Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.52 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ PHÒNG NỘI VỤ HUYỆN BÌNH GIA –
TỈNH LẠNG SƠN VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CÔNG CHỨC.....................................................................................................2
1.1. Khái quát về phòng Nội vụ huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn...................2
1.1.1. Chức năng của Phòng Nội vụ huyện Bình Gia – Lạng Sơn.................2
1.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của phòng Nội vụ huyện Bình Gia – Lạng Sơn....2
1.2. Vị trí, vai trò của cấp cơ sở......................................................................3
1.2.1 Quan niệm về cấp cơ sở.........................................................................3
1.2.2. Vị trí, vai trò của chính quyền cấp cơ sở..............................................4
1.3. đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở.......................................................4
1.3.1.Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở........................4
Chương 2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP
CƠ SỞ HUYỆN BÌNH GIA, TỈNH LẠNG SƠN.............................................6
2.1. Khái quát chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội huyện bình gia,
tỉnh lạng sơn...................................................................................................6
2.2 Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện bình gia........7
2.2.1. Thực trạng trình độ cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Bình Gia.......7
2.3. Đánh giá về cung cấp dịch vụ cho công dân trên địa bàn cấp xã............8
2.3.1. Những hoạt động được đánh giá là thực hiện tốt.................................9
2.3.2. Phương pháp và kỹ năng giải quyết công việc...................................11
2.4. Nguyên nhân của những hạn chế về chất lượng của đội ngũ cán bộ,
công chức cấp cơ sở huyện bình gia.............................................................14
2.4.1 Nguyên nhân khách quan....................................................................14
2.4.2 Nguyên nhân chủ quan........................................................................17
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP CƠ SỞ HUYỆN BÌNH GIA......18



3.1. Một số kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp
cơ sở huyện bình gia.....................................................................................18
3.1.1. Tiếp tục hoàn thiện quy định tiêu chuẩn chức danh đối với cán bộ,
công chức cấp cơ sở.....................................................................................18
3.1.2. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, chủ động tạo nguồn cán bộ,
công chức......................................................................................................21
3.1.3. Thực hiện tổ chức công tác thi tuyển công chức cấp xã.....................24
3.1.4. Tăng cường công tác đánh giá và kiểm soát đội ngũ cán bộ, công chức
câp cơ sở.......................................................................................................25
KẾT LUẬN........................................................................................................27
Danh mục tài liệu tham khảo...........................................................................28


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
UBMTTQ
UBND
HĐND
CBCC
THPT
THCS

:
:
:
:
:
:

Ủy ban mặt trận tổ quốc
Ủy ban nhân dân

Hội đồng nhân dân
Cán bộ công chức
Trung học phổ thông
Trung học cơ sở


PHẦN MỞ ĐẦU
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của nền hành chính Việt
Nam, chính quyền cấp cơ sở luôn giữ một vị trí, vai trò rất quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến sự thành công hay thất bại của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Chính quyền cơ sở là nền tảng của toàn bộ hệ thống chính
quyền, là cấp gần dân nhất, trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của hoạt
động quản lý nhà nước trên tất cả các mặt ở địa phương, đảm bảo cho chủ
trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc
sống.
Tuy nhiên, chính quyền cơ sở không thể hoàn thành nhiệm vụ của mình
một cách có hiệu lực và hiệu quả nếu thiếu một đội ngũ cán bộ, công chức cấp
cơ sở có đủ trình độ để đảm nhận công việc được giao. Cũng như nhân tố con
người trong mọi tổ chức khác, một đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở chính là
hạt nhân, là nhân tố quyết định đến chất lượng hoạt động của chính quyền cơ sở
nói riêng cũng như toàn bộ hệ thống chính trị nói chung. Chính vì vậy, việc nâng
cao chất lượng đội ngũ ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở để nâng cao chất lượng
hoạt động của chính quyền cấp cơ sở là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước
quan tâm.
Với những lý do trên, em đã chọn đề tài "Thực trạng chất lượng cán
bộ, công chức cấp cơ sở huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn"

1



Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ PHÒNG NỘI VỤ HUYỆN BÌNH GIA –
TỈNH LẠNG SƠN VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CÔNG CHỨC
1.1. Khái quát về phòng Nội vụ huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn.
1.1.1. Chức năng của Phòng Nội vụ huyện Bình Gia – Lạng Sơn
Phòng Nội vụ là cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, thành phố, thị
xã thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là UBND huyện) là cơ quan tham mưu, giúp
UBND huyện thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: tổ chức; bộ máy; biên chế các cơ
quan hành chính, sự nghiệp nhà nước; cải cách hành chính; chính quyền địa
phương; địa giới hành chính; cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn, hội, tổ chức phi chính phủ; văn thư lưu trữ nhà
nước; tôn giáo; thi đua khen thưởng.
1.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của phòng Nội vụ huyện Bình Gia – Lạng
Sơn.
Phòng Nội vụ UBND huyện Bình Gia có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Trình UBND huyện ban hành các văn bản hướng dẫn về công tác nội
vụ trên địa bàn và tổ chức triền khai thức hiện theo quy định.
- Trình UBND huyện ban hành quyết định, chỉ thị; quy hoạch, kế hoạch
dài hạn 5 năm và hàng năm; chương trình biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được giao.
-

Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế

hoạch sau khi được phê duyệt, thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước được giao..
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết các khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi
phạm về công tác nội vụ theo thẩm quyền.

- Thực hiện công tác thống kê, thông tin, báo cáo Chủ tịch UBND huyện và
Giám đốc Sở Nội vụ về tình hình, kết quả triển khai công tác nội vụ trên địa bàn.
2


- Tổ chức triển khai, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; xây dựng hệ
thống thông tin, lưu trữ phục vụ công tác quản lý nhà nước về công tác nội vụ
trên địa bàn.
- Quản lý tổ chức, biên chế, thực hiện chế độ, chính sách, chế độ đãi ngộ,
khen thưởng, kỷ luật, đào tạo và bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với
cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Phòng Nội vụ theo quy
định của pháp luật và theo phân cấp của UBND huyện.
- Quản lý tài chính, tài sản của Phòng Nội vụ theo quy định của pháp luật
và theo phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp huyện.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của UBDN huyện.
1.2. Vị trí, vai trò của cấp cơ sở
1.2.1 Quan niệm về cấp cơ sở
Chính quyền địa phương được tổ chức thành 03 cấp:
- Chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh);
- Chính quyền cấp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là
cấp huyện);
- Chính quyền xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã).
Chính quyền cấp xã là chính quyền gần dân nhất, được gọi là chính quyền
cơ sở trong hệ thống chính quyền 4 cấp. Gọi chính quyền cấp xã là chính quyền
cấp cơ sở bởi những lý do sau:
Thứ nhất, cấp này thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành của một cấp
chính quyền:
- Được Nhà nước trao cho chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để thay mặt
cho Nhà nước quản lý công việc địa phương;
- Có cơ chế bầu cử cán bộ địa phương;

- Có tính tự quản nhất định;
- Chịu sự kiểm soát của chính quyền cấp trên.
Thứ hai, đây là cấp chính quyền thấp nhất, không có cấp chính quyền nào
thấp hơn chính quyền xã, phường, thị trấn. Đây là cấp gần dân nhất, sâu sát nhân
dân nhất so với các cấp chính quyền khác.
3


Thứ ba, cấp xã là nền móng của bộ máy nhà nước, là cái gốc của hệ
thống chính quyền 4 cấp.
Mặc dù là cấp thấp nhất nhưng chính quyền cơ sở có một vai trò rất quan
trọng trong hệ thống chính quyền 4 cấp và có vị trí quan trọng đặc biệt trong hệ
thống chính trị cơ sở nói riêng.
1.2.2. Vị trí, vai trò của chính quyền cấp cơ sở
Chính quyền cơ sở là cầu nối, là nơi giao lưu trực tiếp giữa Nhà nước và
nhân dân, đồng thời cấp cơ sở là nơi biểu hiện tập trung nhất, rõ nhất những ưu
việt hay hạn chế của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã dạy: "Cấp xã là
cấp gần dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được thì mọi việc
đều xong xuôi". Chính vì vậy, chất lượng hoạt động của chính quyền cấp cơ sở
ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
1.3. đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở
1.3.1.Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở
Do địa bàn hoạt động, tính chất công việc và nhiệm vụ được giao nên
người cán bộ, công chức cấp cơ sở phải thường xuyên tiếp xúc với nhân dân để
triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước cũng như trực tiếp lắng nghe, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân địa phương. Như vậy, cán bộ, công chức cấp cơ sở là mắt xích, là chất keo
gắn kết nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Đồng thời, để thực hiện tốt các công việc của mình, người cán bộ, công
chức cấp cơ sở phải gương mẫu thực hiện sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên; có

khả năng lĩnh hội và thẩm thấu chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước để tổ chức tuyên truyền, giải thích để nhân dân hiểu và thuyết phục
nhân dân làm theo hay thi hành một cách nghiêm túc. Về khía cạnh này, có thể
nói người cán bộ, công chức cấp cơ sở không chỉ là người quản lý địa bàn mà
còn phải đóng vai trò như là một tuyên truyền viên tích cực. Do đó chất lượng
hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở ảnh hưởng đến chất lượng,
hiệu lực và hiệu quả của chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước khi đi vào cuộc sống.
4


Mặt khác, do tính chất công việc và vị trí công tác nên người cán bộ, công
chức cấp cơ sở phải đảm nhận quản lý mọi mặt hoạt động, nhiều lĩnh vực như:
quản lý hành chính, lĩnh vực tài chính, đất đai, an ninh trật tự, tư pháp, văn hóaxã hội…. Vì thế, đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở không những quản lý tài
sản của quốc gia mà còn đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, là
“quan tòa” trong việc giải quyết các khiếu kiện của nhân dân và giải quyết các
tranh chấp trong thẩm quyền của mình.
Do đó để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp cơ
sở thì trước hết phải nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, công
chức chính quyền cấp cơ sở. Họ không những chỉ có cần nhiệt tình cách mạng,
có phẩm chất đạo đức tốt mà cần phải có tri thức, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, có năng lực công tác để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân
dân giao phó. Vì thế xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp cơ sở
vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, trong đó
nâng cao trình độ của đội ngũ này để họ có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt
động thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động
của chính quyền cấp cơ sở.

5



Chương 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP CƠ SỞ
HUYỆN BÌNH GIA, TỈNH LẠNG SƠN
2.1. Khái quát chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội huyện bình
gia, tỉnh lạng sơn
Bình Gia là một huyện vùng cao, cách thành phố Lạng Sơn 70 km về phía
Tây. Phía Bắc giáp huyện Tràng Định, phía Đông giáp huyện Văn Quan và Văn
Lãng, phía Nam giáp huyện Bắc Sơn, phía Tây giáp huyện Na Rì (tỉnh Bắc
Kạn). Diện tích tự nhiên là 109.352,73 ha, có 20 đơn vị hành chính gồm 19 xã
và 01 thị trấn với 194 thôn, khối phố, dân số 53.214 nhân khẩu (tính đến hết
tháng 12/2014). Hệ thống giao thông có Quốc lộ 1B và 279 chạy qua thuận tiện
cho việc giao lưu hàng hóa và phát triển kinh tế xã hội của huyện, là một trong
hai huyện có diện tích cây hồi lớn nhất của cả tỉnh Lạng Sơn. Bình Gia được giải
phóng thoát khỏi sự cai trị của thực dân Pháp ngày 19/4/1945. Giúp việc cho
UBND huyện gồm có 13 phòng chuyên môn, 07 đơn vị sự nghiệp trực thuộc, 62
trường THCS, Tiểu học, Mầm non và các tổ chức xã hội khác.
Với đặc điểm tự nhiên và xã hội như vậy, UBND huyện đã thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, đồng thời nâng cao chất lượng
trong việc sắp xếp cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ quan, cũng như nâng cao
hiệu quả làm việc của toàn bộ bộ máy trong đó đội ngũ cán bộ, công chức giữ
vai trò quan trọng đặc biệt là đối với công tác tổ chức cán bộ. Với hơn 90% lao
động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, trong điều kiện hội nhập hiện nay
sử dụng hợp hợp lý và phát huy có hiệu quả năng lực đội ngũ căn bộ, công chức
hiện có là yếu tố quan trọng hàng đầu để thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội
của huyện. Đó là công việc nhằm giải quyết, quản lý các hoạt động kinh tế xã
hội của huyện sao cho hợp lý và hiệu quả nhất, phát huy được những điểm
mạnh, lợi thế của huyện đồng thời khắc phục những hạn chế, khó khăn mà
huyện đang gặp phải.
Những năm trước đây, Bình Gia là một huyện nghèo, nền kinh tế kém

phát triển, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, cùng với đà
6


phát triển của toàn tỉnh Lạng Sơn nói riêng và của cả nước nói chung, những
năm qua, huyện Bình Gia đã có nhiều đổi mới, khởi sắc.
Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, HĐND huyện và sự chỉ đạo, điều hành
của chính quyền hai cấp, cùng sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng bộ và nhân
dân. Các hoạt động văn hóa- xã hội có nhiều chuyển biến tích cực; đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện; anh ninh chính trị
được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; quyền làm chủ của nhân
dân không ngừng được mở rộng và phát huy. Chính quyền hai cấp hoạt động
tích cực, năng động, có hiệu quả.
2.2 Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện bình gia
Toàn huyện Bình Gia có 388 cán bộ, công chức cấp xã, trong đó có 201
cán bộ và 187 công chức; trung bình mỗi xã, thị trấn có trên 19 cán bộ, công
chức và chưa đạt đủ số lượng quy định tại Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày
22 tháng 10 năm 2009 về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối
với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã.
2.2.1. Thực trạng trình độ cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Bình Gia
Về trình độ học vấn
Trình độ học vấn được chia thành ba mức là: Tiểu học, THCS và THPT.
Có 8/388 người có trình độ Tiểu học, chiếm 2,06%; có 134/388 người tốt nghiệp
THCS, chiếm 34,54% và có 246/388 người tốt nghiệp THPT, chiếm 63,4%.
Về trình độ lý luận chính trị
Trình độ lý luận chính trị gồm có năm mức là: chưa qua bồi dưỡng, sơ
cấp, trung cấp, cao cấp và cử nhân. Có 142/388 người chưa qua bồi dưỡng,
chiếm tỷ lệ 36,6%; có 51/388 người có trình độ sơ cấp, chiếm tỷ lệ 13,1%; có
195/388 người có trình độ trung cấp, chiếm tỷ lệ 50,3%; chưa có cán bộ, công

chức nào đạt trình độ cao cấp và cử nhân chính trị.
Về trình độ chuyên môn
Trình độ chuyên môn có bẩy mức là: chưa qua đào tạo, sơ cấp, trung cấp,
cao đẳng, đại học, thạc sỹ và tiến sỹ. Có 142/388 người chưa qua đào tạo, chiếm
7


tỷ lệ 36,6% (chủ yếu là cán bộ); có 39/388 người có trình độ sơ cấp, chiếm tỷ lệ
10,1%; có 169/388 người có trình độ trung cấp, chiếm tỷ lệ 43,6%; có 21/388
người có trình độ cao đẳng, chiếm tỷ lệ 5,41%; có 17/388 người có trình độ đại
học, chiếm tỷ lệ 4,38%; chưa có cán bộ, công chức nào có trình độ trên đại học.
Về trình độ quản lý nhà nước
Trình độ quản lý nhà nước được chia thành bốn mức là: chưa bồi dưỡng,
đã bồi dưỡng, chuyên viên và tương đương, chuyên viên chính và tương đương.
Có 155/388 người chưa qua bồi dưỡng, chiếm tỷ lệ 39,9%; có 233/388 người đã
qua bồi dưỡng, chiếm tỷ lệ 60,1% (chủ yếu là bồi dưỡng 15 ngày theo chương
trình của Sở Nội vụ tỉnh Lạng Sơn).
Trình độ tin học và ngoại ngữ
Có 118/388 người có trình độ tin học, chiếm tỷ lệ 30,4% tổng số cán bộ,
công chức cấp cơ sở của huyện và chỉ có 14/388 người có trình độ về ngoại ngữ,
chiếm tỷ lệ 3,6%. Đây là một hạn chế rất lớn về trình độ của đội ngũ cán bộ,
công chức cấp cơ sở huyện Bình Gia đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập và mở
cửa hiện nay.
Thứ hai, các kiến thức phục vụ trực tiếp cho công việc chuyên môn hay kỹ
năng quản lý nhà nước ở trình độ còn thấp đặc biệt là chưa qua bồi dưỡng quản lý
nhà nước chiếm 39,9%. Có 30,4% số cán bộ, công chức, đặc biệt là công chức
chuyên môn chưa có trình độ tin học phục vụ công tác chuyên môn. Với thực trạng
này, đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở của huyện gặp không ít khó khăn trong
hoạt động quản lý nhà nước ở cơ sở cũng như để tự học tập nâng cao trình độ;
Thứ tư, mức đạt được trong các trình độ chủ yếu là trung cấp: trung cấp lý

luận chính trị là 50,3%; trung cấp chuyên môn là 43,6%;
Tóm lại: với thực trạng như trên thì vấn đề nâng cao trình độ đội ngũ cán
bộ, công chức cấp cơ sở của huyện đang đặt ra khá cấp thiết
2.3. Đánh giá về cung cấp dịch vụ cho công dân trên địa bàn cấp xã
Cung cấp các loại dịch vụ công cho công dân trên địa bàn các xã thuộc
huyện Bình Gia chỉ tập trung vào các nhóm công việc theo yêu cầu của Quyết
định số 181/2003/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế thực hiện cơ chế "một
8


cửa" tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương được triển khai trên địa bàn
các xã, thị trấn từ ngày 01/01/2005, cụ thể ở các lĩnh vực:
- Xây dựng nhà ở;
- Đất đai;
- Hộ tịch;
- Chứng thực;
- Thực hiện cơ chế dân chủ cấp xã;
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo.
2.3.1. Những hoạt động được đánh giá là thực hiện tốt
Các báo cáo đều khẳng định việc thực hiện Quy chế dân chủ và cải cách hành
chính trong hoạt động của UBND đều được tiến hành thuận lợi, đạt kết quả tốt.
Những nội dung công khai để nhân dân biết được ở các xã, thị trấn triển
khai bằng các hình thức tổ chức hội nghị họp dân, phổ biến rộng rãi trên hệ
thống truyền thanh để nhân dân nắm được, đồng thời niêm yết công khai tại trụ
sở UBND và trung tâm khu dân cư. Kết quả gồm 1239 lượt thông báo cho nhân
dân biết, tổ chức 1120 hội nghị với 30.310 lượt người dự, phát thanh trên hệ
thống truyền thanh cơ sở như: chủ trương, chính sách, pháp luật (360 lượt); các
Nghị quyết HĐND, Quyết định, Chỉ thị của UBND (482 lượt); quy hoạch nông
thôn mới, kế hoạch sử dụng đất đai (108 lượt); đầu tư xây dựng cơ bản do xã
làm chủ đầu tư (92 lượt); kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội (61 lượt); những quy

định về mức thuế, phí, lệ phí, các nghĩa vụ khác (86 lượt); nhận xét, đánh giá, bổ
nhiệm cán bộ xã, kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do HĐND xã bầu
(50 lượt).
- Niêm yết công khai các thủ tục hành chính trước trụ sở, quy định chế độ
làm việc, lịch tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo...
- Thực hiện thông tin công khai cho dân biết về: ngày, giờ, địa điểm tiếp
xúc cử tri qua các kỳ họp HĐND xã.
- Công khai tài chính công trình phúc lợi như: điện, đường, trường học,
trạm y tế, cầu, đường bê tông ngõ xóm thông qua các cuộc họp dân.

9


Tổng kết thực tế các xã, thị trấn trong huyện về thực hiện cải cách hành
chính theo cơ chế "một cửa", thu được kết quả cụ thể như sau:
- Giảm phiền hà cho tổ chức, công dân khi có yêu cầu giải quyết công
việc tại cơ quan hành chính nhà nước;
- Đối với tỉnh Lạng Sơn, công chức chuyên môn phụ trách tại lĩnh vực
"một cửa" được hưởng chế độ theo Quyết định số 18/2009/QĐ-UBND ngày
19/9/2009 của UBND tỉnh Lạng Sơn về việc Quy định mức phụ cấp đối với cán
bộ, công chức làm việc tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa,
một cửa liên thông tại các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn. Điều này đã góp phần chống tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng của một
bộ phận cán bộ, công chức. Nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần, thái độ
phục vụ tổ chức, công dân của đội ngũ cán bộ, công chức;
- Nâng cao chất lượng công vụ, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước;
- Làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các
cấp trong giải quyết công việc, liên quan đến tổ chức, công dân;
- Đổi mới cơ bản phương thức hoạt động của bộ máy các cơ quan hành
chính nhà nước, trên cơ sở đó sắp xếp lại tổ chức theo hướng gọn nhẹ, hoạt động

có hiệu lực hiệu quả.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo:
- Qua điều tra các xã cho thấy công tác tiếp dân giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân đã có nhiều chuyển biến và ngày càng tiến bộ hơn. Ở nhiều xã,
cấp ủy và chính quyền có nhận thức đúng đắn về ý nghĩa và tầm quan trọng của
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, nên đã tập trung chỉ đạo đề ra nhiều chủ
trương, biện pháp để tổ chức thực hiện có hiệu quả hơn. Mối quan hệ giữa chính
quyền và nhân dân cởi mở, thẳng thắn hơn. Qua các kỳ họp HĐND và tiếp xúc
cử tri, việc đối thoại trực tiếp từ cơ sở đã góp phần làm rõ trách nhiệm của các
cấp đối với những mặt còn hạn chế, động viên và tạo lòng tin trong nhân dân,
phát huy quyền làm chủ, thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi của công dân tại địa
phương;
10


- Các tổ chức thanh tra ở nhiều xã đã phát huy tốt vai trò tham mưu, chủ
động phối hợp với các cơ quan hữu quan xem xét, kết luận kiến nghị, giải quyết
nhiều vụ việc khiếu kiện bức xúc như giải quyết tranh chấp đất đai, hướng dẫn
cơ sở giải quyết dứt điểm các vụ kiện, khiếu nại. Đối với những vụ việc phức
tạp, những điểm nóng của địa phương, cấp ủy Đảng, chính quyền đã chỉ đạo
chặt chẽ, lập đoàn thanh tra đến tận nơi xem xét, kết luận đúng sai, công bố công
khai, giải quyết có lý, có tình, xử lý nghiêm minh những người vi phạm. Với
những cố gắng, có nhiều xã có những số việc giải quyết dứt điểm nhiều hơn,
từng bước hạn chế được những vụ khiếu kiện vượt cấp;
- Công tác hòa giải, giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân có kết
quả tốt. Trên 87% số vụ việc đã được dân tự giải quyết trên cơ sở hương ước và
các quy ước;
- Việc thực hiện quy chế dân chủ đã thúc đẩy nhân dân tích cực tham gia,
hưởng ứng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, cuộc vận động
"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư"; phong trào "xây

dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa". Và 55% số hộ gia đình đạt tiêu
chuẩn "gia đình văn hóa";
- Các vấn đề về giải quyết chứng thực, hộ tịch, làm thủ tục giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đã được nhân dân rất hài lòng, giải quyết nhu cầu bức
xúc của người dân.
2.3.2. Phương pháp và kỹ năng giải quyết công việc
Về phương pháp giải quyết công việc
Đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND xã với chức trách lãnh đạo, chỉ
đạo tổ chức thược hiện chức năng, nhiệm vụ của HĐND xã. Để làm tốt điều đó,
Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND xã cần phải có phương pháp chủ tọa điều hành kỳ
họp, chủ trì trong việc tham gia xây dựng Nghị quyết của HĐND; phương pháp
tổ chức giám sát, kiểm tra thực hiện nghị quyết; phương pháp tiếp dân; phương
pháp điều hòa phối hợp hoạt động với đại biểu HĐND, với UBND và UBMTTQ
cùng cấp.
11


Qua khảo sát thực tế cho thấy Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND xã phần lớn
còn lúng túng, chưa có phương pháp điều hành kỳ họp đặc biệt là trong chủ trì
chất vấn và thảo luận thông qua nghị quyết của HĐND nên chưa phát huy dân
chủ. Trong hoạt động giám sát, chưa có phương pháp lựa chọn vấn đề giám sát,
chủ trì giám sát; chưa tổ chức thu thập thông tin liên quan nội dung giám sát
trước khi tiến hành giám sát nên chất lượng hoạt động giám sát không cao,
không tránh khỏi tính hình thức.
Đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND xã thực hiện chức trách lãnh đạo,
chỉ đạo điều hành hoạt động của UBND và hoạt động quản lý nhà nước đối với
các lĩnh vực kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng đã được phân cấp trên địa bàn
xã. Để thực hiện tốt chức trách, đòi hỏi Chủ tịch, Phó Chủ tịch xã phải có
phương pháp lãnh đạo trong hành chính như: phương pháp lãnh đạo, quản lý
theo tình huống; phương pháp lãnh đạo theo chức năng; phương pháp hệ thống;

phương pháp lãnh đạo tập trung vào thủ trưởng hoặc tập trung vào cấp dưới;
phương pháp lãnh đạo hướng về con người hay hướng về công việc; phương
pháp lãnh đạo theo hướng độc đoán hay lối dân chủ. Phương pháp lãnh đạo,
quản lý nào cũng đều hướng tới một số mục tiêu nhất định và đều được đề ra
trên cơ sở xem xét quan hệ với con người hay với công việc.
Thực tế cho thấy, một số cán bộ trẻ, năng động, có nghiệp vụ chuyên môn
nhưng thiếu linh hoạt, điều hòa phối hợp với Mặt trận và các đoàn thể chưa chặt
chẽ nên khi triển khai thực hiện nhiệm vụ chưa có tính thuyết phục. Một bộ phận
cán bộ có phong cách lãnh đạo thiếu dân chủ, thiếu minh bạch, quan liêu làm
giảm tính tích cực, sáng tạo của cán bộ, công chức dưới quyền, quần chúng nhân
dân mất lòng tin với chính quyền địa phương. Tính sáng tạo hầu như chưa có
trong đội ngũ cán bộ chức danh này do tâm lý ngại va chạm, điều hành công
việc chủ yếu vẫn là theo sự chỉ đạo, đôi khi là trông chờ ỷ lại vào cấp trên.
Đối với công chức cấp xã, đòi hỏi phương pháp thu thập và xử lý thông
tin; phương pháp quản lý, kiểm tra và lưu trữ hồ sơ; phương pháp tổng hợp, báo
cáo. Quan trọng vẫn là phương pháp giao tiếp, nó thể hiện tinh thần thái độ ứng
xử, thái độ phục vụ nhân dân. Hiện nay, đội ngũ công chức cấp xã trong huyện
12


đã từng bước củng cố, thực hiện tiêu chuẩn hóa nên một số cán bộ đã phát huy
tốt nhiệm vụ, có phương pháp làm việc khoa học, tham mưu giải quyết công
việc có chất lượng. Một số công chức cấp xã ứng dụng công nghệ thông tin vào
quản lý, như quản lý ngân sách xã, quản lý hộ tịch. Công tác tiếp nhận và giải
quyết công việc hành chính với tinh thần trách nhiệm cao, thái độ phục vụ đúng
mực đã được nhân dân tin yêu. Tuy nhiên, cũng còn một số công chức lúng
túng, chưa có phương pháp làm việc khoa học, kỹ năng hành chính yếu nên kết
quả hoàn thành nhiệm vụ chưa như mong muốn.
Phương pháp vận động quần chúng là một trong những phương pháp góp
phần quyết định thành công trong hoạt động quản lý nhà nước của chính quyền

cơ sở nhưng thực tế đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã còn lúng
túng. Tình trạng giao, khoán cho thôn, xóm vẫn còn phổ biến, trong khi thôn,
xóm không phải cấp chính quyền. Chúng ta đã và đang thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở, phát huy sức mạnh của nhân dân với phương châm "dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra". Công tác vận động quần chúng trong tình hình mới
đòi hỏi cán bộ, công chức am hiểu chính sách, pháp luật của nhà nước, có cái
tâm trong sáng, đi sâu sát nhân dân, biết lắng nghe và có khả năng truyền đạt
khéo léo mới giải quyết công việc thấu lý đạt tình.
Về kỹ năng
Sau khi sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã theo Nghị định số
92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 về chức danh, số lượng, một số chế
độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và sau bầu cử đại biểu Quốc hội khóa
XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011- 2016, cán bộ, công chức cấp xã
có nhiều thay đổi, số cán bộ mới và trẻ được bổ sung tương đối nhiều. Nhiều cán
bộ chủ chốt mới giữ chức vụ lần đầu còn lúng túng, thiếu kỹ năng lãnh đạo,
quản lý như điều hành cuộc họp, tổ chức tiếp dân, xử lý tình huống…. Do vậy,
đã gặp không ít khó khăn trong thực thi nhiệm vụ. Nhiều cán bộ, công chức
chưa được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ (chủ yếu là cán bộ và một số ít
công chức đào tạo trái nghề), kiến thức quản lý nhà nước còn hạn chế đã ảnh
13


hưởng không ít đến kỹ năng hoạt động. Do đó, kỹ năng thực thi hoạt động quản
lý nhà nước còn yếu nhất là kỹ năng lãnh đạo quản lý và kỹ năng hành chính.
2.4. Nguyên nhân của những hạn chế về chất lượng của đội ngũ cán
bộ, công chức cấp cơ sở huyện bình gia
Những hạn chế về trình độ được đề cập ở trên là rất cơ bản và cấp bách
đối với đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở hiện nay. Xét trên nhiều phương diện
thì những hạn chế này không chỉ mang yếu tố khách quan mà còn mang yếu tố

chủ quan.
2.4.1 Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở huyện Bình Gia được hình
thành từ nguồn chủ yếu là những người trưởng thành từ phong trào địa phương
và bộ đội xuất ngũ. Những người trưởng thành từ phong trào địa phương là
những cá nhân năng nổ, nhiệt tình và có nhiều đóng góp các hoạt động phong
trào của địa phương. Qua quá trình rèn luyện, phấn đấu họ trở thành những hạt
nhân chủ chốt của chính quyền cấp cơ sở. Đây là con đường chủ yếu hình thành
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Như vậy, có thể thấy những người này đều là
những cá nhân nổi trội từ phong trào địa phương, có nhiệt tình công tác, có
phẩm chất lãnh đạo... Tuy nhiên, họ lại không được đào tạo một cách bài bản
nên trình độ còn rất nhiều hạn chế;
Thứ hai, do độ tuổi của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở của huyện
Bình Gia khá cao. Theo thống kê có 351/388 cán bộ, công chức (chiếm 90,46%)
có độ tuổi từ 31 trở lên. Do đó trên 90 % tổng số cán bộ, công chức được sinh
trước năm 1983- là giai đoạn đất nước còn đang đối mặt với nhiều khó khăn,
giáo dục chưa phát triển... Vì vậy mà thâm niên công tác của cán bộ, công chức
cao. Độ tuổi và thâm niên công tác như vậy đã ảnh hưởng đến trình độ cũng như
chất lượng thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức;
Thứ ba, do điều kiện kinh tế- xã hội ở nông thôn còn rất nhiều khó khăn
mà các chế độ tiền lương, phu cấp đối với cán bộ, công chức cấp cơ sở không đủ
đảm bảo cuộc sống bản thân và gia đình họ. Người cán bộ, công chức cấp cơ sở
ngoài công việc của xã, của thôn còn phải chăm lo phát triển kinh tế gia đình.
14


Mặt khác, trước khi có chế độ tiền lương họ chỉ được hưởng mức dinh hoạt phí.
Mà mức phụ cấp này rất thấp, chỉ có tác dụng hỗ trợ chi phí trong sinh hoạt hàng
ngày dù mức sống ở nông thôn không cao. Vì vậy, vấn đề học tập để nâng cao
trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở gặp rất nhiều khó khăn.

Thứ tư, do chất lượng bầu cử HĐND cấp xã không cao. Phần lớn cán bộ,
công chức cấp cơ sở là người địa phương, được hình thành chủ yếu bằng con
đường bầu cử. Do tính cục bộ địa phương cùng với sự ảnh hưởng của các dòng
học lớn có địa vị, uy tín trong xã nên nhiều nơi những người có tài, có đức, có
trình độ cao hơn lại không được bầu mà người được bầu lại là những người
trong các dòng họ lớn, dòng họ có uy tín, hay là người làng. Điều này ảnh hưởng
trực tiếp đễn chất lượng, đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở toàn huyện;
Thứ năm, do cơ chế tuyển dụng công chức chuyên môn cấp xã trước đây để
lại, vì chưa có cơ chế tuyển dụng công chức cấp xã chính thức nên đội ngũ công
chức chuyên môn cấp cơ sở được hình thành từ nhiều con đường khác nhau:
- Do gián tiếp từ con đường bầu cử: một người được hiệp thương đưa ra ứng
cử để bầu vào HĐND, nhưng kết quả lại không trúng cử. Cán bộ chuyên trách khi
không được bầu lại được bố trí sang làm công chức. Chính vì vậy, đội ngũ công chức
cơ sở thường xuyên luân chuyển, không được chuyên nghiệp hóa.
- Do ảnh hưởng của cơ chế "xin- cho", "thân quen" nên một bộ phận công
chức chuyên môn cấp xã khi chưa được đào tạo đã được nhận vào làm, sau đó
được cử đi đào tạo, bồi dưỡng (chủ yếu theo hình thức ngắn hạn hay tại chức).
Chính điều này cũng ảnh hưởng đến trình độ chuyên môn nghiệp vụ và chưa đáp
ứng được nhu cầu công việc là tương đối phổ biến.
Thứ sáu, do chính sách đào tạo, bồi dưỡng chưa toàn diện, còn nhiều hạn
chế. Hiện nay, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp cơ sở của huyện
Bình Gia vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào cấp trên. Điều đó co nghĩa là khi cấp trên
có chỉ tiêu hoặc thông báo triệu tập các lớp đào tạo, bồi dưỡng thì huyện mới cử
cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng. Bản thân huyện Bình Gia chưa tổ chức các lớp đào
tạo, bồi dưỡng, mà chỉ tổ chức các lớp tập huấn (hoặc kết hợp cùng Sở Nội vụ)
để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở của huyện. Mặt
15


khác, huyện cũng không có kinh phí và chính sách hỗ trợ, động viên thêm cho

cán bộ, công chức, ngoài trợ cấp của tỉnh (theo Thông tư số 139/2010/TT-BTC
ngày 21/9/2010) của Bộ Tài chính khi đi đào tạo, bồi dưỡng. Chính vì vậy, trong
những năm trước đây, khi chưa có quy định tiêu chuẩn cụ thể về trình độ, đội
ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở của huyện chưa thực sự nhiệt tình, chưa có
động lực để đi đào tạo, bồi dưỡng kiến thức tại trường chính trị tỉnh;
Thứ bảy, do chính sách đãi ngộ, thu hút nhân tài cùng với điều kiện làm
việc tại công sở cấp xã chưa đủ sức hấp dẫn để thu hút lực lượng sinh viên các
trường cao đẳng, đại học về làm việc tại cấp cơ sở. Chính sách làm việc của tỉnh
Lạng Sơn hiện nay được quy định tại Quyết định số 23/2013/QĐ-UBND ngày
10/10/2013 về việc Ban hành Quy định về chế độ hỗ trợ, khuyến khích đối với
cán bộ, công chức, viên chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng; chính sách thu hút
người có trình độ chuyên môn cao về công tác tại tỉnh Lạng Sơn. Tuy nhiên, do
điều kiện và phương tiện làm việc của công sở cấp xã còn nghèo nàn, lạc hậu,
mức lương theo quy định còn thấp, do tâm lý của sinh viên không muốn về cơ
sở làm việc vì nhiều lý do nên hiện nay cán bộ, công chức cấp cơ sở có trình độ
đại học chính quy làm việc tại các xã trên địa bàn huyện Bình Gia là không có;
Thứ tám, do Nhà nước chưa có một cơ chế kiểm soát thực sự có hiệu lực
về vấn đề bắt buộc nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở.
Mặc dù đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã được xác lập là cán bộ, công chức
trong biên chế nhà nước kể từ khi Pháp lệnh Cán bộ, công chức sửa đổi, bổ sung
năm 2003 và những quy định về tiêu chuẩn cụ thể về trình độ cán bộ, công chức
cấp cơ sở được quy định

trong Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày

16/01/2004 của Bộ Nội vụ nhưng việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với
đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở (trong đó có vấn đề chuẩn hóa cán bộ, công
chức cấp cư sở) trong thực tế của các xã, thị trấn thuộc huyện Bình Gia chưa có
hiệu quả, gặp nhiều khó khăn, vướng mắc từ nhiều nguyên nhân khác nhau (do
cán bộ, công chức cấp cơ sở của huyện chưa thấy được hết ý nghĩa, tầm quan

trọng của việc nâng cao trình độ, năng lực cho bản thân; do việc rà soát, đánh
giá, tổng hợp và báo cáo về số lượng cán bộ công chức cấp cơ sở chưa đạt chuẩn
của các xã, thị trấn thuộc huyện còn chậm so với quy định và thiếu chính xác; do
16


chưa có cơ chế bắt buộc cán bộ, công chức cấp cơ sở phải đạt chuẩn và nâng cao
trình độ...
Ngoài ra, do Nhà nước quy định tiêu chuẩn về trình độ học vấn của nhóm
đối tượng trưởng các đoàn thể là tốt nghiệp THCS trở lên, đây là một mức chuẩn
thấp, trực tiếp ảnh hưởng đến trình độ, chất lượng chung của đội ngũ cán bộ,
công chức cấp cơ sở.
2.4.2 Nguyên nhân chủ quan
Ngoài các nguyên nhân khách quan không thuộc về bản thân người cán
bộ, công chức cấp cư sử nêu ở trên còn có nguyên nhân thuộc về chính bản thân
họ. Mà nguyên nhân này có ảnh hưởng quyết định và trực tiếp tới chất lượng của
đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở.
Phần lớn, đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Bình Gia, trưởng
thành từ cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp cũ công với những khó khăn trong
đời sống kinh tế đã hình thành trong đội ngũ này thói quen trông chờ, ỷ lại, dựa
dẫm vào cấp trên, sức ỳ lớn, kém năng động, sáng tạo và ảnh hưởng lớn tới nhu
cầu học tập nâng cao trình độ của họ.
Vấn đề nhận thức hay ý thức trách nhiệm của mỗi cán bộ, công chức cấp
cơ sở chưa cao. Việc này lại chủ yếu do cơ chế, do những điều kiện khách quan
như trên đã phân tích đem lại.
Trên đây là những nguyên nhân chủ quan hay khách quan, trực tiếp hay
gián tiếp ảnh hưởng đến trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện
Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. Đứng trước đòi hỏi của sự phát triển của đất nước
cũng như vấn đề xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước thì yêu cầu bức thiết
đặt ra là phải nâng cao chất lượng, hiệu quả của các ngành, các cấp trong đó có

chính quyền cấp cơ sở mà đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở là nòng cốt.
Muốn đạt được mục tiêu trên thì phải nâng cao trình độ để nâng cao chất lượng
và năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở. Và để đạt được
điều này không những cần có sự quan tâm của Nhà nước mà chính bản thân đội
ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở cũng phải nỗ lực rất nhiều để nâng cao trình
độ, đáp ứng tiêu chuẩn do Nhà nước quy định và hoàn thành tốt công việc được
Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
17


CHƯƠNG 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP CƠ SỞ HUYỆN BÌNH GIA
3.1. Một số kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng cán bộ, công
chức cấp cơ sở huyện bình gia
3.1.1. Tiếp tục hoàn thiện quy định tiêu chuẩn chức danh đối với cán bộ,
công chức cấp cơ sở
Tiêu chuẩn chức danh cán bộ là cơ sở quan trọng nhất để lựa chọn và bố
trí cán bộ, vì tiêu chuẩn chức danh thể hiện yêu cầu của công việc hoặc chức vụ
đối với con người đảm nhận công việc hoặc chức vụ đó. Nó còn là căn cứ để xây
dựng chương trình đào tạo phù hợp với từng tiêu chuẩn và xây dựng quy hoạch,
kế hoạch đào tạo cho cán bộ, công chức cấp cơ sở. Tiêu chuẩn chức danh là cơ
sở để từng cán bộ phấn đấu, tự rèn luyện, hoàn thiện bản thân và là căn cứ để
xem xét, đánh giá sự phấn đấu của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở trong
quá trình công tác. Mặt khác, tiêu chuẩn chức danh là căn cứ để xác định tiền
lương, phụ cấp và các chế độ phúc lợi xã hội khác.
Hiện nay, ở nước ta đã có văn bản pháp lý quy định tiêu chuẩn chức danh
đối với đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở là Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV
ngày 16 tháng 01 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành quy định
tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn (hiện chỉ áp

dụng đối với cán bộ cấp xã) và Thông tư số 06/2012/TT-BNV ngày 30 tháng 10
năm 2012 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ
và tuyển dụng công chức xã, phường, thị trấn. Có thể nói đây là một bước phát
triển lớn trong việc hoàn thiện công tác quản lý cán bộ, công chức cấp cơ sở.
Bên cạnh đó, sự ra đời của Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13
tháng 11 năm 2008 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 có ý nghĩa hết
sức to lớn đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã nói riêng và chính
quyền cấp xã nói chung với việc dành riêng một chương để quy định về cán bộ,
công chức cấp xã. Việc luật hóa cán bộ, công chức cấp xã có tác động rất lớn
18


đến hệ thống chính quyền cơ sở, tạo sự ổn định về mặt chính trị đối với cấp xã,
khắc phục tình trạng ”phình biên chế“ cơ sở cấp xã hiện nay. Đây là văn bản
pháp lý cao nhất từ trước đến nay quy định về cán bộ, công chức cấp xã, đồng
thời nó là cơ sở cho việc tiếp tục thực hiện những quy định về tiêu chuẩn chức
danh đối với cán bộ, công chức cấp cơ sở.
Các tiêu chuẩn chức danh được quy định cụ thể tại Quyết định số
04/2004/QĐ-BNV và Thông tư số 06/2012/TT-BNV có mối quan hệ mật thiết
với nhau, đồng thời các tiêu chuẩn đó cũng phải gắn chặt chẽ với việc bố trí sử
dụng cán bộ. Chỉ đưa ra tuyển chọn, bầu cử những cán bộ có đủ các tiêu chuẩn,
phẩm chất nói trên, kiên quyết không lựa chọn những cán bộ thiếu các tiêu
chuẩn đó vào các chức danh chủ chốt ở cơ sở. Có như vậy chúng ta mới lựa
chọn được cán bộ có trình độ, có năng lực tham gia vào bộ máy chính quyền cơ
sở. Và cũng chỉ như vậy chúng ta mới hi vọng xây dựng được chính quyền cơ sở
đủ mạnh và hoạt động có hiệu quả. Các tiêu chuẩn đó sẽ là định hướng để mỗi
cán bộ ở xã xác định mục tiêu học tập, phấn đấu và rèn luyện, khắc phục tình
trạng ngị học hoặc đi học tràn lan vì bằng cấp mà coi nhẹ phần tu dưỡng phẩm
chất đạo đức, lối sống phong cách làm việc của người cán bộ.

Bên cạnh những tiêu chuẩn cụ thể phản ánh những yêu cầu về trình độ của
cán bộ thì một vấn đề nữa cũng cần phải quan tâm đó là cán bộ phải xây dựng
cho mình một tác phong và phương pháp làm việc như thế nào đó để có thể vận
dụng một cách tốt nhất, hiệu quả nhất những kiến thức mà họ có được vào hoạt
động thực tế. Đây chính là một yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ nói chung,
nâng cao năng lực công tác cho cán bộ cơ sở nói riêng mà thực tế cho thấy rằng
nếu chỉ có trình độ không thôi mà không có tác phong và phương pháp làm việc
tốt thì hoặc là chất lượng công việc không cao hoặc là không được sự ủng hộ, tín
nhiệm của quần chúng nhân dân thì người cán bộ cũng không phát huy được thế
mạnh của mình.
Trước hết phải xây dựng tác phong làm việc với những yêu cầu cụ thể là:
- Phải suy nghĩ trước khi hành động, lời nói phải đi đôi với việc làm
19


Trước khi thực hiện chức trách nhiệm vụ của mình, người cán bộ cơ sở
cần phải có suy nghĩ độc lập để chủ động đưa ra các phương án giải quyết; phải
lĩnh hội được những quan điểm mới, kiên quyết gạt bỏ những quan điểm cũ
mang tính bảo thủ, lạc hậu, cản trở công việc.
+ Năm vững quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước, có cách nghĩ
và cách làm khoa học đề ra những giải pháp thiết thực, đúng đắn chống cách suy
nghĩ duy ý chí chủ quan tùy tiện.
+ Người cán bộ phải chủ động không dựa dẫm, dám làm và dám chịu
trách nhiệm. Không viển vông ảo tưởng nhưng không được giản đơn đại khái.
+ Chống lối làm việc bàn giấy, hội họp quá nhiều, nên tăng cường làm
việc trực tiếp với dân, xây dựng tác phong làm việc sâu sát với nhân dân, có như
vậy mới nắm được tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân, xây dựng tốt
mối quan hệ với dân, học hỏi kinh nghiệm của nhân dân để bồi đắp thêm kiến
thức thực tiễn cho mình.
- Phải kết hợp tính nguyên tắc với tính linh hoạt trong xử lý công việc

Trong xử lý công việc phải biết giữ vững nguyên tắc trong việc tận dụng
đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đồng thời có sự linh
hoạt phù hợp với thực tế ở địa phương. Thực hiện nghiê chỉnh chế độ báo cáo
thỉnh thị cấp trên và chịu trách nhiệm trước cấp trên về tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ được giao.
+ Lắng nghe và tôn trọng ý kiến của quần chúng nhân dân, chú ý phát
hiện những nhân tố mới, kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng, tiếp thu ý kiến
đúng đắn của quần chúng.
+ Không vội vàng kết luận đối với những vấn đề nảy sinh, những vấn đề
còn nhiều ý kiến khác nhau càng cần phải quan tâm sâu sát thực tế, cần tổng kết
thực tiễn, thảo luận dân chủ nhằm tìm ra cái đúng để phát huy, cái sai để khắc
phục ngăn ngừa. Ở những tình huống đặc biệt tùy theo hoàn cảnh cụ thể mà có
cách xử lý linh hoạt, mềm dẻo, có lý có tình.
- Đi sâu sát thực tế, dựa vào quần chúng
20


Cán bộ cơ sở phải dành thời gian hợp lý để tiếp xúc với quần chúng nhân
dân, có vậy mới giải quyết kịp thời những vướng mắc, những công việc cụ thể.
Phải biết cách thâm nhập vào quản lý, nghe nhiều hơn nói, công khai thời gian
làm việc và lịch tiếp dân. Thường xuyên tiến hành và nâng cao chất lượng công
tác kiểm tra, có kết luận rõ ràng và xử lý đúng đắn.
- Khiêm tốn cởi mở tiếp thu phê bình và tự phê bình
Khgi phê bình người khác cần khách quan không quy chụp, không vì mục
đích hẹp hòi cá nhân mà lợi dụng phê bình để làm hại người khác. Khi bị phê
bình cần bình tĩnh tiếp thu một cách sáng suốt, chỗ bị phê bình sai thì cần làm
rõ, chỗ bọ phê bình đúng thì cần nghiêm túc tiếp thu.
Ngoài ra, người cán bộ phải xây dựng cho mình một phương pháp hoạt
động phù hợp với các nội dung cơ bản là: Phải lập chương trình công tác nhằm
cụ thể hóa hoạt động của người cán bộ vừa phù hợp với chức trách của mình,

vừa phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa phương. Xây dựng được chương trình
công tác sẽ giúp cho cán bộ chủ động trong công việc, tránh thụ động, làm việc
thiếu khoa học dẫn đến hiệu quả công tác thấp không gây được uy tín trong nhân
dân. Phải sử dụng thời gian hợp lý và xây dựng được mối quan hệ tốt với cấp
trên, với các đoàn thể nhân dân ở cơ sở. Giải quyết tốt mối quan hệ sẽ giúp cho
cán bộ cơ sở tranh thủ được sự ủng hộ của mọi tổ chức, mọi tầng lớp nhân dân
trong địa phương khi thực hiện công việc chung.
3.1.2. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, chủ động tạo nguồn cán
bộ, công chức
Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo
đảm cho công tác cán bộ đi vào nề nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả
nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Để công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ, công
chức cấp cơ sở đảm bảo chất lượng cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải dựa vào yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chuyên
môn của chính quyền cơ sở để xác định nhu cầu cán bộ, công chức trong tương
lai cần bổ sung, thay thế (số lượng, cơ cấu, năng lực, trình độ chuyên môn, lý
luận chính trị, ngoại ngữ...);
21


Thứ hai, trên cơ sở rà soát, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức
để đánh giá mặt mạnh, mặt yếu, từ đó có định hướng cho quy hoạch, tạo nguồn;
Thứ ba, việc quy hoạch cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh, số
lượng cũng như chất lượng từng loại chức danh, hiện nay căn cứ theo Quyết
định số 04/2004/QĐ-BNV và Thông tư số 06/2012/TT-BNV;
Thứ tư, công tác quy hoạch phải đảm bảo kỹ lưỡng, dân chủ và công
khai, tránh tình trạng bè phái, mất đoàn kết.
Thứ năm, công tác quy hoạch phải gắn liền với công tác đào tạo, bồi
dưỡng và phải chính xác, kịp thời. Để làm được điều này cần phải xây dựng một
hệ thống cơ sở dữ liệu về cán bộ.

Thay thế cán bộ là quy hoạch khách quan, là nhu cầu tất yếu trong công
tác cán bộ. Vì vầy, để việc thay thế cán bộ diễn ra chủ động thì nhiệm vụ quan
trọng của công tác cán bộ là tạo nguốn cán bộ, công chức sau này. Công tác tạo
nguồn đi liền với công tác quy hoạch. Tạo nguồn cán bộ dồi dào, đủ tiêu chuẩn
để kịp thời đáp ứng yêu cầu; chú ý đội ngũ cán bộ trẻ theo hướng quy hoạch lâu
dài, tạo điều kiện cho họ được tham dự bồi dưỡng nâng cao hơn về mọi mặt.
Đặc biệt với thực trạng của huyện, đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở
Bình Gia chậm được trẻ hóa, tỷ lệ nữ thấp. Hiện nay, số cán bộ cơ sở có độ tuổi
dưới dưới 30 tuổi, chỉ chiếm 9,49%; độ tuổi 31- 40, chiếm 33,6%; độ tuổi 4150, chiếm 26,2% và từ 51 tuổi trở lên, chiếm 17,2% và. Trong khi đó độ tuổi
trên 45 chiếm 60%, trên 50 tuổi chiếm 30% và tỉ lệ cán bộ nữ chỉ chiếm 19,33%.
Nếu tính riêng đội ngũ cán bộ chủ chốt thì còn cao hơn nhiều.
Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã nêu mục tiêu
công tác phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở là: "tích cực trẻ hóa và
từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở". Để làm được điều
này chúng ta phải có thời gian và tiến hành bằng nhiều biện pháp. Trẻ hóa và tạo
nguồn cán bộ là hai biện pháp cần được tiến hành song song với nhau trong
công tác quy hoạch cán bộ. Do đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở có độ tuổi
khá cao nên công tác quy hoạch tạo nguồn cán bộ cấp cơ sở của huyện cần
hướng mạnh đến nhóm đối tượng trẻ. Để đáp ứng yêu cầu trẻ hóa đội ngũ cán
22


×