Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện yên dũng, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (904.16 KB, 113 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




HOÀNG NGUYÊN HÙNG









GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC CẤP XÃ TẠI HUYỆN YÊN DŨNG, TỈNH BẮC GIANG





CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60340102

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐỖ VĂN VIỆN




HÀ NỘI – 2015

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung của Luận văn này hoàn toàn được
hình thành và phát triển từ những quan điểm của chính cá nhân tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Đỗ Văn Viện. Các số liệu và kết quả có
được trong Luận văn tốt nghiệp là hoàn toàn trung thực.

Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả



Hoàng Nguyên Hùng

















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện Luận văn tôi đã nhận được nhiều sự
quan tâm, giúp đỡ, góp ý của nhiều tập thể và cá nhân trong và ngoài trường.
Lời đầu tiên, cho tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS. Đỗ Văn
Viện, người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ tôi về kiến thức cũng như
phương pháp nghiên cứu, chỉnh sửa trong quá trình thực hiện Luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, các Giáo sư,
Tiến sĩ giảng dạy tại Học viện Nông Nghiệp Việt Nam - những người đã trang bị
cho tôi những kiến thức quý báu để giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Có được kết quả nghiên cứu này tôi đã nhận được sự quan tâm tạo điều kiện
của các đồng chí lãnh đạo các ban, ngành trong huyện, xã và các đồng nghiệp, ban
bè nhiệt tình cộng tác, cung cấp số liệu thực tế và thông tin cần thiết để tôi hoàn
thành luận văn này. Tôi xin được ghi nhận và cảm ơn những sự giúp đỡ này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, những người
thường xuyên hỏi thăm, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Mặc dù bản thân cũng rất cố gắng trong quá trình nghiên cứu và thực hiện
Luận văn nhưng do thời gian và kinh nghiệm còn hạn chế nên không tránh khỏi
những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý của quý thầy, cô
giáo và tất cả bạn bè.

Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả




Hoàng Nguyên Hùng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT v
DANH MỤC BẢNG vi
1 MỞ ĐẦU 1
1.1 Tính cấp thiết của Đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 3
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ 5
2.1 Cơ sở lý luận 5
2.1.1 Khái niệm, đặc điểm của chính quyền cấp xã 5
2.1.2 Khái niệm, vị trí, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã 6
2.1.3 Chất lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã 12
2.1.4 Yêu cầu phải nâng cao chất lượng CBCC cấp xã 23
2.2 Cơ sở thực tiễn 27
2.2.1 Kinh nghiệm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp
xã ở một số nước trên thế giới 27
2.2.2 Kinh nghiệm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở một số

địa phương ở Việt Nam 32
2.2.3 Các công trình nghiên cứu liên quan 37
3 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 39
3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 39
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 39
3.1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện 41
3.2 Phương pháp nghiên cứu 46
3.2.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu và chọn mẫu nghiên cứu 46
3.2.2 Phương pháp thu thập số liệu 46
3.2.3 Phương pháp xử lý số liệu 47
3.2.4 Phương pháp phân tích 47

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv

3.2.5 Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu 49
4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 50
4.1 Thực trạng chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã của huyện Yên Dũng 50
4.1.1 Số lượng cán bộ, công chức cấp xã huyện Yên Dũng 50
4.1.2 Chất lượng cán bộ, công chức cấp xã của huyện 52
4.2 Đánh giá thực trạng chất lượng cán bộ công chức cấp xã, thị trấn của
huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang 55
4.2.1 Tự đánh giá của CBCC xã, thị trấn về chất lượng đội ngũ cán bộ 55
4.2.2 Đánh giá của người dân về chất lượng đội ngũ CBCC xã, thị trấn 59
4.2.3 Đánh giá của cán bộ lãnh đạo huyện về chất lượng đội ngũ cán bộ
công chức cấp xã, thị trấn 62
4.2.4 Khả năng hoàn thành nhiệm vụ 63
4.2.5 Đánh giá chung chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã huyện Yên Dũng
thời gian qua 64
4.3 Thực trạng công tác nâng cao chất lượng cán bộ công chức cấp xã ở

huyện 66
4.3.1 Thực trạng công tác quy hoạch cán bộ, công chức cấp xã 66
4.3.2 Thực trạng công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, công chức cấp xã 68
4.3.3 Thực trạng công tác tổ chức bố trí sử dụng cán bộ, công chức cấp xã 71
4.3.4 Thực trạng chế độ đãi ngộ cán bộ, công chức cấp xã 72
4.3.5 Thực trạng công tác nâng cao chất lượng cán bộ công chức của huyện
trong những năm gần đây 73
4.4 Quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ công
chức xã ở huyện Yên Dũng đến năm 2020 74
4.4.1 Quan điểm về nâng cao chất lượng cán bộ công chức cấp xã, thị trấn 74
4.4.2 Phương hướng xây dựng và nâng cao chất lượng cán bộ công chức
cấp xã 75
4.4.3 Giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp
xã, thị trấn của huyện giai đoạn 2015-2020 76
5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 92
5.1 Kết luận 92
5.2 Kiến nghị 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO 95

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT Tên viết tắt Tên đầy đủ
1 XHCN Xã Hội Chủ Nghĩa
2 NCKH Nghiên cứu khoa học
3 CNH – HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
4 NXB Nhà xuất bản
5 PGS.TS Phó giáo sư. Tiến sĩ

6 UBND Ủy ban nhân dân
7 CBCC Cán bộ, công chức
8 SL Số lượng
9 HĐND Hội Đồng Nhân Dân
10 UBND Ủy Ban Nhân Dân
11 CCHC Cải cách Hành chính
12 TH, MN Tiểu học, Mần non
13 THCS Trung học cơ sở
14 QLNN Quản lý Nhà nước
15 QHCB Quy hoạch cán bộ


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang

3.1 Tình hình nhân khẩu và lao động của huyện Yên Dũng năm 2012- 2014 42
3.2 Tình hình cơ sở hạ tầng nông thôn huyện Yên Dũng năm 2014 43
4.1 Số lượng Cán bộ công chức cấp xã của huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang 51
4.2 Phẩm chất đạo đức của đội ngũ CBCC cấp xã năm 2014 52
4.3 Trình độ lý luận chính trị của CBCC cấp xã năm 2012- 2014 53
4.4 Chất lượng CBCC cấp xã huyện Yên Dũng qua các năm 2012-2014 54
4.5 Phẩm chất chính trị của đội ngũ CBCC cấp xã năm 2014 56
4.6 Phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức cấp xã huyện Yên Dũng
năm 2014 57
4.7 Năng lực của đội ngũ CBCC cấp xã năm 2014 59
4.8 Đánh giá của người dân về khả năng làm việc của đội ngũ CBCC cấp

xã theo độ tuổi người dân năm 2014 60
4.9 Đánh giá của người dân về khả năng làm việc của đội ngũ CBCC cấp
xã huyện Yên Dũng theo trình độ của người dân 61
4.10 Đánh giá khả năng tổ chức, tập hợp, vận động quần chúng của
CBCC cấp xã theo độ tuổi người dân năm 2014 61
4.11 Đánh giá của người dân về khả năng tổ chức, tập hợp, vận động quần
chúng của CBCC cấp xã 62
4.12 Triển khai văn bản chỉ đạo của cơ quan Quản lý Nhà nước 63
4.13 Khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của CBCC cấp xã năm 2014 64
4.14 Số lượng các lớp đã qua đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ cấp xã từ
năm 2012-2014 70


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1

1. MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của Đề tài
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI (1986) nước ta đã có bước chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Bằng những cải cách mạnh mẽ về kinh tế, chúng ta đã vượt qua khủng
hoảng, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước vững bước đi lên
chủ nghĩa xã hội và hội nhập vào sự phát triển của khu vực và quốc tế. Cùng với sự
thay đổi ấy, hoạt động của hệ thống chính trị nói chung và công tác quản lý hành
chính nhà nước của các cấp chính quyền nói riêng đã có nhiều biến chuyển tích cực,
chức năng và hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính từ Chính phủ,
các Bộ, Ngành Trung ương đến uỷ ban nhân dân các cấp đã có nhiều thay đổi tiến
bộ, tập trung nhiều hơn vào quản lý nhà nước, đã từng bước đổi mới, thực hiện có

hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, bảo đảm an ninh trật
tự, an toàn xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống của mọi tầng lớp nhân dân.
Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bộ máy
hành chính cấp xã có vị trí hết sức quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Đây là cấp
hành chính có quan hệ trực tiếp, gắn bó mật thiết với người dân, là mắt xích, cầu nối
giữa Nhà nước với nhân dân. Để đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước đến với nhân dân, trở thành hành động của nhân dân, phải từng bước xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức cấp (CBCC) cấp xã về phẩm chất đạo đức, có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, hiểu biết về pháp luật, có năng lực lãnh đạo đáp ứng với
yêu cầu trong quá trình thực thi công vụ của chính quyền cơ sở xã, thị trấn ở giai
đoạn hiện nay. Vì vậy, đây là cấp chính quyền được nhà nước quan tâm kiện toàn,
đổi mới, nâng cao năng lực để ngày một năng động, hoạt động với hiệu lực cao hơn.
Yên Dũng là huyện thuần nông nằm phía Đông - Nam tỉnh Bắc Giang, Trung
tâm huyện cách trung tâm Thành phố Bắc Giang 15 km. Tổng diện tích tự nhiên của
huyện là 190,42 km
2
. Toàn huyện có 19 xã và 02 thị trấn. Dân số đến năm 2012 là
136,337 người. Ngoài tiềm năng phát triển nông nghiệp, thủy sản, với vị trí nằm liền

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2

kề với khu tam giác kinh tế phía Bắc và gần các trung tâm đô thị lớn như Hà Nội, Hải
Phòng, Hạ Long (Quảng Ninh), Thái Nguyên, thành phố Bắc Giang, Bắc Ninh; trên
tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng, huyện Yên
Dũng được xác định là một trong 04 huyện, thành phố trọng điểm của tỉnh Bắc Giang
trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020.
Cùng với sự nghiệp phát triển đất nước sau hơn 20 năm đổi mới, huyện Yên
Dũng đã phát huy được vai trò tiền phong là hạt nhân thúc đẩy sự phát triển kinh tế
xã hội của tỉnh Bắc Giang, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bộ mặt nông thôn ngày

càng đổi mới, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, trong quá trình
phát triển kinh tế- xã hội, chính quyền cấp xã trong huyện cũng còn tồn tại những mặt
yếu kém trong tổ chức và hoạt động gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của
huyện, thể hiện ở những vấn đề nổi cộm như: Trình độ, năng lực của cán bộ cấp xã
còn hạn chế; điều kiện làm việc của chính quyền xã còn thiếu thốn; cách thức tổ chức
và điều hành của chính quyền xã còn thiếu thống nhất, chưa hợp lý; một số cán bộ
hoạt động chưa tích cực, chưa sâu sát quần chúng; có nhiều vụ việc chưa được xử lý
dứt điểm hoặc xử lý chưa thoả đáng. Những hạn chế trong quản lý nhà nước của
chính quyền cấp xã ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang được thể hiện ở một số vấn
đề cụ thể như:
Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã còn hạn chế. Độ
tuổi trung bình của cán bộ, công chức xã vẫn khá cao, trình độ học vấn còn thấp, còn
thiếu nhiều cán bộ, công chức xã có trình độ chuyên môn và trình độ lý luận chính trị
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
hiện nay hầu hết là các cán bộ của địa phương, trưởng thành từ phong trào của địa
phương, từ bộ đội xuất ngũ, cán bộ hưu trí , nên không được đào tạo một cách chính
quy, nghiêm túc. Do vậy, hoạt động quản lý của đội ngũ này còn nhiều yếu kém, đặc
biệt về tri thức khoa học và thực tiễn, về tổ chức bộ máy, quản lý, điều hành công
việc nhà nước, chưa nắm được những quy tắc hành chính, phong cách làm việc khoa
học, còn thiếu chiều sâu trong lĩnh vực quản lý hành chính dẫn đến hiệu lực quản lý
của chính quyền xã còn nhiều hạn chế.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) các

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3

xã, thị trấn có chuyển biến, hiệu quả hơn nhất là trong công tác quản lý, điều hành, cụ
thể hóa các nghị quyết của Đại hội Đảng các cấp vào cuộc sống góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của huyện
Từ những thực trạng trên, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài là: "Giải pháp nâng

cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang".
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã của huyện
Yên Dũng, Bắc Giang trong thời gian qua, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang trong
thời gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
+ Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng CBCC và
nâng cao chất lượng CBCC cấp xã.
+ Đánh giá thực trạng chất lượng CBCC cấp xã huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc
Giang trong những năm vừa qua.
+ Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đối với CBCC cấp xã ở huyện Yên
Dũng, tỉnh Bắc Giang những năm tới.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Các nội dung liên quan để chất lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã;
các tiêu chí phản ánh chất lượng cán bộ, công chức cấp xã và giải pháp nâng cao
chất lượng cán bộ, công chức cấp xã đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và giai đoạn hội nhập hiện nay.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1 Phạm vi nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung chủ yếu sau đây:
- Điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng CBCC cấp xã trong việc
triển khai và tổ chức các hoạt động của đơn vị;
- Các tiêu chí phản ánh chất lượng của CBCC cấp xã;

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4


- Định hướng giải pháp nâng cao chất lượng CBCC cấp xã trong điều kiện và
tình hình mới.
1.3.2.2 Phạm vi không gian
Đề tài tiến hành nghiên cứu trong phạm vi 21 xã, thị trấn thuộc huyện Yên
Dũng, tỉnh Bắc Giang.
1.3.2.3 Phạm vi thời gian
Đề tài được tiến hành nghiên cứu từ tháng 04/ 2014 đến 04/2015 với các dữ
liệu, thông tin tập trung trong các năm 2012-2014


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5

2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ

2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm của chính quyền cấp xã
2.1.1.1. Khái niệm
* Theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân:
Chính quyền cấp xã (xã, phường, thị trấn) là một cấp cuối cùng trong hệ thống hành
chính 4 cấp. Ủy ban nhân dân, chính quyền cấp xã được xác định là cấp cơ sở, là
nền tảng của hệ thống chính trị, đóng vài trò thiết thực trong việc xây dựng chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; là yếu tố quyết
định sự thành công của sự nghiệp cách mạng. Chính quyền cấp xã bao gồm HĐND
và UBND, trong đó HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương và cơ quan nhà
nước cấp trên. UBND xã thì do HĐND bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp
và cơ quan nhà nước cấp trên.

Chính quyền cấp xã có vai trò quan trọng trong cơ chế thực hiện quyền lực
nhà nước của nhân dân, là cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; là nơi trực tiếp giải quyết các yêu cầu của nhân
dân; trực tiếp quyết định các vấn đề kinh tế - xã hội tại địa phương.
Chính quyền cấp xã còn là nơi nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân
địa phương, kịp thời phản ánh với cơ quan nhà nước cấp trên giúp Nhà nước đề ra
các biện pháp phù hợp với đặc điểm tình hình của mỗi địa phương.
Chính quyền cấp xã là trung tâm của hệ thống chính trị ở cơ sở; gắn trực
tiếp với cuộc sống nhân dân địa phương. Trong công cuộc hiện đại hóa, công
nghiệp hóa đất nước, chính quyền cấp xã đóng vai trò quan trọng và là cầu nối
trực tiếp với cuộc sống nhân dân, yếu tố quyết định đến sự thành công của sự
nghiệp đổi mới đất nước.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6

Tóm lại, chính quyền cấp xã là trung tâm của hệ thống chính trị cơ sở; là
một trong các cấp chính quyền của Nhà nước ta bao gồm HĐND và UBND; là
cơ quan quyết định và tổ chức thực hiện những chủ trương, biện pháp liên quan
đến phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và đời sống của nhân dân tại
địa phương thực hiện theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
2.1.1.2. Đặc điểm của chính quyền cấp xã
Chính quyền cấp xã có những đặc điểm sau:
Một là: Chính quyền cấp xã là cấp thấp nhất trong hệ thống chính quyền các
cấp của Nhà nước ta (Trung ương, tỉnh, huyện, xã); là cấp quản lý hành chính Nhà
nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh quốc phòng ở địa
bàn cơ sở.
Hai là: Chính quyền cấp xã là cấp trực tiếp tổ chức và thực hiện đường lối
chính trị, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong cuộc sống, là cầu nối

giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là cấp gần gữi nhân dân nhất, là nơi trực tiếp
đáp ứng và giải quyết các yêu cầu chính quyền của nhân dân.
Ba là: Chính quyền cấp xã khác với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện: Tổ chức
bộ máy chính quyền cấp xã chỉ bao gồm cơ quan quyền lực nhà nước là HĐND là cơ
quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân ở địa phương và UBND là cơ
quan chấp hành của HĐND và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, không có
các cơ quan tư pháp: Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân.
Tư là: Chính quyền cấp xã là nơi phát huy tính tự quản của cộng động dân
cư, là nơi trực tiếp vận động và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
2.1.2. Khái niệm, vị trí, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã
2.1.2.1. Khái niệm
* Căn cứ theo luật cán bộ, công chức năm 2008 (Luật số: 22/2008/QH12 ngày
13/11/2008) được nêu cụ thể như sau:
- Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7

thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước.
- Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân
đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi

chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công
lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật.
- Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính
trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
* Theo quy định của Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX
Hệ thống chính trị ở cơ sở có cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách:
+ Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao
động, làm việc công để thực hiện chức trách được giao bao gồm:
Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử: Là cán bộ chủ chốt của cấp ủy, Đảng,
HĐND, UBND, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Cán bộ chuyên môn được UBND tuyển chọn gồm: Công an, xã đội trưởng,
cán bộ văn phòng, địa chính, tài chính – kế toán, tư pháp, văn hóa – xã hội. Số
lượng cán bộ chuyên trách do Chính phủ quy định.
Cán bộ chuyên trách ở cơ sở có chế độ làm việc và được hưởng chính sách về
cơ bản như cán bộ, công chức Nhà nước; khi không còn là cán bộ chuyên trách mà

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8

chưa đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí được tiếp tục tự đóng bảo hiểm xã hội hoặc
hưởng chế độ trợ cấp một lần theo chế độ nghỉ việc. Cán bộ, công chức cơ sở có đủ
điều kiện được thi tuyển vào ngạch công chức ở cấp trên.
Cán bộ không chuyên trách là những người chỉ tham gia việc công trong một
phần thời gian lao động. Căn cứ hướng dẫn của Trung ương, UBND cấp tỉnh quy

định khung về số lượng và mức phụ cấp cho cán bộ không chuyên trách trong hệ
thống chính trị ở cấp cơ sở (kể cả trưởng thôn) [30, tr.178, 179].
* Căn cứ Luật của Quốc hội Nước Công hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam số
11/2003/QH11 ngày 26/11/2003 về Tổ chức HĐND và UBND quy định về tổ chức
và hoạt động của HĐND và UBND; Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 về
chức danh số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Thông tư
liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH ngày 27/5/2010 về Hướng dẫn
thực hiện Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 về chức danh số lượng, một
số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày
05/12/2011 của Chính phủ về công chức xã, phường, thị trấn.
Cán bộ cấp xã là công dân Việt Nam được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ
trong Thường trực HĐND, UBND, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ
chức Chính trị - xã hội.
- Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau đây:
+ Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy Ban nhân dân;
+ Chủ tịch Ủy Ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
+ Bí thư Đoàn thanh niên Công sản Hồ Chí Minh;
+ Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
+ Chủ tịch Hội nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có
hoạt động nông, lâm, ngư, …. và có tổ chức Hội nông dân Việt Nam);
+ Chủ tịch Hội cựu chiến binh Việt Nam

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9

Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh

chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy Ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng
lương ngân sách Nhà nước.
- Công chức cấp xã
+ Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
+ Chỉ huy hưởng quân sự;
+ Văn phòng – Thống kê;
+ Địa chính – Xây dựng – đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc Địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường (đối với xã);
+ Tài chính – kế toán;
+ Tư pháp – hộ tịch;
+ Văn hóa – xã hội.
Như vậy, khái niệm cán bộ, công chức xã là công dân Việt Nam trong biên
chế được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật, được
bầu để giữ các chức vụ hoặc được tuyển dụng giao chức danh chuyên môn nghiệp
vụ thuộc UBND cấp xã.
Vì vậy, để nâng cao hiệu lực hoạt động của chính quyền cấp xã đội ngũ
CBCC cấp xã phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác để hoàn
thành nhiệm vụ. Ngoài ra, phải có phẩm chất, đạo đức tốt và lòng nhiệt tình cách
mạng.
Số lượng cán bộ chuyên trách và công chức tại chính quyền cấp xã: Căn cứ
quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính
phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở
xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được
quy định như sau:
+ Đối với cấp xã loại 1: Không quá 25 người;
+ Đối với cấp xã loại 2: Không quá 23 người;
+ Đối với cấp xã loại 3: Không quá 21 người.
2.1.2.2. Vai trò của cán bộ công chức cấp xã, thị trấn
Để xây dựng đất nước Việt Nam độc lập có chủ quyền với mục tiêu “dân


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Hồ Chí Minh cũng đã
khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc và công việc thành công hay thất
vại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Đảng ta luôn coi trọng công tác cán bộ, đặc biệt là thời kỳ đẩy mạnh CNH-
HĐH đất nước, Đảng nhận định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của chế độ, là khâu then chốt trong
công tác xây dựng Đảng”.
Như vậy, CBCC là “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là “nhân tố
quyết định” đến sự thành bại của cách mạng, “là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng”. Ngoài những vị trí, vai trò trên CBCC chính quyền cấp xã còn có vị
trí, vai trò thể hiện những phương diện sau đây:
- Một là, CBCC cấp xã là người trực tiếp tuyên truyền, phổ biến các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đến nhân dân; làm
cho các tầng lớp nhân dân hiểu đúng, hiểu đầy đủ các chủ trương, chính sách.
Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang tiến hành xây dựng nhà nước
pháp quyền, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường mối quan hệ gắn bó
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; vì vậy, vai trò này của đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã càng có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho nhân dân biết và nắm được
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trên cơ sở đó sẽ tham gia, đóng
góp vào việc thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách đó.
Để làm được điều đó, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải tiến hành nhiều
hình thức, biện pháp khác nhau như thông qua các buổi nói tuyên truyền, nói
chuyện tại cuộc họp thôn, xóm, khu dân cư, tổ đoàn kết, trung tâm học tập cộng
đồng hoặc thông qua các buổi đối thoại trực tiếp với nhân dân để giải quyết các vấn
đề mới phát sinh như liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng,
quy hoạch…Đồng thời, nó còn đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải có
những hiểu biết nhất định về lý luận và am hiểu tình hình thực tế của địa phương,

cũng như nắm bắt được đặc điểm, tâm lý của từng lớp dân cư thuộc phạm vi quản lý
của mình.
- Hai là, cán bộ, công chức cấp xã là người có vai trò rất quan trọng trong

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11

công việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, huy động mọi khả năng
phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư, cụ thể như sau:
Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được nhân dân nắm bắt,
nhận thức mới chỉ là khởi đầu, điểm xuất phát để kiểm nghiệm được tính đúng đắn
của chủ trương, đường lối đó; điều kiện đủ là phải tổ chức thực hiện trong thực tiễn;
muốn làm được điều đó không có ai khác là cán bộ, công chức cấp xã, bởi cán bộ,
công chức cấp xã là người tiếp xúc nhiều nhất, hiểu rõ nhất, giải quyết nhiều việc
nhất của nhân dân.
Thực hiện tốt vị trí, vai trò này; đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
phải có khả năng tổ chức, bố trí, sử dụng, tập hợp và lôi cuốn mọi người vào hoạt
động; phải có khả năng xử lý các tình huống phát sinh, tình huống về tài chính, về
thiên tai, do va chạm xóm giềng…; khả năng kiểm tra, đánh giá hoạt động của mình
và khả năng tổng kết, sơ kết việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách.
Cán bộ, công chức cấp xã có vai trò đảm bảo cho các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước thực hiện một cách nghiêm túc, thông qua việc xử lý, đấu
tranh ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật kịp thời, hiệu quả, góp phần ổn định
tình hình an ninh – chính trị, trật tự an toàn xã hội tại từng địa bàn thôn, xóm, thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị đề ra.
- Ba là, cán bộ, công chức cấp xã là người nắm bắt kịp thời, phản ánh đầy đủ
các tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để Đảng, Nhà nước có cơ sở khoa học sửa
đổi, bổ sung, ban hành mới các chủ trương, chính sách có tính khả thi, phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước:

Chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước khi ban hành muốn
đảm bảo tính khả thi phải xuất phát từ thực tiễn cuộc sống; đòi hỏi đội ngũ cán bộ
công chức nói chung, cán bộ, công chức cấp xã nói riêng phải nắm bắt được tâm tư
nguyện vọng của nhân dân để mọi chủ trương, chính sách khi ban hành đều vì lợi
ích của nhân dân, dựa trên ý kiến của nhân dân.
Thực tiễn cách mạng của đất nước đã khẳng định, chính từ vai trò của CBCC
cấp xã trong việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, nên Đảng và Nhà

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12

nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đúng, được nhân dân đồng tình ủng
hộ.
Tóm lại, bất cứ ở đâu và lúc nào, đội ngũ cán bộ, công chức cũng có vị trí,
vai trò hết sức to lớn; với tư cách là một bộ phận quan trọng, chiếm số lượng tương
đối lớn thì đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối
với chế độ, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.1.3 Chất lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
2.1.3.1 Khái niệm
Chất lượng là một phạm trù được sử dụng khá phổ biến, là đối tượng nghiên
cứu của nhiều chuyên ngành, nhiều môn khoa học và được xem xét dưới nhiều góc
độ khác nhau, tùy thuộc nhu cầu tiếp cận và khai thác. “Chất lượng” hiểu ở nghĩa
chung nhất là “Cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự
việc” (Hồ Chí Minh, xuất bản 1974).
Khi nói về chất lượng đội ngũ cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Cán
bộ phải có cả “Đức” và “Tài”, trong đó “Đức” là gốc. Người chỉ rõ: “Nếu có đức
mà không có tài ví như ông bụt ngồi trong chùa không giúp ích gì được cho ai”,
người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân” (Hồ Chí Minh, xuất bản 1995).
Phẩm chất và năng lực của người cán bộ luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo

điều kiện cho nhau. Phẩm chất của người cán bộ là cơ sở tiền đề cho năng lực phát
triển đúng hướng, Người cán bộ có năng lực thì phẩm chất sẽ được củng cố và phát
huy, phẩm chất và năng lực của người cán bộ được biểu hiện ra ở kết quả thực hiện
chức trách được giao.
Từ các quan điểm trên, bước đầu đưa ra quan niệm về chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức là sự tương tác phù hợp giữa số lượng, cơ cấu đội ngũ, cùng với chất
lượng của mỗi cán bộ hợp thành, đảm bảo cho đội ngũ ấy hoàn thành chức năng,
nhiệm vụ của mình.
Mỗi CBCC không tồn tại một cách biệt lập mà phải được đặt trong một
chính thể thống nhất của đội ngũ CBCC. Vì vậy, quan niệm về chất lượng đội ngũ
CBCC phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa chất lượng của từng CBCC

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13

với chất lượng của cả đội ngũ. Chất lượng của cả đội ngũ không phải là sự tập hợp
giản đơn số lượng mà là sự tổng hợp sức mạnh của toàn bộ đội ngũ cán bộ, công
chức. Sức mạnh này bắt nguồn từ phầm chất vốn có bên trong của mỗi người và nó
được tăng lên gấp bội bởi tính thống nhất của tổ chức; của sự giáo dục, đào tạo,
phân công, quản lý, của kỷ luật.
Từ quan điểm trên, có thể nói chất lượng đội ngũ CBCC bao gồm:
- Chất lượng của từng CBCC, cụ thể là phầm chất chính trị, đạo đức; trình độ
năng lực và khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Chất lượng của từng CBCC là yếu tố cơ
bản tạo nên chất lượng của cả đội ngũ;
- Chất lượng của cả đội ngũ, với tính cách là một chỉnh thể, thể hiện ở cơ cấu
đội ngũ được tổ chức khoa học, có tỷ lệ cân đối, hợp lý vì số lượng và độ tuổi bình
quân được phân bố trên cơ sở các địa phương, đơn vị và lĩnh vực hoạt động của đời
sống xã hội.
Như vậy, các yếu tố cấu thành chất lượng đội ngũ CBCC không chỉ bao gồm
một mặt, một khía cạnh nào đó, mà nó bao gồm cả một hệ thống, được kết cấu như

một chỉnh thể toàn diện từ chất lượng của từng cán bộ (đây là yếu tố cơ bản nhất)
cho đến cơ cấu số lượng nam nữ, độ tuổi, thành phần của đội ngũ cùng với việc bồi
dưỡng, giáo dục, phân công, quản lý kiểm tra giám sát và thực hiện nghiêm các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền nhân dân.
Để nâng cao chất lượng của đội ngũ CBCC, cần phải giải quyết tốt mối quan
hệ giữa chất lượng với số lượng CBCC. Khi nào hai mặt này quan hệ hài hòa, tác
động với nhau thì mới tạo nên sức mạnh đồng bộ của cả đội ngũ. Trong thực tế
chúng ta cần phải chống hai vấn đề:
- Vấn đề thứ nhất: Là chạy theo số lượng, ít chú trọng đến chất lượng dẫn
đến cán bộ nhiều về số lượng nhưng hoạt động không hiệu quả;
- Vấn đề thứ hai: Cầu toàn về chất lượng nhưng không quan tâm đến số
lượng. Đây là một nguyên nhân quan trọng làm cho tuổi đời bình quân của đội ngũ
CBCC ngày càng cao, hẫng hụt về thế hệ.
Trong giai đoạn hiện nay thì cần hơn hết là phải coi trọng chất lượng của
CBCC trên cơ sở bảo đảm số lượng hợp lý. Từ những đặc điểm trên có thể khái

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14

niệm: “Chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã là một hệ thống những phẩm chất, giá trị
được kết nối như một chỉnh thể toàn diện được thể hiện quan phẩm chất chính trị,
phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực, khả năng hoàn thành nhiệm vụ của mỗi CB
và cơ cấu, số lượng, độ tuổi, thành phần của cả đội ngũ CBCC cấp xã.”
Để đánh giá đúng thực trạng và xác định các giải pháp nâng cao chất lượng
đội ngũ CBCC cấp xã cần phải xác định rõ những tiêu chí đánh giá chất lượng đội
ngũ cán bộ, cũng như hiểu rõ những yếu tố tác động đến chất lượng của đội ngũ
CBCC cấp xã.
2.1.3.2 Các yếu tố cấu thành chất lượng CBCC cấp xã
Xây dựng tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức là công việc hết sức khó khăn,
song lại là vấn đề rất quan trọng. Đây là khâu mở đầu có ý nghĩa quyết định trong

công tác cán bộ, là cơ sở để tiến hành việc bố trí, sử dụng và thực hiện các chính
sách cán bộ. Việc đánh giá CBCC cấp xã phải dựa vào tiêu chuẩn cán bộ và lấy kết
quả hoàn thành nhiệm vụ được giao làm thước đo chủ yếu. Tuy nhiên, đánh giá cán
bộ đang là khâu khó khăn nhất trong công tác cán bộ, vì vậy phải đổi mới về quan
điểm đánh giá cán bộ, có cơ chế đánh giá khoa học, khách quan, dân chủ, công
bằng, thúc đẩy họ vương lên, phát huy tài năng trí tuệ để đội ngũ CBCC hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ.
Chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức được xác định trên cơ sở tiêu chí
về phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực phù hợp với vị trí, vai trò, chức năng
nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ nói chung và của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
xã nói riêng, về khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Về phẩm chất chính trị: Phẩm chất chính trị là tiêu chuẩn được đặt lên hàng
đầu, có tính chất quyết định đến chất lượng hoạt động của CBCC. Phẩm chất chính
trị là yêu cầu cơ bản của mỗi CBCC trong các giai đoạn khác nhau. Phẩm chất
chính trị của CBCC cấp xã được biểu hiện trước hết là sự tin tưởng tuyệt đối với lý
tưởng cách mạng, chất hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; quyết tâm cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tổ chức
thực hiện sát hợp với tình hình thực tiễn ở địa phương. Phẩm chất chính trị là lòng
nhiệt tình cách mạng, lòng trung thành tuyệt đối với lý tưởng của Đảng, với chủ

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15

nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần tận tụy với công việc, hết lòng
hết sức vì sự nghiệp của nhân dân. Phẩm chất chính trị là bản lĩnh chính trị vững
vàng, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và con đường đi lên CNXH.
Người CBCC chính quyền cấp xã có phẩm chất chính trị tốt là người phải có
tinh thần trách nhiệm cao trong công tác, không thờ ơ, không dửng dưng trước
những vấn đề bức xúc về kinh tế - xã hội, luôn trăn trở trước những yếu kém, hạn
chế của địa phương so với sự phát triển của đất nước; quyết tâm tìm cách tháo gỡ

khó khăn và giải quyết những vấn đề bức xúc của địa phương, đưa địa phương nơi
mình công tác ngày càng phát triển.
Phẩm chất chính trị của CBCC cấp xã còn thể hiện ở ý thức tuân thủ kỷ luật
Đảng, luôn đi đầu trong chấp hành các chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiên
quyết chống lại mọi lệch lạc, biểu hiện sai trái trong đời sống xã hội đi trái ngược
với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Về phẩm chất đạo đức: Người cán bộ muốn xác lập được uy tín của mình
trước nhân dân, trước hết đó phải là người cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt. Xây
dựng các tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ và hình thành ở họ các phẩm chất
đạo đức tương ứng với vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ là việc
làm cần thiết và cấp bách, nhất là trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang có sự chuyển biến nhanh chóng và xã
hội xuất hiện nhiều vần đề hết sức phức tạp, trình độ dân trí ngày một nâng cao, đòi
hỏi của xã hội đối với đội ngũ cán bộ cũng ngày càng cao hơn. Bên cạnh đó công
tác quản lý xã hội cũng đòi hỏi người cán bộ phải tạo lập cho mình có được uy tín
cao nhất đối với nhân dân.
Người cán bộ tốt phải là người có đủ cả năng lực và trình độ lẫn đạo đức
cách mạng và muốn có đạo đức cách mạng, mỗi người cán bộ - theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh thì phải có được các phẩm chất trí, tín, nhân, dũng, liêm. “Khi nói chuyện
với anh, chị em ở Thủ đô, Bác đã nhắc nhở: Chúng ta phải cố gắng thực hiện cần,
kiệm, liêm, chính. Theo Bác:
“Trước hết là cần, tức là tăng năng suất trong công tác, bất kỳ là công tác gì.
Kiệm tức là không lãng phí thì giờ, của cải của mình và của nhân dân.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 16

Liêm tức là không tham ô và luôn tôn trọng, giữ gìn của công.
Chính tức là việc phải thì dù nhỏ cũng làm, việc trái thì dù nhỏ cũng tránh”.
Về trình độ năng lực: Năng lực là một khái niệm rộng, tùy thuộc vào môi

trường, trách nhiệm, vị thế của mỗi người, mỗi cán bộ trong những điều kiện cụ thể.
Năng lực của đội ngũ CBCC cấp xã là một trong những điều kiện tiên quyết
bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ theo chức trách đạt kết quả tốt. Đội ngũ
CBCC cấp xã là nguồn lực chủ yếu của hệ thống lãnh đạo, quản lý cấp xã, bảo đảm
cho hệ thống có thể vận hành và hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao. Do
tình hình kinh tế xã hội thường xuyên thay đổi đòi hỏi phải liên tục phát triển năng
lực của tất cả đội ngũ CBCC cấp xã nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp xã nói riêng. Năng lực của đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã được tiếp cận
trên các khía cạnh như sau:
- Thứ nhất, năng lực lãnh đạo, quản lý: Là khả năng dự báo, phán đoán, khả
năng xử trí tình huống, khả năng hành động của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong qua
trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Khả năng dự báo, phán đoán thực chất là tầm
nhìn về tương lai của người lãnh đạo, quản lý. Đó là “ý tưởng” về tương lai mà hệ
thống tổ chức đưa ra. Tầm nhìn là một dạng chiến lược mà hệ thống quản lý cần
hướng tới. Nó chỉ ra con đường cần đi; các giai đoạn cần vượt qua. Tầm nhìn là nơi
để huy động sức lực của mỗi cán bộ, công chức, mỗi tổ chức. Tầm nhìn cho phép
mỗi người lãnh đạo, quản lý biết được các đặc điểm của hệ thống tổ chức theo hình
dung của họ; người lãnh đạo, quản lý cần nguồn nhân lực như thế nào cho tổ chức
của mình, cần ở họ năng lực gì? Khả năng xử trí tình huống, đó là việc người lãnh
đạo, quản lý tìm hiểu để nắm bắt được những việc đang diễn ra trong lĩnh vực công
tác, hoạt động của mình, cũng như ngay chính trong hệ thống quản lý hành chính
của mình. Khả năng hành động đó là việc người lãnh đạo, quản lý lên kế hoạch
chiến lược đối với nguồn nhân lực cho phép huy động được đúng người, đúng việc,
đúng lúc. Thách thức này phụ thuộc vào khả năng đọc và hiểu đúng môi trường
cũng như hiểu rõ những năng lực cần thiết để thực hiện công việc một cách hiệu quả
nhất. Người lãnh đạo, quản lý phải biết dung hòa nhu cầu của tồ chức với mong đợi
của mỗi cán bộ, công chức và phải nhìn nhận hoạt động lãnh đạo, quản lý như một

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 17


phần tất yếu và là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển năng lực và quản lý tri thức
của hệ thống quản lý hành chính.
- Thứ hai năng lực thực thi nhiệm vụ của mỗi cán bộ, công chức cấp xã: Là
lĩnh vực khó phân tích, liên quan tới cá tính và giá trị, niềm tin của mỗi CBCC
chính quyền cấp xã và những yếu tố này định hướng cách thức xử lý công việc của
họ. Lĩnh vực cá nhân của năng lực bao gồm khả năng đưa ra sáng kiến có giá trị,
dám chịu trách nhiệm, sáng tạo, có khả năng phân biệt cái gì là quan trọng đối với
công việc và cái gì thì không quan trọng và có “khát vọng” đạt được kết quả. Năng
lực mỗi CBCC được coi là khả năng của một người để làm được công việc được
giao, để xử lý một tình huống (kể cả tình huống bất ngờ, đột xuất xảy ra) và để thực
hiện một nhiệm vụ cụ thể trong một môi trường xác định. Tức là phải biết sử dụng
tổng hợp các “tài sản” của một con người (ví dụ như kiến thức, kỹ năng và cá tính)
để đạt được các mục tiêu và mục đích cụ thể. Năng lực gắn với bối cảnh mang tính
cá nhân và năng động. Năng lực của mỗi CBCC không phải là tổng số học các kiến
thức, kỹ năng, thái độ mà nó quy tụ đồng thời các nguồn lực, hoạt động và kết quả
cần đạt được, phải biết phối hợp các yếu tố trên trong mọi điều kiện, hoàn cảnh nhất
định để hành động một cách có năng lực.
- Thứ ba năng lực thực hiện nhiệm vụ của tập thể (năng lực nhóm): Đây là
năng lực không chỉ liên quan đến mỗi CBCC chính quyền cấp xã mà còn liên quan
đến việc tổng hợp năng lực của CBCC để biến chúng thành năng lực tập thể của tổ
chức. Năng lực tập thể giúp kết hợp tất cả các năng lực khác nhau và sử dụng chúng
một cách hiệu quả nhằm đạt được các mục tiêu tổng thể của cơ quan, tổ chức và góp
phần vào việc phát triển tổ chức. Năng lực tập thể bao gồm các khả năng như biết
phân tích và giải quyết vấn đề trong các tình huống khác nhau; biết giải thích cho
người khác và chia sẻ kinh nghiệm học tập với đồng nghiệp… Thêm vào đó, biết rút
kinh nghiệm thực tế, biết điều chỉnh cho phù hợp với môi trường thay đổi và biết
hòa nhập những thứ đó với các điểm mạnh riêng của mình, tức là biết thực hiện
nhiệm vụ một cách thực sự. Mối quan hệ giữa năng lực CBCC cấp xã và năng lực
tập thể là mối quan hệ biện chứng. Năng lực không chỉ tồn tại trong mỗi CBCC cấp

xã mà năng lực của một cơ quan, tổ chức được xây dựng trên cơ sở kết họp có hiệu

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 18

quả năng lực của tập thể đội ngũ cán bộ, công chức trong cơ quan, tổ chức. Năng
lực chính của tập thể là tạo điều kiện hỗ trợ, phát triển năng lực của mỗi CBCC
chính quyền cấp xã và sau đó biết cách tổng hợp các năng lực đó một cách có hiệu
quả và hiệu suất cao cho hệ thống quản lý hành chính thực hiện nhiệm vụ để đạt
được các mục tiêu đã đề ra.
- Thứ tư kỹ năng quan hệ, ứng xử trong quá trình hoạt động của cán bộ, công
chức cấp xã: Là khả năng quan hệ giữa cán bộ, công chức với nhau; quan hệ với
lãnh đạo cấp trên; quan hệ với các tổ chức bên ngoài và nhân dân trên cơ sở thái độ
và những kỹ năng giao tiếp cần thiết.
Về khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao: đội ngũ CBCC chính quyền
cấp xã ở nước ta hiện nay đông nhưng không mạnh. Do hạn chế về trình độ văn hóa,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế…đã dẫn tới hạn
chế trong năng lực quản lý điều hành công việc, trong việc lập kế hoạch, xử lý tình
huống khi kế hoạch đưa ra không phù hợp thực tiễn. Xây dựng đội ngũ CBCC chính
quyền cấp xã vừa phù hợp với công cuộc đổi mới của đất nước, vừa thuận theo ý
Đảng, lòng dân, trẻ hóa đội ngũ CBCC là nhu cầu, là đòi hỏi khách quan của sự
nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới, làm cho đội ngũ cán bộ tràn đầy
sức sống. Nơi nào mà các cán bộ cấp trên biết lựa chọn dìu dắt, có nhiều cán bộ mới
ở đó công việc sẽ tiến triển tốt hơn. Đội ngũ cán bộ không được tri thức hóa và
chuyên môn hóa thì không thể hoàn thành nhiệm vụ hoặc có hoàn thành nhưng năng
lực vẫn còn hạn chế. CBCC có tư cách, tác phong tốt, phải toàn tâm, toàn ý phục vụ
nhân dân, dám nói thật, dám bảo vệ cái đúng, đấu tranh chống những tiêu cực, quan
liêu, tham nhũng, có mối quan hệ tốt với các đồng nghiệp và quần chúng nhân dân.
Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay là xây dựng đội ngũ CBCC chính
quyền cấp xã đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp

quyền thực sự của dân, do dân, vì dân. Họ phải có tinh thần yêu nước sâu sắc, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, tận tụy phục vụ nhân dân, gắn bó
mật thiết với nhân dân, xây dựng được lòng tin trong nhân dân, cần kiệm, liêm
chính, chí công, vô tư, có y thức tổ chức kỷ luật, trung thực không cơ hội, không

×