Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 20 trang )

ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Chương 1: Vai trò và ý nghĩa của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch
sử ở trường phổ thông
1.1. Vị trí, vai trò của công nghệ thông tin trong DHLS ở trường PT
Khi bộ môn Lịch sử (LS) được đưa vào giảng dạy trong nhà trường thì vấn đề sử dụng
các phương tiện dạy học cũng được các nhà giáo dục LS quan tâm nghiên cứu và không ngừng
cải tiến, phát triển. Các phương tiện dạy học truyền thống như tài liệu giáo khoa, bản đồ, tranh
ảnh, các loại sơ đồ, biểu bảng ...cũng như các thiết bị kỹ thuật hiện đại như máy chiếu phim,
đèn chiếu, máy ghi âm, TV, video, công nghệ thông tin-truyền thông (CNTT&TT)... được sử
dụng ngày càng phổ biến trong vài thập niên gần đây, đã được thực tiễn và lý luận dạy học
khẳng định là những phương tiện dạy học rất cần thiết trong việc góp phần nâng cao hiệu quả
bài học LS ở trường phổ thông (PT).
Trong xu thế phát triển của giáo dục hiện đại, các thiết bị điện tử là những phương tiện kỹ
thuật dạy học (PTKTDH) hỗ trợ đắc lực và không thể thiếu trong các hoạt động DHLS của GV
và HS. Xuất phát từ đặc trưng của bộ môn cũng như nhận thức LS của HS và yêu cầu đổi mới
PPDHLS, các PTKTDH có nhiều ưu thế trong việc giúp HS "tiếp cận" với quá khứ một cách
cụ thể, sinh động, qua đó, giúp HS tích cực và hứng thú trong học tập LS.
Sử dụng phương tiện kỹ thuật trong DHLS không chỉ để minh họa LS mà còn là nguồn
thông tin làm phong phú bài học, là công cụ để GV tổ chức HS khai thác, tiến hành giờ học LS
một cách hiệu quả trong tất cả các khâu của quá trình dạy học.
Về ý nghĩa của việc sử dụng công nghệ thông tin trong DHLS đã được đề cập khá cụ thể
trong các tài liệu lý luận dạy học về sự tác động tích cực đến những khả năng nhận biết, ghi
nhớ, thông hiểu, phát triển tư duy, ngôn ngữ, óc thẩm mỹ cũng như đối với năng lực thực hành
và tình cảm, sự hứng thú học tập của HS. Ở đây, chúng tôi chỉ làm rõ thêm một số ưu thế, khả
năng của PTKTDH và định hướng sử dụng nhằm phát huy tính tích cực học tập của HS, đảm
bảo mục tiêu dạy học về kiến thức, kỹ năng, thái độ.
Phương tiện kỹ thuật dạy học, đặc biệt là CNTT&TT được các nhà giáo dục đánh giá có
ưu thế về khả năng đa phương tiện, đa truyền thông (Multimedia). Các phương tiện này có thể
1



đem lại cho HS những thông tin về LS có tính trực quan cao, phong phú và đa dạng (văn bản,
hình ảnh tĩnh, động (video), sơ đồ, biểu đồ, hoạt hình, âm thanh, màu sắc...).
Với những mức độ khác nhau, các PTKTDH đều có khả năng tương tác (Interactive).
Tính năng này tạo điều kiện cho GV và HS có thể tác động lên thiết bị, làm thay đổi hình thức,
nội dung thể hiện sao cho phù hợp với ý tưởng tổ chức dạy học hay tình huống sư phạm cụ
thể. Khả năng tương tác của phương tiện kỹ thuật giúp cho hoạt động dạy học trở nên linh
hoạt, sáng tạo, đáp ứng được yêu cầu, sở thích cũng như năng lực học tập LS của các đối
tượng HS khác nhau.
Các tư liệu LS được lưu lại trong băng từ ghi tiếng, ghi hình (cassette tape, video tape)
hay trong các CD-Rom, ổ đĩa, USB dưới dạng số hóa (digital) ... có dung lượng lớn và rất
thuận lợi cho GV và HS trong việc tự bảo quản, biên tập, truyền thông tin và chia sẻ dữ liệu
cho nhau trong dạy học (chẳng hạn một CD-Rom có thể chứa toàn bộ văn bản của bộ "Hồ Chí
Minh toàn tập" cùng hàng trăm hình ảnh, hàng chục đoạn video, bài hát về Chủ tịch Hồ Chí
Minh). Nhiều PTKTDH được trang bị trong nhà trường cũng được sử dụng khá phổ biến trong
sinh hoạt thường ngày (máy cassette, máy chiếu video, máy chụp ảnh, máy quay video, máy vi
tính, mạng Internet...), do đó, GV và HS có điều kiện và khả năng tiếp cận, sử dụng các thiết bị
này trong việc chủ động tự thiết kế, xây dựng các phương tiện dạy học một cách khoa học,
thẩm mỹ, đáp ứng kịp thời các yêu cầu dạy học LS, đồng thời tiết kiệm nhiều thời gian, công
sức so với việc xây dựng các đồ dùng dạy học truyền thống. Các hoạt động này là những bài
tập thông qua sử dụng PTKTDH để GV rèn luyện kỹ năng thực hành cho HS, qua đó, củng cố
kiến thức đã học và tìm hiểu kiến thức mới.
Phương tiện kỹ thuật có thể hỗ trợ GV và HS trong nhiều khâu của quá trình DHLS:
Chuẩn bị bài ở nhà, tiến hành bài nghiên cứu kiến thức mới, ôn tập sơ kết tổng kết, kiểm tra
đánh giá, thực hành, ngoại khóa.
Việc xác định quan niệm và nắm vững một số yêu cầu có tính định hướng đúng đắn khi
sử dụng phương tiện kỹ thuật vào DHLS có ý nghĩa lớn đối với hiệu quả dạy học. Một số GV
còn quan niệm đơn giản khi cho rằng có sử dụng phương tiện này trong dạy học có nghĩa là đã
đổi mới phương pháp mà ít quan tâm việc sử dụng nó như thế nào, khi nào, nhằm mục tiêu gì?
Có cần thiết, phù hợp và đem lại hiệu quả dạy học thực sự không?...Chúng tôi không tán thành

quan niệm cho rằng PTKTDH hiện đại có thể thay thế vai trò tổ chức học tập của GV cũng
2


như các phương tiện dạy học truyền thống khác như bảng đen, giáo án lên lớp, việc trình bày
miệng,...
Hiện nay, nhiều GV tiến hành bài giảng LS với sự hỗ trợ của PTKTDH nhưng chủ yếu
chỉ để minh họa LS, có khi còn lạm dụng hoặc không bám vào kiến thức cơ bản của bài học,
do đó, làm hạn chế khả năng nắm vững bài học cũng như việc phát triển tư duy của học sinh.
Nội dung LS được thể hiện nhờ các PTKTDH phải cơ bản, vừa đủ, đa dạng về thông tin và
nên được khai thác sử dụng như một nguồn kiến thức mới, như một công cụ để tổ chức HS
hoạt động (cá thể, nhóm...), tiến hành dạy học nêu vấn đề, thực hiện các bài tập so sánh, đối
chiếu, điền thế, ....
Sử dụng phương tiện kỹ thuật trong dạy học không nên là "độc quyền" của GV mà người
dạy cần phải quan tâm hơn việc tạo điều kiện cho HS phát huy những kiến thức về kỹ thuật,
đặc biệt là CNTT&TT, đã được học để vận dụng sáng tạo trong học tập LS. Trong Tuyên bố
chung của Hội nghị Bộ trưởng Giáo dục các nước thành viên tổ chức APEC lần thứ 2 về vấn
đề “ Giáo dục trong xã hội học tập ở thế kỷ XXI” (07/4/2000) đã xác định một trong những
nhiệm vụ chiến lược sắp đến là phải xem “ CNTT&TT như là năng lực cốt lõi dành cho học
sinh, sinh viên trong tương lai. Tiếp cận và khai thác tiềm năng của CNTT&TT để nâng cao
chất lượng học tập và giảng dạy, khuyến khích học tập suốt đời.”. Chương trình quốc gia về
giáo dục lịch sử ở trường PT của nước Anh (1995) cũng đã xác định rõ: “Học sinh nên được
tạo cơ hội để phát triển và vận dụng năng lực công nghệ thông tin của mình vào học tập lịch
sử.” .
Bước đầu, GV có thể tổ chức cho HS luyện tập các kỹ năng thao tác với PTKTDH như
sử dụng Internet để sưu tầm các tư liệu viết, hình ảnh, video LS để biên tập lại trên giấy hoặc
đưa vào slide của những phần mềm trình diễn (PowerPoint., Impress,...) nhằm phục vụ các bài
tập thuyết trình ngắn trong dạy học bài nội khóa hay các hoạt động ngoại khóa. Khi lên lớp
với sự hỗ trợ của máy vi tính, GV nên lưu ý hướng dẫn HS sử dụng bàn phím, chuột để viết,
vẽ, đánh đấu lên các nội dung mà GV đang trình bày trên màn hình kết hợp với trình bày

miệng . Ngoài ra, GV cũng có thể tổ chức HS chụp ảnh, quay phim về các di tích, nhân chứng
LS, hoạt động lễ hội ở địa phương,... để biên tập thành tài liệu phục vụ dạy học lịch sử địa
phương.
Từ những thập niên cuối TK XX đến nay, các ứng dụng CNTT là phương tiện hỗ trợ đắc
3


lực, không thể thiếu trong công tác nghiên cứu, giảng dạy LS và có nhiều ưu thế so với các
phương tiện truyền thống nhờ những yếu tố đặc trưng sau:
+ Đặc tính số hoá (digitalize) và chương trình hoá (programmable). Yếu tố số hoá tạo ra
khả năng lưu giữ, điều chỉnh và chia sẻ, trao đổi thông tin một cách nhanh chóng, đồng thời rất
thuận lợi cho khâu xử lý, biên tập, bảo quản cũng như trong thao tác sử dụng các dạng thông
tin tư liệu LS (hàng trăm tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, biểu đồ, niên biểu, trích đoạn âm thanh,
video về một khóa trình lịch sử có thể được phân loại, sắp xếp hợp lý trong các thư mục và lưu
giữ trong CD-Rom hoặc thẻ USB). Các Yếu tố chương trình hoá giúp người sử dụng dễ dàng,
chủ động, linh hoạt trong việc điều khiển, tổ chức khai thác thông tin phù hợp với những yêu
cầu, tình huống khác nhau.
+ Tính đa phương tiện, đa truyền thông (multimedia) là ưu điểm nổi bật của các ứng dụng
CNTT. Nó đáp ứng tốt yêu cầu nghe, nhìn trong nghiên cứu và giảng dạy LS. Các thông tin về
sự kiện LS được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau: văn bản, đồ hoạ, hình ảnh, video, âm
thanh, hoạt hình, màu sắc,... Yếu tố đa phương tiện sẽ phản ánh hình ảnh lịch sử một cách sinh
động, đa dạng , qua đó kích thích đa giác quan của người được tiếp cận các thông tin LS 
nhận thức LS một cách khoa học, chân thực.
+ Tính tương tác (interactive) của CNTT giúp người tìm hiểu LS có thể chủ động tác
động để lựa chọn thông tin hoặc mở rộng, làm phong phú hơn thông tin LS đang tìm hiểu, điều
này tạo nên khả năng tuỳ biến linh hoạt, phù hợp với từng mục đích, yêu cầu của mỗi đối
tượng khác nhau.
CNTT là sản phẩm trí tuệ của con người, giúp các thao tác hoạt động của con người trong
nhiều lĩnh vực, trong đó có nghiên cứu và giảng dạy LS trở nên thuận tiện hơn, hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, CNTT không thể thay thế hoàn toàn hoạt động tư duy của con người cũng như các

phương tiện truyền thống trong nghiên cứu và giảng dạy LS (CNTT giúp tìm kiếm, lưu trữ,
sắp xếp, thống kê các thông tin tư liệu LS nhưng không thể làm tốt hơn nhà nghiên cứu trong
nhận xét, đánh giá các sự kiện LS; độ tin cậy, tính khoa học, chân thực của các thông tin trên
các tài liệu LS gốc thuyết phục hơn các thông tin trên Internet; CNTT không thay thế GV
trong việc tổ chức, điều khiển lớp học hoặc ở những nơi điều kiện trang thiết bị kỹ thuật còn
hạn chế thì các phương tiện dạy học truyền thống có ưu thế hơn,...)  Các ứng dụng CNTT là
đa năng nhưng không vạn năng, tránh biểu hiện lạm dụng, tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố kỹ
4


thuật  Cần kết hợp khai thác hợp lý các ứng dụng của CNTT với các phương tiện thông tin
truyền thống trong nghiên cứu và giảng dạy LS tùy theo yêu cầu, mục tiêu, điều kiện cụ thể.
1.2. Ý nghĩa của các ứng dụng CNTT
- Các ứng dụng CNTT là cầu nối lý tưởng giữa hiện thực LS trong quá khứ với nhận thức
LS của nhà khoa học, của GV - HS trong nghiên cứu, tìm hiểu LS. (Kho thông tin tư liệu vô
cùng đa dạng, phong phú dưới dạng đa phương tiện, và khả năng siêu liên kết )
- CNTT làm thay đổi cách dạy, cách học cũng như cách tiếp cận thông tin LS (Any Time;
Any Where; Any Way: Any One: Any Level:, Life Long). CNTT vừa giúp phát huy tốt năng
lực tự học, tự nghiên cứu của cá nhân vừa tạo điều kiện làm việc hợp tác theo nhóm.
- CNTT là phương tiện hỗ trợ đắc lực trong chia sẻ, trao đổi, tìm kiếm, sắp xếp,lưu trữ,
thống kê, xử lý,...thông tin và thăm dò ý kiến phản hồi của những người quan tâm.
- Thông tin LS do CNTT đem lại luôn được cập nhật kịp thời, sinh động  tác động đến
nhận thức, tình cảm  thúc đẩy động cơ nghiên cứu, học tập LS.
- Để đảm bảo hiệu quả ứng dụng CNTT trong NC & GD LS, cần tuân thủ những yêu
cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, Xác định rõ mục tiêu, yêu cầu của công việc cụ thể để có sự lựa chọn phù hợp
các ứng dụng của CNTT giúp hỗ trợ hiệu quả hoạt động NC & GD LS.
Thứ hai, Cần nắm rõ những ưu điểm của CNTT để phát huy ưu thế của nó, đồng thời nhận
thức những mặt trái, hạn chế của CNTT để có biện pháp phòng tránh, khắc phục hợp lý.
Thứ ba, Khi sử dụng các thông tin mà CNTT đem lại, nhất là thông tin trên Internet cần có sự

chọn lọc, đối chiếu xác minh về tính khoa học, độ tin cậy và về quan điểm giai cấp, tính tư
tưởng, tính dân tộc.
Thứ tư, Các ứng dụng CNTT rất phong phú, đa dạng và thường xuyên được cải tiến, cập nhật
nên việc khai thác, sử dụng CNTT, nhất là trong NC & GD LS còn tùy theo yêu cầu và năng
lực của của mỗi người song phương châm chủ đạo là nên tìm hiểu rõ để sử dụng thành thạo
những ứng dụng đơn giản, phổ biến, có tính tương thích cao đủ đáp ứng những yêu cầu về
chuyên môn. Không nên tuyệt đối hóa vai trò của kỹ thuật, chỉ chú tâm chạy theo kỹ thuật, lạm
dụng kỹ thuật mà ít chú ý đến mục tiêu,hiệu quả của hoạt động chuyên môn.
Thứ năm, trong ứng dụng CNTT, cần có sự cân nhắc về mức độ, hình thức sử dụng phù hợp
với yêu cầu của hoạt động chuyên môn và nên chú ý kết hợp ứng dụng CNTT với các phương
5


tiện, biện pháp hoạt động chuyên môn khác.
Thứ sáu, trong dạy học lịch sử, GV cần biết hướng dẫn, tổ chức HS chủ động, sử dụng sáng
tạo kiến thức về CNTT đã được học trong nhà trường để vận dụng trong các hình thức DHLS.
Từng bước giáo dục ý thức tôn trọng về bản quyền trí tuệ và không sử dụng CNTT vào mục
đích gây rối, phá hoại hay xâm phạm các quyền và lợi ích của người khác.
Sau hết, cần lưu ý rằng, mặc dù khả năng ứng dụng phương tiện kỹ thuật trong DHLS là rất đa
dạng và trong một số trường hợp, nó có tác dụng ưu thế hơn so với các phương tiện dạy học
truyền thống, song nó không là duy nhất và vạn năng. Những biểu hiện lạm dụng kỹ thuật hay
tuyệt đối hóa vai trò của phương tiện kỹ thuật trong dạy học nói chung, DHLS nói riêng đều
làm hạn chế, thậm chí phản tác dụng giáo dục. Phương tiện kỹ thuật dạy học dù hiện đại đến
đâu, nhưng suy cho cùng, vẫn chỉ là sản phẩm trí tuệ của con người và do đó, nó luôn đóng vai
trò là phương tiện hỗ trợ, giúp các hoạt động của con người được thuận lợi và hiệu quả hơn.
Trong những điều kiện khác nhau của nhà trường PT ở nước ta hiện nay, việc kết hợp sử dụng
một cách hợp lý các PTKTDH hiện đại với các phương pháp, phương tiện dạy học truyền
thống là sự lựa chọn thích hợp nhằm đảm bảo tốt mục tiêu giáo dục theo hướng phát triển học
sinh một cách tích cực, toàn diện cả về mặt tri thức, phẩm chất đạo đức cũng như các năng lực
tư duy, thực hành.

2.2. Bài giảng điện từ trong DHLS
2.2.1. Về khái niệm “bài giảng điện tử”
Kể từ khi CNTT được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực của đời sống xã hội thì các
thuật ngữ ghép với từ “điện tử” như: “thư điện tử” (E-mail), “sách điện tử” (E-book), “lớp học
điện tử” (E-learning), “giáo án điện tử”, “bài giảng điện tử” (E-lesson)…thường được nói đến
và sử dụng ngày càng phổ biến. Các thuật ngữ như E-mail, E-book, E-learning…về cơ bản,
sớm được người sử dụng thống nhất cách hiểu.
Riêng đối với thuật ngữ “giáo án điện tử” và “bài giảng điện tử” vẫn còn nhiều cách
hiểu khác nhau và thực tế hiện nay vẫn còn lẫn lộn trong cách gọi. Nhiều giáo viên phổ thông
và một số bài báo không phân biệt thuật ngữ “giáo án điện tử”, “bài giảng điện tử”, thậm chí
có ý kiến cho rằng hai thuật ngữ này gần như là một.
Hiểu theo nghĩa rộng, BGĐT là một “sản phẩm” điện tử, được số hoá (giáo trình điện
6


tử, giáo án điện tử, hồ sơ dạy học, học liệu điện tử…) được thiết kế, tổ chức theo ý đồ, mục
tiêu sư phạm nhất định. Sản phẩm này có thể được dùng một cách độc lập hoặc tích hợp với
các bài giảng truyền thống hiện nay” và là một “quá trình” dạy học được điện tử hoá, số hoá.
Quá trình dạy học “không truyền thống” này cho phép người học, người dạy và nội dung tri
thức tương tác với nhau trong một môi trường số hoá (thường là mạng Internet, đĩa CD-Rom)
ở mọi nơi, mọi lúc”.
BGĐT thường được thiết kế bằng phần mềm Ms FrontPage, Mm Dreamweaver, Flash…
để chạy trên các hệ thống mạng, còn để hỗ trợ dạy học lịch sử theo kiểu truyền thống trên lớp
ở trường phổ thông thì phần mềm PowerPoint là một sự lựa chọn khả thi và thích hợp với điều
kiện, yêu cầu dạy học cũng như khả năng tiếp cận của giáo viên và học sinh.
Một số nhà giáo dục cho rằng thực hiện “giáo án điện tử” và “bài giảng điện tử” là hai
khâu của quá trình dạy học có sự hỗ trợ của máy tính và phần mềm máy tính. Theo đó, hai
thuật ngữ này được phân biệt khá rõ: “Bài giảng điện tử là hình thức tổ chức bài lên lớp mà ở
đó toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học đều được chương trình hoá do giáo viên điều khiển
thông qua môi trường multimedia do máy tính tạo ra”…và “Giáo án điện tử chính là bản thiết

kế của bài giảng điện tử, chính vì vậy xây dựng giáo án điện tử hay thiết kế bài giảng điện tử
là hai cách gọi khác nhau cho một hoạt động cụ thể để có được bài giảng điện tử”.
Trong thực tế, việc sử dụng thuật ngữ “giáo án điện tử” dễ gây ngộ nhận trong một số
giáo viên phổ thông khi có người cho rằng nó có thể thay thế hoàn toàn giáo án truyền thống,
thậm chí nó có thể thay cho phấn trắng bảng đen và cả vai trò giáo viên trong tổ chức, điều
khiển hoạt động nhận thức của học sinh vì mọi thứ đã được thiết kế sẵn để trình chiếu trên
màn hình!.
Ở đây, BGĐT nên được hiểu khái quát là một sản phẩm dạy học điện tử đã được chương
trình hoá trong môi trường multimedia nhằm hỗ trợ bài giảng trên lớp của giáo viên đạt hiệu
quả cao theo một kế hoạch giảng dạy đã định trước (giáo án) và còn là một quá trình lên lớp
của giáo viên có sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện điện tử (máy tính, chương trình phần
mềm và các phương tiện điện tử khác). Thực hiện BGĐT là hình thức ứng dụng CNTT chủ
yếu nhằm hỗ trợ hiệu quả bài học trên lớp trong nhà trường .
Tuy nhiên, cũng không nên dễ dãi đồng nhất việc GV thiết kế và sử dụng những trang
trình diễn bằng các phần mềm theo một trình tự nhất định và đơn thuần chỉ để thông báo, minh
7


hoạ nội dung bài lên lớp với việc thực hiện một BGĐT đúng nghĩa.
2.2.2. Các đặc trưng của bài giảng điện tử môn lịch sử
- BGĐT môn lịch sử chủ yếu hỗ trợ việc thực hiện bài học nội khoá, do đó nó vừa có các
yếu tố cơ bản của loại bài này và đồng thời thể hiện được đặc trưng của bộ môn lịch sử. BGĐT
môn lịch sử bao gồm các nội dung nhằm kiểm tra kiến thức đã học có liên quan đến bài mới,
chuẩn bị cho học sinh nghiên cứu kiến thức mới, tổ chức cho học sinh nghiên cứu kiến thức
mới cũng như hệ thống câu hỏi, bài tập ở trên lớp và về nhà. Tất cả đều được chương trình hóa
và thể hiện dưới dạng số hoá.
- Đa phương tiện (multimedia) là yếu tố không thể thiếu của BGĐT. Các nội dung của bài
học được thiết kế trong BGĐT môn lịch sử cần được thể hiện dưới nhiều dạng thông tin khác
nhau: văn bản, đồ hoạ, hình ảnh, phim, âm thanh, hoạt hình, màu sắc… Đây là ưu thế nổi bật
của BGĐT trong dạy học lịch sử vì các thông tin về sự kiện lịch sử rất cần được thể hiện một

cách đa dạng, trực quan và cụ thể bằng tranh, ảnh lịch sử, các đoạn phim, âm thanh tư liệu lịch
sử, bản đồ, sơ đồ, biểu đồ, niên biểu, bảng so sánh…Yếu tố đa phương tiện của BGĐT sẽ kích
thích đa giác quan của học sinh trong qua trình tiếp thu, lưu giữ và xử lý thông tin và qua đó
làm tăng sự chú ý, hứng thú cũng như hiệu quả nhận thức.
- Tính tương tác cũng là một đặc trưng ưu thế của BGĐT. Trong quá trình thực hiện bài
học lịch sử, ngoài việc phải đảm bảo quy định chung của chương trình, sách giáo khoa và mục
tiêu của bài học còn yêu cầu giáo viên phải tính đến sự phù hợp với những đối tượng học sinh
khác nhau (trong cùng một lớp hay khác lớp) cũng như với những điều kiện, tình huống dạy
học khác nhau. Khả năng tương tác của BGĐT giúp giáo viên và học sinh có thể tác động lên
những nội dung trình chiếu khiến cho bài giảng trở nên linh hoạt, tuỳ biến cho phù hợp với đối
tượng và tình huống dạy học cụ thể, qua đó góp phần phát huy tốt tính tích cực học tập của
người học.
2.2.3. Một số hạn chế thường gặp trong thiết kế và tiến hành BGĐT
Từ những lý do chủ quan và khách quan, thực tiễn sử dụng BGĐT trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông hiện nay thường mắc phải những hạn chế khá phổ biến sau:
- Nhiều GV chưa chú ý chọn lọc các tính năng thích hợp của phần mềm PowerPoint để
xây dựng BGĐT, thậm chí có biểu hiện lạm dụng kỹ thuật. Chẳng hạn như: Tạo các hiệu ứng “
bay nhảy” kèm theo những âm thanh không cần thiết và có khi phản tác dụng giáo dục; lựa
8


chọn nhiều background, màu chữ , font chữ cầu kỳ, phức tạp, ít hài hoà, thiếu tính nhất quán,
và nhất là không thể hiện được ý tưởng sư phạm trong cả hình thức lẫn nội dung trình bày…
- Nhiều BGĐT chưa đảm bảo tính hệ thống của kết cấu bài giảng (cách trình bày bảng
đen của bài giảng truyền thống thường đảm bảo tốt yêu cầu này). Điều này dễ làm cho nhận
thức lịch sử của HS rơi vào sự tản mạn, thiếu hệ thống.
- Các dạng thông tin trình bày trên các slide còn nghèo nàn, chủ yếu là văn bản với câu
chữ ít cô đọng, chưa thể hiện rõ kiến thức cơ bản, trọng tâm. Ngược lại, có GV lại ôm đồm,
muốn đưa nhiều dạng thông tin Multimedia để trình chiếu trên cùng một slide khiến cho bố
cục trình bày rối rắm, làm HS dễ bị nhiễu loạn thông tin, khó nhận ra đâu là kiến thức cơ bản,

trọng tâm. Những kiến thức đọng lại trong HS sau giờ học thường không rõ ràng và thiếu bền
vững.
- Giáo viên chưa khai thác tốt các chức năng liên kết để xây dựng một bài giảng mở, linh
hoạt, có thể tương tác nên phần lớn nội dung BGĐT thường được thiết kế và thực hiện theo
một trình tự nhất định, do đó chưa phát huy tốt tính linh hoạt, sáng tạo, chủ động của cả người
dạy và người học.
- Ngoài ra, một số BGĐT chỉ mới đơn thuần thể hiện mục đích cung cấp các nguồn thông
tin về sự kiện lịch sử mà chưa quan tâm đúng mức đến các yêu cầu kiểm tra đánh giá, giáo
dục tư tưởng tình cảm cũng như việc rèn luyện, phát triển các kỹ năng tư duy, thực hành cho
HS…
2.2.4. Yêu cầu, quy trình thiết kế và tiêu chí đánh giá của BGĐT
Việc giúp GV xác định rõ những yêu cầu, quy trình xây dựng và tiêu chí đánh giá đối với
BGĐT là có ý nghĩa rất lớn nhằm nâng cao hiệu quả của BGĐT.
* Một số yêu cầu trong xây dựng BGĐT:
- Lựa chọn và trình bày các nội dung trên các slide phải bảo đảm tính chính xác, ngắn
gọn, súc tích, thể hiện được những kiến thức cơ bản, trọng tâm nhất của bài học.
- Sử dụng khung nền (background) thống nhất có màu sáng kết hợp với một loại font chữ
phổ biến, màu sắc hài hoà và cỡ chữ nên từ 20 trở lên.
- Bảo đảm sự phong phú nhưng vừa đủ của các dạng thông tin, tư liệu lịch sử (tranh ảnh,
bản đồ, sơ đồ, biểu đồ, các loại biểu bảng, đoạn phim tư liệu, đoạn băng ghi âm…) nhưng
cũng cần tránh sự đơn điệu, chỉ trình bày dạng văn bản để thay cho nội dung ghi bảng của GV.
9


- Nên chọn một số hiệu ứng đơn giản, thích hợp cho việc thể hiện nội dung bài giảng trên
lớp, cần tránh lạm dụng các hiệu ứng “bay lượn”, cầu kỳ kèm âm thanh phức tạp không cần
thiết, chủ yếu thu hút thị hiếu tò mò của HS.
- Cấu tạo nội dung của các slide phải bảo đảm tính hệ thống của kết cấu bài giảng, phải
tạo điều kiện thuận lợi cho GV trong thao tác sử dụng cũng như trong việc kết hợp nhuần
nhuyễn các phương pháp dạy học và tổ chức tốt các hoạt động tương tác giữa GV-HS, HS-HS,

HS với màn hình hay bảng đen.
- Cần lưu ý xây dựng các dạng câu hỏi, bài tập phong phú, đa dạng, bảo đảm kiến thức
trọng tâm và có thể sử dụng linh hoạt cho các đối tượng HS khác nhau.
- Cần thiết đưa vào bài giảng những nội dung có tác dụng giáo dục tư tưởng tình cảm cho
HS ( nhất là những hình ảnh, đoạn phim tư liệu lịch sử)
- Sử dụng tốt các chức năng liên kết để tạo nên những khả năng mở, linh hoạt của BGĐT
trong việc mở rộng kiến thức, liên hệ, so sánh hay thực hiện các dạng bài tập… dành cho các
đối tượng HS khác nhau…
* Quy trình xây dựng BGĐT:
Việc tuân thủ quy trình xây dựng có ý nghĩa quan trọng đối với chất lượng và hiệu quả
của BGĐT. Quy trình xây dựng BGĐT gồm các bước sau:
a/ Xác định rõ mục đích yêu cầu của tiết học
b/ Xác định những kiến thức cơ bản, trọng tâm mà HS cần nắm vững trong tiết học
c/ Sưu tầm, chọn lọc các nguồn tư liệu viết, tranh, ảnh, phim tư liệu, băng ghi âm có liên
quan đến những kiến thức cơ bản đã được xác định .
d/ Xử lý số hoá các tư liệu đã chọn lọc. Các tư liệu tranh, ảnh, băng ghi âm, phim tư liệu
lịch sử sau khi đã được số hoá nên được “gói” trong một Folder và đặt file name phù hợp ( Ví
dụ: Data bai15 ) để dễ tìm kiếm và đưa kèm theo BGĐT khi ghi vào CD hoặc thẻ USB.
e/ Dự kiến số slide phù hợp với khối lượng kiến thức cơ bản và xây dựng kế hoạch thiết
kế nội dung cụ thể của các slide (kịch bản). Bảng kế hoạch có thể được trình bày như sau:
Đối tượng được trình bày trên các Slide
Thời
gian

Đồ
Văn bản

hoạ,

hình


ảnh, âm thanh,

Biện pháp

Mục đích

khai thác, sử dụng

sư phạm

phim TL

10


f/ Tiến hành xây dựng và chạy thử từng phần rồi toàn bộ các slide (có đối chiếu với kế
hoạch hoạt động được trình bày trong giáo án); chỉnh sửa nội dung, hình thức thể hiện trên các
slide cũng như kiểu và thứ tự trình diễn của các hiệu ứng… sao cho hợp lý hơn với mục tiêu,
kế hoạch sư phạm mà giáo án và kịch bản đã đề ra.
g/ Ghi/ lưu tập tin của BGĐT lên CD (hay USB) để lưu trữ, sử dụng trên lớp và phòng
tránh tình trạng máy tính xây dựng tập tin bị gặp sự cố. Nếu thiết kế cho nhiều người dùng thì
cần có hướng dẫn sử dụng.
* Tiêu chí đánh giá BGĐT:
Về cơ bản, trước hết cũng phải dựa trên tiêu chí đánh giá giờ dạy tốt của bài lên lớp
truyền thống. Ngoài ra, đối với một BGĐT tốt cần lưu ý các tiêu chí sau:
- Đảm bảo tính khoa học : các nội dung trình bày trên các slide phải chính xác; bảo đảm
kiến thức cơ bản, trọng tâm của bài và được thể hiện một cách cô đọng, khái quát nhất. Các
slide của BGĐT phải đảm bảo tính hệ thống của kết cấu nội dung bài học trong suốt quá trình
lên lớp. Sử dụng màu sắc, phông và cỡ chữ phải nhất quán trong tất cả các slide của bài giảng

đối với những nội dung, đơn vị kiến thức có cùng cấp độ, cùng mục đích sư phạm. Chọn lựa
các hiệu ứng và sắp xếp thứ tự trình chiếu hợp lý, đảm bảo thể hiện tốt nội dung kiến thức và ý
tưởng sư phạm. Biết tạo các nút liên kết linh hoạt, hợp lý để mở rộng nội dung, liên hệ, hoặc
so sánh các sự kiện lịch sử, thực hiện đa dạng các loại bài tập… mà không phá vỡ tính hệ
thống, logic của bài học.
- Đảm bảo tính tư tưởng: Màu sắc, các đối tượng trình bày phải thể hiện được tính tư
tưởng của nội dung lịch sử (Ta-địch, chính nghĩa- phi nghĩa…). Ngoài ra, khi sưu tầm, sử dụng
tranh, ảnh, phim, băng ghi âm cần lưu ý quan điểm giai cấp của các nguồn tư liệu. Khi đưa các
tư liệu Multimedia vào bài giảng, ngoài mục đích mở rộng kiến thức lịch sử còn phải lưu ý
khai thác ý nghĩa giáo dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm cho học sinh.
- Đảm bảo tính sư phạm: thiết kế nội dung lịch sử, các dạng câu hỏi, bài tập trên các slide
phải dựa trên cơ sở sách giáo khoa, vừa sức với đối tượng HS; bảo đảm kết hợp nhuần nhuyễn,
hợp lý các phương pháp dạy học với việc trình bày bảng đen và sử dụng màn hình trình chiếu
để tổ chức tốt các hoạt động tương tác đa dạng trong giờ lên lớp nhằm phát huy cao độ tính
tích cực, chủ động học tập của HS. Các nội dung được trình bày trên slide phải rõ ràng, đủ
11


lớn, đủ độ sáng để HS cả lớp có thể quan sát tốt.
- Đảm bảo tính thẩm mỹ: Thiết kế giao diện thân thiện, màu sắc hài hoà, bố cục rõ ràng.
2.2.5. Giới thiệu cấu tạo một số BGĐT môn Lịch sử
Qua nghiên cứu các tài liệu và tìm hiểu thực tiễn dạy học lịch sử ở trường phổ
thông, chúng tôi đề xuất một số cách thiết kế BGĐT cơ bản như sau:
- Cách thiết kế thứ nhất: Không đưa nội dung đề cương bài giảng mà chỉ thiết kế các nội
dung trực quan liên quan vào các slide trình chiếu và sắp xếp chúng theo trình tự bài giảng
gồm các dạng sơ đồ hoá văn bản, bản đồ, tranh, ảnh, phim tư liệu, biểu đồ, niên biểu, bảng so
sánh, các bài tập trắc nghiệm…để kết hợp sử dụng với phần trình bày bảng và việc tổ chức các
hoạt động trên lớp của GV và HS như khi tiến hành một bài học truyền thống. Cách thiết kế
này là khá phổ biến vì vừa đơn giản đối với GV khi xây dựng đồng thời cũng không làm thay
đổi nhiều các thao tác lên lớp của GV theo kiểu dạy học truyền thống.

- Cách thiết kế thứ hai: Tên bài học, các đề mục, đề cương bài giảng, hệ thống câu hỏi,
kênh hình và các nội dung ôn tập, kiểm tra lần lượt được thiết kế trên các slide tương ứng với
trình tự lên lớp. Tất cả các nội dung trên lần lượt được trình bày trọn vẹn trên một khung của
mỗi slide. Hiện nay, kiểu thiết kế này cũng được nhiều GV thực hiện. Với cách thiết kế này,
kênh chữ và kênh hình, âm thanh vừa được phối hợp trình bày chặt chẽ với nhau vừa giúp GV
giảm bớt nội dung, thời gian ghi bảng. Tuy nhiên, nhiều GV khi thiết kế theo cách này ít chú ý
tính logic, hệ thống của kết cấu đề cương bài giảng.
- Cách thiết kế thứ ba: Mỗi slide đều được chia làm 3 khung. Khung nhỏ trên cùng của
slide ghi tên bài học, khung bên trái chiếm khoảng 1/3 phần còn lại của slide lần lượt ghi các
đề mục, tiểu mục và khung bên phải chiếm khoảng 2/3 phần còn lại của slide ghi vắn tắt nội
dung kiến thức cơ bản, các câu hỏi trọng tâm hay chèn vào các dạng kênh hình… tương ứng
với nội dung các đề mục, tiểu mục ở khung bên trái. Cách thiết kế này ít phổ biến vì nó đòi hỏi
GV đầu tư nhiều công sức hơn. Các nội dung được đưa vào slide phải thật ngắn gọn, súc tích
và bố trí trí hợp lý trên khuôn khổ có hạn của các khung. Hình thức thiết kế này kế thừa ưu
điểm của cách trình bày các trang web, giúp GV dễ dàng tiến hành BGĐT một cách logic, hệ
thống và HS theo dõi bài thuận lợi hơn.
Điểm cần lưu ý chung đối với cả ba cách thiết kế trên là ngoài những thông tin cơ bản
nhất không thể thiếu đối với mỗi bài học cụ thể được sắp xếp theo trình tự thì giáo viên cần
12


thiết kế thêm những thông tin bổ trợ, mở rộng ( thường là các câu hỏi, bài tập, biểu bảng, hình
ảnh, đoạn phim, âm thanh …) mà GV, HS có thể tương tác, kích hoạt tuỳ chọn (sử dụng chức
năng Hyperlink hay Trigger). Thực hiện điều này sẽ làm cho BGĐT có nội dung phong phú,
đa dạng hơn đồng thời linh hoạt hơn trong sử dụng nhằm thích ứng tốt với những tình huống,
điều kiện, đối tượng dạy học khác nhau.
Dưới đây là một số slide minh hoạ các kiểu thiết kế nói trên:
- Cách thiết kế thứ nhất đối với bài 5 “Trung Quốc thời Tần, Hán” lớp 10 chương trình
nâng cao.


Slide 1

Slide 2

Slide 1 trình bày khái quát niên biểu các triều đại phong kiến Trung Quốc, trong đó HS sẽ
được tìm hiểu chủ yếu về nhà Tần, nhà Hán (thời kỳ hình thành), nhà Đường, nhà Tống (thời
kỳ phát triển thịnh đạt) và nhà Minh, nhà Thanh (thời kỳ bắt đầu suy yếu và sụp đổ). Slide 2
giới thiệu bài mới và đặt câu hỏi nhận thức đầu giờ.
Slide 3 được sử dụng khi dạy mục 1. Sự hình thành xã hội phong kiến là sơ đồ sự hình
thành quan hệ phong kiến ở Trung Quốc. Ở slide3 học sinh có thể tự trình bày sơ đồ mà các
em đã chuẩn bị trước trên PowerPoint có tập tin được GV quy định tên là “HS” (học sinh cắm
USB vào máy tính và kích vào biểu tượng

HS

ở góc phải màn hình. Để thoát ra và trở lại bài

giảng của GV thì bấm phím Esc).

13


Slide 4

Slide 3

Khi dạy mục 2. Chế độ phong kiến thời Tần, Hán , GV sử dụng Slide 4 để làm rõ quá
trình nhà Tần thôn tính lục quốc thống nhất Trung Quốc và sau đó vẫn tiếp tục chính sách thôn
tính này đối với các nước xung quanh. Nếu có thời gian có thể cho HS xem đoạn phim truyện
lịch sử nhà Tần thôn tính lục quốc(kích chuột vào biểu tượng chiếu phim ở góc phải màn

hình).

Slide 6

Slide 5

Slide 5 là sơ đồ bộ máy nhà nước phong kiến tập quyền thời Tần. GV trình bày sơ đồ và
yêu cầu học sinh rút ra nhận xét nhưng cũng có thể do học sinh tự trình bày sơ đồ đã được
chuẩn bị trước trên PowerPoint (học sinh cắm USB vào máy tính và kích vào biểu tượng

HS



góc phải màn hình). Slide 6 nói về Tần Thuỷ Hoàng và triều đại nhà Tần. GV có thể tuỳ chọn
khi kích chuột vào hai biểu tượng

ở góc phải màn hình để HS biết thêm về hình ảnh Vạn lý

trường thành và kho tượng bằng đất nung trong mộ Tần Thuỷ Hoàng.(kết hợp miêu tả, sử dụng
14


tài liệu tiểu sử với hình ảnh) ,.....
Slide 7 là tranh chân dung Khổng Tử được sử dụng khi nói về Nho giáo trong mục 3. Văn
hoá thời Tần, Hán. GV có thể kích chuột vào hai biểu tượng

ở góc phải màn hình để nói

Slide 8


Slide 7

thêm về bộ Sử ký với tranh chân dung Tư Mã Thiên.
Slide 8 được sử dụng khi tổ chức cho HS hoạt động nhóm tìm hiểu những vấn đề liên
quan đến Nho giáo.
Slide 9 là bài tập củng cố bài với 4 câu hỏi trắc nghiệm, tuy nhiên tuỳ tình huống, đối
tượng dạy học cụ thể để chọn tuỳ ý một hoặc hai câu trong đó bằng cách kích chuột vào các ô
C1 hay C2, C3, C4 ở góc phải màn hình và kích vào và ô H để liên kết đến Slide 10 với phần
bài tập về nhà. Slide 10 gồm nội dung câu hỏi nâng cao kiến thức bài vừa học và câu hỏi chuẩn
bị bài mới, trong đó có giới thiệu một số trang web tham khảo (nếu máy tính có nối mạng
Internet thì có thể kích vào để liên kết trực tiếp ngay trên lớp)

15


Slide 9

Slide 10

Đối với cách thiết kế thứ hai, chúng tôi chỉ minh hoạ một vài slide của bài 11 Cuộc
kháng chiến thắng lợi (tiết 1) lớp 12 theo chương trình không phân ban hiện hành chủ yếu để
tham khảo bố cục của thiết kế. Điểm cần lưu ý của cách thiết kế này là phải vừa đảm bảo tính
trình tự của nội dung bài giảng đồng thời đảm bảo tính hệ thống của các đề mục của bài giảng
mặc dù chèn giữa các slide đề mục là một số slide kênh hình.

Slide1

Slide2


Slide3

Slide4

16


Slide 1 dùng để kiểm tra bài cũ bằng cách yêu cầu học sinh trình bày trên lược đồ câm và
trả lời câu hỏi. GV bấm phím Enter để có đáp án và đánh giá phần trả lời của HS. Slide 2 giới
thiệu bài và đặt ra câu hỏi nhận thức đầu giờ.
Slide 3 trình bày nội dung của tiết 1- I. Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954
và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ; 1. Kế hoạch Na- va và chiến lược của ta trong Đông
Xuân 1953-1954; a/Tình hình Đông Dương sau 8 năm thực dân Pháp xâm lược. Slide 4 là
niên biểu thống kê những thay đổi của chính trường nước Pháp và bộ máy cai trị thực dân ở
Đông Dương từ 1945-1953. GV yêu cầu HS quan sát và rút ra nhận xét.
Slide 5 là niên biểu về viện trợ của Mỹ chi cho Pháp trong chiến tranh Đông Dương từ
1950-1953 để HS hiểu hơn về sự can thiệp của Mỹ ở Đông Dương thời kỳ này. GV có thể kích
chuột vào biểu tượng

để cho HS hiểu thêm về sự can thiệp Mỹ qua hình ảnh Ni-xon -phó

tổng thống Mỹ đến Đông Dương động viên binh sĩ Pháp.
Slide 6 thêm đề mục b/ Kế hoạch 2 bước của Na-va trong 18 tháng trong khi tên bài và

Slide6

Slide5

các đề mục đã trình bày trước đó vẫn đảm bảo tính hệ thống. Các slide tiếp theo gồm cả kênh
hình và các đề mục tương ứng trình bày về chủ trương chiến lược của ta trong Đông Xuân

1953-1954; về chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, trong đó đề cập đến chiến trường Đông
Xuân 1953-1954, diễn biến và kết quả chiến dịch Điện Biên Phủ.

17








Slide10

Slide16

Slide 20

Slide 19

Trong slide 20, ở mỗi đầu câu có biểu tượng
hợp với yêu cầu dạy học cụ thể. Biểu tượng

để GV kích chuột tuỳ chọn câu hỏi phù

ở cuối câu dùng để mở phần gợi ý HS làm bài

tập (nếu cần).
Trong cách thiết kế thứ ba chúng tôi cũng chỉ trích dẫn minh hoạ một vài slide của bài
30 Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ theo chương trình lớp 10

chuẩn, chủ yếu để làm rõ cấu tạo thiết kế của bài giảng.
Slide1 giới thiệu tên bài mới, những nội dung tìm hiểu chủ yếu và câu hỏi nhận thức đầu
giờ. Slide 2 trình bày mục 1. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Bắc Mỹ. Nguyên nhân bùng
nổ chiến tranh. Kênh chữ kết hợp lược đồ động trên slide này phản ánh quá trình hình thành
13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ.

Slide 3 trình bày tình hình phát triển kinh tế TBCN ở các thuộc

địa miền Bắc-Trung và miền Nam. Slide 4 lần lượt trình bày về các chính sách của thực dân

18
Slide1

Slide2


Anh ở Bắc Mỹ.

Slide3

Slide4

Sau slide 5, 6 nêu vấn đề những mâu thuẫn cơ bản của xã hội Bắc Mỹ, nhiệm vụ cách
mạng và trình bày sự kiện Bốt xtơn, Đại hội Phi la den phia lần I, Slide 7 trình bày tiểu mục b.
Diễn biến giai đoạn 1775-1777 gồm lược đồ và tranh chân dung của G. Oa- sinh- tơn… Sau
các slide phản ánh diễn biến chiến tranh, Slide 10 trình bày về sơ đồ bộ máy nhà nước Mỹ
theo hiến pháp 1787 để GV và HS cùng nhau trao đổi, rút ra nhận xét.




Slide11

Slide13

Slide 11 là bảng so sánh một số nội dung giữa Cách mạng tư sản Anh và Chiến tranh
giành độc lập ở Bắc Mỹ, qua đó rút ra những điểm giống, khác nhau và tính chất của các cuộc
đấu tranh này. Slide 13 nêu ý nghĩa và nhận định của Lênin sau khi GV và HS trao đổi, thảo
luận.
-----------------------------------------------------19


Lưu ý: Sử dụng một số phím nóng
Phím nóng Ctr +P cho phép GV và HS sử dụng rê chuột như ngòi bút màu để vẽ hay
đánh dấu trực tiếp lên các nội dung đang trình chiếu ( đánh dấu vào đáp án đúng; nối bài trắc
nghiệm ghép đôi; gạch chân, khoanh tròn các ý trọng tâm, vẽ đường đi của các cuộc hành
trình…). Gõ phím nóng Ctr +E để xoá nét vẽ sai hay gõ phím E để xoá toàn bộ nội dung vừa
vẽ và gõ phím Ctr +A để trở lại chế độ trình chiếu bình thường.
Để thực hiện kết nối máy tính với máy chiếu bấm tổ hợp phím: Ctrl +

+ P.

Khi xuất hiện hình sau thì chọn Duplicate

- Có những bài học không đòi hỏi sử dụng màn hình liên tục thì GV có thể gõ phím B để
tắt nhanh trình chiếu và gõ một phím bất kỳ để mở lại trình chiếu. Thao tác này giúp GV
hướng HS tập trung hơn vào các hoạt động khác trên lớp.

20




×