Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

VĂN HÓA HÁT THEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.58 KB, 36 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn
khoa học của TS. Vũ Ngọc Hoa. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này
là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Những thông
tin và một số tài liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác
giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong bài còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các
tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội
dung bài làm của mình.
Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2016
Sinh viên


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin gửi lời biết ơn chân thành tới cô giáo TS. Vũ Ngọc Hoa giảng
viên bộ môn Nghiên Cứu Khoa Học. Nhờ sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của cô tôi
đã có được những kiến thức quý báu về cách thức nghiên cứu vấn đề cũng như nội
dung của đề tài, từ đó tôi có thể hoàn thành tốt bài luận của mình.
Bên cạnh đấy, tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự quan tâm và đóng góp quý báu
của nhân dân dân tộc Tày tại huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn đã giúp tôi hiểu rõ hơn về
văn hóa sinh hoạt để có thể hoàn thiện nội dung bài tốt hơn.
Cuối cùng, tôi xin chúc cô giáo luôn luôn mạnh khỏe, vui vẻ và có thêm thật nhiều
thành công trong sự nghiệp trồng người. Và xin chúc đồng bào dân tộc Tày tại
huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn có nhiều sức khỏe niềm vui và luôn giữ được nét văn
hóa truyền thống của dân tộc mình để góp phần làm giàu văn hóa cho kho tàng văn
hóa Việt Nam.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2016
Sinh viên



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc sinh sống trên cùng một lãnh thổ. Cộng
đồng các dân tộc Việt Nam sống đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau như anh
em ruột thịt, trong đó có người Tày là dân tộc có dân số đứng thứ 2 trên đất nước.
Người Tày cư trú tập trung ở các tỉnh Đông Bắc trong đó có Bắc Kạn. Trải qua
hàng ngàn năm lịch sử hình thành và phát triển, với đời sống tinh thần phong phú,
hòa nhập dân tộc Tày đã có những nét văn hóa đặc biệt như hát Sli, Lượn và đặc
biệt là hát Then đã làm nên nét đặc trưng văn hóa rất riêng của núi rừng Việt Bắc
đại ngàn.
Người Tày đã tạo nên một kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian vô cùng
phong phú, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Có thể khẳng định rằng những đặc
trưng văn hóa mang tính truyền thống lâu đời của tộc người Tày là một trong
những đặc trưng của Văn hóa Dân gian.
Văn hóa Dân gian từ lâu đã được các nhà sưu tầm, nghiên cứu tìm hiểu và
cho ra đời nhiều công trình có ý nghĩa lớn. Tuy nhiên việc sưu tầm, nghiên cứu và
tìm hiểu Văn hóa Dân gian của người dân tộc thiểu số vẫn chưa được quan tâm
nhiều. Thậm chí những đặc trưng Văn hóa Dân gian của người Tày như hình thức
cúng bái trong các nghi lễ hát Then, thầy Mo, thầy Tào làm phép trong các đám ma
người chết, gọi hồn 49 ngày, cầu xin đẻ con trai…một thời gian đã bị coi là hình
thức mê tín dị đoan, hủ tục của người dân tộc.
Là một người con của dân tộc Tày cũng như sinh ra và lớn lên tại Bắc Kạn
nên một phần nào đó hiểu và biết được nét văn hóa hát then của dân tộc đang có
nguy cơ mai một. Bên cạnh đó, khi tiếp cận đề tài này tôi sẽ có cơ hội để hiểu biết
thêm về con người cũng như phong tục, tập quán, tín ngưỡng của dân tộc và góp
phần truyền bá cái hay, cái đẹp của văn hóa hát Then đến mọi người. Cùng với việc
góp phần giữ gìn bảo tồn những nét đẹp của văn hóa dân gian. Vì vậy, tôi chọn đề
tài nghiên cứu “ Bảo tồn phát triển văn hóa hát then của đồng bào dân tộc Tày ở
huyện Ba Bể- Bắc Kạn” làm đề tài nghiên cứu của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu


Ngày nay việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa, văn học của các dân tộc
đang là một vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm. Đặc biệt là trong những
năm gần đây, trước xu thế hiện đại hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, những giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc đang có nguy cơ mai một thì việc giữ gìn, bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc là một vấn đề thực sự
cấp bách các giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc nói chung và dân tộc Tày nói
riêng.
Là một làn điệu trong kho tàng văn hóa, văn học dân gian của dân tộc Tày từ lâu
hát then đã nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, sưu tầm. Then Tày ở
Việt Nam rất phong phú và luôn tồn tại trong đời sống hiện thực, nó có vị trí đặc
biệt trong quan trọng trong văn hóa, văn học dân gian Việt Nam. Nói đến Then Tày
các nhà sưu tầm, nghiên cứu và những người yêu thích then nghĩ ngay đến vùng
Việt Bắc; nơi từ lâu được coi là cái nôi của văn hóa dân gian. Có thể kể đến các
tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Làn điệu then của
người Tày ở phía bắc đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Vì thế vấn đề này đã được nhiều tập thể khoa học và nhiều cá nhân nghiên cứu ở
các cấp độ khác nhau:
“Hội Lồng tồng (dân tộc Tày ở Bắc Thái)” của tác giả Dương Kim Bội
“Hội Lồng tồng (tiếng Tày: Hội Lồng Tồng)” (1983) của tác giả Lục Văn Pảo
“Hội Lồng tồng” của tác giả Thu Linh
“Pụt Tày” (1992) của tác giả Lục Văn Pảo
“Then một hình thức shamam giáo” (2000) của tác giả Đoàn Thị Tuyến
“Người diễn xướng Then - Nghệ nhân hát dân ca và thầy Shaman” (1998) của tác
giả Nguyễn Thị Hiền
“Đặc trưng lễ hội truyền thống của người Tày, Nùng Việt Bắc” (2005) của tác giả
Nguyễn Ngọc Thanh.

Nhìn chung các công trình và bài viết trên đều đề cập tới văn hóa hát then và các
khía cạnh của Then trong các lễ hội của đồng bào dân tộc Tày. Tuy nhiên chưa có


công trình nào đi sâu nghiên cứu việc bảo tồn và phát triển văn hóa hát then của
đồng bào dân tộc tày ở huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn.
3. Đối tượng,phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Văn hóa hát then của đồng bào dân tộc Tày ở huyện Ba Bể
tỉnh Bắc Kạn.
Phạm vi nghiên cứu:
Trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn và tập trung chủ yếu là huyện Ba Bể.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về bảo tồn phát triển văn hóa hát then của đồng bào dân tộc tày ở
huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn nhằm mục đích hiểu biết thêm về con người cũng như
phong tục, tập quán, tín ngưỡng của dân tộc và góp phần truyền bá cái hay, cái đẹp
của văn hóa hát then đến mọi người. Đồng thời tích cực trong việc đưa ra những
giải pháp thông qua những thực trạng hiện nay để công tác bảo tồn và phát triển
được nâng cao, để văn hóa hát then không bị mai một trong tương lai.
4.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Hệ thống cơ sở lý luận về bảo tồn và phát triển văn hóa. Giới thiệu khái quát về
tỉnh Bắc Kạn cũng như đồng bào dân tộc Tày ở huyện Ba Bể.
Giới thiệu văn hóa hát then cùng với thực trạng việc bảo tồn và phát triển văn hóa
hát then của đồng bào dân tộc Tày tại huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện công tác bảo tồn và phát triển văn hóa
bằng sự vào cuộc của mọi người.
5. Giả thuyết nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài nhằm nhìn ra thực trạng bảo tồn phát triển văn hóa hát then hiện
tại để đề ra những giải pháp hợp lý và hiệu quả để bảo vệ nền nghệ thuật văn hóa
hát then phát triển hơn. Củng cố lòng tin, sự yêu thích và tự hào đối với nghệ thuật
dân tộc. Thúc đẩy nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc phát triển hơn nữa và không
bị mai một thất truyền trong tương lai.


6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp điền dã dân tộc học, thâm nhập vào địa bàn khảo sát là huyện Ba Bể
tỉnh Bắc Kạn
Phương pháp thu thập thông tin từ các công trình nghiên cứu trên sách báo, tạp
chí…và thông tin từ người dân địa phương.
7. Đóng góp của đề tài
Thực hiện đề tài này với mong muốn có thể hiểu sâu hơn về văn hóa nghệ thuật hát
then của đồng bào dân tộc Tày.
Đề tài làm rõ vấn đề phát triển và bảo tồn văn hóa các nét văn hóa nghệ thuật dân
tộc . Giới thiệu được văn hóa hát then của đồng bào dân tộc Tày ở huyện Ba Bể
tỉnh Bắc Kạn.
Chỉ ra những thực trạng trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa hát then hiện nay.
Đưa ra những ý kiến đóng góp và giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển bản sắc dân
tộc.
8. Kết cấu đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm 3
chương:
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ BẢO TỒN PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VÀ
KHÁI QUÁT VỀ TỈNH BẮC KẠN CÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC TÀY
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO TỒN PHÁT TRIỂN VĂN HÓA HÁT THEN
CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC TÀY Ở HUYỆN BA BỂ- BẮC KẠN
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BẢO
TỒN VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA HÁT THEN CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC

TÀY Ở HUYỆN BA BỂ- TỈNH BẮC KẠN


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ BẢO TỒN PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VÀ KHÁI QUÁT
VỀ TỈNH BẮC KẠN CÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC TÀY
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm về bảo tồn văn hóa
Bảo tồn văn hóa là gìn giữ, lưu lại những giá trị văn hóa.
Bảo tồn văn hóa gồm: bảo tồn văn hóa truyền thống, bảo tồn văn hóa vật thể, bảo
tồn văn hóa phi vật thể, bảo tồn di sản văn hóa phật giáo, bảo tồn văn hóa nông
thôn,...
1.1.2. Khái niệm về phát triển văn hóa
Phát triển văn hóa là những hành động nhằm đưa văn hóa vào trong thực tiễn xã
hội, coi đó như là nguồn nội lực, tiềm năng góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội,
mang lại những lợi ích vật chất và tinh thần cho con người, thể hiện tính mục tiêu
của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội.
Phát triển văn hóa là một tất yếu khách quan của sự vận động của lĩnh vực văn hóa
nhằm đem tới sự biến đổi giá trị và hệ giá trị nhằm vươn tới cái đẹp hơn cho cuộc
sống của con người.
1.1.3. Một số quan điểm về bảo tồn và phát triển văn hóa
Bảo tồn văn hóa không phải là hoạt động cản trở sự phát triển văn hóa, mà trong
một chừng mực nào đó còn là cơ sở cho sự phát triển văn hóa theo đúng hướng.
Bản thân quá trình phát triển văn hóa có sự đào thải yếu tố văn hóa lỗi thời, lạc
hậu, không phù hợp với hiện thực khách quan. Sẽ là sai lầm khi coi bảo tồn văn
hóa triệt tiêu sự phát triển văn hóa và ngược lại phát triển văn hóa sẽ triệt tiêu bảo
tồn văn hóa. Bảo tồn và phát triển văn hóa có thể được coi là thúc đẩy nhau, bảo
tồn văn hóa giữ vai trò là cơ sở góp phần thúc đẩy phát triển văn hóa.
Bảo tồn văn hóa là bảo tồn nguyên dạng giá trị gốc của di sản văn hóa, gắn với
công tác nghiên cứu khoa học và giáo dục cộng đồng, và phải chú trọng đáp ứng

được các nhu cầu của cộng đồng.


Phát triển văn hóa phải biết kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của đời
trước để lại, làm cho các giá trị của văn hóa thấm sâu, lan tỏa vào đời sống cộng
đồng xã hội. Phát triển văn hóa cần phải mở rộng giao lưu văn hóa để làm giàu
thêm bản sắc văn hóa và làm thăng hoa giá trị văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa.
1.2. Khái quát về tỉnh Bắc Kạn
1.2.1. Đặc điểm địa lí, kinh tế, văn hóa, xã hội
Bắc Kạn là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, phía bắc giáp tỉnh Cao Bằng,
phía đông giáp tỉnh Lạng Sơn, phía nam giáp tỉnh Thái Nguyên và phía tây giáp
tỉnh Tuyên Quang. Diện tích đất tự nhiên 4.859 km2, dân số 313.084 người, gồm 7
dân tộc anh em (Tày, Nùng, Kinh, Dao, Mông, Hoa và Sán Chay) sinh sống, trong
đó dân tộc thiểu số chiếm hơn 80%.
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi cao, địa hình bị chi phối bởi những dãy núi vòng
cung quay lưng về phía đông xen lẫn với những thung lũng. Bắc Kạn có thể phân
thành 3 vùng như sau:
Vùng phía tây và tây-bắc: bao gồm các mạch núi thuộc khu vực huyện Chợ Đồn,
Pác Nặm, Ba Bể chạy theo hướng vòng cung tây bắc– đông nam, định ra hướng
của hệ thống dòng chảy lưu vực sông Cầu. Dãy núi cao nhất là Phia Bióoc 1578m.
Vùng phía đông và đông-bắc: hệ thống núi thuộc cánh cung Ngân Sơn chạy theo
hướng bắc- nam, mở rộng thung lũng về phía đông bắc.
Vùng trung tâm: vùng địa hình thấp, kẹp giữa một bên là dãy núi cao thuộc cánh
cung sông Gâm ở phía tây, với một bên làcánh cung Ngân Sơn ở phía đông.
Bắc Kạn được tự nhiên ưu đãi cho nhiều tiềm năng phát triển kinh tế xã hội với
nguồn tài nguyên rừng, đất rừng, khoáng sản phong phú và vườn Quốc gia Ba Bể,
nơi có hồ Ba Bể - một trong 20 hồ nước ngọt lớn trên thế giới… Trên địa bàn tỉnh
có 165 mỏ và điểm quặng, với các loại khoáng sản có trữ lượng lớn. Từ đó, Bắc
Kạn có triển vọng đầu tư chế biến sâu ở quy mô vừa và nhỏ để nâng giá trị các loại
khoáng sản, đặc biệt là ngành sản xuất vật liệu xây dựng. Trên địa bàn tỉnh Bắc

Kạn còn có nhiều hệ suối là đầu nguồn sông Đáy, sông Gâm, sông Chu… lưu vực
nhỏ và độ dốc dòng chảy lớn, lòng hẹp và có nhiều thác ghềnh, là điều kiện thuận


lợi cho việc phát triển các công trình thuỷ điện nhỏ, tạo điều kiện thúc đẩy công
nghiệp phát triển.
Tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế.
Trong những năm qua, dưới sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các bộ, ngành
Trung ương, sự chỉ đạo sát sao của cấp ủy, chính quyền tỉnh, Bắc Kạn đã từng
bước có những nỗ lực vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội.
Các hoạt động văn hoá, thể dục - thể thao ngày càng phát triển, góp phần nâng cao
đời sống nhân dân các dân tộc trên địa bàn.
Có nhiều lễ hội văn hóa đặc sắc lễ hội Lồng Tồng, hội Xuân Ba Bể, hội Mù Là, tết
Rằm tháng bảy của người Tày, tết “Đắp nọi”, chợ tình Xuân Dương và nhiều lễ hội
của nhân dân các dân tộc trên địa bàn.
1.2.2. Khái quát về đồng bào dân tộc Tày ở huyện Ba Bể- Bắc Kạn
Huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn là một vùng nguyên sơ mà những ồn ào của thế giới
hiện đại chưa thực sự len lỏi đến được. Ba Bể đẹp ở khung cảnh tĩnh lặng, ở màu
xanh bạt ngàn của hệ sinh thái rừng hồ, ở những nét văn hóa đặc sắc rất riêng của
các dân tộc ở Ba Bể.
Ba Bể là nơi cư ngụ của hơn 3000 cư dân thuộc 5 nhóm dân tộc khác nhau. Hơn
2000 năm qua, cư dân người Tày đã định cư tại nơi này và trở thành tộc người
chiếm đa số ở Ba Bể. Thông thường, cư dân người Tày ở tại những dải đất thấp
dọc theo sông, suối.
Người Tày thuộc ngữ hệ Tày – Thái và có nhiều nét đặc sắc về văn hoá. Theo
truyền thống, người Tày xây dựng nhà sàn của mình bằng 4 đến 7 hàng cột đỡ, tạo
thành hai khu vực rõ rệt, phần bên trên sàn làm nơi tiếp khách, bếp đun và nơi
ở.Phần dưới gầm sàn làm nơi cất giữ nông cụ và chuồng nuôi gia súc, gia cầm.
Thông thường, mái nhà sàn có kết cấu hai mái hoặc bốn mái được làm bằng rạ, lá

cọ. Kiểu nhà sàn được lợp bằng ngói rất phổ biến ở Ba Bể mặc dù hiện nay nhiều
đình gia đã có sự cách tân khi xây nhà trực tiếp lên nền đất.
Từ lâu, người Tày có truyền thống canh tác lúa nước dọc theo các thung lũng, ven
sông, suối đồng thời họ cũng canh tác nhiều mùa vụ khác. Lịch mùa vụ được đánh


dấu bằng lễ hội “Lồng tồng” -Lễ hội xuống đồng. Đây là dịp tụ họp nhân kết thúc
vụ thu hoạch để cúng tạ ơn thần nông đã phù hộ độ trì cho dân làng làm ăn no đủ
và cầu mùa kết hợp với cầu mưa cho năm tới mùa màng bội lại thu, con người
khoẻ mạnh ấm no. Lễ hội Lồng tồng là một trong những lễ hội đặc sắc nhất trong
vùng được tổ chức ngay bên hồ Ba Bể vào ngày mồng 10 Tết Âm Lịch hàng
năm. Vào dịp lễ hội, du khách sẽ được thưởng thức các loại bánh gio, bánh trời,
xôi ngũ sắc, trứng vịt xanh đỏ, được xem đánh yến, đánh còn, xem chọi bò, bắt
vịt và đua thuyền độc mộc…
Cư dân người Tày vốn nổi tiếng với nghề dệt và thêu thổ cẩm. Họ thường sử
dụng những sản phẩm thêu dệt làm ri -đô ngăn phòng, rèm cửa phòng, cửa sổ, địu,
tay nải và khăn trải bàn. Thổ cẩm giữ một vị trí đáng kể trong đời sống tinh thần và
tình cảm của đồng bào Tày. Đó là món quà ngày cưới mà cô dâu mang về nhà
chồng, là quà tặng cho trai gái yêu nhau, là quà mừng đầy tháng của đứa
trẻ... Nguyên liệu chính của dệt thổ cẩm là sợi được nhuộm thành nhiều màu khác
nhau. Khung dệt của người Tày có kích thước lớn nhất và phức tạp nhất so với các
khung dệt khác được tìm thấy ở Việt Nam. Hiện nay nhiều hộ gia đình ở trong và
ngoài vườn quốc gia Ba Bể vẫn duy trì nghề dệt thổ cẩm truyền thống nhằm tạo thu
nhập phụ cho gia đình, đồng thời góp phần gìn giữ bản sắc văn hoá cho các thế hệ
mai sau.
Người Tày có truyền thống âm nhạc riêng, truyền thống âm nhạc này vẫn duy
trì được ảnh hưởng mạnh đến văn hoá trong khu vực. Trong đời sống văn hóa tinh
thần hát then là một nhu cầu sinh hoạt tâm linh, văn hóa, tinh thần không thể thiếu
đối với họ.
 Tiểu kết:

Thông qua hai vấn đề lớn ở chương một đó là cơ sở lí luận về bảo tồn phát
triển văn hóa và khái quát về tỉnh Bắc Kạn đã phần nào giúp người đọc hiểu
được về bảo tồn phát triển văn hóa cũng như hiểu thêm về tỉnh Bắc Kạn và
tập tục sống, văn hóa của đồng bào Tày nơi đây. Cũng như giúp ta hiểu thêm
được bảo tồn và phát triển văn hóa là vô cùng cần thiết đặc biệt là các nền
văn hóa ở nơi vùng cao.


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG BẢO TỒN PHÁT TRIỂN VĂN HÓA HÁT THEN CỦA
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC TÀY Ở HUYỆN BA BỂ- BẮC KẠN
2.1. Văn hóa hát then của đồng bào dân tộc Tày
2.1.1. Nguồn gốc văn hóa hát then
Theo quan niệm người Tày Nùng xưa, then có nghĩa là “thiên” đọc chệch. Trong
Hán tự, thiên là Trời. Vậy hiểu theo ngôn ngữ dân tộc Tày, then là trời. Hát then
được coi là điệu hát nhà trời, hát thần tiên. Then là một loại hình nghệ thuật dân
gian, mang màu sắc tín ngưỡng. Then thuật lại cuộc hành trình từ dương gian lên
thiên giới cầu an, cầu tự, cầu mùa… Then còn trừ tà, trừ ma quỷ quấy rối đời sống
tinh thần con người.
Về nguồn gốc có nhiều ý kiến khác nhau song đa phần có cùng nhận định: hát then
có xuất xứ từ Cao Bằng, khi nhà Mạc bị thất sủng. Hầu hết trong các lễ cúng của
người Tày đều có hát then, hát then không chỉ đơn thuần là một loại hình âm nhạc
hay diễn xướng dân gian mà có sự gắn kết chặt chẽ với tín ngưỡng.
Trong cộng đồng Tày, các ông Then, Tào, Pụt, Mo là những người có khả năng liên
hệ với thần linh, tiếp cận với thế giới siêu nhiên, là cầu nối giữa người trần với các
đấng tự nhiên. Chính bởi đó họ có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống tâm
linh và tín ngưỡng của cộng đồng. Then được hát trong hầu hết các nghi lễ, hội với
nhiều đường then khác nhau tùy thuộc vào mục đích của lễ cúng. Ngoài phần thuộc
lễ nghi, diễn xướng then còn có phần mang tính chất vui chơi mang đậm yếu tố sân
khấu. Ông Then là người thuộc nhiều đường then và có căn then. Người làm then

phải là người thích hợp cho việc làm thầy cúng, được cộng đồng tín nhiệm, nể
trọng. Cũng giống như Hầu đồng của người Việt, then của người Tày mượn lời ca,
tiếng đàn cùng chùm xóc nhạc dẫn đường đến với các đấng siêu nhiên để thỉnh cầu
hay cảm tạ.
2.1.2. Các hình thức sinh hoạt của then
- Then cầu mong: lễ cầu an, lễ giải hạn, lễ cầu bjoóc, cầu va hay còn gọi là cầu
tự,...


Người Tày thường cầu mong những điều bình an đến cho mình và cho người thân
trong gia đình qua các dịp năm mới để lễ cầu an hay khi cảm thấy không may mắn
sẽ làm lễ giải hạn với mong muốn được may mắn, an bình, tai qua nạn khỏi.
- Then chữa bệnh
Then chữa bệnh bằng sức truyền cảm âm nhạc, thơ ca, phần nào làm trọng chức
năng an ủi, dỗ dành nỗi đau của người bệnh, làm cho mọi người cảm thấy tâm hồn
thanh thản hơn. Đây là phương pháp chữa bệnh bằng tinh thần của người Tày xưa.
- Then tống tiễn
Những gia đình có người chết hoặc đứa trẻ xấu số, sau khi chôn cất xong, chọn
được ngày lành, người Tày thường làm lễ tiễn hồn người chết đi khỏi nhà để không
quấy rối những người còn sống.
- Then vui mừng chúc tụng ca ngợi
Những nhà giàu xưa kia khi có việc mừng thường hay mời then đến đàn, hát vui,
chúc tụng ca ngợi.
- Then trung lễ, đại lễ cấp sắc
Những người làm then thường 3- 5 năm phải làm lễ cấp sắc một lần gọi là đại lễ.
Then vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có khả năng làm lễ đúng kỳ hạn phải
làm lễ trung để khất.
- Then- loại hình âm nhạc- văn hóa hát then
Then là một loại hình diễn xướng dâm gian được tổ chức chủ yếu trong nhà,
thường là vào đêm khuya thanh vắng. Do đó, âm nhạc trong then là loại nhạc êm

dịu, ấm cúng, nhẹ nhàng và tâm tình.
2.1.3. Văn hóa hát then
Về mặt nghi lễ, với tư cách là một hình thái sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, then
chứa đựng trong mình những tín ngưỡng, tôn giáo nguyên thủy. Thông qua các
nghi thức thực hiện then văn, then tướng (then võ, then vũ) và nhiều hình thức
khác, ông Dàng, bà Bụt sẽ là chiếc cầu nối giữa thế giới thần tiên và nhân gian,
nhằm bày tỏ lòng thành kinh, biết ơn tới các vị thần đã phù hộ, che chở cho mình


và gia đình, cộng đồng tránh khỏi những thiên tai, dịch bệnh, đem lại một cuộc
sống no đủ, hạnh phúc...
Mặt khác đây cũng là dịp để cả gia đình, dòng họ ôn lại những điều tâm niệm
chung về những phẩm chất truyền thống đã được trau dồi như: sự đoàn kết, gắn bó
trong gia đình, những quy ước chung của dòng họ nhằm duy trì kỷ cương chung
như: tôn trọng người già, tôn trọng truyền thống văn hóa, lệ tục của dòng họ; đồng
thời nhắc nhở mỗi thành viên trong gia đình có ý thức và trách nhiệm về cội nguồn,
với tổ tiên với gia đình, dòng họ và chính bản thân mình.
Về mặt nghệ thuật dân gian, then được thể hiện sinh động bằng lời ca, tiếng nhạc,
điệu múa dân gian hết sức phong phú và hấp dẫn. Trong một cuộc hát then, âm
nhạc là yếu tố quan trọng và xuyên suốt khi trình diễn. Hát then có nhiều bài bản,
làn điệu khác nhau, nhưng đều tuân theo một bài bản và kết thúc có kết quả giống
nhau. Người trình diễn hát then theo hình thức diễn xướng tổng hợp vừa hát, đệm
đàn và múa để thể hiện nội dung câu hát, đôi khi còn biểu diễn cả những trò nhai
chén, dựng trứng, dựng gươm...
Nội dung và ý nghĩa của các bài hát then thường là vạn lấy hồn lấy vía siêu lạc ở
các chốn về, hoặc săn bắt bắn lấy những con thú trên rừng về để giải hạn, khao tổ
tiên, khao mẫu sinh hay mẹ sinh (mẫu ban lộc sinh đẻ). Tiếng hát then thần kỳ đến
mức người đang ốm đau chỉ nghe thấy coi như khỏi bệnh. Then có nhiều tác dụng
như chữa bệnh, giải hạn, cầu tài cầu lộc, thể hiện một nền văn hóa đa dạng của dân
tộc.

Trong đời sống văn hóa cộng đồng, với đồng bào các dân tộc Nùng, Tày, Thái, hát
then không chỉ là khúc hát đầu xuân cầu an lành, may mắn mà còn gắn liền với
sinh hoạt tín ngưỡng trong năm. Theo quan niệm xưa, then có nghĩa là thiên - trời,
là cầu nối tâm linh chở theo lời thỉnh cầu, mong ước của con người tới thánh thần.
Vì vậy vào mỗi dịp trong năm cúng cầu an, giải hạn, cúng tổ tiên, hay mừng nhà
mới, mừng thọ ông bà, cha mẹ đều không thể vắng bóng những giai điệu then.
Văn hóa hát then của người Tày lại chia thành từng vùng khác nhau. Mỗi vùng làn
điệu then lại có những nét độc đáo riêng. Then Cao Bằng dìu dặt tha thiết, then
Lạng Sơn tươi vui, rộn ràng, then Tuyên Quang dồn dập như thúc quân ra trận,
then Hà Giang nhấn nhá từng tiếng một còn riêng then Bắc Kạn lại như chuyện kể
thầm thì bởi người nơi đây vốn dĩ nhẹ nhàng và sâu lắng.
Then là một loại hình diễn xướng dân gian được tổ chức chủ yếu trong nhà, thường
là vào đêm khuya thanh vắng. Do đó, âm nhạc trong then là loại nhạc êm dịu, ấm


cúng, nhẹ nhàng và tâm tình. Phạm vi sân khấu của nó là một chiếc chiếu gồm một
người đàn hát và người xóc nhạc vừa đủ cho người nghe và xem trong khuôn khổ
một gia đình ( ngoại trừ các cuộc đại lễ then và then ngoài trời).
Âm nhạc trong then được diễn tả biểu hiện nội dung văn học có cốt truyện dài ngắn
khác nhau. Vì thế, cấu trúc âm nhạc khác với các loại dân ca ta thường gặp. Dân ca
thường là khúc hát trọn vẹn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần với lời ca khác nhau.
Nhưng hát then lời ca nhiều khi được nhắc đi nhắc lại trên một làn điệu nhưng
không có kết thúc trọn vẹn mà liên tục cho đến hết bài bản nội dung của một buổi
then. Cũng do quy định nội dung chặt chẽ của văn học nên âm nhạc trong then khá
phong phú về giai điệu và chặt chẽ về tiết tấu nhịp điệu bởi nó luôn được đi đôi với
nhịp điệu của tiếng đàn và bộ xóc nhạc.
Nhạc điệu trong then ở từng địa phương có sự tiếp thu các làn điệu dân ca nhưng
lượn, hát ru,.. có những đạo trong then được dùng nguyên một loại lượn như lượn
cọi ở then Tuyên Quang, lượn then hoặc lượn nàng hai ở then cao bằng,... Tuy
nhiên, then ở mỗi địa phương, mỗi tỉnh khác nhau đều có những màu sắc âm nhạc

khác nhau. Đặc điểm này tạo cho âm nhạc trong then có sự giàu có về màu sắc
khúc thức và tiết tấu âm nhạc.
Âm nhạc trong then có sự giao lưu với loại âm nhạc khác như chất giai điệu và
phong cách diễn xướng của thầy mo, trong một số chương đoạn nhưng có phần
tiếp thu và cải biến phù hợp từng nội dung văn học cũng như tính chất của then nhẹ
nhàng ấm cúng và sinh động hơn. Then được hình thành và phát triển trong dân
gian nhưng thường phát triển theo kiểu nối nghề nối nghiệp, theo kiểu cha truyền
con nối, hoặc có số mệnh phải theo then thì cũng phải theo học thầy thành thạo một
thời gian daig mới đứng ra làm then độc lập. Cách thức này biến then trở thành
một loại hình âm nhạc dân gian mang trình độ cao, chuyên nghiệp có tay nghề đạt
tới trình độ cao về nghệ thuật. Trong lễ làm then thường có múa và úa then nằm
trong nghi thức tôn giáo. Tuy nhiên múa then bao giờ cũng phải kèm theo đạo cụ.
Và âm nhạc trong múa then đơn giản, thường dùng đàn tính và chùm xóc nhạc để
đệm song tiết tấu âm nhạc múa phong phú một số nơi có hát.
2.1.3.1. Các hình thức âm nhạc trong then
Bên cạnh ý nghĩa tôn giáo tín ngưỡng, then còn được xem xét như một yếu tố là
một loại diễn xướng do chỉ có một người hát với cây tính then và chùm xóc nhạc.


Ở trong những cuộc đại lễ then có nhiều người cùng đàn, hát, múa. Như vậy, âm
nhạc trong then có cả nhạc hát, nhạc đệm , nhạc không lời, nhạc múa.
2.1.3.2. Các nhạc cụ trong then
Nhạc cụ trong then chủ yếu là đàn tính và đàn xóc, nhưng chuông cũng có lúc
được sử dụng tuy nhiên rất ít. Tuy chỉ có hai nhạc cụ chính nhưng các cuộc then có
thể đảm nhiệm được phần nhạc đệm cho hát, cho múa và cả những bài nhạc không
lời, nhạc lưu không. Hai nhạc cụ cần thiết không thể thiếu cho múa then. Một số
đoạn mang nội dung cầu cúng, bẩm báo hay trình diện then còn sử dụng cả chuông
như một sự báo hiệu với tính chất nghiem trang kính cẩn. Có một số dụng cụ đặc
biệt được dùng nhiều trong then.
2.1.3.2.1. Tính then

Tính dùng trong then người Tày quen gọi là “ăn tính”, trong đó “ăn”, “tính” có
nghĩa là đàn. Nhiều nơi chỉ gọi là tính có nghĩa là cây đàn tính dùng trong hát Then
làm then.
Tính then giống tính tẩu của người Thái là nhạc cụ học dây chi gẩy. Là nhạc cụ họ
dây vì có nguồn rung là dây rung, phương pháp kích âm là dùng ngón trỏ phải tác
động vào dây theo hai chiều nên thuộc chi gẩy.
Tính có nhiều cỡ to nhỏ, tùy theo từng vùng. Loại to có âm thanh to, khỏe phù hợp
với giọng trầm ấm, loại nhỏ có âm thanh cao, tươi sáng phù hợp với giọng nữ trẻ.
Loại cỡ trung bình có thể phù hợp với nhiều loại giọng. Tính then là nhạc cụ dân
gian được dùng với các nguyên liệu sẵn có ở địa phương và được làm bằng phương
pháp thủ công do vậy không có một kích thước cố định. Đặc biệt tính then rất phổ
biến ở Ba Bể- Bắc Kạn.
Cấu tạo
Tính then có cấu tạo khá đơn giản. Đàn đươc làm bằng gỗ nhẹ, mịn thớ, ít cong
vênh. Chiều dài cần đang theo cách tính của nghệ nhân là chín nắm tay cộng lại, số
đo bằng chín nắm tay này tương đương cới chiều dài khoảng 75- 90 cm. Cây đàn
nhẵn, trơn không có phím. Phía đầu cần đàn lắp trục lên dây, tùy từng nơi dùng đàn
2 dây hoặc 3 dây mà số trục có khác nhau. Ở Ba Bể Bắc Kạn người Tày thường
dùng đàn 3 dây bởi dây thứ 3 là dây trầm nhất cũng giống như con người nơi đây


nhẹ nhàng bình dị, không những thế tiếng đàn ru dương dễ đi vào lòng người. Mặt
cần được lắp thẳng với mặt đàn, phía đầu trên trục lên dây người ta chạm khắc
những hoa văn hình các con vật như rồng, long mã, con phượng, con cá hoặc bằng
các thứ hoa như hoa chuối. Có đầu đàn được chạm công phu có các chữ như “
Phúc Thọ Ninh Khang” ở bốn mặt.
Mặt đàn xưa được làm bằng các loại gỗ dai, xốp và chống được ẩm. Nhiều nơi còn
bưng mặt đàn bằng giấy bàn ép và dùng nhựa của nâu nhựa cây nhựa hồng để gắn
mặt với bầu đàn. Mặt đàn được xẻ mỏng khoảng 2,5 đến 3mm bào nhẵn tránh
không có sẹo gỗ để âm thanh lan đều.

Bầu đàn được làm bằng quả bầu cắt đi 1/3 để già phơi khô. Về kích thước, các
nghệ nhân thường chọn cách tính như sau: 3 nắm bầu, 9 nắm cần. Kích thước
tương ứng đường kính khoảng 15- 20cm, chiều cao bầu đàn khoảng 12- 15cm. Để
có được tiếng đàn vang và chuẩn, bầu đàn phải có độ tròn và dày đều. Xung quanh
bầu đàn gần sát phía mặt đàn được khoét nhiều lỗ thoát âm, thường khoét các lỗ
tròn nhỏ tùy theo từng cụm( khoảng 6 cụm) như hình hoa, mỗi cụm khoảng 9 lỗ
nhỏ.
Ngựa đàn là một miếng gỗ nhỏ hình thang, chiều cao khoảng từ 1- 1,4cm, chiều dài
khoảng 3-4cm. Phía dưới ngựa luôn được khoét hình tròn hoặc hình chữ M tạo cho
ngựa luôn áp sát xuống mặt đàn, tránh được tiếng rè. Điểm đặt ngựa chính giữa
măt đàn tạo sự cân đối tạo sự chấn rung tốt. Do đó, có thể thấy tiếng tính có âm
hưởng vang, không bị tức tiếng và có âm sắc ấm áp.
Dây đàn ngày nay thường dùng dây nilon, cước tuy nhiên ở huyện Ba Bể tỉnh Bắc
Kạn đồng bào dân tộc tày vẫn giữ được nét văn hóa xưa dây đàn được se bằng tơ
tằm lấy sáp ong vuốt nhẵn, kêu trơn hơn gọn tiếng hơn mà lâu hỏng.
Nghệ thuật biểu hiện và khả năng diễn tấu của tính then
Nghệ nhân khi đánh phải đặt bầu nằm trên đùi phải, dùng ngón tay cái của tay trái
để đỡ lưng cần đàn các ngón tay còn lại dùng để bấm dây. Tay phải ngón cái và
ngón 3, 4, 5 cầm ở chỗ tiếp giáp giữa bầu đàn và cần đàn dùng ngón trỏ tay phải để
gẩy đàn theo hai chiều. Khi gẩy lên âm thanh phát ra bởi phần thịt của đầu ngón
tay tạo ra âm sắc dịu dàng mềm mại. Còn khi gẩy xuống có phần ảnh hưởng của


móng tay nên âm sắc cứng thô và có phần hơn đanh. Khi trình diễn hay âm đó
được trộn đan xen vào nhau tạo cho tính then có một âm sắc độc đáo đặc biệt.
Tính then là loại đàn có tính năng động, linh hoạt trong diễn tấu. Nó có thể diễn tấu
được bài nhạc đàn, nhạc đệm cho hát, đệm cho múa với các giai điệu 2, 3 bè. Và
tùy theo tình cảm giai điệu của bài hát múa, đàn, các nghệ nhân còn trình diễn với
nhiều sáng tạo phong phú khác nhau như: ở những đoạn nhộn nhịp hoặc tương đối
tự do, các ngón bấm của tay trái có thể dùng ngón bấm của tay trái để dùng búng,

vuốt. Các ngón 3, 4, 5 tay phải có thể dùng đập và mặt đàn tạo ra những âm tiết
như tiếng trống đệm, tiếng gõ giữ nhịp. Tính chất của tính then nổi bật là tính trữ
tình, chất phác, hồn nhiên, vui tươi và những suy tư trong cuộc sống của người
Tày. Tuy không phải là cây đàn hào nhoáng có sức mạnh nổi bật ở bề ngoài nhưng
nó thực sự là cây đàn phù hợp với kỹ thuật tinh tế như trượt vuốt, láy rền, vê,...
Những đường nét lèo lượn mang tính chất trang trí rất phù hợp với ngôn ngữ, âm
nhạc trong then của người Tày.
2.1.3.2.2. Chùm xóc nhạc
Chùm xóc nhạc là nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, phương pháp kích âm là gõ
chùm xóc nhạc xuống một miếng vải vuông, được đặt trên sàn nhà, mặt đát hoạc
cầm chùm nhạc rung, lắc, đạp vào vai người khi múa.
Chùm xóc nhạc có những tên gọi khác nhau tùy theo từng địa pương, có nơi gọi là
mạ, sáu mạ,.. và tùy từng địa phương mà chùm xóc nhạc có kích cỡ khác nhau.
Chùm xóc nhạc to hay nhỏ sẽ ảnh hưởng tới âm sắc. Chùm nhạc to thường có âm
sắc vang, ấm, còn chùm xóc nhạc mảnh và nhỏ thường có âm sắc đanh và chói
hơn, chùm nhiều qua nhạc sẽ có âm lượng lớn.
Cấu tạo
Cấu tạo của chùm xóc nhạc đơn giản thường gồm nhiều vòng tròn bằng kim loại
bằng đồng hoặc đồng pha bạc lồng vào nhau xâu thành từng chuỗi, xen vào đó
ghép thêm những quả nhạc nhỏ rồi ghép nhiều chuỗi dài này vào với nhau bằng
một vòng tròn nhỏ hơn để cầm hoặc ngoắc vào ngón chân cái khi sử dụng. Chùm
nhạc mỗi vùng có những hình dáng khác nhau. Nhiều vùng phần tiếp giấp còn có
trang trí một miếng đồng bằng hình tròn, đúc đăc hoặc dát mỏng chỉ để hở đủ cho
vòng tròn chui lên. Miếng đồng này vừa tạo dáng đẹp cho chùm xóc nhạc đồng


thời để tay cầm có độ tỳ chắc chắn khi xóc nhạc. Chùm nhạc tại huyện Ba Bể ngắn
gọn hơn không có những vòng tròn ngoắc vào nhau kết thành ình dài mà gồm
nhiều quả nhạc kết vào nhau thành hình tròn để lọt được vào lòng bàn tay để xóc
khi múa và có thể ngoắc vào ngón chân cái khi ông, bà then vừa hát vừa đệm đàn.

Chùm nhạc ở Ba Bể Bắc Kạn được làm bằng chất đồng pha với bạc tạo ra âm
thanh trong trẻo đặc biệt nhờ vào những miếng vải vuông có thêu hoa văn lót ở
dưới làm cho những vòng tròn của chùm nhạc khi giao thoa lên xuống không trực
tiếp chạm vào mặt bằng của chất rắn bớt được tạp âm, tạo âm hưởng hài hòa với
màu âm gảy của tính then.
Nghệ thuật biểu diễn và khả năng diễn tấu
Nghệ nhân sử dụng chùm nhạc theo nhiều cách khác nhau. Thứ nhất là ngoắc
chùm nhạc vào ngón tay trỏ, hoặc ngón thứ ba, bàn tay ngửa tỳ khuỷu tay lên đùi
rồi gõ chùm nhạc xuống một miếng vải vuông theo hình thổ cẩm được đặt trên mặt
sàn hoặc mặt đất nơi gần người làm then. Thứ hai là người nghệ nhân then vừa hát
vừa ngoắc chùm xóc nhạc vào ngón chân cái ngồi theo tư thế xếp chân vòng tròn,
dùng bàn chân đưa lên đưa xuống gõ chùm nhạc xuống mặt sàn, mặt đất theo nhịp
đàn. Thứ ba là khi múa, nghệ nhân có thể cầm chùm xóc nhạc vừa múa vừa lắc,
rung hoặc đạp vào vai tạo ra âm thanh với nhiều âm sắc khác nhau. Chùm xóc nhạc
có khả năng diễn tấu linh hoạt, làm chức năng đệm cùng với tính then, đệm cho
hát, đó là những đoạn mà Then và đội quân Then đi ngựa, tiếng chùm nhạc vang
lên cho then và người nghe một cảm giác tiếng nhạc phát ra từ những quả nhạc trên
cổ con ngựa đang chạy nước kiệu, gợi cho người nghe xung quanh một hình ảnh
Then và đội quân Then lên đường rất oai nghiêm, khí thế trên lưng ngựa có cả một
đoàn ngựa người hộ tống, phục dịch.
Cũng có đoạn then dùng xóc nhạc đệm riêng cho hát. Song cũng có tới những đoạn
trong cái đại lễ then có tới 4, 5 bộ xóc nhạc hòa một lúc với tính và hát.
Ngoài chức năng đệm, chùm xóc nhạc còn là đạo cụ gây nhiều hứng thú cho múa
trong then, ở những đoạn như chèo lửa, khảm hải,... chùm xóc nhạc thực sự gây
hiệu quả về âm lượng, âm sắc, giữ vững nhịp cho múa. Trong đoạn này thường
dùng nhiều chùm nhạc để múa, người múa cầm bộ xóc nhạc trên tay vừa múa vừa
xóc nhạc, và ít nhất cũng gồm từ 4 đến 6 hoặc 8 chùm xóc nhạc trở lên, tùy thuộc
vào khả năng mời của chủ then để hòa với nhau, kết hợp với múa và hát, tiếng hú



tạo không khí sôi nổi, vui tươi hấp dẫn, có thể nói là một trong những chương đoạn
hay nhất trong các cuộc đại lễ then.
2.1.3.2.3. Chuông
Chuông là nhạc cụ thuộc họ tự thân vang. Phương pháp kích âm là gõ, khác với
chuông nhiều dân tộc và nghi lễ khác là chuông được lắc hoặc rung. Chuông trong
then có nhiều kích cỡ hình dáng và sử dụng khác nhau tùy theo từng vùng.
Cấu tạo
Chuông cấu tạo đơn giản, thường được đúc bằng đồng, trong bụng rỗng. Khác với
chuông của một số dân tộc, chuông trong then không treo một con lắc trong bụng
mà thường dùng một thanh nhỏ bằng đồng để gõ vào thân chuông. Thông thường
chuông có đường kính từ 4-6cm, cao khoảng 8-10cm. Trên thực tế chuông ở Bắc
Kạn thường nhỏ hơn chuông các vùng khác, phía trên đầu chuông có mấu để tra
cán bằng dây hoặc bằng gỗ.
Nghệ thuật biểu diễn và khả năng diễn tấu
Thông thường chuông được sử dụng theo cách rung hoặc lắc song trong then, các
nghẹ nhân phần lớn một tay cầm chuông, một tay cầm thanh nhỏ bằng kim loại gõ
vào thân chuông theo từng hồi một. Kể cả khi múa, các nghệ nhân vừa múa, vừa
cầm chuông gõ theo nhịp của chùm xóc nhạc và nhịp điệu của múa.
Chuông trong then được sử dụng rất ít, song lại là nhạc cụ quan trọng không thể
thiếu trong nghi lễ then. Nó thường được các ông bà then sử dụng ngay từ đầu
cuộc then, hoặc đầu của một chương đoạn mang tính nghi lễ, cầu cúng trước bàn
thờ gõ chuông để báo hiệu, thông báo một nghi lễ nào đó quan trọng với sự trang
nghiêm kính cẩn. Ở các cuộc đại lễ then ở Ba Bể, trong múa thấy sử dụng chuông
gõ theo nhịp xóc nhạc vừa như một đạo cụ vừa tăng sự phong phú về âm nhạc vừa
tăng cường tiết tấu cho múa.
2.1.4. Văn hóa hát then của đồng bào dân tộc Tày ở huyện Ba Bể- Bắc Kạn
Trong đời sống xã hội người dân tộc Tày vùng hồ Ba Bể, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc
Cạn, hát then – đàn tính đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi người dân nơi đây.



Nghệ thuật hát then đang được giới thiệu rộng khắp qua nhiều hình thức khác
nhau. Đặc biệt, ở những thôn, xóm xung quanh khu vực hồ Ba Bể đã hình thành
nên nhiều nhóm, câu lạc bộ hát Then nhằm gìn giữ, phát triển, quảng bá loại hình
nghệ thuật này đến các du khách tham quan. Các câu lạc bộ Hát then ở thôn Cốc
Tộc, xã Nam Mẫu hay câu lạc bộ Hát then vùng hồ Ba Bể, thôn Nà Ngộm, xã Chu
Hương,... huyện Ba Bể là không còn xa lạ với người dân nơi đây.
Bên cạnh việc cùng nhau bảo tồn nét văn hóa truyền thống của dân tộc mình, các
câu lạc bộ này cũng đang hoạt động sôi nổi trong việc nhận tổ chức, biểu diễn cho
du khách đến thăm quan khu vực hồ Ba Bể.
Văn hóa hát then ở huyện Ba Bể đi sâu vào các lễ hội nổi bật tại địa phương như
hội Lồng Tồng hay hội hồ Ba Bể, những làn điệu của then ở đây có phần khác so
với các địa phương khác, then của đồng bào dân tộc Tày có phần nhẹ hơn, ru
dương hơn, rủ rỉ, thì thầm đi vào lòng người cũng như cuộc sống bình lặng của họ.
2.2. Công tác về bảo tồn và phát triển văn hóa hát then của đồng bào dân tộc Tày ở
huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn
Được biết đến là một di sản văn hóa dân gian độc đáo, then được lưu giữ và phát
triển thành một không gian văn hóa đồ sộ về khối lượng, phong phú về thể loại, đa
dạng về hình thức biểu diễn. Vốn không chỉ đơn thuần là một loại hình nghệ thuật
diễn xướng, then còn là một hình thức tín ngưỡng lâu đời của đồng bào các dân tộc
Tày, Nùng, Thái. Chính vì then gắn với tín ngưỡng nên loại hình nghệ thuật này
đươc lưu giữ và truyền lại cho nhiều thế hệ kế tiếp. Tuy nhiên, then đang đứng
trước nguy cơ mại một trong xã hội do lớp nghệ nhân đã quá già, thiếu những thế
hệ kế cận, không gian diễn xướng cho loại hình nghệ thuật này cũng đang mất dần
trong cơn lốc đô thị hóa. Vì vậy cần sự chung tay của tất cả mọi người để có thể
bảo tồn và phát triển được văn hóa hát then, làm cho kho tàng văn hóa Việt Nam
càng thêm sâu sắc và đậm đà bản sắc dân tộc.
2.2.1. Bảo tồn và phát triển văn hóa hát then của nhà nước
Nhằm thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát triển văn hóa hát then của đồng bào
dân tộc Tày cũng như nâng cao và lan rộng văn hóa đến với mọi người. Trong năm
2013-2014, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công bố công nhận các Di sản văn

hóa phi vật thể quốc gia, trong đó có “Nghi lễ hát Then của người Tày”. Hiện Bộ
Văn Hóa Thể Thao &Du Lịch đang nỗ lực hoàn thiện hồ sơ đệ trình Tổ chức Văn


hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận hát then là
Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2016. Đây là một tín
hiệu vui, một nỗ lực vinh danh loại hình nghệ thuật diễn xướng tổng hợp và thiết
thực, góp phần bảo tồn, phát huy giá trị di sản hát then trong đời sống văn hóa
cộng đồng.
Thực hiện Nghị Quyết TW5 Khóa VIII về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Hiện nay tỉnh Bắc Kạn đang phối hợp với các tỉnh
khác có cùng văn hóa hát then và Viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam tổ chức đều đã
thu thập tài liệu, tổ chức ghi hình, thu thanh, dịch thuật các hình thức lễ then tại các
địa phương (thời gian từ tháng 5-9/2014); tập hợp tài liệu, đặt các bài viết chuyên
đề về di sản then, tổng hợp, biên soạn sách kiểm kê, kỷ yếu hội thảo quốc tế, xây
dựng bản đồ điện tử, viết hồ sơ khoa học theo mẫu UNESCO quy định.
Bên cạnh đó Sở cũng đang xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích, ưu đãi, tôn
vinh các nghệ nhân là người có công, tâm huyết lưu giữ, truyền dạy các loại hình
văn hóa nghệ thuật đệ trình UBND tỉnh. Đồng thời, định hướng cho Đoàn Nghệ
thuật dân tộc nghiên cứu, sưu tầm chất liệu văn hóa dân gian các dân tộc, trong đó
có loại hình nghệ thuật múa, hát then để xây dựng chương trình, tiết mục biểu diễn
phục vụ nhân dân. Đây vừa là nhiệm vụ, vừa nhằm khơi dậy ý thức bảo tồn giá trị
di sản văn hóa dân tộc mình.
Mặc dù điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, nhưng trong những năm vừa qua
tỉnh Bắc Cạn đã có nhiều hình thức để bảo tồn và phổ biến hát then trong xã hội.
Ðoàn nghệ thuật dân tộc tỉnh có nhiệm vụ biểu diễn văn hóa, nghệ thuật phục vụ
đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân các dân tộc vùng cao, vùng sâu, vùng xa
trong tỉnh. Với ý thức trân trọng nét văn hóa truyền thống của dân tộc Tày, Ðoàn
nghệ thuật dân tộc tỉnh thường xuyên sưu tầm, dàn dựng nhiều tiết mục then cổ, cải
biên nhưng vẫn giữ những nét đặc trưng của nhiều làn điệu dân ca của dân tộc Tày,

đặc biệt là hát then để phục vụ đồng bào thiểu số. Vì thế, mỗi khi đi lưu diễn phục
vụ ở vùng sâu, vùng xa là được cấp ủy, chính quyền và đồng bào dân tộc thiểu số
nhiệt tình hưởng ứng, đồng tình. Cơ quan quản lý văn hóa ở các huyện trong tỉnh
cũng có nhiều hình thức bảo tồn hát then, như hướng dẫn thành lập câu lạc bộ hát
then ở các thôn, bản ở huyện Na Rì, thị xã Bắc Kạn nhằm tập hợp các nghệ nhân,
những người biết hát và yêu thích hát then để luyện tập, phục vụ cộng đồng ở nơi


cư trú. Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Chợ Ðồn còn dạy các em học sinh hát
then, đánh đàn tính vào dịp các em được nghỉ hè.
Cùng với đó là đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm làm lan rộng nét văn hóa hát
Then đến toàn tỉnh để mọi người thêm hiểu và có thêm tình yêu đối với văn hóa hát
then. Tổ chức các chương trình Liên hoan hát then, đàn tính lần I và II tại Thái
Nguyên năm 2005, Cao Bằng 2007, và vừa qua Liên hoan hát then, đàn tính lần III
tại Bắc Kạn đã được nhiều người háo hức đón nhận không chỉ riêng với cộng đồng
người Tày mà cả với các tộc người khác trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Đây là việc làm có ý nghĩa thiết thực, hướng mọi người đến những nét đẹp về văn
hóa của địa phương, càng làm củng cố và đưa văn hóa hát then len lỏi vào trong
mỗi con người.
2.2.2. Bảo tồn và phát triển văn hóa hát then của người dân
Trong mối quan hệ giữa người dân và văn hóa di sản, người dân chính là những
người nắm giữ và thực hành các nền văn hóa, giữ vai trò vừa là chủ thể sáng tạo
vừa là người hưởng thụ các di tích văn hóa đó. Với vị trí và tầm quan trọng mang
tính quyết định của cộng đồng người dân. Thì mỗi người dân ở khu vực đó, cần
phải nhận thức được mình đã làm gì để bảo vệ văn và cách thức quản lý văn hóa
như thế nào? Tất cả mọi người dân trên địa bàn văn hóa đấy đã thực sự tham gia
vào công tác bảo tồn phát triển văn hóa với vai trò tích cực, chủ động và sáng tạo
hay chưa? Người dân đã làm được gì trong quá khứ và đang làm được những gì
trong hiện tại? Chính vì vậy các đồng bào đang sinh sống và làm việc trên mảnh
đất nơi có nền văn hóa lâu đời mà cha ông để lại này đều có ý thúc tự hào và hiểu

biết sâu về văn hóa hát then của dân tộc mình, vì ý thức tự hào này họ luôn cố gắng
và phát huy các giá trị của văn hóa hát then.
Hát then là một nhu cầu sinh hoạt tâm linh, văn hóa, tinh thần không thể thiếu đối
với họ. Những gia đình người dân tộc Tày, ở nông thôn có điều kiện kinh tế, đầu
năm thường mời nghệ nhân về nhà hát then cầu lộc, cầu tài, mong ước những điều
may mắn, khát vọng về cuộc sống bình yên. Những cuộc hát then như vậy chủ
nhân thường mời anh em, họ hàng thân thích, hàng xóm gần gũi đến nghe, thưởng
thức hát then, kết thúc bằng một bữa liên hoan vui vẻ, chan chứa tình người.
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, nhiều biến cố thăng trầm, sinh hoạt Then vẫn tiếp
tục được lưu truyền qua nhiều thế hệ và là một phần không thể thiếu trong văn hóa


tín ngưỡng và văn hóa tinh thần của đồng bào dân tộc Tày ở Bắc Kạn cho đến ngày
nay. Hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn có 34 nghệ nhân làm Then Tày, chiếm hơn
80% tổng số nghệ nhân làm Then trong toàn tỉnh, tập trung chủ yếu ở các huyện
Ba Bể và Chợ Mới; 161 người biết hát Then, đàn Tính và 8 câu lạc bộ duy trì hoạt
động hát Then, đàn Tính. Việc duy trì các câu lạc bộ hát Then, đàn Tính đã góp
phần quan trọng trong công tác bảo tồn văn hóa truyền thống cũng như nâng cao
đời sống tinh thần của nhân dân.
Tại huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn đội văn nghệ quần chúng bản Pác Ngòi, xã Nam
Mẫu huyện Ba Bể tập hợp đội ngũ thanh niên nam nữ ở địa phương, được ngành
văn hóa huấn luyện hát then, đánh đàn tính, may sắm trang phục để biểu diễn phục
vụ du khách đến du lịch hồ Ba Bể. Hát then cùng với bảo tồn nhà sàn của người
dân tộc Tày ở bản Pác Ngòi từ lâu đã là địa chỉ du lịch hấp dẫn đối với nhiều du
khách trong và ngoài nước. Tích cực gìn giữ những bản sắc dân tộc độc đáo.
Bắc Cạn là một trong những nơi nghệ thuật trình diễn hát then được bảo tồn và
phát triển tương đối tốt. Trong hầu hết các chương trình văn hóa, văn nghệ quần
chúng ở địa phương, tiết mục hát then là một trong những tiết mục không thể thiếu
của đồng bào nơi đây.Trên địa bàn tỉnh đã thành lập được nhiều Câu lạc bộ văn
nghệ ở các xã, thị trấn và một số cơ quan, trường học, trong đó hát then, đàn tính

được coi là mũi nhọn. Chính những hoạt động tích cực của các đội văn nghệ quần
chúng ở cơ sở đã góp phần gìn giữ khôi phục và phát huy những giá trị truyền
thống tốt đẹp của người Tày. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bắc Cạn còn một số nghệ
nhân cao tuổi am hiểu về đàn tính - hát then đồng thời cũng là những hạt nhân
tham gia gìn giữ, truyền dạy then cho thế hệ trẻ. Tiêu biểu trong số đó là nghệ nhân
Lưu Đình Bạo ở xã Dương Quang, thị xã Bắc Kạn là người đang giữa một kho
tàng then cổ và ông cho biết gia đình đã trải qua tám đời theo nghề hát, những bài
then phổ biến mà ông thường sử dụng chính là sản phẩm được truyền lại từ các thế
hệ đi trước.
Đặc biệt nghệ nhân Ma Văn Vịnh ở thôn Phiêng Giường, xã Yên Cư, huyện Chợ
Mới đã sưu tầm và lưu giữ được hơn 100 bài then, trong đó có những bài quý hiếm
của lễ lẩu then (lễ cấp sắc của nhà then), then Đệ Cộ. Ông cũng là người đã sưu
tầm được 36 kiểu hát then và một số bài trong đó có thể hát theo nhiều kiểu. Năm
2008 ông Vịnh tham mưu cho chính quyền xã ra quyết định thành lập "Câu lạc bộ
hát then - dân ca Tày bản Tinh" do ông làm chủ nhiệm. Ban đầu câu lạc bộ tập hợp
hơn mười nghệ nhân hát then ở các xã Bình Văn, Yên Hân và Yên Cư, đến nay câu


lạc bộ đã lên đến gần 30 người, trong đó có nhiều người tuổi còn rất trẻ. Ông Vịnh
cho biết: "Câu lạc bộ được hình thành bằng sự yêu thích và niềm đam mê hát then,
đàn tính của các thành viên, mặc dù không có khoản thù lao nào, nhưng câu lạc bộ
vẫn hoạt động đều để trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau, tập luyện cho giọng
hát thêm mượt mà, tiếng đàn thêm thuần thục ngọt ngào". Ðặc biệt, với tinh thần
muốn bảo tồn hát then nên câu lạc bộ rất tích cực dạy hát, dạy đánh đàn tính cho
thanh niên, thiếu niên. Bản thân ông Vịnh đã truyền sự đam mê hát then của mình
cho nhiều cháu ở bản Phiêng Dường, nơi ông cư trú. Với sự kèm cặp của ông Vịnh
mà tiếng đàn, lời hát của Ma Thị Hậu, Ma Thị Chiêm, Ma Thị Niên nay đã đằm
thắm, ngân nga.
Mỗi khi có hội diễn nghệ thuật quần chúng ở địa phương, Câu lạc bộ hát then - dân
ca Tày bản Tinh lại sôi nổi luyện tập, dập dìu chuẩn bị áo mũ đi biểu diễn. Năm

2009, ông Vịnh đưa Câu lạc bộ hát then - dân ca Tày bản Tinh đi biểu diễn tại Liên
hoan nghệ thuật hát then, đàn tính toàn quốc tổ chức tại thị xã Bắc Kạn; đầu năm
2010 đi biểu diễn tại các lễ hội xuân ở Bình Văn, Yên Hân, Yên Cư về ai cũng
phấn khởi, hoạt động của câu lạc bộ sôi nổi hẳn vì nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc
này được toàn xã hội tôn vinh, trân trọng đón nhận. Ông Vịnh còn làm "đạo diễn"
để câu lạc bộ dàn dựng tiết mục "cấp sắc", bỏ tiền túi thuê thợ quay ca-mê-ra, dựng
thành băng đĩa hình. Sau đó ông xin phép cơ quan có thẩm quyền để in sao ra
nhiều đĩa hình đưa đi các hội xuân, chợ Tết ở địa phương vừa bán, vừa cho những
người yêu thích hát then nhằm phổ biến, bảo lưu loại hình nghệ thuật này. Mặc dù
bận với mưu sinh hằng ngày, nhưng niềm yêu thích và đam mê hát then chưa bao
giờ vơi cạn. Ông Vịnh dành thời gian trồng bầu để lấy những quả già, đẹp, tròn
làm đàn tính. Ðến nay ông đã làm được gần 40 chiếc đàn tính, bán rẻ, tiền bán đàn
đủ bù đắp công sức làm ra, thậm chí có người đam mê nhưng không có đủ tiền thì
ông tặng luôn. Trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn hiện nay, ông Vịnh là một trong những
người còn làm đàn tính.
Hiện nay Sở Văn Hóa Thể Thao Du Lịch tỉnh Bắc Kạn cùng các cấp chính quyền
địa phương đã tổ chức mời các nghệ nhân đàn tính - hát then về hướng dẫn và
truyền dạy cho thế hệ trẻ. Đồng thời tiếp tục duy trì loại hình nghệ thuật này không
chỉ trên sân khấu mà còn trình diễn trong những ngày lễ tết, tổ chức cầu an, cầu
may, chúc thọ… Mặc dù đạt được những thành công nhất định, nhưng nghệ thuật
trình diễn dân gian đàn tính - hát then vẫn đang có nguy cơ mai một, thất truyền do


địa phương chưa có chính sách đãi ngộ nghệ nhân tài giỏi, am hiểu chuyên sâu về
lĩnh vực này, đặc biệt là thu hút thế hệ trẻ tham gia gìn giữ di sản văn hóa then.
2.3. Những ưu điểmvà hạn chế trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa hát
then của đồng bào dân tộc Tày
2.3.1. Ưu điểm
Hát then đã được Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch cấp bằng công nhận Di sản văn
hóa phi vật thể cấp quốc gia vào cuối tháng 1.2016. “Để bảo tồn và phát triển văn

hóa dân tộc, hát then đã được trình hồ sơ cho Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia
xem xét để đệ trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại.
Những năm qua, Sở Văn Hóa Thể Thao Du Lịch đã tham mưu, đề xuất với Uỷ Ban
Nhân Dân tỉnh một số giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị của loại hình nghệ thuật
then như: nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn, xuất bản các cuốn sách, đĩa nhạc về hát
then Tày; tham mưu với Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh năm ngành tổ chức các lớp bồi
dưỡng, tập huấn hát then cho hạt nhân văn nghệ cơ sở; mời các nghệ nhân đến
truyền dạy các làn điệu then cổ; phối hợp với huyện, xã có nghệ nhân tâm huyết
với các làn điệu then cổ để mở lớp truyền dạy cho thế hệ trẻ tại địa phương.
Hiện nay Tỉnh đã tiến hành khảo sát địa chỉ các Nghệ nhân âm nhạc truyền thống
của đồng bào Tày, để từ đó có chính sách đãi ngộ phù hợp, thu thập và khôi phục
các làn điệu then cổ. Phố hợp với các cấp, các ngành tổ chức các lớp tập huấn đàn
tính và các làn điệu dân ca, hội thi hát dân ca và phục dựng được hội lồng tồng
truyền thống.
Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bắc Kạn đã tổ chức hội thảo khoa hoc với chủ đề về
văn hóa hát then, tại đây nhiều học giả , nhà nghiên cứu văn hóa đến từ các trường
đại học, viện nghiên cứu tiếp tục khẳng định làm sáng tỏ những giá trị to lớn của
then và đưa ra những biện pháp hữu hiệu để bảo tồn cũng như phát triển then.
Bên cạnh đó, mỗi người dẫn cũng đã ý thức được trong việc bảo vệ nét văn hóa của
dân tộc mình, đã đưa then lan truyền đến nhiều người, hát then lan rộng hơn trong
các ngày lễ, Tết,... Không những thế, đồng bào dân tộc ở đây còn quảng bá được
văn hóa hát then cho các du khách trong và ngoài nước khi đến đây quan tham, du


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×