Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

VOI VANG XUAN DIEU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.31 KB, 26 trang )

PHẦN 1: VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VÀ SƠ ĐỒ TƯ DUY

1. Phân tích, cảm nhận được bài thơ, các đoạn thơ tiêu biểu.
2. Tâm trạng của nhân vật trữ tình qua bài thơ.
3. Những cảm nhận tinh tế, độc đáo trước thiên nhiên của Xuân Diệu
(Chú ý so sánh với cách cảm nhận thiên nhiên của các nhà thơ khác trong
Đây thôn Vĩ Dạ, Tràng giang, Tương tư).
4. Cái tôi của Xuân Diệu qua bài thơ (Chú ý so sánh với cái tôi của các nhà thơ
khác trong Đây thôn Vĩ Dạ, Tràng giang, Tương tư, Từ ấy)
5. Quan niệm nhân sinh và quan niệm thẩm mỹ mới mẻ của Xuân Diệu qua bài
thơ.
6. Những đặc sắc về tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ.
I. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
A. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ:
1. Xuân Diệu (2/2/1916 – 18/12/1985) là một trong những nhà thơ
lớn của Việt Nam, là một tác gia lớn, một tài năng nhiều mặt trong nền văn
học Việt Nam. Ông tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo
Nha, quê quán làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh nhưng sinh tại
Gò Bồi, thôn Tùng Giản, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Cha
là ông Ngô Xuân Thọ và mẹ là bà Nguyễn Thị Hiệp.
2. Trong sự nghiệp sáng tác thơ văn của mình, Xuân Diệu được biết đến
như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”
(Hoài Thanh), “Ông hoàng của thơ tình”.
3. Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng
a. Nội dung
- Yêu đời tha thiếu với cuộc sống:
+ Thơ ông luôn có những hình ảnh rất say đắm về thiên nhiên, đặc biệt là
hình tượng mùa xuân
+ Thiên nhiên trong thơ ông luôn tràn đầy sức lôi cuốn, tình tứ. Với quan
niệm con người là chuẩn mực cho vẻ đẹp thiên nhiên, Xuân Diệu luôn miêu tả



thiên nhiên mang hình hài, dáng vẻ, sức thái... của con người đặc biệt con người
trong tình yêu, tuổi trẻ.
+ Xuân Diệu thành công ở đề tài tình yêu. Tình yêu trong thơ ông có
muôn vàn cung bậc, đủ âm sắc: từ đằm thắm dịu ngọt đến nồng nàn đắm say.
+ Xuân Diệu khao khát khám phá và tận hưởng những giá trị quý báu của
cuộc sống, tác giả đã đưa ra triết lí sống táo bại hiện đại.
+ Sợ sự trôi chảy của thời gian, cũng như sự mất dần của thời gian; đó là
nguyên nhân triết lí sống vội vàng rất đặc trưng trong thơ ông.
- Thơ Xuân Diệu nói lên tâm trạng chán nản, hoài nghi, cô đơn
+ Là nhà thơ lãng mạn luôn đòi hỏi sự hoàn mĩ, thường tự nuôi mình bằng
những ảo tưởng, ảo vọng. Ông lại mang thân phận của người dân mất nước sống
trong hoàn cảnh mất tự do nên trong điều kiện sống mòn mỏi, tù túng, nhà thơ sẽ
cảm thấy bơ vơ, bất lực trước khi bước vào thực tế.
+ Tâm trạng hoài nghi chán nản, cô đơn phát triển trong thơ ông trở thành
nỗi ám ảnh. Thơ ông thấm thía nỗi buồn ám ảnh của cái Tôi nhỏ bé trước không
gian mênh mông và thời gian thăm thẳm – nỗi buồn của những tình yêu thất
vọng, của bi kịch cuộc đời hờ hững, chối từ.
b. nghệ thuật
- Thế giới nghệ thuật tràn đầy tình tứ, say mê. Tình yêu hiện ra qua những
miêu tả cụ thể, đậm sắc thái nhục cảm, tình yêu bao gồm cả sự hòa nhập cả tâm
hồn và thể xác
- Thiên nhiên được cảm nhận bằng mọi giác quan, được nhân hóa với
những tâm tư hành động đầy nhân tính hặc được so sánh với con người – chuẩn
mực đẹp nhất của cuộc đời. Đó là thế giới tràn ngập hững rung động những xao
xuyến yêu đương những cảm xúc hoặc buồn nhớ.
- Một số tứ thơ cổ điển được cảm nhận rất hiện đại
- Cách tân lớn về hình ảnh ngôn ngữ, nhạc điệu
4. Nhận định về tác giả
- "Với Thế Lữ, thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất

xưa; Xuân Diệu lại đốt cảnh Bồng lai mà xua ai nấy về hạ giới".(Hoài Thanh –
Hoài Chân)


- Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng , sống
cuống quít, muốn tận hưởng cuộc sống ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như
khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết.
B. VÀI NÉT VỀ TÁC PHẨM:
1. Xuất xứ tác phẩm: “Vội vàng” in trong tập “Thơ thơ” (1938) của Xuân
Diệu.
2. Vị trí của bài thơ: Là bài thơ xuất sắc nhất trong tập “Thơ thơ” và
rất tiêu biểu cho phong cách của Xuân Diệu trước Cách Mạng. Nếu “Đây
mùa thu tới” là những rung động bồng bột trước thời điểm chuyển mùa,
còn “Thơ duyên” là niềm khao khát “Để tâm hồn ràng buộc bởi muôn dây” thì
“Vội vàng” là nỗi ám ảnh thời gian & lòng ham yêu, khát sống đến cuống quýt
của Xuân Diệu.
3. Kết cấu của tác phẩm:
4 dòng đầu: Khát vọng vượt quyền tạo hóa, khát vọng “tắt nắng”,
“buộc gió”, khát vọng giữ thời gian ngừng trôi để những vẻ đẹp của cuộc đời
ko bị tàn phai.
Từ “Của ong bướm… hoài xuân”: Niềm vui sướng, ngỡ ngàng trước thế
giới thiên nhiên mùa xuân đẹp như 1 thiên đường trong tranh trên mặt đất.
Từ “Xuân đương tới… chẳng bao giờ nữa”: Nỗi hốt hoảng, lo âu trước
thời gian trôi chảy và những dự cảm trước sự tàn phai, rơi rụng, chia li.
Còn lại: Cuộc chạy đua với thời gian và niềm khát khao tận hưởng những
vẻ đẹp của cuộc đời.
4. Nhan đề
“Vội vàng” trước hết là nỗi ám ảnh trước thời gian trôi chảy và
niềm khát khao chống lại thời gian, tận hưởng những vẻ đẹp của cuộc đời.
5. Nhận định về bài thơ

Vội vàng là một bài thơ rất Xuân Diệu. Xuân Diệu ở trái tim sôi
sục, ở cặp mắt xanh non háo hức, ở sự khẳng định cái Tôi, trong quan hệ
gắn bó với đời, ở nhịp thơ hăm hở, cuống quýt, ở hình ảnh rất táo bạo đầy rẫy
cảm giác và có tính sắc dục, ở cú pháp rất Tây và lối qua hàng hết sức thoải
mái... Tất cả đều trở thành thơ và mỗi câu, mỗi chữ đều mang hơi thở nồng nàn


say đắm của “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). (Nguyễn
Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Sđd)
II. PHÂN TÍCH:
1. Bốn dòng thơ đầu: Ước muốn phi lí, thiết tha của niềm yêu
- Thể thơ ngũ ngôn gần như tách biệt trong bài thơ tự do như một lời
tuyên bố của nhân vật trữ tình. Nhịp thơ nhanh gấp gáp diễn tả mong muốn
mãnh liệt nhất.
- Ước muốn quay ngược quy luật tự nhiên, ước muốn không thể thực
hiện:
+ Điệp ngữ tôi muốn nhấ mạnh sự da diết của ước muốn, cũng là tô đậm
cái tôi chủ quan, cái tôi ước muốn trong văn học lãng mạn.
+ tắt và buộc là những động từ với sắc thái tiêu cực khiến ước muốn có
vẻ phũ phàng. Muốn tắt nắng, muốn buộc gió thật là những ham muốn kì lạ chỉ
có ở thi sĩ. Cái tôi chủ quan muốn chế ngự, chi phối những hiện tượng khách
quan vĩnh hằng, bất biến.
- Điệp từ cho, đừng bộc lộ sắc thái van nài, khẩn khoản thật tha thiết của
ước muốn. Thì ra muốn tắt nắng để nắng đừng làm phai nhạt màu của cỏ cây,
hoa lá; muốn buộc gió để gió đừng thổi hương bay đi
Tóm lại, 4 câu thơ thể hiện thật mạnh mẽ, da diết ước muốn nâng niu, gìn
giữ hương sắc cuộc đời, ước muốn của một trái tim yêu mãnh liệt. Cái ham
muốn lạ lùng hé mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột, vô bờ với cái thế giới
thắm sắc đượm hương này.
2. Niềm vui sướng, ngỡ ngàng trước thế giới thiên nhiên mùa xuân đẹp như 1

thiên đường trong tranh trên mặt đất
a. Vẻ đẹp thiên đường của cuộc sống trần gian:
- Với tâm hồn khát sống, khát yêu, tận hiến, tận hưởng và khát khao giao
cảm mãnh liệt, trong bảy dòng thơ, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp xuân tươi
phơi phới, đầy tinh tứ ở những cảnh vật thiên nhiên quen thuộc quanh ta:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất


Của yến anh này đây khh́c tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
- Đoạn thơ mở đầu bằng từ của đã xác định mối quan hệ ngữ pháp gắn kết
giữa hai đoạn thơ, cho thấy màu và hương mà nhà thơ nâng niu ở khổ trước
chính là hương sắc của cuộc sống, của mùa xuân.
- Điệp ngữ ”này đây” được nhắc lại nhiều lần . Từ ”này đây” lại là từ chỉ
trỏ. Xuân Diệu như đang đứng trước bức tranh và liệt kê cho ta thấy ve đẹp tươi
non, nõn nà của mùa xuân. Thi sĩ như muốn nói với chúng ta rằng: ”Sao người
ta cứ phải đi tìm chốn Bồng Lai Tiên Cảnh ở mãi chốn mông lung hão huyền
nào Nó ở ngay giữa cuộc sống quanh ta”. Thiên nhiên như một bữa tiệc trần gian
đầy những thực đơn quyến rũ: ở đó có cảnh ong đưa và bướm lượn, tình tứ ngọt
ngào như “tuần tháng mật”. Màu hoa trở nên thắm sắc ngát hương hơn “giữa
đồng nội xanh rì” . Cây cối nảy lộc đâm chồi tạo nên những “cành tơ” với những
chiếc lá tươi non phất phơ tình tứ. Điểm vào phong cảnh ấy là tiếng hót đắm say
của loài chim yến anh đã tạo nên “khúc tình si” say đắm lòng người.
- Bảy câu thơ trên là một bước tranh thiên nhiên mùa xuân được vẽ nên
bằng một hồn thơ có “Cặp mắt xanh non biếc rờn”. Cảnh vật đang vào độ thanh
tân, diễm lệ. Bức tranh hội tụ đầy đủ hương thơm , ánh sáng và màu sắc, âm

thanh (đây chính là phép tương giao giữa các giác quan mà Xuân Di ệu học
được ở thơ ca phương Tây). Cảnh vật hiện lên đều có đôi, có cặp:” Ong bướmtuần tháng mật” ;“Hoa- đồng nội xanh rì;” lá- cành tơ” ;” yến anh- khúc tình si”;

- Cặp mắt “xanh non biếc rờn” của Xuân Diệu còn mang đến cho người
đọc một nguồn năng lượng mới từ mùa xuân: ”Và này đây ánh sáng chớp hàng
mi / Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa”. Ánh sáng buổi sớm mai như phát ra
từ cặp mắt đẹp vô cùng của nàng công chúa có tên là Bình Minh. Nàng vừa tỉnh
giấc nồng suốt một đêm qua, mắt chớp chớp hàng mi rồi bừng nở ra muôn vàn
hào quang . Chính ánh sáng ấy đã tưới lên cảnh vật càng làm cho bức tranh thiên
nhiên giống như một nguồn nhựa sống chảy dào dạt xung quanh cuộc sống của
con người. Thế mới hiểu những khao khát của Xuân Diệu là đúng: “Không
muốn đi mãi mãi ở vườn trần Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất”
Hoặc có khi ông khao khát đến cháy bỏng:


“Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời”
- Xuân Diệu đã kết lại bức tranh mùa xuân bằng một câu thơ đầy gợi cảm
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Đây là một cách so sánh đầy gợi
cảm , có một chút nhục cảm. Tháng giêng thanh tân, diễm lệ, đầy ánh sáng,
màu sắc, âm thanh và hương thơm trờ thành “cặp môi gần” rất “ngon , ngọt” của
người tình nhân. Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm .
Tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất của đời người . Và chắc chắn phần ngon nhất của
người thiếu nữ là bờ môi chín mọng kia. - ̉ đây, trong sự so sánh giữa thiên nhiên
và con người , Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc một quan niệm nghệ thuật
về con người rất mới mẻ. Thơ ca cổ điển thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực
cho c ái đẹp. Mọi cái đẹp trong vũ trụ phải đem so sánh với cái đẹp của thiên
nhiên . Bởi vậy khi miêu tả nét đẹp của Thúy Vân, Nguyễn Du đã lồng vào biết
bao nhiêu cái đẹp của thiên nhiên: “Vân xem trang trọng khác vời/Khuôn trăng

đầy đặn nét ngài nở nang/Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước tóc
tuyết nhường màu da”. Còn Xuân Diệu đưa ra một tiêu chuẩn khác: con người
mới là chuẩn mực của cái đẹp trong vũ trụ này. Bởi con người là tác phẩm kì
diệu nhất của tạo hóa. Nên mọi vẻ đẹp trong vũ trụ phải đem so sánh với vẻ đẹp
của con người. Quan niệm nghệ thuật này là một đóng góp mới mẻ của.
Mùa xuân không còn riêng của đất trời vạn vật mà đã hòa vào hồn người.
Mùa xuân đến với con người như một người yêu, góp hết sự sống của muôn
loài lên “cặp môi gần” hiến dâng, đầy ham muốn của con người. Qua cách
cảm của Xuân Diệu, cuối cùng cái đích của sự sống vẫn là con người, chuẩn
mực của mọi vẻ đẹp cuộc sống vẫn là con người với tất cả khát khao về hạnh
phúc. Hạnh phúc cùng mùa xuân, tận hưởng vị “ngon” của cả một không gian
xuân, nhà thơ đã biểu lộ cảm xúc cực điểm của sự sung sướng. Niềm hạnh phúc
trần thế ấy đồng nghĩa với sự sống!
- Hai câu thơ cuối là tâm trạng của nhân vật trữ tình:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Trong một câu thơ mà thi sĩ có hai tâm trạng “Tôi sung sướng” “Nhưng vội vàng một nửa”. Dấu chấm ở giữa câu đã phân tách nhà thơ thành


hai nửa : nửa sung sướng và nửa vội vàng . Tâm trạng “sung sướng” là tâm
trạng: ” hạnh phúc, lạc quan, yêu đời, tươi vui đón nhận cuộc sống bằng tinh
cảm triu mến, thiết tha gắn bó. Còn “vội vàng” là tâm trạng tiếc nuối bởi nhà
thơ sợ tuổi trẻ qua đi , tuổi già mau tới. Vì thế dù đang sống trong mùa xuân
nhưng thi nhân đã cảm thấy tiếc nuối mùa xuân ngay khi đang ở trong mùa xuân
“Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
- Đoạn thơ để lại dấu ấn nghệ thuật sâu sắc. Thể thơ tự do, sử dụng nhiều
điệp ngữ, điệp từ, so sánh ẩn dụ… Ngôn ngữ thơ chọn lọc. Tất cả đã tạo nên một
đoạn thơ hay mang đậm phong cách thơ Xuân Diệu.
- Tóm lại, đoạn thơ ta vừa phân tích ở trên là đoạn thơ hay nhất trong bài
thơ “Vội vàng”. Bằng ngôn ngữ rất đỗi Tây phương, nhưng tình cảm của nhân

vật trữ tình lại rất gần gũi, thân quen. Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc
một giọng thơ lạ, một cách cảm nhận về mùa xuân rất đỗi nồng nàn. Qua đó
thấy được lòng yêu đời và khát vọng sống mãnh liệt của thi nhân. Đúng như
nhà phê bình Thế Lữ đã nhận xét “Như một tấm lòng sẵn sàng ân ái, Xuân Diệu
dang tay chào đón nhựa sống rào rạt của cuộc đời”.
3. Nỗi lo âu trƣớc thời gian trôi chảy và những dự cảm về sự tàn phai rơi rụng,
chia li:
a. Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
- Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian tuần
hoàn với cái chu kỳ bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu ngàn ngày của
kiếp người.
- Xuân Diệu không chấp nhận sự đồng nhất giữa thời gian vũ trụ với thời
gian đời người. Ông nhận thức sâu sắc sự đối lập giữa thời gian vô thủy, vô
chung của vũ trụ với quỹ thời gian ngắn ngủi của cuộc đời. Thời gian vũ trụ tuần
hoàn còn thời gian đời người tuyến tính, một đi không trở lại. Điều thi sĩ sợ
nhất là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bởi thời gian là tuyến tính nên thời gian
như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn.
+ Điệp từ, điệp cấu trúc cú pháp trong kiểu câu định nghĩa đã tăng thêm
ấn tượng cho sự khẳng định.


+ Cách dùng cặp từ đối lập trong hai câu thơ “Tới – qua”, “non – già” đã
cho người đọc thấy được sự cảm nhận rất đỗi tinh tế của thi nhân về bước đi
của thời gian. Thời gian như dòng chảy không ngừng nghỉ.
+ Câu thơ trên là sự tiếc nuối khi cảm nhận bước đi của thời gian, sự mất
đi của thời gian trong từng khoảnh khắc. Câu dưới là sự lo lắng cho cái phai tàn,
héo úa thậm chí chưa hề hiện hữu trong không gian.
+ Mùa xuân không chỉ là hoán du cho thời gian mà còn là ẩn dụ cho tuổi

trẻ của mỗi người.
b. Xuân Diệu lấy sinh mệnh cá thể của mình làm thước đo thời gian. Tức
là lấy quỹ thời gian hữu hạn của cuộc đời mình ( sinh mệnh cá thể ) ra để đo
đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí thi sĩ lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa
nhất trong sinh mệnh của con người là tuổi trẻ để làm thước đo:
“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời ”
Chữ “Xuân” được điệp đi điệp lại cả năm đến sáu lần (trong ba câu đầu đã
có tới năm lần). “Xuân” ấy vừa là xuân của đất trời vừa là “xuân” của cuộc đời,
của tuổi trẻ. Mỗi lần nhắc lại là mỗi lần ta bắt gặp cái ngậm ngùi của thi nhân.
Xuân của thiên nhiên thì còn mãi mà “xuân” của đời người đã “hết” thì “tôi
cũng mất”. Dù lòng yêu có “rộng” đến bao nhiêu thì “lượng trời” vẫn cứ chật.
Nên “tuổi trẻ nhân gian” không thể “dài” thêm mãi. Ở đây, hệ thống từ ngữ, hình
ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ (tới – qua, non –già, rộng –
chật, xuân tuần hoàn, – tuổi trẻ chẳng hai lần, còn – chẳng còn) để làm nổi
bật tâm trạng nuối tiếc thời gian, cuộc đời. Vũ trụ có thể vĩnh viễn, mùa
xuân rồi cũng tuần hoàn nhưng tuổi xuân của con người chỉ có một lần, đã
qua là qua mãi. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,


Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !”
Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại
“chẳng hai lần thắm lại” thì làm chi có sự tuần hoàn ! Trong cái mênh mông của
đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người thật là ngắn ngủi,

hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi
ngậm ngùi thật mới mẻ:
“Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Đọc hai câu thơ, ta cảm nghe rất rõ tiếng thở dài bất lực của thi nhân. Ta
nghe rõ cả cái bâng khuâng, nuối tiếc của nhà thơ phả vào đất trời. Dường như
trước mắt người đọc là cả một trời tiếc nuối. Tâm trạng ấy của Xuân Diệu ta
cũng bắt gặp trong bài thơ “Giục giã”:
“Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn
Vừa xịch gối chăn mộng vàng tan biến
Dung nhan xê động sắc đẹp tan tành
Vàng son đang lộng lẫy buổi chiều xanh
Vừa ngoảnh lại cả lầu chiều đã vỡ”
Phải chăng vì quá yêu mến tuổi trẻ mà từ sự nuối tiếc ấy, thi nhân đã
“thức nhọn giác quan” để sống “toàn tâm, toàn ý, sống toàn hồn” mà “say”,
“thâu”, “hôn”, “cắn” cho kỳ hết những hương nồng của tuổi trẻ ?
c. Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát.
Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát lớn lao. Sự tàn phai không chỉ
đến “khắp sông núi” mà còn ở từng cá thể. Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái
nhan sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không
thể nào tránh khỏi:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”
Đây là hai câu thơ thể hiển rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của
Xuân Diệu. Cảm nhận ấy không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng cả
khứu giác “mùi tháng năm”, cả vị giác “vị chia phôi”. Mỗi khoảnh khắc đang rời
bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia lìa.


Khoảnh khắc nào cũng là một chia lìa, một mất mát. Và dòng thời gian được

nhìn như một chuỗi vô tận của những mất mát, chia phôi. Cho nên, thời gian
thẫm đẫm hương vị của sự chia lìa. Dậy lên đó đây khắp không gian là lời than
thở tiễn biệt “khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. Nó là lời thở than của vạn
vật, là không gian đang tiễn biệt thời gian, mà sâu xa hơn là mỗi sự vật thời gian
đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó.
Những phần đời của sinh mệnh cá thể đang ra đi không thể nào
cưỡng lại, nó tạo nên sự trôi chảy không ngừng, tạo nên sự phôi pha, phai
tàn của từng cá thể:
“Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”
Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh của thiên nhiên tươi vui
của mùa xuân, mà là lời “thì thào” về nỗi hờn giận, buồn thương. Gió phải chia
tay với cây lá mà bay đi; chim chóc trên cây đang ca hát rộn ràng chào xuân
bỗng ngừng bặt, chẳng phải có sự đe dọa nguy hiểm nào, mà chỉ vì chúng buồn
tiếc cho mùa xuân sắp trôi qua. Thế là chẳng riêng gì Xuân Diệu mà cả vạn vật
trong thiên nhiên cũng thức nhận về cái quy luật nghiệt ngã, cái một đi không
bao giờ trở lại của thời gian ấy. Có phải vậy mà Xuân Diệu đưa ra một quyết
định hợp lí cho mình và cho tất cả mọi người “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài
xuân”.
d. Kết thúc đoạn thơ là một tiếng thốt:
“Chẳng bao giờ ôi! chẳng bao giờ nữa
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”
Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì “mùa chưa
ngả chiều hôm”, nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng,
phải hối hả “Mau đi thôi”. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật
nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng. Thế đấy,
không thể “buộc gió”, không thể “tắt nắng”, cũng không thể cầm giữ được thời
gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ

sống. Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm “Thơ tiếc cảnh”:


“Xuân xanh chưa dễ hai phen lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên”.
Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong
“Vội vàng” về màu thời gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Cũng qua đó để hiểu
thêm về lòng ham sống đến nhiệt cuồng của nhà thơ “mới nhất trong các nhà
thơ mới”.
e. Cách cảm nhận về thời gian như vậy xét đến cùng là xuất phát từ ý thức
sâu xa về giá trị của sự sống cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời mỗi người đều
vô cùng quý giá, chính vì một khi đã mất đi là vĩnh viễn mất đi! Quan niệm ấy
khiến cho con người biết quý từng giây phút của đời mình. Và người ta biết làm
cho mỗi khoảnh khắc của đời mình cần phải tràn đầy ý nghĩa. Có như thế mới là
biết sống. Đây là cơ sở sâu xa của thái độ sống “Vội Vàng”. Rõ ràng toàn bộ
quan niệm, thái độ về “thời gian tuyến tính” phải sống “Vội Vàng” cho cuộc đời
tuy ngắn ngủi nhưng tràn đầy ý nghĩa, đã thể hiện rất tích cực, rất đáng trân
trọng của tư tưởng Xuân Diệu.
Tóm lại, đoạn thơ thể hiện tâm trạng nuối tiếc thời gian và cuộc đời của
một nhà thơ vốn khao khát sống, sống mãnh liệt hết mình. Qua đoạn thơ, người
đọc thêm trân trọng quan niệm nhân sinh mới mẻ, tích cực, cảm xúc chân thành
của một tâm hồn nghệ sĩ luôn cháy bỏng niềm yêu cuộc sống. Nói như Giáo Sư
Nguyễn Đăng Mạnh: “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến
cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh
mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền thống”
4. Những nỗ lực chống thời gian trôi chảy:
a. Mở đầu bài thơ là ước muốn táo bạo lạ lùng và niềm ngây ngất của tác
giả trước mùa xuân cuộc đời. Ước muốn táo bạo lạ lùng của thi sĩ được diễn tả
bằng thơ ngũ ngôn bình dị mà gần gũi:
Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Thơ ngũ ngôn xét về tiết tấu rất gần với lời nói hằng ngày. Có lẽ vì vậy
Xuân Diệu đã dùng thể thơ này để thể hiện tuyên ngôn sống của mình. Một loạt


các điệp ngữ “Tôi muốn”, “đừng”, “cho” cùng kết cấu lặp đi lặp lại đã tạo nên
hơi thở dõng dạc, hùng hồn của bản tuyên ngôn. Ở đây, cái tôi trữ tình hiện lên
đầy kiêu hãnh, tự hào, muốn chỉ huy cả nắng, gió. Động từ “buộc”, “tắt” được
sử dụng rất tinh tế diễn tả ước muốn tham lam mà đáng yêu của Xuân Diệu. Ước
muốn táo bạo, lạ lùng ấy có nguyên nhân sâu xa từ cái nhìn của nhà thơ về cuộc
đời: Với ông, cuộc đời không phải là bể khổ mà là sắc thắm, hương nồng và ông
muốn thu hết vào cõi lòng để tận hưởng. Vì quá yêu cuộc đời, ông trở nên ngây
thơ như một đứa trẻ. Điệp tức “dừng” được lặp lại hai lần trong khổ thơ diễn tả
sự níu kéo, van nài. Chỉ qua khổ thơ đầu, ta có thể thấy quan niệm nhân sinh
mới mẻ của Xuân Diệu: ông muốn tận hưởng cuộc đời.
b. Đoạn thơ cuối là khao khát sống vội vàng. Ám ảnh sống vội vàng đã
thúc giục nhà thơ sống cao độ, mạnh mẽ ngay trong những giây phút của tuổi
thanh xuân. Câu thơ cuối đoạn hai như một hiệu lệnh:
Mau đi thôi. Mùa chưa ngả chiều hôm
Giữa những câu thơ dài, câu thơ đầu đoạn ba lại là một câu thơ ngắn chỉ
gồm ba chữ: “Ta muốn ôm” thắp ngay giữa bài thơ làm ta liên tưởng đến một
vòng tay lớn như muốn quấn quýt, níu giữ cả đất trời.
Cách xưng hô của Xuân Diệu cũng thay đổi từ “tôi” sang “ta”. Nhà thơ
như muốn bứt ra khỏi giới hạn của cái tôi chật chội để trở thành cái ta rộng lớn
sánh ngang cùng trời đất đầy kiêu hãnh, tự hào. Tiếp theo là những câu thơ dài
với nhịp gấp gáp như giục giã những khát vọng cháy bỏng trong tâm hồn nhà
thơ. Vẫn là ước muốn sống hòa nhập với cuộc đời, tận hưởng vẻ đẹp của
cuộc đời nhưng ở đây đó không chỉ là ước muốn của cá nhân mà là của cả cộng

đồng. Nếu như ở đoạn đầu bài thơ, điệp từ “này đây” như sự chào mời, vẫy gọi,
khẳng định vẻ đẹp nơi trần gian là có thật thì ở đoạn cuối bài thơ, điệp từ “ta
muốn” như sự hưởng ứng đầy hăm hở, nhiệt tình. Từ “ta muốn” lại kết hợp
với những động từ chỉ trạng thái yêu đương trong quan hệ tăng tiến: ôm, riết,
say, thâu, cắn diễn tả sự thụ hưởng ngày càng đê mê, say đắm. Trái tim nhà thơ
như muốn mở căng ra để thu hết vào đó cả thiên nhiên, đất trời và như thế,
ông trở thành một tình nhân cương tráng của cuộc đời. Với nhà thơ Xuân
Diệu, cuộc đời không chỉ được định nghĩa bằng tốc độ mà còn định nghĩa bằng
cường độ, một cường độ hừng hực chất Xuân Diệu. Trong cái nhìn xanh non,
biếc rờn của nhà thơ, cuộc đời như một thiếu nữ trẻ trung với đôi môi, đôi má
hồng xinh xắn mà nhà thơ không nén nổi lòng yêu:
Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào ngươi


Từ cắn được dùng hết sức táo bạo, mới mẻ diễn tả sự thụ hưởng đến tuyệt
đối. Nhà thơ đã chiễm lĩnh được cái đẹp trong ngây ngất, đắm say. Xuân Diệu
là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Ông đã để lại cho kho tàng văn
học Việt Nam nhiều tác phẩm hay, có giá trị. “Vội vàng” là một thành công đặc
sắc trong toàn bộ sự nghiệp của ông. Qua tác phẩm, ta thấy được quan niệm
nhân sinh mới mẻ và tiến bộ của Xuân Diệu do sự bừng tỉnh của cái tôi cánhân.
Với bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu muốn gửi một thông điệp đến người đọc:
Hãy sống vội vàng, sống hết mình trong những khoảnh khắc tuyệt đẹp nhưng
lại mong manh của tuổi thanh xuân bởi thời gian trôi đi sẽ kéo theo mùa xuân và
tuổi trẻ, cả những ước mơ, khát vọng. Không có gì bền vững trước thời gian vậy
nên mỗi người hãy biết trân trọng những phút giây qúi giá của sự sống và ý
thức được sự có mặt của mình trong cuộc đời tươi đẹp này.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
A. MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH VỀ THƠ XUÂN DIỆU TRƢỚC CÁCH MẠNG:
1. Xuân Diệu (Trích Thi nhân Việt Nam)
(…) Bây giờ khó mà nói dược cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân

Diệu đến. Người đã tới giữa chúng ta với một y phục tối tân và chh́ng ta đã
rụt rè không muốn làm thân với con người có hình thức phương xa ấy.
Nhưng rồi ta cũng quen dần. Vì ta thấy người cùng ta tình đồng hương vẫn nặng.
Ngày một ngày hai cơ hồ ta không còn để ý đến những lối dùng chữ đặt câu quá
Tây của Xuân Diệu, ta quên cả những ý tứ người đã mượn trong thơ Pháp. Cái
dáng dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam,
đã quyến rũ ta.(…)Ta thấy cái hay ở đây không phải là ý thơ, mà chính là cái lối
làm duyên của Xuân Diệu, cái vẻ đài các rất hiền lành của điệu thơ. (…)Nhưng
thơ Xuân Diệu chẳng những diễn đạt được cái tinh thần cố hữu của nòi giống.
Vả chăng tinh thần một nòi giống có cần gì phải bất di dịch. Sao lại bắt ngày
mai phải giống hệt ngày hôm qua? Nêu ra một mớ tính tình, tư tưởng tục lệ, rồi
bảo: người Việt Nam phải như thế, là một điều tối vô lý. Thơ Xuân Diệu còn là
một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu
say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng , sống cuống quít, muốn tận
hưởng cuộc sống ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều
nồng nàn, tha thiết. Nhưng sự sống muôn hình thức mà trong những hình
thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần phải là con
hổ ngự trị trên rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một lần chín
vạn dặm mới là sống. Sự bồng bột Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy
đủ hơn cả trong những rung động tinh vi. Sau khi đọc đi đọc lại nhà thơ có tâm


hồn phức tạp này, sau khi đã tìm kiếm Xuân Diệu hoài, tôi thấy đây mới thực là
Xuân Diệu. (…)Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến
con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của
hơn một nghìn năm và của hai thế giới.(…) Cho đến khi Xuân Diệu yêu, trong
tình yêu của người cũng có cái gì rung rinh. (…)Ngay lời văn Xuân Diệu cũng
có vẻ chơi vơi. Xuân Diệu viết văn tựa trẻ con học nói hay như người ngoại
quốc mới võ vẽ tiếng Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ nhưng cái dáng thơ bỡ
ngỡ ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người. Dòng tư tưởng quá sôi nổi không thể

đi theo những đường có sẵn. Ý văn xô đẩy khuôn khổ câu văn phải lung lay.
Nhưng xét rộng ra, cái náo nức, cái xôn xao của Xuân Diệu cũng là cái náo
nức xôn xao của thanh niên Việt Nam bây giờ. Sự đụng chạm với phương
Tây đã làm tan rã bao nhiêu bức thành kiên cố. Người thanh niên Việt nam được
dịp ngó trời cao đất rộng, nhưng cũng nhân đó mà cảm thấy cái thê lương của vũ
trụ, cái bi đát của kiếp người. Họ tưởng có thể nhắm mắt làm liều, lấy cái cá
nhân làm cái cứu cánh cho cá nhân, lấy sự sống làm mục đích cho sự sống.
Song đó chỉ là một cách dối mình. "Chớ để riêng em phải gặp lòng em",
lời khẩn cầu của người kỹ nữ cũng là lời khẩn cầu của con người muôn thuở.
Đời sống của cá nhân cần phải vịn vào một cái gì thiêng liêng hơn cá nhân và
thiêng liêng hơn sự sống bởi Xuân Diệu đã gửi trong thơ của người lẫn với một
chút hương xưa của đất nước bao nhiêu nỗi niềm riêng bây giờ - Xuân Diệu mới
nhất trong các nhà thơ mới - nên chỉ những người còn trẻ mới thích đọc Xuân
Diệu, mà đã thích thì phải mê. Xuân Diệu không như Huy Cận vừa bước vào
làng thơ đã được người ta dành ngay cho chỗ ngồi yên ổn. Xuân Diệu đến giữa
chúng ta tới nay đã ngót năm năm mà những tiếng khen chê chưa ngớt. Người
khen, khen hết sức; người chê, chê không tiếc lời. Xong những ai chê Xuân
Diệu, tưởng Xuân Diệu có thể trả lời theo lối Lamartine ngày trước: "Đã có
những thiếu niên, những thiếu nữ hoan nghênh tôi". Với một nhà thơ còn gì quý
hơn cho bằng sự hoan nghênh của tuổi trẻ. (Hoài Thanh, Hoài Chân - Thi nhân
Việt Nam - NXB Văn học , H.2000)
"Với Thế Lữ, thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa;
Xuân Diệu lại đốt cảnh Bồng lai mà xua ai nấy về hạ giới".(Hoài Thanh, Hoài
Chân - Thi nhân Việt Nam - NXB Văn học , H.2000)
2. “Lầu thơ của ông ( Xuân Diệu) xây dựng trên mảnh đất của một tấm lòng trần
gian”. (Thế Lữ - Lời tựa tập Thơ Thơ)
B. VỀ BÀI THƠ VỘI VÀNG CỦA XUÂN DIỆU:


Vội vàng là một bài thơ rất Xuân Diệu. Xuân Diệu ở trái tim sôi sục, ở

cặp mắt xanh non háo hức, ở sự khẳng định cái Tôi, trong quan hệ gắn bó
với đời, ở nhịp thơ hăm hở, cuống quýt, ở hình ảnh rất táo bạo đầy rẫy cảm giác
và có tính sắc dục, ở cú pháp rất Tây và lối qua hàng hết sức thoải mái... Tất cả
đều trở thành thơ và mỗi câu, mỗi chữ đều mang hơi thở nồng nàn say đắm của
“Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). (Nguyễn Đăng Mạnh,
Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Sđd)
C. PHÂN TÍCH “VỘI VÀNG” (T.s Chu Văn Sơn) (In trong Phân tích và bình
giảng tác phẩm văn học lớp 11, nhiều tác giả, NXB GD, 2007)
Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái Xuân Diệu có lẽ là vội vàng.
Ngay từ hồi viết “Thi nhân Việt nam”, Hoài Thanh đã thấy “Xuân Diệu say
đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt”. Cho nên,
đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tựa đề Vội vàng, hẳn đó phải là một
cách tự bạch, tự hoạ của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình. Thực ra,
cái điệu sống vội vàng cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức
về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là kết cục
không thể tránh khỏi mai hậu. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao kì diệu.
Mà sống là phải tận hưởng và tận hiến! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh
thủ sống. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc,
phải chạy đua với thời gian. ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp. Bài thơ này được
viết ra từ cảm niệm triết học ấy.
* Thông thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối
thơ nghiêng về cảm xúc rất “ngại” cặp kè với chính luận. Thế nhưng, nhu cầu
phô bày tư tưởng, nhu cầu lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận.
Thơ Xuân Diệu hiển nhiên thuộc loại thơ cảm xúc. Nhưng đọc kĩ sẽ thấy thơ
Xuân Diệu cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm xúc làm nên cái nội dung
hình ảnh, hình tượng sống động như mây trôi nước chảy trên bề mặt của văn bản
thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm nên
cấu tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị.
Vội vàng cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột có lúc đã
thực sự là một cơn lũ cảm xúc, cuốn theo bao nhiêu hình ảnh thi ca như gấm

như thêu của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằngthơ,
trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không
phải thơ đang minh hoạ cho triết học. Mà đó chính là cảm niệm triết học của
một hồn thơ. Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố
cục của Vội vàng. Thi phẩm khá dài, nhưng tự nó đã hình thành hai phần
khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa hai phần đặt vào ba chữ “Ta


muốn ôm”. Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao cần sống vội vàng.
Phần dưới là bộc lộ trực tiếp cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách vui vẻ:
trên là lý thuyết, dưới là thực hành! Điều dễ thấy là thi sĩ có dụng ý chọn cách
xưng hô cho từng phần. Trên, xưng “tôi”- lập thuyết, đối thoại với đồng loại.
Dưới, xưng “ta”- đối diện với sự sống. Trình tự luận lí có xu hướng cắt xẻ bài
thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ ào ạt, sôi nổi như thác cuốn đã xoá mọi
cách ngăn, khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và
truyền cảm. [...]Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép “tương giao”
(Correspondance) của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự
tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới, trước hết là thời gian và
không gian. Có những câu thơ mà cảm giác được liên tục chuyển qua các kênh
khác nhau. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác: “Mùi tháng năm” - thời
gian của Xuân Diệu được làm bằng hương - chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn “buộc
gió lại” ư - hương bay đi là thời gian trôi mất, là phai lạt phôi pha! Một chữ
“rớm” cho thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình
ảnh giọt lệ. Chữ “vị” liền đó, lại cho thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác.
Và đây là một thứ vị hoàn toàn phi vật chất: “vị chia phôi”! Thì ra chữ “rớm” và
chữ “vị” đều từ một hình ảnh ẩn hiện trong cả câu thơ là giọt lệ chia phôi đó.
Giọt lệ thường long lanh trên khoé mắt người trong giờ phút chia phôi. Giọt lệ
thành hiện thân, biểu tượng của chia phôi. Vì sao thời gian lại mang hương vị hình thể của chia phôi? ấy là những cảm giác chân thực hay chỉ là trò diễn của
ngôn ngữ theo kịch bản của phép “tương giao”? Thực ra cái tinh tế của Xuân
Diệu là ở chỗ này đây. Thi sĩ cảm thấy thật hiển hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa

bỏ hiện tại để trở thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi
thời khắc đều đang có một cuộc ra đi như thế, thời gian đang chia tay với con
người, chia tay với không gian và với cả chính thời gian. Tựa như một phần đời
của mỗi cá thể đang vĩnh viễn ra đi. Từng phần đời đang chia lìa với cá thể. Cho
nên thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than
triền miên bất tận: “than thầm tiễn biệt”. Không gian đang tiễn biệt thời gian! Và
thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kì này bước vào
độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi! Và, một điều rất đáng
nói đã bộc lộ đây đó trong thi phẩm này là: do dùng tuổi trẻ để đo đếm thời gian,
nên ở Xuân Diệu đã xuất hiện một ý niệm thời gian khá đặc biệt, đó là thì sắc.
Thời gian được nhìn ở phía nhan sắc, gắn với nhan sắc của sự vật. Vì thế mà với
hồn thơ này, thời gian, về thực chất không có ba thì phân lập rành rẽ với quá khứ
- hiện tại - tương lai, mà chỉ có hai thì luôn tranh chấp và chuyển hoá thôi đó là
thời tươi và thời phai. Nó không phải là hai mùa. Không phải Xuân Diệu lược
qui bốn mùa vào hai mùa. Mà là hai thì của mỗi một tạo vật thiên nhiên. Thời


tươi: vạn vật thắm sắc, thời phai: vạn vật phôi pha, phai lạt. Vật nào trong trần
thế này cũng trải qua hai thì ấy. Tất cả những ý niệm thời gian khác như năm
tháng, mùa vụ, phút giây... dường như đều tan trong cái ý niệm thì sắc tổng quát
đó. Mà ta thấy ở đây, nó hiện diện trong sự đối lập của “độ phai tàn”(thời phai)
và “thời tươi”:
- Chim rộn ràng chợt dứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa.
- Cho no nê thanh sắc của thời tươi.
Có thể nói ý niệm thì sắc này đã chi phối toàn bộ nhỡn quan Xuân Diệu đối với
việc cảm nhận vẻ đẹp của thế giới trong sự trôi chảy vô thuỷ vô chung của nó.
Thế đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, không thể cầm giữ được thời
gian, thì chỉ có một cách thực tế nhất, khả thi nhất là chạy đua với thời gian, là
tranh thủ sống:

Chẳng bao giờ ! Ôi chẳng bao gì nữa...
Mau đi thôi ! mùa chưa ngả chiều hôm
Đến đây, phần luận giải cuả tuyên ngôn Vội vàng đã đủ đầy luận lí!
* Phần cuối của bài thơ là lúc tuyên ngôn được hiện ra thành hành động, ấy là
Vội vàng trong hình thái sống của cái tôi cá nhân cá thể này. Bài thơ được kết
thúc bằng những cảm xúc mãnh liệt, bằng những ham muốn mỗi lúc mỗi cuồng
nhiệt, vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ
có thể diễn tả như thế, Xuân Diệu mới phô diễn được cái lòng ham sống, khát
sống trào cuốn của mình:
Ta muốn ôm:
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;


- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi, bồng bột của Xuân Diệu thể
hiện đầy đủ nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói,
nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra
trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa, song song, thành những
đợt sóng vỗ mãi vào vào tâm hồn người đọc. Câu thơ Ta muốn ôm chỉ có ba
chữ, lại được đặt ở vị trí đặc biệt: chính giữa hàng thơ, là hoàn toàn có dụng ý.
Xuân Diệu muốn tạo ra hình ảnh một cái tôi đầy ham hố, đang đứng giữa trần
gian, dang rộng vòng tay, nới rộng tầm tay để ôm cho hết, cho khắp,
gom cho nhiều nữa, nhiều nữa, mọi cảnh sắc mơn mởn trinh nguyên của trần
thế này vào lòng ham muốn vô biên của nó. Cái điệp ngữ :”Ta muốn” được lặp

đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi
liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn:
ôm - riết - say - thâu - cắn. Có thể nói, câu thơ “Và non nước, và cây, và cỏ
rạng” là không thể có đối với thi pháp trung đại vốn coi trọng những chữ đúc.
Thậm chí, đối với người xưa, đó sẽ là câu thơ vụng. Tại sao lại thừa thãi liên
từ “và” đến thế? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu.
Những chữ “và”hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái
khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu.
Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc ham hố, tham lam
đang trào lên mãnh liệt trong lồng ngực yêu đời của thi sĩ!
Câu thơ:
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như
vậy. Từ “cho” điệp lại với nhịp độ tăng tiến, nhấn mạnh các động thái hưởng thụ
thoả thuê: chếnh choáng - đã đầy - no nê. Sóng cứ càng lúc càng tràn dâng, cao
hơn, vỗ mạnh hơn, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh :
- Hỡi Xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhuỵ đã no nê đang lảo đảo bay đi.
Lại thấy thi sĩ như một tình lang trong một cuộc tình chếnh choáng men say.
Sống là hạnh phúc. Muốn đạt tới hạnh phúc, phải sống vội vàng. Thế là, Vội
vàng chính là cách duy nhất để đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc và dường
như cũng là cái giá trả cho hạnh phúc vậy! Xuân Diệu quả đã mang trong mình
nguồn sống trẻ. Xuân Diệu là thi sĩ của nguồn sống trẻ. Ta hiểu vì sao, khi Xuân
Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ!


D. GIÁ TRỊ THẨM MỸ ĐÍCH THỰC CỦA “VỘI VÀNG” (PHAN HUY
DŨNG) (In trong Phân tích và bình giảng tác phẩm văn học lớp 12, GS Trần
Đình Sử-Phan Huy Dũng, NXB Giáo Dục 1996.)
XUÂN DIỆU có viết những truyện mà ông tự gọi là “truyện ý tưởng”. Chả cứ

trong văn xuôi, trong thơ ông cũng có những bài thơ ý tưởng, luận đề. Vội vàng
là một trong số đó. Bài thơ đã được cấu tứ trên “luận đề” này: phải tận hưởng
gấp gấp những lạc thú cuộc đời, bởi đời người hữu hạn, tuổi trẻ có kỳ mà
thời gian trôi như nước xiết. Có bao nhiêu đoạn thơ là có chừng ấy luận điểm
khẳng định cơ sở của hành động “vội vàng”. Giữa chúng, tưởng có thể đặt thêm
những quan hệ từ như “bởi lẽ” (sau bốn câu đầu), “nhưng” (sau chín câu tiếp
đó), “vì vậy” (trước câu Mau đi thôi!...). Đây là một giả định có cơ sở, bởi chính
trong bài thơ, nếu không có những quan hệ từ vừa kể thì các dạng câu và lớp từ
rất đặc trưng của một văn bản đòi hỏi phải có sự lập luận lô-gích đã xuất
hiện khá dày rồi (các câu “Muốn... cho...”. “Nói làm chi... nếu...”; các từ “nghĩa
là”, “nên”, “phải chăng”, “cho”...). Tuy nhiên, không nên từ đặt điểm khá nổi bật
này mà đánh đồng giá trị thẩm mỹ cá biệt đích thực của bài thơ với giá trị luận
đề được nó chứng minh. Luận đề đó tuy có nét mới mẻ so với thơ ca truyền
thống nhưng chẳng phải là một “phát minh” của tác giả Thơ thơ; mà nó vốn là
con đẻ của ý thức về cái tôi cá nhân - tư sản trong văn học phương Tây thế kỷ
XIX, nó cũng có quan hệ xa gần với những niềm bâng khuâng ta từng bắt gặp
trong thơ ca cổ điển phương Đông của Lý Bạch (Cổ nhân bỉnh chúc dạ du Người xưa cầm đuốc chơi đêm), của Tô Thức (Chỉ khủng dạ thâm hoa thụy
khứ - Cố thiêu hoa chúc chiếu hồng trang -Canh khuya những sợ rồi hoa
ngủ - Khêu ngọn đèn cao ngắm vẻ hồng), của Nguyễn Trãi (Cầm đuốc chơi đêm
bởi tiếc xuân)... Như vậy, có thể thấy hướng phân tích bài thơ mà sách Văn 11
(dành cho giáo viên)Phần Văn học Việt Nam (Nxb Giáo dục, 1991) đã đề nghị
là hướng phân tích dễ khiến ta bỏ rơi mất đối tượng thẩm mỹ đích thực của
mình. Cho dù học sinh (theo sự chỉ dẫn của giáo viên) giải đáp được một cách
đầy đủ các câu hỏi trong phần Hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa,
kiểu như: “Đối với nhà thơ... sự sống quen thuộc quanh ta trở nên hấp dẫn
như thế nào? Đâu là thiên đường tuyệt diệu đối với Xuân Diệu?”; “Khía
cạnh tích cực trong quan niệm sống của tác giả qua bài thơ?” v.v..., thì những
việc làm đó cũng chưa đủ khả năng giúp học sinh thâm nhập thế giới nghệ thuật
cá biệt của bài thơ. Thực ra, có lẽ trong ý thức sáng tạo, Xuân Diệu luôn nghĩ
mình phát ngôn theo sức hút của bản thân luận đề. Nhưng thực tế là: luận đề trở

nên hấp dẫn, trở nên “mới mẻ” chính là nhờ phần thi tứ, thi cảm “cá biệt hoá”
Thoạt đầu, sự xuất hiện của hai “nhân vật” chính của bài thơ là tôi và cuộc đời
(hay thời gian) có vẻ giống như sự hình tượng hóa của luận đề. Nhưng do Xuân


Diệu là một nhà thơ của cảm giác, tác giả Vội Vàng đã không bằng lòng với sự
xuất hiện nhợt nhạt của “nhân vật”, và ông đã tìm mọi cách làm cho nó sống
dậy. Cuộc đời (hay thời gian) không phải hiện ra như một khái niệm khô cứng
mà như một thực thể sống động mang nhiều tính danh. Nó vừa là nắng, gió, vừa
là tuần tháng mật, đồng nội xanh rì, cành tơ phơ phất, khúc tình si, ánh sáng
chớp hàng mi, cặp môi gần, vừa là xuân, lượng đời, trời đất, tháng năm, sông
núi, mùa... Với nó, ta có thể tắt (Tôi muốn tắt nắng đi), buộc (Tôi muốn buộc gió
lại), hôn (Tháng giêng ngon như một cặp môi gần), cắn (Hỡi xuân hồng ta muốn
cắn vào ngươi), ôm (Ta muốn ôm), riết (Ta muốn riết mây đưa và gió lượn), say
(Ta muốn say cánh bướm với tình yêu), thâu (Ta muốn thâu trong một cái
hôn nhiều)... Cũng vì nó, lòng ta dấy lên bao thứ tình cảm, vừa bâng khuâng
tiếc nuối (Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời), vùa hờn giận (Phải chăng hờn
vì nỗi phải bay đi?), vừa sợ hãi (Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?). Tất
cảnhững hành động và tình cảm đó đều có cơ sở, bởi cuộc đời tồn tại rất cụ thể
bằng màu, hương bằng âm thanh với cái ngon, vị ngọt riêng của nó. Việc nhân
hóa, hình tượng hóa cuộc đời được tác giả thực hiện đạt đến nỗi chính ông cũng
đâm ra tin chắc có sự hiện hình cụ thể của đối tượng ngay trước mắt mình, và
trong cơn tự kỷ ám thị, nhà thơ hối hả níu giữ các sắc màu, hương vị, tham lam
vơ cả bàn tiệc cuộc đời vào vòng tay, muốn cất tiếng van vỉ thời gian hãy dừng
lại, giãy lên trong dự cảm tuyệt vọng (Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...),
rồi sực tỉnh và quật lên trong cuộc chay thi với thời gian(Mau đi thôi! Mùa chưa
ngả chiều hôm)... Đến lượt độc giả, chứng kiến cuộc “giằng giật” đọ sức giữa
hai nhân vật, ta bỗng bị tác giả ám thị, bị nhịp điệu của bài thơ chi phối, cũng
thở gấp theo làn roi quất của khổ thơ năm chữ với cách diễn tả đanh, gọn, cũng
choáng ngộp với điệp ngữ “này đây” mời mọc giữa sự chuyển điệu bất ngờ của

bài thơ (từ câu 5 chữ sang câu 8 chữ khai mở cảm xúc), cũng có một cảm
giác“ngon”, rất vật chất với câu: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
mà sự bố trí từ “ngon” rơi đúng vào chỗ ngắt nhịp đã tạo nên một hiệu quả
nghệ thuật tuyệt vời...; sau hết, người ta muốn reo vang cùng nhà thơ cùng lời
phán định cuối cùng từ một tư thế khẳng định bản ngã đầy quyền uy của một
uy quyền xứng đáng: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”... Như vậy, sự
“minh họa” của Xuân Diệu ở bài Vội vàng đã không dẫn đến cái chết của thơ ca,
mà ngược lại, nó làm cho tiếng nói của thơ ca trở nên say đắm hơn, vì tiếng nói
ấy cất lên từ vũ đài chiến thắng của một cá tính sáng tạo độc đáo đối với cái xác
tư tưởng. Không nghi ngờ gì nữa, Xuân Diệu đã biến cái luận đề chung chung
kia thành cái luận đề của riêng mình, thành sự chiêm nghiệm, thành điều tâm
huyết của một cá thể, một cá nhân say đắm sự sống. Ngoài những điều đã phân
tích ở trên, có thể thấy thêm ngay trong cái khung lập luận lôgich có vẻ cứng


ngắc của kết cấu bài thơ, bản sắc Xuân Diệu cũng thể hiện rõ nét. Để “minh
họa” luận đề, điều cần thiết là nêu các luận điểm. Nhưng đối với Xuân Diệu, sự
vắn tắt của luận điểm dường như không thể chứa đựng hết, hay đúng hơn là
buộc trói những nỗi niềm, những say sưa, chếnh choáng của ông. Nhằm tự cởi
trói buộc, ông tận dụng triệt để thủ pháp liệt kê, coi trọng chất lượng nhưng lại
tham cả số lượng. Nhà thơ nào đó có thể tạm bằng lòng với một câu: “Của ông
bướm này đây tuần tháng mật”, nhưng Xuân Diệu thì không, tác giả Vội vàng
phải nói nữa, nói mãi, nói cho thỏa. Ví như về tứ thơ trên, ngay ở đoạn này, ông
đã kéo dôi bài thơ ra bốn câu. Đến khi không thể không dừng lại, ông vẫn tiếc,
vẫn còn cố nói với thêm được một câu nữa: “Và này đây ánh sáng chớp hàng
mi”... Chính câu thơ có liên từ “và” này và một câu khác nữa: “và non nước, và
cây, và cỏ rạng” đã phản ánh hết sức sinh động cá tính thơ Xuân Diệu: muốn
giãy bày, muốn kể lể không thôi tình yêu cuộc sống. Đọc toàn bộ thơ Xuân
Diệu, ta sẽ thú vị nhận ra một điều: tần số xuất hiện của liên từ “và” rất cao kể cả khi nó không hiện diện trực tiếp, ta vẫn thấy bóng dáng liên từ này thấp
thoáng khắp nơi, như một ám ảnh. “Và”... “và”... “và” đó là bàn tay ấm nóng

của tác giả Thơ thơ, Gửi hương cho gió chìa ra về mọi hướng trong một niềm
khao khát giao cảm vô biên.
E. QUAN NIỆM CỦA XUÂN DIỆU TRONG VỘI VÀNG (Trần Hà Nam):
Nhà thơ Thế Lữ, trong lời Tựa cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, đã có nhận xét
khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu
thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” . Đã hơn hai mươi
năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi hư vô, nhưng “tấm lòng trần gian” của
ông dường như vẫn còn ở lại. Cứ mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ
của các thế hệ học sinh lại rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm
tình của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn với niềm
khát khao giao cảm với đất trời, con người tràn mê đắm của thi nhân, trong mùa
xuân diệu kì!
Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi
vào thi ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn
Việt Nam 1932 – 1945, mùa xuân còn gắn với cái tôi cá nhân cá thể giàu
cảm xúc của các nhà thơ mới. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp
lúc mùa xuân chín…”, một Nguyễn Bính với “mùa xuân là cả một mùa
xanh…”. Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc
mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với
mùa xuân của trái tim thơ tuổi hai mươi căng nhựa sống.


Bài thơ mở đầu bằng những ước muốn thật kì lạ:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Con người ở giữa không gian của “nắng” và “hương” này thật lạ! Anh ta có
những ước muốn và đòi hỏi thật vô lí, muốn vượt ra khỏi qui luật bình thường
của tạo hóa. Nhưng qui luật thời gian vẫn lạnh lùng nghiệt ngã, nắng vẫn chầm

chậm trôi về cuối ngày, gió vẫn lang thang hoài không nghỉ, báo hiệu cho tàn
phai và phôi pha sắp sửa bắt đầu. Xuất phát từ điểm nhìn của một cái tôi chủ
quan, chẳng qua Xuân Diệu chỉ muốn diễn giải đầy đủ hơn sự có lí của tâm hồn:
giữ trọn vẹn hơn những vẻ đẹp cuộc đời, hưởng thụ tận cùng màu sắc và hương
vị của sự sống. Điều nhà thơ “muốn” trong một không gian ngập đầy nắng
gió đã nói lên ý thức về thời gian trong tâm tưởng con người: nỗi lo sợ trước
viễn cảnh chia li, như có lần Xuân Diệu đã từng chứng kiến:
Đương lúc hoàng hôn xuống
Là giờ viễn khách đi
Nước đượm màu li biệt
Trời vương hương biệt li
(Viễn khách)
Ý niệm về thời gian ấy còn là nỗi lo sợ cho tương lai “Đời trôi chảy lòng ta
không vĩnh viễn” nên trái tim “giục giã” nhà thơ bày tỏ nỗi niềm tha thiết với
mùa xuân.
Mùa xuân đến, trong sự mong đợi của nhà thơ, cùng với hương và sắc, làm
bừng lên sức sống của không gian:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si


Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa
Chưa bao giờ, trong thi ca Việt Nam, mùa xuân lại hiện ra xôn xao như thế.
Xuân không còn là bóng dáng mà đã hiện hình cụ thể đến từng chi tiết: vẻ đẹp
ngọt ngào trong “tuần tháng mật” “của ong bướm”, rực rỡ trong “hoa của đồng
nội xanh rì”, mơn mởn trong “lá của cành tơ phơ phất”, mê đắm trong “khúc
tình si”, “của yến anh” và ngây ngất niềm vui “gõ cửa” cho mọi tâm hồn bừng

lên “ánh sáng”! Sức sống của mùa xuân làm vạn vật có linh hồn, quấn quít giao
cảm đến độ cuồng nhiệt. Bằng những tiếng “này đây” vồ vập, linh hoạt giữa
những hàng thơ, tạo nên điệp khúc, Xuân Diệu háo hức như muốn sờ tận tay,
chạm mặt mùa xuân. Bước chuyển của mùa xuân nhờ vậy cũng rõ rệt hơn, bay
lên cùng cái náo nức rộn rã, mê mải trong lòng tác giả, nồng nàn và tinh tế.
Tuyệt đỉnh của mê say là một niềm hạnh phúc:
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần
Mùa xuân không còn riêng của đất trời vạn vật mà đã hòa vào hồn người.
Mùa xuân đến với con người như một người yêu, góp hết sự sống của muôn
loài lên “cặp môi gần” hiến dâng, đầy ham muốn của con người. Qua cách
cảm của Xuân Diệu, cuối cùng cái đích của sự sống vẫn là con người, chuẩn
mực của mọi vẻ đẹp cuộc sống vẫn là con người với tất cả khát khao về hạnh
phúc. Hạnh phúc cùng mùa xuân, tận hưởng vị “ngon” của cả một không gian
xuân, nhà thơ đã biểu lộ cảm xúc cực điểm của sự sung sướng. Niềm hạnh phúc
trần thế ấy đồng nghĩa với sự sống!
Mùa xuân đem đến cho chàng trai Xuân Diệu một niềm ham sống và men say
của tình yêu. Nhưng nhịp hoan ca bỗng khựng lại giữa chừng trong một câu thơ
tách ra hai thái cực:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Nhà thơ cắt nghĩa cái vội vàng ấy bằng những dự cảm của tâm hồn. Trước
một niềm khoái lạc vô biên khiến con người như bồng bềnh chao đảo trong
cảm giác ngất ngây, linh cảm về một cuộc chia li đã hiện hình rõ nét:
Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất


Những cái “nghĩa là” ấy gắn liền với triết lí về sự sống đã có tự ngàn xưa,
không phải là một ý` niệm mới mẻ.Cách Xuân Diệu một ngàn năm, trong thế
giới của thơ Đường, ta đã gặp nỗi lòng của một Trần Tử Ngang trước vũ trụ

bao la:
Ai người trước đã qua
Ai người sau chưa lại
Ngẫm trời đất thật vô cùng
Riêng lòng đau mà lệ chảy
(Bản dịch Đăng U Châu đài ca) Suy tư ấy có liên quan đến thân phận con
người: cái hữu hạn của đời người – cái vô hạn của đất trời. Với Xuân Diệu,
khi mùa xuân đồng nghĩa với tuổi trẻ, sự sống, tình yêu, gắn bó với cái tôi yêu
đời của nhà thơ, thì chia li đồng nghĩa với cái chết.
Trong khi đồng nhất hóa mùa xuân với con người, Xuân Diệu đã sống đến tận
cùng cảm giác, yêu đến tận cùng mê say và gửi cả vào mùa xuân khát vọng của
một tâm hồn muốn vươn tới cõi vô biên. Nhưng khi ý thức về thời gian đi liền
với tàn phai và hủy diệt, nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bi kịch của con người
phải chịu sự chi phối của qui luật khách quan. Đó cũng là nỗi niềm chung của
con người khi chôn vùi tuổi trẻ trong một cuộc sống đã mất ý nghĩa. “Ngán
nỗi xuân đi, xuân lại lại – Mảnh tình san sẻ tí con con”, Hồ Xuân Hương đã
chẳng từng than thở đó sao? Điều đặc biệt là Xuân Diệu không thu gọn cảm xúc
trong nỗi niềm ngao ngán cho riêng bản thân. Thi nhân đã dành hẳn một niềm
“bâng khuân”, “tiếc cả đất trời” để làm nên một cuộc chia li bi tráng với mùa
xuân:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi đều than thầm tiễn biệt
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim vội vàng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa?


Những cuộc chia li nổi tiếng trong lịch sử văn chương cổ kim có lẽ cũng chỉ

bùi ngùi đến vậy. Nước sông Dịch lạnh theo nỗi niềm thái tử Đan đưa tiễn Kinh
Kha sang sông hành thích bạo chúa, người chinh phụ đưa chồng ra chiến trận
“nhủ rồi nhủ lại cầm tay- bước đi một bước giây giây lại dừng” (Chinh phụ
ngâm), tất cả đều cảm động lưu luyến nhưng đó là cảnh chia li giữa người với
người. Tản Đà mượn lời “thề non nước”, “tống biệt”, “cảm thu, tiễn thu” cũng
chỉ là mượn cảnh nói người, cảm xúc man mác lặng lẽ. Còn Xuân Diệu đã diễn
tả đầy đủ đến từng chi tiết cụ thể không khí của cuộc chia li, từ thời gian “tháng
năm”, không gian “sông núi than” đến “cơn gió xinh hờn tủi”, chim “đứt
tiếng”… Cảm quan lãng mạn cùng hòa với suy tư về bản thân đã khắc họa độc
đáo cảm giác tinh tế của nhà thơ. Khung cảnh “rớm vị chia phôi” như san sẻ nỗi
niềm của thi nhân, bật thành tiếng than não nuột “chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao
giờ nữa”, tiếc thương cho vẻ đẹp mùa xuân, tuổi trẻ, sự sống một đi không trở
lại.
Từ cảnh “trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” này, trước nỗi lo âu, linh cảm về sự
tàn phai cùng dòng chảy
thời gian, có một giao điểm hội tụ tình cảm và lí trí của nhà thơ, trở thành một
niềm thôi thúc cháy bỏng:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Đó là lời kêu gọi của tình yêu, của đam mê và khát khao vượt ra thực tại đáng
buồn để tìm đến mùa xuân.
Chính vào lúc tưởng như rợn ngợp trong sự hoang mang, nhà thơ đã vượt lên để
thể hiện rõ chất Người cao đẹp – tìm về ý nghĩa của sự sống.
Không quay về quá khứ để hoài niệm, không tìm kiếm một ngày mai vô vọng,
con người ở đây sống cùng thực tại mãnh liệt, dường như cùng với các động tác
vội vàng cuống quít kia là sự cuồng nhiệt với đời:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêuTa muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước và mây và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi hương cho đã đầy ánh sáng


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×