Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

Mô hình tổ chức thi hành án ở Việt Nam hiện nay (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (883.49 KB, 168 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO THỊ HOÀI THU

MÔ HÌNH TỔ CHỨC THI HÀNH ÁN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO THỊ HOÀI THU

MÔ HÌNH TỔ CHỨC THI HÀNH ÁN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 62.38.01.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN MINH ĐOAN

HÀ NỘI - NĂM 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi; các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án
là trung thực, có xuất xứ rõ ràng; những phát hiện đưa ra
trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Đào Thị Hoài Thu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và
những vấn đề tiếp tục nghiên cứu
1.4. Cơ sở lý thuyết, câu hỏi nghiên cứu, hướng tiếp cận, giả thuyết
nghiên cứu và dự kiến kết quả nghiên cứu của luận án
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC THI
HÀNH ÁN

2.1. Khái niệm, vai trò của mô hình tổ chức thi hành án
2.2. Các thành tố của mô hình tổ chức thi hành án, điều kiện đảm bảo
vận hành và mối quan hệ của chúng
2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến mô hình tổ chức thi hành án
2.4. Mô hình tổ chức thi hành án một số nước trên thế giới và những

gợi mở đối với Việt Nam
Chương 3: THỰC TRẠNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC THI HÀNH ÁN Ở VIỆT
NAM

3.1. Quá trình hình thành và phát triển mô hình tổ chức thi hành án ở
Việt Nam
3.2.Thực trạng mô hình tổ chức thi hành án hình sự ở Việt Nam hiện
nay
3.3.Thực trạng mô hình tổ chức thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện
nay
3.4. Ưu điểm, hạn chế, bất cập, nguyên nhân của mô hình tổ chức thi
hành án ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra
Chương 4: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI MÔ
HÌNH TỔ CHỨC THI HÀNH ÁN Ở VIỆT NAM

4.1.Quan điểm đổi mới mô hình tổ chức thi hành án ở Việt Nam
4.2.Phương hướng đổi mới mô hình tổ chức thi hành án ở Việt Nam
hiện nay
4.3.Giải pháp đổi mới mô hình tổ chức thi hành án ở Việt Nam hiện
nay
4.4. Kiến nghị lộ trình hoàn thiện mô hình tổ chức thi hành án ở Việt
Nam
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
1
7

7
16
22
25
29
29
44
56
62
72
72
84
96
107
118
118
126
137
148
151
153
154


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHV

Chấp hành viên


ĐCSVN

Đảng Cộng sản Việt Nam

THA

Thi hành án

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TTV

Thẩm tra viên

THADS

Thi hành án dân sự

TPL

Thừa phát lại

THAHS

Thi hành án hình sự

PCXHCN


Pháp chế xã hội chủ nghĩa

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án là hoạt động quan trọng nhằm đảm bảo hiệu lực của các bản án,
quyết định của tòa án góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật. Kết quả của giai đoạn thi hành án là thước đo hiệu
lực, hiệu quả của toàn bộ hệ thống tư pháp. Việc xét xử đúng, khách quan là vô
cùng quan trọng, nhưng khi các bản án không được thi hành hoặc thi hành không
đúng thì toàn bộ quá trình hoạt động của hệ thống cơ quan điều tra, truy tố, xét xử
và các hoạt động bổ trợ tư pháp khác sẽ không có ý nghĩa. Do vậy, việc bảo đảm thi
hành hiệu quả trên thực tế các bản án, quyết định của tòa án đã được ghi nhận trong
Hiến pháp như là một nguyên tắc Hiến định. Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ
quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành”. Chính vì tầm quan trọng của thi hành án nên việc nghiên cứu và

không ngừng đổi mới và hoàn thiện mô hình tổ chức thi hành án theo hướng hiệu
lực, hiệu quả là một nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, nhằm tìm ra được mô hình tối
ưu nhất để đảm bảo hoàn thành sứ mệnh của nó.
Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng CSVN đã xác định “Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp,
tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh
gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Hoàn thiện thể
chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh việc hoàn thiện và nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước”[41,tr 39]. Do vậy, việc
đổi mới tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án, đổi mới phương thức quản lý nhằm
nâng cao hiệu lực hiệu quả công tác thi hành án là nhiệm vụ quan trong trong tổng
thể nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHXN Việt Nam.

1


Thực tiễn thi hành án từ năm 1993 đến nay, nhất là từ khi có Luật thi hành
án dân sự năm 2008, Luật thi hành án hình sự năm 2010, Luật Tố tụng hành chính
năm 2010 (sau đó là Luật Tố tụng hành chính 2015), hoạt động thi hành án đã có
nhiều tiến bộ, mô hình tổ chức thi hành án bước đầu được quy định bằng các văn
bản pháp luật có giá trị pháp lý cao, kết quả thi hành án ngày càng được nâng cao cả
về số lượng và chất lượng, khắc phục được nhiều điểm hạn chế. Tuy nhiên, vẫn còn
một số vướng mắc, bất cập xuất phát từ tổ chức bộ máy và công tác quản lý thi hành
án, hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án và cơ quan quản lý công tác thi hành án
phân tán, thiếu tập trung, cơ chế phối hợp trong thi hành án hiện nay chưa hiệu quả;
cơ quan thi hành án trong quân đội hiện nay đang chồng chéo về nhiệm vụ… đã làm
giảm hiệu lực hiệu quả của công tác thi hành án; án tồn đọng ngày càng tăng, cơ chế
phối hợp giữa thi hành án hình sự và thi hành án dân sự chưa nhịp nhàng; vấn đề nhận
thức xây dựng một mô hình tổ chức thi hành án thống nhất, hiệu lực hiệu quả vẫn

còn chưa thống nhất… Trước tình hình đó, việc nghiên cứu và đề xuất xây dựng mô
hình tổ chức thống nhất, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền và chiến lược cải cách tư pháp là một vấn đề bức xúc. Do đó, việc
nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện các vấn đề về mô hình tổ chức thi hành án là hết
sức cần thiết, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời giải quyết những vướng
mắc bất cập hiện nay trong công tác thi hành án.
Từ những lý do trên, nghiên cứu sinh đã lựa chọn “Mô hình tổ chức thi
hành án ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn mô hình tổ chức thi
hành án ở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất phương hướng, quan điểm và giải
pháp đổi mới mô hình tổ chức thi hành án, đảm bảo hiệu lực và hiệu quả trong thi
hành án, góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.

2


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản của luận án gồm:
- Đánh giá tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, rút ra
những điểm hợp lý để kế thừa, phát triển nhằm mở rộng hướng nghiên cứu để đạt
mục đích đề ra.
- Nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận về mô hình tổ chức thi hành án
như: khái niệm, đặc điểm mô hình tổ chức thi hành án; các yếu tố ảnh hưởng đến
mô hình tổ chức thi hành án...
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng mô hình tổ chức thi hành án ở
nước ta thông qua sự vận hành của nó dưới các góc độ: chức năng, nhiệm vụ của bộ

máy tổ chức các cơ quan thi hành án qua các thời kỳ; quy định pháp luật về mô hình
tổ chức thi hành án; thực tiễn kết quả hoạt động thi hành án trong những năm qua...;
- Nghiên cứu đánh giá mô hình tổ chức thi hành án của một số quốc gia trên
thế giới và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
- Đặt ra những yêu cầu cần thiết và nêu quan điểm về đổi mới mô hình tổ
chức thi hành án, đề xuất phương hướng đổi mới mô hình tổ chức thi hành án đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đặt trong tổng thể của việc
phát triển kinh tế-xã hội và cải cách tư pháp, cải cách hành chính.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu cơ sở lý luận về thi hành án, xác định khái niệm thi hành
án, bản chất của thi hành án, khái niệm mô hình tổ chức thi hành án và sự vận hành
của nó; những yêu cầu của cải cách tư pháp trong xây dựng mô hình tổ chức thi
hành án và giới hạn nghiên cứu theo khái niệm đã phân tích.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu nội dung cơ bản về mô hình tổ chức thi hành án
đang vận hành ở Việt Nam hiện nay.

3


Các số liệu liên quan đến đề tài được tham khảo thống kê từ năm 1993 đến
2016 qua các báo cáo của Chính phủ và của các cơ quan Bộ Tư pháp, Bộ Công an,
Bộ Quốc phòng.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Đề tài luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà
nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về cải cách tư pháp, về thi hành án
và mô hình tổ chức thi hành án nói riêng. Bên cạnh đó, đề tài chú trọng những quan

điểm, tri thức khoa học có tính phổ biến ở trong nước và nước ngoài về mô hình tổ
chức thi hành án và pháp luật về thi hành án để tham khảo và phục vụ cho việc tiếp cận
và giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án.
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, tác giả luận án sử dụng những
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh để làm sáng tỏ các vấn đề cần
được nghiên cứu trong phạm vi đề tài: được sử dụng trong chương 2, 3, 4 để làm rõ
cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất quan điểm, giải pháp đổi mới mô hình tổ
chức thi hành án. Kết hợp tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học nhằm làm rõ khái
niệm và bản chất của thi hành án, mô hình tổ chức thi hành án (sử dụng trong chương
1, 2, 3, 4)
- Phương pháp thống kê, tổng hợp, hệ thống, so sánh được sử dụng trong
chương 3 khi đánh giá thực trạng mô hình tổ chức thi hành án ở nước ta qua các giai
đoạn.
- Phương pháp nghiên cứu so sánh nhằm so sánh mô hình tổ chức và hoạt
động thi hành án ở Việt Nam với một số nước trên thế giới (chủ yếu tại chương 1).
- Phương pháp khảo sát thực tiễn, sử dụng số liệu thống kê thi hành án của các
cơ quan quản lý: nhằm tìm hiểu, đánh giá sự tác động của mô hình tổ chức đối với kết
quả thi hành án; phương pháp nghiên cứu gián tiếp thông qua tổng hợp và phân tích tư

4


liệu, nhất là các tư liệu sơ cấp, so sánh các vấn đề nghiên cứu giữa các đối tượng được
chọn lựa (chủ yếu tại chương 2, 3).
- Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia: nhằm tìm hiểu, đánh giá mối quan hệ giữa
các loại hình thi hành án, thực tiễn hệ thống tổ chức thi hành án hiện nay cũng như
quan điểm, định hướng hoàn thiện mô hình tổ chức thi hành án (chủ yếu tại chương 3,
4).

- Phương pháp phân tích, dự báo khoa học, nhằm dự báo về các xu hướng phát
triển và các yêu cầu hoàn thiện mô hình tổ chức thi hành án đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp (chủ yếu tại chương 4).
5. Những điểm mới của luận án
Đây là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về mô hình tổ
chức thi hành án ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có những đóng góp
mới về mặt khoa học như sau:
- Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện các quan điểm, quan niệm về thi hành
án và mô hình tổ chức thi hành án, luận án đã xây dựng khái niệm khoa học mô hình tổ
chức thi hành án, chỉ ra vai trò, đặc trưng của mô hình tổ chức thi hành án, phân tích,
đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến mô hình tổ chức thi hành án tại Việt Nam.
- Chỉ rõ quá trình hình thành và phát triển của mô hình tổ chức thi hành án ở
Việt Nam từ khi thành lập nước (từ 1945 đến nay); phân tích, đánh giá thực trạng mô
hình tổ chức thi hành án Việt Nam hiện nay, khẳng định những bước phát triển, những
ưu điểm cần phát huy, đồng thời chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn
chế đó.
- Luận giải những ưu điểm, hạn chế của mô hình tổ chứ c thi hành án hiện nay;
đề xuất, thiết kế mô hình tổ chức thi án mới trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài
và xu thế chung của thế giới nhằm hướng tới một nền tư pháp công khai, minh bạch,
bảo vệ công lý, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
- Đưa ra một số giải pháp cơ bản về thống nhất nhận thức trong hệ thống chính
trị để tập trung nguồn lực xây dựng mô hình tổ chức thi hành án tập trung thống nhất,
hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi hành án, trong đó quy định rõ về cơ cấu tổ chức,

5


cơ chế vận hành của mô hình tổ chức thi hành án do một cơ quan quản lý, chuẩn bị đủ
các nguồn lực về con nghười, về cơ sở vật chất để vận hành mô hình tổ chứ c thi hành
án khi đủ điều kiện về kinh tế- xã hội.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần bổ sung và làm giàu thêm những
kiến thức lý luận về thi hành án và mô hình tổ chức thi hành án; xây dựng cơ sở
khoa học cho việc phân tích, đánh giá thực trạng sự vận hành của mô hình tổ chức
thi hành án; xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức thi hành án và kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về thi hành án.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận án là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu,
giảng dạy luật học chuyên sâu về thi hành án và tổ chức bộ máy thi hành án. Luận án
cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và trách
nhiệm xã hội trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật thi hành án; xây dựng
Nhà nước pháp quyền trong đó xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ
quốc.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 04
chương 16 tiết.

6


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC

Rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến thi hành án đã được
công bố, đây là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng để tác giả tiếp tục nghiên cứu
làm sâu sắc hơn những vấn đề về lý luận và thực tiễn hoạt động thi hành án nói
chung và mô hình tổ chức của thi hành án nói riêng, cụ thể như:

1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về thi hành án
- Đề tài khoa học cấp nhà nước, “Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi
mới tổ chức hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới”, Nguyễn Đình
Lộc (chủ nhiệm đề tài), 2004. Đề tài nghiên cứu toàn diện các vấn đề về tổ chức và
hoạt động của thi hành án, đánh giá thực trạng của công tác thi hành án, những vấn đề
còn chưa đáp ứng được nhiệm vụ được đặt ra của cải cách tư pháp, ví dụ, tình trạng
phân tán, thiếu tập trung, không thống nhất từ khâu tổ chức, thực hiện, thi hành các
bản án, quyết định đến khâu quản lý nhà nước chính là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng thiếu phối hợp, kết hợp giữa các cơ quan, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính
hiệu quả của công tác thi hành án. Đề tài này đã nghiên cứu toàn diện các vấn đề về
tổ chức thi hành án nói chung và từng loại hình thi hành án gồm thi hành án hình sự,
dân sự, thi hành án kinh tế, lao động, hành chính, thi hành án trong quân đội, thi hành
án hình sự, dân sự có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, đưa ra mục tiêu, quan điểm,
yêu cầu và những giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt
Nam trong thời gian tới. Đề tài tập trung nghiên cứu các phương án đổi mới công tác
thi hành án theo hai phương diện: đổi mới hệ thống quản lý công tác thi hành án và
đổi mới chế độ, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các chức danh thi hành án.
- Đề tài khoa học xã hội cấp nhà nước, “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn
thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án
trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân”, Uông Chu Lưu (chủ
7


biên), Hà Nội, 2006. Đề tài đã làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn, khái niệm, vị trí, vai
trò, bản chất, đặc trưng của các cơ quan tư pháp và thủ tục tư pháp; quyền tư pháp và
thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Điều nổi bật
trong phần này là làm rõ những quan điểm về quyền tư pháp, tổ chức phân công lao
động quyền lực nhà nước. Cùng với việc làm rõ về mặt lý luận, đề tài đã khái quát về
tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án,
thi hành án…) trước và sau Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986). Đánh giá những

thành tựu chung về cơ quan tư pháp và hoạt động của các cơ quan này; những thành
tựu về cải cách thủ tục tư pháp; huy động sự tham gia rộng rãi và tích cực của các cơ
quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức xã hội, nhân dân với công tác tư pháp; đánh
giá đổi mới tổ chức, hoạt động của từng loại cơ quan tư pháp. Qua nghiên cứu cơ sở
lý luận, đánh giá những thành tựu, những hạn chế và nguyên nhân; hình thành những
quan điểm, tiền đề và yêu cầu cải cách tư pháp nhằm xây dựng phương hướng và giải
pháp thực hiện cải cách tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động tố tụng như:
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án...
- Chuyên đề Thông tin Khoa học pháp lý, “Xã hội hoá hoạt động thi hành án
dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, tháng 5/2001, Viện Nghiên cứu khoa
học pháp lý - Bộ Tư pháp. Chuyên đề này giới thiệu tổ chức thi hành án dân sự ở Việt
Nam trước và sau năm 1945; giới thiệu tổ chức thi hành án dân sự của Cộng hoà
Pháp, Cộng hoà Liên bang Đức, Nhật Bản, Thái Lan; đánh giá thực trạng về tổ chức
bộ máy và về hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam; quan niệm về xã hội hoá; chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá. Từ những vấn đề do thực
tiễn đặt ra như: bộ máy thi hành án dân sự hiện nay mang tính chất là các cơ quan nhà
nước và phải đảm nhiệm một khối lượng công việc hết sức lớn; việc cơ quan Nhà
nước đảm nhận tổ chức thực hiện miễn phí thi hành các loại bản án là một sự bao cấp
không cần thiết, sự không cần thiết thể hiện ở việc phải dùng ngân sách Nhà nước là
nguồn đóng góp của toàn thể nhân dân để chi phục vụ cho lợi ích của một số ít người;
việc tổ chức thi hành án dân sự do cơ quan Nhà nước đảm nhiệm toàn bộ, một mặt
việc này gây nên sự quá tải, mặt khác phương thức, cách thức thi hành không mềm

8


dẻo, không linh hoạt, máy móc dễ tạo nguy cơ tiêu cực trong việc tổ chức thi hành án,
chuyên đề đã đưa ra những cơ sở lý luận để giải quyết những vấn đề như xã hội hoá
có mâu thuẫn, có phải là sự chia sẻ quyền lực tư pháp không; nhân tố ảnh hưởng đến
việc xã hội hoá hoạt động thi hành án dân sự; mục tiêu và lợi ích của việc xã hội hoá

hoạt động thi hành án dân sự; những nội dung của hoạt động thi hành án dân sự có
thể xã hội hoá được (phạm vi xã hội hoá).
- Luận án tiến sĩ luật học, “Pháp chế XHCN trong hoạt động THADS ở Việt
Nam hiện nay” của Nguyễn Quang Thái, Học viện chính trị - hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, 2008. Luận án làm sáng tỏ những vấn đề có tính lý luận về pháp chế
XHCN trong hoạt động THADS. Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp chế XHCN
trong hoạt động THADS, xác định phương hướng, giải pháp bảo đảm PCXHCN
trong hoạt động THADS ở Việt Nam.
- Một số công trình trên nghiên cứu về chế định Thừa phát lại của Việt Nam
(miền Nam trước năm 1975) và của một số nước trên thế giới, làm rõ cơ sở lý luận
và thực tiễn, mô hình tổ chức và hoạt động của thừa phát lại, đồng thời đã phân tích
và đưa ra một số cơ sở chứng minh khả năng xã hội hóa hoạt động THADS ở Việt
Nam, các công trình đó là: “Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định thừa phát
lại” (Đề tài cấp Bộ 95-98-114/ĐT) do Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp và Sở
Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh phối hợp thực hiện năm 1995; “Xã hội hóa hoạt
động thi hành án dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Chuyên đề Thông tin
Khoa học pháp lý - tháng 5/2001, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp;
“Xã hội hóa một số nội dung THADS” Lê Xuân Hồng, luận văn Thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002.
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về pháp luật thi hành án
- Sách, "Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam - những vấn đề lý luận và
thực tiễn", Võ Khánh Vinh - Nguyễn Mạnh Kháng (chủ biên), Nxb Tư pháp, Hà
Nội, 2006. Công trình này nghiên cứu về pháp luật thi hành án hình sự ở Việt Nam.
Đặc biệt cuốn sách này có những quan điểm, luận giải, đề xuất, kiến nghị về những
vấn đề cơ bản trong thi hành án hình sự, hệ thống các cơ quan thi hành án hình sự,

9


mô hình thi hành án hình sự. Đây là những điểm mới về mặt lý luận cần được lưu ý

trong việc tiếp tục nghiên cứu những giải pháp đổi mới công tác thi hành án hình sự
ở nước ta trong điều kiện hiện nay. Lĩnh vực thi hành án dân sự cũng đã được phân
tích trong phần thi hành các quyết định về hình phạt tiền, tịch thu tài sản, bồi
thường thiệt hại trong bản án hình sự.
- Sách, “Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự ở
Việt Nam”, Vũ Trọng Hách, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006. Công trình nghiên cứu và
đưa ra những luận điểm khoa học về quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước
trong lĩnh vực thi hành án hình sự nói riêng, tìm hiểu quá trình hình thành và phát
triển, những thành tựu, kết quả và cả những tồn tại, khiếm khuyết của công tác quản
lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự ở nước ta trong gần 60 năm qua, đề
xuất những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi
hành án hình sự trong thời gian tới có tham khảo kinh nghiệm một số nước trên thế
giới về vấn đề này. Về thi hành án dân sự, công trình cũng chỉ đề cập sơ qua, chủ yếu
là so sánh, đề cập tới việc quản lý nhà nước về thi hành án dân sự đã được pháp luật
quy định tương đối đầy đủ, cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên thi hành án
dân sự được quyền ra quyết định về thi hành án khi tổ chức thi hành án, còn thi hành
án hình sự chưa được pháp luật quy định rõ ràng, cụ thể về những vấn đề này. Tác giả
cũng đề xuất xây dựng một Bộ luật Thi hành án thống nhất điều chỉnh chung tất cả
các lĩnh vực thi hành án, bổ sung chức danh chấp hành viên thi hành án hình sự để
theo dõi, tổ chức thi hành án hình sự.
- Sách,“Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam”,
Lê Thu Hà, Nxb Chính trị Quốc gia, 2011. Công trình nghiên cứu phân tích một số
bất cập của thực trạng pháp luật thi hành án dân sự, qua đó đưa ra đề xuất, kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự.
- Luận án tiến sĩ luật học, “Hoàn thiện pháp luật THADS ở Việt Nam hiện
nay” Nguyễn Thanh Thủy, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007. Luận
án làm sáng tỏ một số vấn đề có tính lý luận về THADS, pháp luật THADS. Trên
cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật THADS trước năm 2007, xác định phương

10



hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật THADS ở Việt Nam trước khi Luật THADS
năm 2008 ra đời.
- Luận án tiến sĩ luật học, “Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án
dân sự ở Việt Nam”, Đặng Đình Quyền, Hà Nội, 2012, công trình này đã nghiên
cứu việc áp dụng pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự cơ bản và chủ yếu do
cơ quan thi hành án dân sự mà cụ thể là chấp hành viên thực hiện, đồng thời cũng chỉ
ra những bất cập, hạn chế, nguyên nhân và đề xuất các biện pháp nhằm tăng cường
hiệu quả của việc áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự.
- Luận văn Thạc sĩ luật học, “Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” của tác giả Lại Anh Thắng Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, 2010), nghiên cứu chủ yếu về thực trạng thi hành pháp luật thi
hành án, phân tích những hạn chế, bất cập và đưa ra giải pháp khắc phục.
1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu về mô hình tổ chức và hoạt động thi
hành án ở Việt Nam
- Đề tài khoa học xã hội cấp nhà nước “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn
thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của toà án
trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân”, Uông Chu Lưu (chủ
biên), Hà Nội, 2006. Công trình đã làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn của các cơ quan
tư pháp và thủ tục tư pháp; quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Làm rõ những quan điểm về quyền tư pháp, tổ chức
phân công lao động quyền lực nhà nước. Đề tài đã khái quát về tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án, thi hành án…) trước
và sau Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986). Qua nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá
những thành tựu, những hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động của các cơ quan tư
pháp, đề tài cũng nghiên cứu về cơ quan thi hành án trong mối quan hệ với hệ thống
tư pháp và việc thực hiện quyền tư pháp, trong đó xác định cơ quan thi hành án tuy
không phải là cơ quan tố tụng “nhưng có thể coi là cơ quan thuộc hệ thống tư pháp”,
đề xuất một số vấn đề cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án nói


11


chung, cơ quan thi hành án dân sự nói riêng như là một trong những nội dung của cải
cách tư pháp.
- Đề tài khoa học cấp bộ“Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án”,
Cục Quản lý THADS - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện năm 1996 - 1998. Đề tài bước
đầu phân tích, đánh giá về cơ chế quản lý công tác THADS, mối liên hệ giữa quản
lý THADS với các lĩnh vực THA khác, nêu ra một số kiến nghị về mô hình quản lý
thống nhất công tác THA.
- Đề tài khoa học cấp bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện các
tiêu chuẩn chức danh tư pháp”(Bộ Tư pháp, 2005), Đề tài phân tích, đánh giá thực
trạng đội ngũ CHV, nghiên cứu chức danh CHV trong mối quan hệ với các chức
danh tư pháp khác và kiến nghị giải pháp hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh này.
- “Đề án kiện toàn mô hình tổ chức và đội ngũ cán bộ thi hành án để thực
hiện có hiệu quả Luật Thi hành án dân sự năm 2008” của Tổng cục Thi hành án
dân sự Bộ Tư pháp, năm 2009, công trình này đã đánh giá thực trạng về mô hình tổ
chức cơ quan thi hành án dân sự và thực trạng đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành
án dân sự, đề xuất một số giải pháp nhằm kiện toàn về tổ chức và cán bộ trong thi
hành án dân sự.
- Dự án điều tra cơ bản “Thực trạng tổ chức và hoạt động thi hành án dân
sự, thi hành án hình sự” , Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý - Hà Nội, năm 2012.
Công trình này đã đánh giá thực trạng về tổ chức thi hành án hình sự, thi hành án
dân sự và đưa ra một số giải pháp đổi mới về tổ chức và hoạt động của thi hành án
hình sự và thi hành án dân sự.
- Sách:“Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, Đào
Trí Úc (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, công trình này nghiên cứu
tổng thể hệ thống tư pháp của Việt Nam hiện nay đồng thời nghiên cứu sâu vấn đề
cải cách tư pháp trong đó có vấn đề cải cách trong lĩnh vực thi hành án.

- Sách:“Đổi mới tổ chức cơ quan thi hành án”, Hoàng Thọ Khiêm (chủ
biên), Nxb Tư pháp, Hà Nôị, 2006. Xuất phát từ những hạn chế trong công tác thi
hành án dân sự, và một số cơ quan nhà nước chưa xác định đúng vai trò của công

12


tác thi hành án nói chung nên có nơi, có lúc hoạt động thi hành án ít được quan
tâm, chú trọng, các tác giả đã nghiên cứu, giới thiệu một số quan điểm về thi hành
án dân sự như hoạt động thi hành án dân sự có tính độc lập tương đối; hiệu quả hoạt
động thi hành án dân sự phụ thuộc chủ yếu vào vai trò cá nhân chấp hành viên; hoạt
động thi hành án dân sự đòi hỏi tính chính xác cao và không cho phép có sự sai sót;
hoạt động thi hành án là hoạt động phức tạp đòi hỏi phải có một cơ chế giải quyết
liên ngành ở trung ương; hoạt động thi hành án dân sự là lĩnh vực hoạt động đòi hỏi
sự quản lý tập trung thống nhất công tác tổ chức và có nhiều nội dung không thể
phân cấp; hoạt động thi hành án không có sự phân biệt đối xử; đảm bảo hiệu lực
chung của bản án, quyết định của Toà án và các quyết định khác. Các tác giả cũng
làm rõ vai trò của hoạt động thi hành án dân sự với các hoạt động tư pháp khác; với
việc ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; với sự phát triển của nền kinh
tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; đề cập đến công tác quản lý nhà
nước về thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu cách hành chính, cải cách tư pháp trong
lĩnh vực thi hành án dân sự để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác thi
hành án dân sự ở Việt Nam.
- Sách“Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới”, Nguyễn Văn Yểu - Lê Hữu Nghĩa (đồng chủ biên), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2006, công trình nghiên cứu lý luận về Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, trong đó đề cập đến việc hoàn thiện
tổ chức cơ quan tư pháp.
- Sách:“Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - lý
luận và thực tiễn”, Nguyễn Văn Mạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. Tác

giả khẳng định thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp, hướng đổi mới là
phân định các loại thủ tục thi hành án hình sự, dân sự, hành chính và đặc điểm của
từng loại thi hành án; xã hội hóa một số hoạt động thi hành án để giảm tải cho Nhà
nước, nhất là thi hành án dân sự; chuyển công tác thi hành án cho Bộ Tư pháp quản
lý, thành lập hệ thống cơ quan thi hành án, trong đó có Tổng cục Thi hành án trực
thuộc Bộ Tư pháp.

13


- Sách “Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ”, Đào Trí Úc (chủ biên), Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2007. Công trình
nghiên cứu lý luận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, qua đó thấy rằng nó được
xuất hiện trong tư tưởng các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, nhưng vì nhiều lý do, tư tưởng này chưa được phát triển, do đó
thực tế mới chỉ có sự hiện diện Nhà nước pháp quyền tư sản, còn Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa thì mới đang từng bước được định hình trong thực tế, công
trình nghiên cứu mô hình lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam phục vụ cho việc thực hiện cải cách về lập pháp, hành pháp, tư pháp đang được
xúc tiến mạnh tại Việt Nam. Đối với các cơ quan tư pháp, công trình này đánh giá
thực trạng tổ chức và hoạt động của các cơ quan này; đưa ra các nguyên tắc thiết kế
mô hình tổng thể tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; đề xuất mô hình tổng thể tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tư pháp trong giai đoạn hiện nay. Các tác giả cũng nhận định, thi hành án có ý
nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ hoạt động tư pháp và tác giả đã đưa ra 5 giải
pháp để đổi mới toàn diện tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án và nâng cao
hiệu quả hoạt động thi hành án.
- Sách” “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước
pháp quyền”, Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí (đồng chủ biên), Nxb Đại học quốc gia,
Hà Nội, 2004. Cuốn sách tổng hợp các bài viết của nhiều tác giả về những nội dung:

(1) làm rõ những vấn đề chung về cải cách tư pháp ở Việt Nam, vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của hệ thống các cơ quan tư pháp, (2) các vấn đề cải cách tư pháp
trong lĩnh vực tư pháp hình sự như tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội, thủ tục rút
gọn, (3) những vấn đề về cải cách tư pháp trong lĩnh vực tư pháp dân sự.
- Sách: “Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay”, Lê Minh Thông, Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011. Công trình đề cập đến những yêu cầu đổi
mới bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quá trình đổi mới mô
hình bộ máy nhà nước trong lịch sử lập hiến Việt Nam, thực trạng mô hình bộ máy

14


nhà nước Cộng hoã xã hội chủ nghĩa Việt nam từ năm 1992 đến nay, phương hướng
đổi mới mô hình tổ chức bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Tác giả nhận định,
hiện nay vẫn còn sự thiếu thống nhất trong lý luận về quyền tư pháp và các cơ quan
tư pháp trong khoa học pháp lý nước ta nên khái niệm các cơ quan tư pháp có lúc
được dùng để chỉ hệ thống toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, có lúc lại dùng
để chỉ tất cả những cơ quan liên quan đến “bảo vệ pháp luật: từ toà án nhân dân,
viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra đến các cơ quan liên quan bổ trợ tư pháp
như luật sư, công chứng, thi hành án... việc này đã tạo ra sự lẫn lộn trong hoạt động
bảo vệ pháp luật và thực thi pháp luật giữa toà án, viện kiểm sát với các cơ quan
khác vốn bản chất thuộc về hoạt động hành pháp.
- Luận án tiến sĩ luật học: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam”, Trần Huy Liệu, Hà Nội,
2003. Công trình đã làm rõ cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp. Nghiên cứu, phân tích vị trí, vai trò, đặc điểm của các cơ quan toà án, kiểm sát,
cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án… trong bộ máy nhà nước; quá trình hình thành
và phát triển. Tác giả đã phân tích, đánh giá đầy đủ, toàn diện thực trạng tổ chức và
hoạt động, những ưu điểm, tồn tại trong suốt hơn 60 năm xây dựng và trưởng thành

của hệ thống các cơ quan tư pháp. Trong đánh giá thực trạng hệ thống các cơ quan tư
pháp như Toà án, Viện Kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án…, tác giả tập
trung đánh giá thực trạng về tổ chức và thẩm quyền, về đội ngũ cán bộ, về chức năng
nhiệm vụ và đề xuất một số giải pháp quan trọng nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam.
- Luận văn Thạc sỹ luật học: Thi hành án dân sự Việt Nam: Thực trạng, vấn
đề và những gợi ý hướng tới một hệ thống hoàn thiện (Civil Execution in Vietnam:
Reality, Problems and Suggestions Towrds a WellFunctioning System), Lê Thị Kim
Dung. Đề tài đánh giá thực trạng thi hành án dân sự Việt Nam những năm 2000,
luận giải một số vấn đề lý luận và gợi mở về việc hoàn thiện hệ thống cơ quan thi
hành án dân sự Việt Nam.

15


- Luận văn Thạc sĩ luật học“Các biện pháp cưỡng chế THADS”, Nguyễn
Công Long, công trình nghiên cứu các biện pháp cướng chế trong thi hành án dân
sự tại Việt Nam, và đề xuất một số biện pháp hoàn thiện quy định pháp luật về
cưỡng chế trhi hành án dân sự.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Đổi mới thủ tục THADS Việt Nam”,Lê Anh
Tuấn, 2004. Công trình nghiên cứu về thủ tục thi hành án dân sự và trên cơ sở đánh
giá thực tiễn áp dụng thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam giai đoạn thực hiện
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, đề xuất một số kiến nghị đề xuất đổi mới
thủ tục thi hành án dân sự tại Việt Nam, góp phần hoàn thiện thể chế về thi hành án
dân sự.
- Luận văn Thạc sĩ luật học:“Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn
đọng trong THADS ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Đức Nghĩa, 2005. Công trình
đánh giá thực trạng án tồn đọng trong thi hành án dân sự và để xuất một số biện pháp
làm giảm án tồn đọng.
- “Vấn đề đổi mới thủ tục THADS ở nước ta hiện nay” bài viết của tác giả

Nguyễn Thanh Thủy, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số chuyên đề về THADS, năm
2006), công trình đánh giá về thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật
THADS, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số vấn đề về thủ tục THADS giai đoạn trước
khi có Pháp lệnh THADS năm 2004.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NGOÀI NƯỚC

1.2.1 Công trình nghiên cứu về thi hành án
- “Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc lựa chọn mô hình tổ chức thi
hành án phù hợp với mỗi quốc gia”, Claude Brenner, Giáo sư trường Đại học
Panthéon- Assas Cộng hoà Pháp, Hội thảo Quốc tế các mô hình tổ chức thi hành án
trên thế giới, Hà Nội, ngày 17 và 18 tháng 4 năm 2006, Kỷ yếu Hội thảo của Nhà
pháp luật Việt - Pháp. Tác giả phân tích và đặt vấn đề phải xác định những yêu cầu
mà một mô hình tổ chức thi hành án hiện đại cần đáp ứng đầy đủ; tác giả cũng cho
rằng, do thi hành án không phải là một lĩnh vực độc lập nên không thể được tổ chức
theo một mô hình thống nhất trên toàn cầu, và do quy định pháp luật về thi hành án

16


phụ thuộc chặt chẽ vào những quy định pháp luật mà nó bảo đảm thực hiện, cho nên
không thể có một mô hình tổ chức thi hành án hợp lý mà không có sự phối hợp chặt
chẽ với luật nội dung và luật tố tụng có liên quan.
1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về pháp luật thi hành án
- Kinh nghiệm so sánh về quản lý thống nhất công tác thi hành án, Darren
Christopher Tierrey, Quốc vụ khanh, Bộ Tư pháp Anh. Nội dung công trình giới thiệu
lịch sử Cục trại giam và Cục quản lý tội phạm quốc gia, khái quát chính sách hình
phạt của hệ thống tư pháp Anh và xưa Wales; cơ sở chuyển việc quản lý nhà tù cho
Bộ Tư pháp. Việc thành lập Bộ Tư pháp ở Anh nhằm hai mục đích, một là đảm bảo
cho Bộ Nội vụ tập trung vào hoạt động cảnh sát, nhập cư giảm tội phạm và chống
khủng bố, hai là việc thành lập Bộ Tư pháp để thực hiện chức năng quản lý các nhà

tù, án treo, luật hình sự và chính sách hình sự, hệ thống tư pháp hình sự, tư pháp dân
sự và gia đình, tiếp cận các vấn đề tư pháp, các vấn đề hiến pháp, quyền con người và
quyền thông tin.
- “Thi hành án dân sự ở Cộng hòa Pháp - Nguyên tắc chung nhìn từ góc độ
lý luận”, Claude Brenner, Giáo sư trường Đại học Panthéon Assas Cộng hòa Pháp,
Hội thảo Quốc tế các mô hình tổ chức thi hành án trên thế giới, Hà Nội, ngày 17 và
18 tháng 4 năm 2006, Kỷ yếu Hội thảo của Nhà pháp luật Việt – Pháp. Tác giả đề
cập đến đặc trưng cơ bản của pháp luật về thi hành án dân sự, thứ nhất, đây là những
quy định chủ yếu mang tính chất "trật tự công". Điều này được thể hiện thông qua
bản chất của cưỡng chế thi hành. Khác với tự nguyện thi hành, cưỡng chế thi hành
được thực hiện trên cơ chế quyền lực và cưỡng chế. Trong một Nhà nước pháp
quyền, cơ quan quyền lực nhà nước là cơ quan duy nhất có thẩm quyền cưỡng chế thi
hành án. Các cá nhân không thể thao túng hoạt động này, vì đây là hoạt động dựa trên
cơ sở quyền lực; thứ hai, đảm bảo sự cân bằng giữa các lợi ích khác nhau là nhiệm vụ
thường xuyên của pháp luật về thi hành án dân sự. Các nhà lập pháp phải đảm bảo sự
cân bằng giữa các lợi ích trong hoạt động cưỡng chế thi hành, làm sao để các quy
định pháp luật không bao che cho các trường hợp bất công, lạm dụng và cũng không
dẫn đến các kết quả kinh tế, xã hội bất hợp lý.

17


- “Báo cáo và các đề xuất của STAR Việt Nam về dự thảo Bộ luật Thi hành
án của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, James F. Harrigan - Chuyên
gia tư vấn pháp lý cho Cơ quan Thi hành án San Francisco, California, Hoa Kỳ,
tháng 3/2005, công trình phân tích việc trao quyền cho ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực
hiện quản lý nhà nước về thi hành án ở địa phương là đã trao quá nhiều quyền hạn
cho một cơ quan thuộc chính phủ nhưng không phải là cơ quan thi hành án chuyên
nghiệp hay một cơ quan tư pháp, khác hẳn với các quy định trong luật của Đức,
Singapore, Nhật Bản, Đan Mạch, Canada, Thụy Điển, Anh, Ai-len và Hoa Kỳ. Theo

thông lệ quốc tế tốt nhất, nên xác định một cơ quan hành pháp độc lập chịu trách
nhiệm thi hành án trên toàn quốc. Đa số các quốc gia đều giao nhiệm vụ này cho cơ
quan thi hành án là cơ quan được trao quyền hạn như một cơ quan cảnh sát và các
quyền khác cần thiết để thi hành án. Các quốc gia với hệ thống tòa án phát triển mạnh
cũng giao rất nhiều chức năng thi hành án cho tòa án, đồng thời bảo đảm rằng tòa án
luôn được hỗ trợ bởi một cơ quan thi hành án có trách nhiệm, thẩm quyền và nghĩa
vụ tuân theo và thi hành mọi bản án, lệnh của tòa án khi các bản án, lệnh này được
xuất trình bởi tòa án hoặc bên được thi hành án. Sẽ rất có ích nếu, trong khuôn khổ dự
thảo mới của Luật thi hành án dân sự, vấn đề làm thế nào để các cơ quan có thể hỗ trợ
việc thi hành án được thảo luận sâu hơn. Ví dụ như Viện kiểm sát có thể hỗ trợ bằng
cách khởi tố ngay lập tức những người cản trở hoặc không thực thi các bản án và lệnh
của tòa án. Việt Nam đang ở thời kỳ đầu phát triển nên có những thiếu hụt về nguồn
nhân lực, thiếu đào tạo tư pháp, đăng ký tài sản không đầy đủ, chưa được đào tạo về
thi hành án, và có cơ chế giám đốc thẩm cho phép án dân sự tuy đã là “chung thẩm”
nhưng vẫn có thể bị xem xét lại với thời hạn là 3 năm. Luật Thi hành án dân sự không
nên tạo ra thêm bất kỳ khả năng nào làm cho các quy định trở nên khó hiểu hoặc tạo
cơ hội để trì hoãn thông qua việc cho phép các cơ quan khác, ngoài cơ quan thi hành
án, tòa án, và bên được thi hành án được tham gia và giám sát hoạt động thi hành án,
ngoại trừ nhằm mục đích hỗ trợ cho việc thi hành án được hoàn tất. Cơ quan thi hành
án nên có vai trò chủ đạo trong hoạt động này và không bị vướng vào bất kỳ trở ngại
nào phát sinh do có sự liên quan của các cơ quan, tổ chức khác, khi thực hiện nhiệm

18


vụ thi hành án. Cơ quan thi hành án sẽ chỉ chịu trách nhiệm và có nghĩa vụ trước tòa
án, bên được thi hành án và pháp luật.
1.2.3. Nhóm công trình nghiên cứu về mô hình tổ chức và hoạt động thi
hành án
- Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp 5 nước chọn lọc:

Trung Quốc, Inđônêxia, Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga (Research studies on the
organisation and functioning of the justice system in five selected countries: China,
Indonesia, Japan, Republic of Korea and Russian Federation - UNDP 2011). Công
trình nghiên cứu kinh nghiệm trong việc xây dựng và phát triển hệ thống tư pháp
của 5 quốc gia; quá trình hình thành tổ chức bộ máy, cơ chế phối hợp, kết quả hoạt
động của các cơ quan điều tra, công tố, tòa án, thi hành án. Đối với mỗi loại cơ
quan, các tác giả đã phân tích kỹ về cơ cấu tổ chức, về chức năng nhiệm vụ, về quan
hệ phối hợp, cơ chế vận hành, đội ngũ cán bộ...Công trình cho thấy một bức tranh
tổng thể hoạt động tư pháp của 5 quốc gia nêu trên.
- Kinh nghiệm quốc tế về cải cách hệ thống quản lý phạm nhân hình sự. GS. Rob
Allen- Trung tâm quốc tế về nghiên cứu nhà tù, Trường King’s College. Phần một, công
trình này giới thiệu tổng quan về trách nhiệm quản lý hệ thống nhà tù và tư pháp hình sự ở
các nước trên thế giới (Phụ lục của công trình gồm 219 nước), tác giả nhận định, trên thế
giới, Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý nhà tù và hệ thống tư pháp hình sự nói chung ở
mỗi nước là khác nhau. Trong bộ máy chính quyền, phần lớn các nhà tù và cơ sở giam giữ
thuộc quyền quản lý của Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ hoặc Bộ Công an. Nhiều nước còn có cả
các cơ sở giam giữ thuộc quyền quản lya của quân đội (xử lý vi phạm kỷ luật quân sự), Bộ
Y tế (giam giữ các phạm nhân có bệnh) và các cơ sở giáo dục, phúc lợi xã hội (xử lý các
vụ vi phạm nhỏ). Phần hai, công trình nghiên cứu và giới thiệu một số trường hợp nghiên
cứu điển hình trong lĩnh vực thi hành án của Nga, Thái lan, Trung Quốc, Anh và một số
nước khác. Công trình cũng phân tích về các biện pháp đã được áp dụng nhằm thực hiện
việc chuyển giao. Tác giả kết luận: Kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc chuyển giao trách
nhiệm quản lý nhà tù sang Bộ Tư pháp có thể mang lại những lợi ích đáng kể. Bộ Tư pháp
dường như là mảnh đất màu mỡ hơn cho cải cách so với Bộ Công an hay Bộ Nội vụ. Các

19


trường hợp nghiên cứu điển hình cho thấy rằng Bộ Tư pháp ở những nước được nghiên
cứu có khả năng triển khai thực hiện chương trình cải cách chính sách về lĩnh vực tố tụng

hình sự, đưa ra các hình phạt thay thế cho tù giam cải thiện điều kiện trong các nhà tù.
- Hệ thống quản lý thi hành án dân sự và hình sự ở Trung Quốc. GS.TS
Zhou Yong- Viện phòng ngừa tội phạm, Bộ Tư pháp CHND Trung Hoa. Công trình
phân tích hệ thống thi hành án hình sự, thi hành án dân sự tại Trung Quốc và phân
tích việc chuyển giao chức năng quản lý nhà tù từ Bộ Công an sang Bộ Tư pháp
năm 1983, việc chuyển giao được thực hiện triệt để và không có ngoại lệ. Cán bộ,
tài sản và cơ sở vật chất của các nhà tù phải được chuyển giao toàn bộ. Công trình
cũng phân tích lý do, nhu cầu chuyển giao, nguyên tắc chuyển giao và những đá nh
giá sau khi chuyển giao và khẳng định Trung Quốc cần tiếp tục cải cách và phát
triển, đồng thời, tác giả cũng cho biết ngày càng có nhiều chuyên gia tin tưởng việc
cải cách này là thích hợp nhằm hướng tới một mô hình phân biệt các chức năng
quản lý điều tra, xét xử và thi hành án để toàn bộ hệ thống hoạt động hiệu quả hơn,
thực hiện tốt chức năng riêng biệt cũng như chức năng phối hợp và giám sát lẫn
nhau.
- Về chuyển giao hệ thống thi hành án phạt tù từ Bộ Nội vụ sang cho Bộ Tư
pháp Liên bang Nga quản lý. V.I Celiverstov – Viện trưởng Viện nghiên cứu khoa
học của cơ quan thi hành án Liên bang Nga. Công trình đề cập việc chuyển đổi hệ
thống hình phạt tù từ Bộ Nội vụ sang Bộ Tư pháp, trình tự, thủ tục chuyển đổi. Tác
giả cũng phân tích, về bản chất, công cuộc cải cách hệ thống thi hành án hình sự là
một quá trình lâu dài và trải qua nhiều giai đoạn và phải tiến hành hàng loạt các
biện pháp nhằm đảm bảo sự ổn định của hệ thống thi hành án hình sự và sự thiết lập
nền tảng vững chắc về cơ sở pháp lý và cơ sở vật chất để đảm bảo hoàn thành trọn
vẹn tất cả các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đã được giao cho hệ thống này.
- “Thực tiễn thi hành các quyết định dân sự trong bản án hình sự”, Alain
Guillou, Công tố viên cao cấp, Toà phúc thẩm Rouen, Cộng hoà Pháp, Hội thảo Quốc
tế các mô hình tổ chức thi hành án trên thế giới, Hà Nội, tháng 4 năm 2006, Kỷ yếu
Hội thảo của Nhà pháp luật Việt - Pháp. Tác giả phân tích, nếu việc bồi thường chỉ

20



×