Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Phân tích nội dung và ý nghĩa “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.68 KB, 9 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Hiến pháp
năm 2013 có quy định “ Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Đây
là nguyên tắc mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992. Chính vì
vậy, theo quy định nêu trên của Hiến pháp năm 2013, pháp luật tố tụng nhất thiết
phải cụ thể hóa nguyên tắc này trong công tác xét xử của Tòa án nhân dân trong các
lĩnh vực. Và để hiểu rõ hơn về nguyên tắc này em xin được chọn đề tài : “ Phân
tích nội dung và ý nghĩa “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”
(khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013)”.

B. NỘI DUNG
I.KHÁI QUÁT CHUNG NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ
ĐƯỢC BẢO ĐẢM
Chương VIII Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân Hiến pháp 2013 tại Điều
102 quy định: “1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.
Xét xử là một hoạt động Nhà nước đặc biệt do Tòa án thực hiện nhằm giải
quyết các vụ án. Trong toàn bộ quá trình tố tụng, xét xử đóng vai trò trung tâm, thể
hiện đầy đủ nhất bản chất của hệ thống tư pháp của mỗi nhà nước, là giai đoạn
quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Điều 13 Luật tổ chức tòa án nhân dân 2014: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử: “
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm
cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử.Việc
thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo quy định của luật tố tụng”.
1


Theo Từ điển tiếng Việt, “tranh tụng” có nghĩa là kiện cáo lẫn nhau. Theo nghĩa
Hán Việt thì thuật ngữ tranh tụng được ghét từ 2 từ đó là “tranh luận” và “tố
tụng”. Tranh tụng là tranh luận trong tố tụng. Tranh tụng là hoạt động của các bên


tham gia xét xử đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại để bác bỏ một
phần hoặc toàn bộ quan điểm của phía bên kia. Tranh tụng là cơ sở để Tòa án đánh
giá toàn bộ nội dung vụ án và đưa ra phán quyết cuối cùng đảm bảo tính khách
quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xác định tầm quan trọng của hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa, khoản 5 Điều 103 Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định
“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Đây là một trong những đổi
mới đáng chú ý vì lần đầu tiên Hiến pháp đã ghi nhận nguyên tắc bảo đảm tranh
tụng trong xét xử.
II. NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT
XỬ ĐƯỢC BẢO ĐẢM
1. Nội dung
Tranh tụng là nguyên tắc quan trọng trong tố tụng nói chung và xét xử nói
riêng. Để bảo đảm cho nguyên tắc tranh tụng được thực hiện đầy đủ trong tố tụng
nhằm giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên tham gia tố tụng, cần thiết phải có một hệ thống các bảo đảm về pháp lý, về
tổ chức cũng như về cơ sở vật chất. Hiện nay, trong khoa học pháp lý còn nhiều ý
kiến khác nhau về nội dung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Có ý kiến cho rằng,
tại phiên tòa các bên chỉ thực hiện việc tranh tụng trong giai đoạn tranh luận, còn
xét hỏi là nhiệm vụ của Hội đồng xét xử và Viện kiểm sát. Những người khác lại
cho rằng tranh tụng được thực hiện trong hầu hết các giai đoạn của phiên tòa, đặc
biệt trong xét hỏi và phần tranh luận. Nếu chỉ thu hẹp việc tranh tụng trong phần
tranh luận thì không đạt được các mục đích tranh tụng đặt ra. Để tham gia vào quá
trình chứng minh, các bên tham gia tranh tụng phải được phép đưa ra chứng cứ,
2


thực hiện việc xét hỏi, xem xét vật chứng, để đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện, chứng
cứ phải được thu thập, kiểm tra, đánh giá từ góc độ, cách nhìn nhận của các bên
(nguyên đơn, buộc tội) cũng như bên bị (bị đơn, bị cáo). Nghị quyết 08-NQ-TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp

trong thời gian tới xác định: "Việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng
cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo… để ra những bản án, quyết
định đúng pháp luật, có sức thuyết phục". Ngoài ra, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra yêu
cầu: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh
tụng tại tất cả phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư
pháp”.
Cụ thể, trong tố tụng hình sự nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
bao gồm:
- Đưa ra chứng cứ mới bằng cách yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, đưa ra
vật chứng hoặc tài liệu mới. Hồ sơ, chứng cứ được xác lập trong giai đoạn điều tra
là rất quan trọng cho việc xét xử tại phiên tòa. Tuy nhiên, các chứng cứ có trong hồ
sơ là do các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, nhiều trường hợp chưa thể đầy đủ
và không loại trừ việc thiếu khách quan. Đặc biệt, đối với vụ án hình sự, trách
nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, cho nên đa số trường
hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chỉ thu thập chứng cứ buộc tội, không chú
trọng thu thập chứng cứ gỡ tội, trong khi đó bên bào chữa (người bào chữa, bị can,
bị cáo) không được quyền chủ động thu thập chứng cứ làm hạn chế khả năng tranh
tụng của họ khi tham gia xét xử tại phiên tòa. Vì vậy, pháp luật tố tụng quy định các
bên tham gia tố tụng có quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, quyền đưa
ra các chứng cứ mới tại phiên tòa. Nhiệm vụ của tòa án là đảm bảo để các bên thực
3


hiện quyền tố tụng này, tránh trường hợp sợ phiền phức, sợ phiên tòa đi chệch quỹ
đạo chuẩn bị nên không chú trọng thủ tục này tại phần mở đầu xét xử.
- Thực hiện việc xét hỏi tại phiên tòa. Xét hỏi thực chất là cuộc điều tra chính
thức tại phiên tòa để xác định sự thật khách quan của vụ án. Vì vậy, các bên tham
gia tố tụng đều có quyền điều tra dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa từ hỏi

người khác, xem xét vật chứng, tài liệu. Việc xét hỏi này chỉ kết thúc khi tòa án
thấy rắng thông qua xét hỏi sự thật khách quan, đối tượng chứng minh trong vụ án
đã được xác định đầy đủ, các tình tiết liên quan đến việc giải quyết đã được làm rõ.
Vì thế, thủ tục tố tụng quy định quyền thư thật chứng cứ chỉ cho các cơ quan tiến
hành tố tụng, quy định gánh nặng xét hỏi cho tòa án, quy định chỉ cho phép một số
ít các bên tham giá xét hỏi (đại diện Viện kiểm sát, luật sư) cầu được xem xét lại từ
góc độ tranh tụng.
-

Phát biểu ý kiến về đánh giá chứng cứ. Qua điều tra chính thức, công khai tại

phiên tòa, mỗi bên tham gia tố tụng đều có cách nhìn nhận , đánh giá của mình về
kết quả chứng minh. Để thực hiện chức năng tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, các bên tham gia tố tụng phải công khai đưa ra ý kiến đánh giá của
mình về sự thật khách quan của vụ án để giúp cho tòa án cân nhắc khi ra phán
quyết. Các đánh giá khác nhau, phản diện nhau của các bên tham gia tố tụng tại
phiên tòa sẽ giúp cho tòa án khách quan hơn, toàn diện hơn ,thận trọng hơn khi
đánh giá để ra phán quyết.
-

Phát biểu ý kiến về pháp luật áp dụng. Trên thực tiễn, do nhiều lý do khác nhau

như kĩ thuật lập pháp chưa tốt, quy định của pháp luật chưa rõ ràng, thiếu cụ thể,
trình độ nhận thức pháp luật chưa tốt mà pháp luật được nhận thức rất khác nhau
trong hoạt động tố tụng. Vì vậy, nội dung của nguyên tắc tranh tụng trong giai đoạn
tranh luận được đảm bảo trong xét xử tại phiên tòa bao gồm các bên tham gia tố
tụng đề nghị áo dụng luật để bảo vệ quan điểm của mình trong giải quyết vụ án
4



theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Ví dụ: trong phiên tòa hình sự, đại diện Viện
kiểm sát đề nghị áp dụng pháp luật hình sự để bảo vệ cáo trạng, bảo vệ việc buộc
tội; người bào chữa đề nghị áo dụng pháp luật hình sự để gỡ tội, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho bị cáo...
-

Đề nghị biện pháp giải quyết vụ án liên quan đến quyền và lợi ích liên quan.

Mỗi bên tham gia tố tụng đều nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Vì vậy, nội dung không thể thiếu trong tranh tụng là các bên đề xuất ý kiến
và lập luận trên cơ sở chứng cứ, quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích
đó. Tùy theo tư cách tố tụng của mình mà phạm vi xét hỏi, tranh luận, đề xuất ý
kiến của mỗi người tham gia tố tụng cũng có khác nhau: đại diện Viện kiểm sát bảo
vệ cáo trạng, người bào chữa, bị cáo bảo vệ quan điểm không có tội hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự.
Trong tố tụng hình sự, cần bảo đảm địa vị pháp lý của người bào chữa là chủ
thể độc lập thực hiện chức năng cơ bản của tố tụng hình sự là chức năng bào chữa,
tháo gỡ rào cản về hành chính (hủy bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận hoặc đăng ký
bào chữa) để thực hiện quyền Hiến định là quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc
người khác bào chữa của người bị buộc tội. Trên cơ sở tạo cơ hội phản biện với các
chứng cứ buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, người bào chữa được quyền
tham gia tố tụng ngay từ khi hoạt động tố tụng phát sinh, được tiếp cận và trao đổi
với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam để thu thập và đánh
giá chứng cứ. Có quyền yêu cầu tòa án thu thập bổ sung chứng cứ nếu đã yêu cầu ở
giai đoạn điều tra, truy tố mà không được chấp nhận; bổ sung trách nhiệm và thủ
tục tòa án phải giải quyết các yêu cầu của người tham gia tố tụng trước khi mở
phiên tòa. Quan trọng nhất là đổi mới trình tự và trách nhiệm xét hỏi theo hướng
kiểm sát viên và người bào chữa xét hỏi trước, Hội đồng xét xử hỏi sau cùng và chủ
tọa phiên tòa làm nhiệm vụ điều khiển việc xét hỏi, tranh luận giữa bên buộc tội và
bên bào chữa. Đồng thời, quy định rõ nguyên tắc bản án, quyết định của tòa án chỉ

5


được căn cứ trên cơ sở kết quả thẩm vấn, tranh tụng và những chứng cứ đã được
xem xét tại phiên tòa.
Như vậy, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là hình thức tố tụng trong giải
quyết các vụ án. Phạm vi và nội dung tranh tụng có khác nhau trong các hệ thống
pháp luật và các loại án. Thực hiện nguyên tắc tranh tụng được pháp luật bảo đảm
quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 trên cơ sở tranh tụng đó toà án ra
phán quyết cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết vụ án đúng
đắn, khách quan.
2.Ý nghĩa
Việc Hiến pháp 2013 quy định về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm
bảo mang nhiều ý nghĩa cụ thể:
- Thứ nhất, quy định nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp đã thể chế hóa chủ
trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp.Từ trước cho tới nay vấn đề
tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng được quan tâm và đề cập tới nhiều.
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương về vấn đề này, cụ thể là tại: Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng
tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã quy định: “...Nâng cao chất lượng
công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư,
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...Việc phán quyết của Tòa
án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng của phiên tòa, trên cơ sở xem xét
đầy đủ, toàn diện chứng cứ ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo,
nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra
những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời gian
quy định”. Tiếp đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định : “ Đổi mới việc tổ chức
6



phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn trách nhiệm của người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ,
nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, xác định rõ
hơn vị trí, quyền hạn trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất
lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư
pháp”. Nghị quyết 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012 yêu cầu: “...Tòa án nhân dân
tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa”.
Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành cũng có nhiều quy định chứa đựng nội dung
của nguyên tắc tranh tụng như quy định nguyến tắc bảo đảm quyền bảo chữa của bị
can, bị cáo, nguyên tắc suy đoán vô tôi, nguyên tắc xác định sự thật vụ án, nguyên
tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; các quy định về quyền và nghĩa vụ của người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng, các quy định về tranh luận tại phiên tòa.
Đặc biệt, Điều 222 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Khi nghị án chỉ
được căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở
xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người
bào chữa và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa”. Mặc dù vậy, các quy định
trên còn thiếu tính cụ thể, nhất là chưa có văn bản pháp lý nào chính thức ghi nhận
nguyên tắc bảo đảm và cơ chế bảo đảm tranh tụng nên thực tiễn hoạt động chưa
pháp huy hiệu quả. Do vậy, việc Hiến pháp quy định cụ thể, rõ ràng nguyên tắc bảo
đảm tranh tụng trong xét xử là một bước tiến lớn và rất phù hợp với tinh thần cải
cách tư pháp của Nhà nước ta.
-

Thứ hai, quy định nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong Hiếp pháp tạo sự

chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn trong việc xét xử.
Những quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đã và đang pháp huy hiệu lực
trên thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Công tác điều tra,

truy tố, xét xử ngày càng hiệu quả, việc tranh luận tại phiên tòa bảo đảm tính dân
7


chủ, khách quan. Tuy nhiên, so với tình hình đặt ra thì hoạt động tranh tụng chưa
đáp ứng yêu cầu. Nguyên nhân của tình hình trên có nhiều, trong đó có nguyên
nhân từ những quy định của pháp luật về tranh tụng và bảo đảm tranh tụng chưa rõ
ràng, cụ thể nên hiệu lực chưa cao. Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định chính
thức về nguyên tắc đảm bảo tranh tụng tại khoản 5 Điều 103 như vậy sẽ tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của cán bộ tư pháp của công dân trong quá
trình thực hiện các quyền năng khi tham gia tranh tụng. Đồng thời thực tiễn xét xử
sẽ thay đổi, với bước tiến mới trọng tâm là hoạt động tranh tụng được đảm bảo,
phát huy tối đa tính công bằng, dân chủ.
-

Thứ ba, việc quy định nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp là tiền đề để xây

dựng và hoàn thiện các quy định về bảo đảm tranh tụng trong các văn bản pháp luật
tố tụng. Hiến pháp là đạo luật gốc, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất. Do vậy,
khi Hiến pháp quy định về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng như vậy thì những quy
định trong bộ luật, luật, các văn bản dưới luật chưa rõ ràng, không thống nhất phải
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, tạo sự thống nhất trong việc vận dụng pháp luật, đặc
biệt đòi hỏi cần xây dựng quy định cụ thể về phương pháp bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử.
C. KẾT LUẬN
Nguyên tắc này được Hiến pháp quy định đòi hỏi hoạt động xét xử phải bảo
đảm tranh tụng giữa Kiểm sát viên, bị hại, nguyên đơn dân sự với bị cáo, người bào
chữa, bị đơn dân sự, giữa các đương sự với nhau và những người này có quyền
bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh luận dân
chủ trước tòa án. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện theo quy định của

Bộ luật để họ thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ trong việc tranh tụng. Bản
án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh tụng và những
chứng cứ đã được kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa.
8


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, trường Đại Học Luật Hà Nội, NXB –
Công an nhân dân, Hà Nội – 2014.
2. Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, NXB Lao
động-xã hội.
3. Bộ Luật tố tụng Hình sự năm 2003.
4. Luật tổ chức tòa án nhân dân 2014.
5. Nghị quyết 08-NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
6.

trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị Về chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020.
7. Nghị quyết 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012.
8. />
luat/item/27648402-bao-dam-nguyen-tac-tranh-tung-trong-xet-xu.html
/>
9




×