their
Political Stands, Conflicts and Background”, in Proceedings of the Seventh I AHA
Conference, 22-26 August 1977. Bangkok, Chulalongkorn University Press, 1979, Vol. II.)

778


Q U Á TRÌNH X Á C LẬP VÀ KHAI THÁC CHỦ Q UYỀN C Ủ A CÁC C H Ú A NGUYỄN.


Mặt hàng thươne mại của Hà Tiên chủ yếu tập trung vào các sản phẩm nội địa,
quan trọna nhất là nguồn hàng đốn từ Xiêm và lâm sản từ Chân L ạ p 1. Việc định cư
và khai thác rừng trên các đảo của người dân thuộc trấn sóp phần làm phone phú và
tãne số lượns mặt hàna này. Hai mặt hàng lâm sản nổi tiếng của Hà Tiên là neà voi
và sáp ong. Ngà voi được chuyển từ Campuchia về Hà Tiên, s ố lượns ngà tập truna
tại thươna cảng này nhiều. Bane chứng cụ thể là năm 1745.quân Xiêm tấn côna Hà
Tiên và đốt đi 200 tấn ngà voi2. Sáp ong tại thươne cảng này đến từ hai nsuồn
chính. Một, người dân tại vùne khai thác được và nguồn thứ hai đến từ Campuchia.
Một trong những mặt hàn® giúp Hà Tiên trở thành thương cảne quan trọng
hàng đầu của vùnR biển Tây chính là thuốc phiện. Thuốc phiện được dùne nhằm
mục đích gây ra cảm giác hoane lạc, hưng phấn hoặc sự tịnh dưõ'n 2; và giảm đau.
Nó được sử dụna rộng rãi như một nguyên liệu kỳ lạ cho dược thảo, tình dục và cả
làm giảm sự nhàm chán và tăng khả năng làm việc, tính giải trí cho neười lao động3.
Thuốc phiện đến Hà Tiên rồi được bán cho các vùng khác trong hệ thống “Water
Frontier” và cả tiêu thụ tại chỗ, phục vụ cho bọn gian hồ tứ chiến đến Hà Tiên. Vì,
Hà Tiên là sòng bạc lớn của khu vực vịnh bấy giờ.
Hà Tiên còn là thương cảng trung chuyến nhiều mặt hàng quan trọng cho các
thương cảng ở Trung Quốc4. Vai trò này đạt đỉnh điểm khi Xiêm bị Burma
(Myanma) tấn công vào năm 1767 và Ayhtthya sụp đổ5. Mặt hàng nổi bật nhất là
thiếc, các sản phẩm từ bột các loại thực vật, dây m ây,...đế phục vụ cho việc sản

1. Rungswasdisab, Puangthong, War and trade: Siamese interventions in Cambodia, 17671851, Doctor of Philosophy thesis, Department of History and Politics, University of
Wollongong, 1995, Li Tana and Paul A.Van Dyke (2007), Canton, Canccio, and

Cochinchina: New Data and New Light on Eighteenth-Century Canton and the Ncmyang,
Chinese Southern Diaspora Studies, Volume 1, 2007, page 10-28.
2. Lê Văn Năm, “Sàn xuất hàng hóa và thương mại Nam bộ thế kỷ XVlI-nửa đầu thế kỷ XIX”,
Tạp chí Nghiên cứa Lịch sứ, số 5+6/1988, tr 80-85, tr 82.
3. George Bryan Souza (2009), An Anatomy of Commerce and Consumption: Opium and
Merchants at Batavia over the Long Eighteenth Century, Chinese Southern Diaspora

Studies, Volume 3, 2009, pages 61-87.
4.

N o l a Cooke and Li Tana, Water Frontier: Commerce and the Chinese in the lower Mekong
region, 1750-1880, Rowman &Littlefied Publishers, first published in Singapore in 2004 by

Singapoe University Press, National University of Singapore Publishing, Yusof Ishal House.
5. Rungswasdisab, Puangthong, War and trade: Siamese interventions in Cambodia, 17671851, Doctor of Philosophy thesis, Department of History and Politics, University of
Wollongong, 1995; Masuda Erika, The fall of Ayhtthya and Siam's disrupted order of
tribute to China (1767-1782), Taiwan Journal OS Southeast Asian Studies, 4(2):75-128
(2007), p75-128.
779


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TÉ LẦN THỨ TU

xuất trà và sản phẩm đồ sứ của vùne Quảng Châu, Phúc K iến1. . .Ngoài Hà Tiên,
vùng này biển Tây Nam trong vịnh Thái Lan còn có một số cảns khác như Rạch
Giá, Cà Mau, Hòn Đ ấ t...
Khi vương triều Nguyễn được thành lập năm 1802, hoạt động khai thác chủ
quyền của các cộng đồng cư dân sống trên vùng ven biển và hải đảo Tây Nam này
có sự thay đổi đánơ kể. Nhữne ghi chép trong Đại Nam nhất thống chí đã khái quát
được bức tranh kinh tế- xã hội và tình hình anh ninh - chính trị vùng biển đảo và
ven biển Tây Nam trong vịnh Thái Lan.
Các cảng biển như Hà Tiên, Rạch Giá, Hòn Đất, Phú Quốc... không còn giữ
được nhũng vị trí và mức độ nhộn nhịp như nửa đầu thế kỷ XVIII. Nguyên nhân
chù yếu là sự suy tàn của hệ thông thương mại cảng biển trong vịnh Thái Lan, sự
trồi dậy của các trune. tâm thươne mại khác. Trong nước, Sài Gòn và Bến Nghé là
hai thương cảna được thiên nhiên ưu đãi vị trí địa lý, nguồn hàng2...Ngoài nước,
Singapore và một số cảng vùng Đôna Nam Á hải đảo nổi lên với sức hấp dẫn lớn3.

Thêm vào đó, neuồn hàng từ Chân Lạp sang Hà Tiên, Rạch Giá cũng mất đi phần
nào do bị chia sẽ với các trung tâm thương mại ở Thái Lan và di chuyển bằng
đường bộ sang Châu Đốc. Quan trọng nhất là do chiến tranh giữa ba thế lực triều
Nguyễn-Xiêm-Chân Lạp. Tình hình bất ốn vừa đẩy nhừng một bộ phận không nhỏ
ns;ười dân di cư sang khu vực khác, ngăn chặn người Hoa nhập cư vừa làm giảm
thương thuyền nước ngoài đến các cảng trong vùng Tây Nam.
Hoạt động thương mại tại các thươne; cảng trong vùn£ biển Tây Nam tuy mất
đi tính phồn thịnh nhưna, vẫn có những hoạt độne nội thương4 và neoại thương với
các nước trong khu vực và Trunẹ Quốc. Mặt hàng vẫn là hải sản và lâm sản. Đặc
biệt, thuốc phiện và gạo vẫn là mặt hàns được buôn lâu nhiều nhất. Vua Minh
M ạng phải than: “ Oil Hạt gạo, dân phải nhờ để song, chở bán cho nơi khác, đã là

không nên thế mà những hàng hóa được đổi lại không có một thứ gì là trội cả, đến
1. Li Tana and Paul A.Van Dyke (2007), Canton, Cancao, and Cochinchina: New Data and
New Light on Eighteenth-Century Canton and the Nanyang, Chinese Southern Diaspora
Studies, Volume 1, 2007, page 10-28;
2. Nguyễn Đình Đầu (2007), Địa lý Gia Định-Sài Gòn thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nordin Hussin, Trade and Society in the Straits of Melaka: Dutch Melaka arid English
Penang , Dutch Melaka and English Penang, 1780-1830, Nus press an imprint of NUS
publishing National Universuty of Singapore, 2007.
4. Vu Due Liem, "Early nineteeth century SaiGon-Banekok economic space”, Chulalongkorn
University, Hội thảo khoa hội về nhà Nguyễn lại HongKong University, 2012.

780


Q U Á TRÌNH XÁC LÂP VÀ KHAI TH ÁC CHỦ Q UYỀN C Ủ A CÁC C H Ú A NGUYỄN.

nôi coi thường pháp luật, lại buôn thuốc phiện lậu đem vê mưu kiêm lợi, gieo độ

cho người ta"'1.
So với thời kỳ trước, các hoạt động khác như đánh bắt hải sán, lâm sản và cả
hoạt độna sản xuất nông nehiệp,...đều có sự phát triên. Tại vùng ven biên, nsười
dân tập truna vào khai thác các loại cá. hải sâm, đồi mồi,.. Cá biến được sử dụne
vào nhiều mục đích khác nhau. Cá được dùna tron® các bữa ăn eia đình hoặc bán cá
tươi tại các chợ và chế biến thành các sản phẩm. Lượne cá dư có thể được sử dune
làm khô hoặc chế biến thành mắm. Một số sản phẩm từ cá có eiá trị kinh tế cao như
bone bóng cá, vay cá,... khôna chi được dùne trong nước mà còn được chuyền sang
bán cho các thương lái tại vùng Đône, Nam Á hải đảo. Ngoài ra, một số nghề như
khai thác sân chim (điểu đình), ăn one, sản xuất muối,...thu hút đông đảo người dân
tham gia.
Tôm và hải sâm cũ ns là hai loại hải sản được người dân khai thác nhiều. Theo
Gia Đ ịnh th à n h th ô n g chí, tôm đỏ (tôm he) được sản xuất nhiều nhất. Dưới thời Gia
Long, hai trấn Vĩnh Thanh và Hà Tiên, mồi năm khai thác đến 100.000 cân. Neoài
tôm khô, vùng này còn sản xuất tép bạc. Trịnh Hoài Đức miêu tả đây là loại tép nhỏ

muối

như con ruốc. Sau khi đánh bắt, ngư dân “
mặn đem giã như bột, sắc hồng vị
ngọt, thơm nức mũi”. Hoạt động kinh tế chính của cư dân đảo là khai thác tài
nguyên lâm sản, huyền phách, yến sào, trầm hương...và sử dụng đất cho trồng trọt
tiêu, khoai và lúa sớm.
Đặc biệt, vai trò của nhà nước trong việc khai thác các nguồn tài nguyên nổi
lên rõ rệt. Bên cạnh việc tổ chức và quản lý khai thác bàng hình thức thuế khóa, nhà
Nguyễn vừa tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc khai thác đó hiệu quả. Cụ thể
như chính sách giảm thuế cho thương cảng Hà Tiên, giảm thuế cho người dân trên
đảo Phú Quốc.
*
*


*

Trên hành trình mở mang bờ cõi về phía Nam, chính quyền Đàng Trong, sau
là vương triều Nguyễn và người Việt không dừng lại ở mũi Cà Mau, Hà Tiên hay
các khu vực ven biển mà đã vươn ra chiếm lĩnh vùng biển đảo Tây Nam trong
vịnh Thái Lan. Bằng những chính sách khôn khéo, chính quyền Đàng Trong đã
thụ đắc và đóng vai trò bảo hộ cho dòng họ Mạc đề rồi từng bước làm chủ hoàn
toàn vùng biển đảo này. Đến thời Nguyễn Ánh, vùng biển đảo này không còn là

1. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực
lục, tập 3, Nxb Giáo dục, năm 2007, tr. 308-309.

781


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUÓC TÉ LÀN THỦ Tư

“vùng tự trị” mà đã hoàn toàn chịu sự quản lý trực tiếp của ône-vị vua dầu tiên
của vương triều Nguyễn.
Đi liên với công cuộc xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn và vương triều
Nguyễn, các cộng đồng cư dân như người Việt, người Hoa, người Khmer,...đã khai
thác nguồn tài nguyên thiên nhiên tại vùng biển, ven biển và hải đảo. Nhữna hoạt
động này lúc đâu là tự phát nhưnơ về sau đều được chính quyền quản lý chặt chẽ.
Vì vậy, trong bức tranh kinh tế-xã hội vùng biển đảo này đều có sự đóng góp lớn
của các cộng đồng dân cư. CŨI12 chính trone quá trình đó, các cộng đồng dân cư
theo thời gian càng xích lại £ần nhau và chung sốns trons hòa bình.

Tài liệu tham khảo
T


i ế n

g

V

i ệ t

1. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học (2007), Đụi Nam thực lục, tập 1, 2,
3, 4, 5, 6, Nxb Giáo dục.
2. Lê Đức An, Uông Đình Khanh, Nguyễn Ngọc Thành, "Tài nguyên vị thế các đảo
ven bờ Nam Bộ với vấn đề an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế-xã hội”, Tạp chí Khoa
học và Công nghệ biển T9 (2009), số 4, tr 77-87.
3. Nguyễn Đình Đầu (2007), Địa lý Gia Định - Sài Gòn thành phố Hồ Chi Minh.
Nxb Tổng hợp.
4. Nguyễn Định Đâu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyền: tình Hà Tiên (Kiên
Giang, Minh Hài), Nxb Tp.HCM.
5. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí. Nxb Giáo dục.
6. Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, Nxb Văn hóa thông tin.
7. Đặng Hoàng Giang, “Quan hệ Hà Tiên-Thuận Hóa thời kỳ khai thiết đồng băng
miền Tây (từ đầu đến nửa sau thế kỷ XVIII)”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Ả, số
6/2010, tr. 72-76.
8. Vũ Phi Hoàng, “Vẩn đề chủ quyền lãnh thổ trong luật pháp và tập quán quốc tế”,

Bảo cáo Hội thảo Việt Nam học lần thứ III (Hà Nội, 12/2008), Bủng điện tứ tại Dáo cáo tại

9. Lê Văn Năm, “Sàn xuất hàng hóa và thương mại Nam Bộ thế kỷ XVlI-nửa đầu
thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sứ, số 5+6/1988. tr. 80-85, tr. 82.
10. Li Tana (2002), “Ngoại thương của Việt Nam thế kỳ XIX: Quan hệ với

Singapore”, trích trong Chọn lọc những nghiên cứu được trình bày tại hội thao Quốc tê iần
thứ nhất về việt Nam học Hà Nội, H .. tr. 67.
782


Q U Á TR ÌN H XÁC LẬP VÀ KHAI THÁC CHỦ Q UYỀN C Ủ A CÁC C H Ú A NGUYỀN.

11. Phạm Hoàng Quân, “Xiêm La Quốc lộ trình tập lục”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát
triền, số 6 (89), 2011, tr 61-83.
12. Trần Đức Thạnh (2007'), "Một số dạng tài nguyên vị thế biển Việt Nam”, Tạp chí
Khoa học và Công nghệ biển T7, Hà Nội, số 4, trang 8 0 - 9 3 .
13. Trần Đức Thạnh, Trần Đình Lân và Nguyễn Hữu Cử (2008) “Tài nguyên vị thế
biển Việt Nam: định dạng, tiềm năng và định hướng phát huy giá trị”; Hội thảo Quốc tế
Việt Nam học lần thứ ba: Việt Nam: Hội nhập và Phát triển, Hà Nội, 4 - 7/12 /2008.

Tiếng Anli
14. "Trấn Tây phong thổ ký": The Customs o f Cambodia, Chinese Southern
Diaspora Studies, Volume 1, 2007, translation © Li Tana 200, page 148-157.
15.Nola Cooke and Li Tana, Water Frontier: Commerce arid the Chinese in the
lower Mekong region, 1750-1880, Rowman &Littlefied Publishers, first published in
Singapore in 2004 by Singapoe University Press, National University of Singapore
Publishing, Yusof Ishal House.
16.

Masuda Erika, The fall of Ayhtthya and Siam’s disrupted order of tribute to China

(1767-1782), T a i w a n J o u r n a l OS S o u t h e a s t A s i a n S t u d i e s , 4 ( 2 ) : 7 5 - 1 2 8 ( 2 0 0 7 ) , p 7 5 - 1 2 8 .

17.Nordin Hussin, Trade and Society in the Straits o f Melaka: Dutch Melaka and
English Penang , Dutch Melaka and English Penang, 1780-1830, Nus press an imprint of

NUS publishing National Universuty of Singapore, 2007.
18.
Vu Due Liem, Early nineteeth century SctiGon-Bangkok economic space,
Chulalongkom University, Hội thảo khoa hội về nhà Nguyễn tại HongKong University, 2012.
19. Rungswasdisab, Puangthong, War and trade: Siamese interventions in Cambodia,
1767-1851, Doctor of Philosophy thesis, Department of History and Politics, University of
Wollongong, 1995.
20. Li Tana and Paul A.Van Dyke (2007), Canton, Ccmcao, and Cochinchina: New

Data and New Light on Eighteenth-Century Canton and the Nanyang, Chinese Southern
Diaspora Studies, Volume 1, 2007, page 10-28;

783



×