Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tiểu luận tác phẩm kinh điển tư tưởng hồ chí minh về tư cách người cách mệnh trong tác phẩm “đường cách mệnh” liên hệ với việc đánh giá chất lượng cán bộ ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.12 KB, 34 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vơ giá, đó là
tư tưởng của Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ
Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người để lại rất nhiều tác
phẩm, bài nói, bài viết chuyên về đạo đức. Ngay trong tác phẩm lý luận đầu
tiên Người viết để huấn luyện những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi, cuốn
“Đường Cách mệnh”, vấn đề đầu tiên Người đề cập là tư cách người cách
mệnh, một trong những tác phẩm có giá trị to lớn về phương diện lý luận và
thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam nói chung và đối với nâng cao đạo đức
cách mạng của đội ngũ cán bộ đảng viên nói riêng.
“Đường cách mệnh" là một tác phẩm lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
mang tính lịch sử quan trọng của Đảng và dân tộc ta, là cuốn sách giáo khoa
về chủ nghĩa cộng sản của những người cách mạng Việt Nam, góp phần to lớn
trong việc cổ vũ, giáo dục cả một thế hệ thanh niên và nhân dân ta về con
đường cách mạng đúng đắn.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm đến lĩnh vực đạo đức nhất là đạo đức cách mạng. Tư tưởng đạo đức của
Người bao quát mọi đối tượng, đề cập đến mọi lĩnh vực hoạt động của con
người, trên mọi quan hệ xã hội với phạm vi rộng, hẹp khác nhau.
Bên cạnh đó, thực tế xã hội hiện nay đang tồn tại những hiện tượng tiêu
cực như: quan liêu, tham nhũng, hối lộ, lãng phí, tình trạng suy thoái đạo đức ở
một bộ phận cán bộ, đảng viên... làm tổn hại đến uy tín của Đảng, làm lu mờ
vai trò nêu gương của người cán bộ, đảng viên trước quần chúng nhân dân.
Trước thực trạng đó, việc làm rõ, quán triệt, vận dụng, học tập tư tưởng Hồ Chí
Minh về tư cách người cách mệnh được đặt ra như một yêu cầu thường xuyên
và cực kỳ quan trọng. Và đây cũng là nội dung cơ bản đưa cuộc vận động Học
tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Những nội dung cơ bản tư
1



tưởng Hồ Chí Minh về tư cách người cách mệnh được Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ trong tác phẩm "Đường cách mệnh".
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, trong chương
trình môn học với phạm vi của một tiểu luận kết thúc học phần em chọn đề tài
"Tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách người cách mệnh trong tác phẩm
“Đường cách mệnh”. Liên hệ với việc đánh giá chất lượng cán bộ ở Việt
Nam hiện nay" để làm đề tài tiểu luận kết thúc học phần giới thiệu các tác
phẩm của C. Mác, Ph. Ăng ghen, V.I. Lê nin, Hồ Chí Minh về Xây dựng
Đảng và Chính quyền Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu:
Đề tài được hoàn thành trên cơ sở học tập, nghiên cứu những nội dung
liên quan về vấn đề tư cách người cách mệnh của tác phẩm Đường cách
mệnh, cùng với những đánh giá tổng hợp của những bài nghiên cứu, tham
luận, chuyên đề, các bài báo, bài viết hay những chuyên mục đã được đăng
trên các tạp chí, đặc biệt là các Tạp chí Cộng sản và Tạp chí Xây dựng Đảng.
Mặc dù vấn đề tư cách người cách mệnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh
được rất nhiều tác giả tìm hiểu, nghiên cứu. Tuy nhiên, vì đây là những vấn đề
lý luận và thực tiễn cực kỳ quan trọng, và là một yêu cầu bức thiết cần được
làm rõ và quán triệt trong Đảng, trong xã hội hiện nay cho nên vấn đề này cần
phải thường xuyên được nghiên cứu, đưa ra những đề xuất nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
3.
3.1.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu;
Mục đích nghiên cứu: Đề tài làm rõ những Tư tưởng Hồ Chí

Minh về tư cách người cách mệnh trong tác phẩm “Đường cách mệnh”. Liên hệ
với việc đánh giá chất lượng cán bộ ở Việt Nam hiện nay

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Hệ thống hóa rõ những Tư tưởng Hồ Chí
Minh về tư cách người cách mệnh trong tác phẩm “Đường cách mệnh”.
Khảo sát, Liên hệ với việc đánh giá chất lượng cán bộ ở Việt Nam hiện nay
Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ ở Việt Nam hiện nay.

2


4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung vào nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về tư cách người cách mệnh trong tác phẩm "Đường cách
mệnh".
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Do thời gian cũng như lượng kiến thức còn
hạn chế nên tiểu luận chỉ tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách người
cách mệnh trong tác phẩm “Đường cách mệnh”. Của Hồ Chí Minh (1927).
5.

Phương pháp nghiên cứu:

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận biện chứng của
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với các phương
pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác như: phương pháp luận lịch sử,
phương pháp phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn, sưu tầm tài liệu, qua
thông tin đại chúng.
6.

Kết cấu đề tài:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
gồm 3 chương, 8 tiết.

Chương 1. Vài nét khái quát về tác phẩm “Đường cách mệnh”.
Chương 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách người cách mệnh trong
tác phẩm "Đường cách mệnh"
Chương 3. Liên hệ với việc đánh giá chất lượng cán bộ ở Việt Nam
hiện nay.

3


NỘI DUNG
Chương 1.
VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ TÁC PHẨM “ĐƯỜNG CÁCH MỆNH”
1.1.

Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự tiếp nối và phát triển những tư tưởng giải
phóng con người của nhân loại. Nó đã trở thành vũ khí tư tưởng của giai cấp
vơ sản đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới - xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Được học thuyết khoa học và cách mạng soi
đường, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản các nước trên thế giới đã phát
triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời của các Đảng Cộng sản như: Đảng xã hội dân chủ Nga được thành lập (1903); Đảng Cộng sản Pháp được thành lập
(1920); Đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời (1921)...
Năm 1917, Đảng Cộng sản Bơnsêvích Nga đã lãnh đạo cuộc Cách
mạng Tháng Mười Nga thành công. Cách mạng Tháng Mười Nga là bằng
chứng khẳng định giá trị thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời cũng
báo hiệu thời kỳ đấu tranh giành thắng lợi của giai cấp vô sản thế giới bắt đầu.
Năm 1919, Quốc tế III - Bộ Tham mưu của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế được thành lập. Quốc tế III đã quan tâm đến cách mạng
thuộc địa. Bản Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề

thuộc địa của Lênin đã tác động trực tiếp đến phong trào giải phóng dân tộc ở
các thuộc địa. Đối với Nguyễn Ái Quốc, Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin là bước tiến nhảy vọt và dứt
khoát trong nhận thức tư tưởng của Người. Người quyết định chọn chủ nghĩa
Mác - Lênin làm hệ tư tưởng cứu nước. Như vậy, thời đại đã mở ra điều kiện
mới - cả tư tưởng chính trị và cả tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở
các nước.
Đặc điểm nổi bật của Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là một
nước thuộc địa nửa phong kiến. Xã hội Việt Nam lúc đó có hai mâu thuẫn cơ
4


bản là: giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và giữa giai
cấp phong kiến Việt Nam với toàn thể nhân dân (chủ yếu là nông dân). Yêu cầu
của lịch sử lúc này là phải giải quyết mâu thuẫn cơ bản đó để đưa dân tộc tiến
lên.
Dưới ách thống trị của thực dân – phong kiến, đã có hang trăm cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản, nhưng
rút cuộc đều không giải quyết nổi nhiệm vụ mà lịch sử đang đặt ra, nhân dân
đang mong đợi là giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân phong
kiến.
Bước vào những năm 20 của thế kỷ XX, trong phong trào giải phóng
dân tộc ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều tổ chức yêu nước mang sắc màu chính
trị khác nhau. Song, các tổ chức yêu nước này thiếu đường lối chính trị đúng
đắn, thiếu tổ chức chặt chẽ như một đảng cách mạng khoa học, cho nên, họ
không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử.
Cuối năm 1924 Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô tới Quảng Châu (Trung
Quốc). Tại đây Người chính thức bắt tay vào chuẩn bị các điều kiện cần thiết
để tiến hành thành lập Đảng.
Năm 1925, Sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh

niên.
Từ đầu năm 1926 – 1927 chủ trì các lớp huấn luyện đào tạo, bồi dưỡng
về chính trị nói chung, chủ nghĩa C.Mác – Lê nin nói riệng cho những thanh
niên Việt Nam ưu tú.
Lớp huấn luyện được mở tại số nhà 13 – 1 phố Văn Minh nay là nhà số
422 đường Diễn An 1 Quảng Châu.
“Đường Kách mệnh” là cuốn sách gồm những bài giảng chiếm phần
lớn trong chương trình huấn luyện chính trị cho cán bộ Việt Nam Thanh niên
cách mạng đông chí hội

5


Tháng 4/1927 Tưởng Giới Thạch khủng bố cách mạng Trung Quốc và
các tổ chức cách mạng của người Việt Nam ở Quảng Châu, lớp học dừng hoạt
động.
Từ năm 1925 – 1927 có khoảng 10 lớp (1,5 – 2 tháng /lớp) với hơn 200
học viên. Sau khi học xong một số học viên ở lại tham gia đấu tranh cách
mạng ở Trung Quốc. một số về nước hoạt động gây dựng phong trào, một số
vào học trường quân sự Hoàng Phố.
Các bài giảng của Người được tập hợp, hệ thống lại và được Bộ Tuyên
truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản năm 1927
với tên gọi là “Đường Kách mệnh”
Thực tiễn lịch sử địi hỏi phải có một tổ chức mới, được xây dựng trên
cơ sở hệ tư tưởng cách mạng và khoa học, có đường lối chính trị đúng đắn, có
tổ chức chặt chẽ thì mới lãnh đạo cách mạng đi đến thành cơng. Hồ Chí Minh
viết tác phẩm "Đường kách mệnh" tạo cơ sở cho việc hình thành Đảng Cộng
sản cách mạng và khoa học.
1.2. Cấu trúc và tư tưởng chủ đạo của tác phẩm
1.2.1. Cấu trúc của tác phẩm

Cấu trúc tác phẩm gồm 15 đề mục, đề cập đến các vấn đề sau:
1.
Tư cách một người cách mệnh.
2.
Vì sao phải viết cuốn sách này.
3.
Cách mệnh.
4.
Lịch sử cách mạng Mỹ.
5.
Lịch sử cách mạng Pháp.
6.
Lịch sử cách mạng Nga.
7.
Quốc tế.
8.
Phụ nữ quốc tế.
9.
Công nhân quốc tế.
10.
Cộng sản thanh niên quốc tế.
11.
Quốc tế giúp đỡ.
12.
Quốc tế cữu tế đỏ.
13.
Cách tổ chức công hội.
14.
Tổ chức dân cày.
15.

Hợp tác xã
1.2.2. Tư tưởng chủ đạo của tác phẩm.
* Tư tưởng cơ bản của tác phẩm.
6


Mục đích tác phẩm được tác giả chỉ rõ: “Muốn sống thì phải cách
mệnh”. Có thể nói, “Khơng có gì quý hơn độc lập tự do” là quan điểm bao
trùm toàn bộ tác phẩm. Tác phẩm cũng chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất của độc
lập tự do và vạch con đường cụ thể để giành thắng lợi. Kết hợp độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội là quan điểm tư tưởng chỉ đạo con đường cách mạng
Việt Nam. Giải phóng nhân dân phải gắn với sự nghiệp giải phóng giai cấp vơ
sản. Cách mạng giải phóng dân tộc phải theo quỹ đạo của cách mạng vô sản,
kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội, lợi ích của dân tộc với lợi ích
của giai cấp vô sản phải gắn bó với nhau. Thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân
tộc đều phải giải quyết trên cơ sở quan điểm cách mạng vô sản để đưa cách
mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng giải
phóng dân tộc chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng xã hội chủ
nghĩa chi phối cách mạng giải phóng dân tộc. Cách mạng phải triệt để, tích cực,
chủ động và sáng tạo.
Trong tác phẩm, mỗi đề mục tương ứng với một bài giảng, cách trình
bày theo lối hỏi – đápmang tính phổ thơng phù hợp với trình độ chung của đa
số học viên lúc bấy giờ.
Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng
cạn. Cây phải có gốc khơng có gốc thì cây héo. Người cách mệnh phải có đạo
đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân.
Nguyễn Ái Quốc phác thảo những tiêu chí cơ bản nhất về phẩm chất
của người cán bộ cách mạng trong 23 điều, tập trung vào 3 mối quan hệ: đối
với mình, đối với người và đối với công việc.

* Nội dung cơ bản của tác phẩm
Tác phẩm đề cập đến nhiều vấn đề, tuy nhiên có thể khái quát chia nội
dung tác phẩm này thành ba phần:
- Phần thứ nhất, gồm một số bài viết dành để trả lời cho các câu hỏi:
Cách mạng là gì? Vì sao phải làm cách mạng và làm cách mạng như thế nào?

7


- Phần thứ hai là những bài học cách mạng rút ra từ lịch sử cách mạng
của các nước Mỹ, Pháp, Nga…
- Phần thứ ba là các bài giảng trình bày tóm tắt về các tổ chức cách
mạng, từ Quốc tế cộng sản đến các tổ chức công hội, thanh niên, phụ nữ. Đối
với một tổ chức cách mạng, Bác đều chú trọng rút ra những kết luận cần thiết
cho cách mạng Việt Nam.
Tác phẩm đã nêu lên những quan điểm cơ bản về phương pháp cách
mạng Việt Nam trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tổng
kết kinh nghiệm cách mạng các nước. Những quan điểm đó là cơ sở cho Đảng
xây dựng phương pháp cách mạng của mình. Bao gồm: Tư cách người cách
mệnh; con đường cách mệnh; lực lượng cách mạng; về đồn kết quốc tế; về
vai trị của Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng...
Bằng tư tưởng xây dựng Đảng Cộng sản ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc
đã đáp ứng yêu cầu bức bách của lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, chuẩn bị
những tiền đề cần thiết cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

CHƯƠNG 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TƯ CÁCH NGƯỜI CÁCH MỆNH
TRONG TÁC PHẨM “ĐƯỜNG CÁCH MỆNH”
2.1. Một số vấn đề lý luận chung về “Cách mệnh” và “đường cách
mệnh”.

Tại Hội thảo khoa học: “Giá trị lý luận và thực tiễn tác phẩm “Đường
Cách mệnh” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 12 tháng 9 năm 2007, tại Hà
Nội, đã có tới 58 bài tham luận, công trình nghiên cứu của các đồng chí lão

8


thành cách mạng, các giáo sư, tiến sĩ và các nhà khoa học, trong đó chủ yếu
bàn về vấn đề tư cách người cách mạng và đạo đức cách mạng. Trong hội
thảo đã có nhiều quan điểm, cách nhìn nhận mới về các vấn đề trong tác
phẩm.
Theo nhà báo - học giả Quang Đạm, hai chữ “cách mệnh” từ Trung
Quốc “vào” Việt Nam ta có thể là vào những năm xã hội Việt Nam tiếp nhận
“Tân thư” của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu - trước, sau vài năm cùng với
các tác phẩm từ nước Pháp của R.Descartes, Montesquieu - BT). Chữ “cách
mệnh” theo tinh thần của Nho giáo Trung Quốc là “đổi cái mệnh Trời giao
cho con Trời (thiên tử) - là vua nếu vua khơng làm trịn nhiệm vụ, giữ cái
mệnh ấy, vì vậy phải giao “sứ mệnh” này cho con Trời khác”. “Nhập cảng” từ
Châu Âu với từ gốc Latinh là “Révolution” - có nghĩa ban đầu là "quay lại" được "vào" Pháp với “Révolution”, Anh: “Revolution”, Tây Ban Nha:
“Revolucion”... Nhiều từ điển phương Tây đều định nghĩa theo từ gốc Latinh:
“Vòng quay, sự quay vòng, chu kỳ quay vịng”. Nghĩa thứ hai được chú thích
thêm là: Biến đổi bất ngờ táo bạo trong cơ cấu kinh tế, xã hội", “bước ngoặt
cơ bản, bất ngờ”, “thay đổi từ một tình trạng chất lượng này sang một chất
lượng khác”, “iểu hiện biện chứng của sự phát triển vật chất, xã hội, tư
tưởng”.
Trong Sổ tay từ điển Hán Việt (NXB Giáo dục VN, 1989) viết: “Cách
mạng(1) là một biến đổi và căn bản lớn trong quan hệ xã hội, chính trị, thực
hiện thơng qua đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện hoặc biến
đổi về căn bản. Quá trình thay đổi lớn về căn bản theo hướng tiến bộ”.
Những định nghĩa trên, tuy ý tứ có đơi chút chưa “nhập” vào nhau chặt

chẽ, đều có mặt “thay đổi, tiến bộ” nhưng ít nhiều mang màu sắc giai cấp đấu
tranh của chủ nghĩa Mác ở Châu Âu (mà Châu Âu chưa phải toàn thế giới) Nguyễn Ái Quốc viết vào năm 1924 - chứ không phải ở Việt Nam.

9


Kế thừa và phát huy sang tạo giá trị nhân loại, xuất phát từ thực tiễn
Việt Nam Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra một định nghĩa về “cách mạng”, một
định nghĩa – một chân lý rất gắn gọn nhưng rõ ràng, cụ thể và dễ hiểu, dễ nhớ.
“Cách mệnh” được Nguyễn Ái Quốc Ngay nêu ra trong tác phẩm
“Đường cách mệnh”, thực sự là một định nghĩa mới - chưa hề có trong các từ
điển bách khoa: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi cái
tốt: Thí dụ ơng Galilê (1633) là khoa học cách mệnh..., ông Stephenxoong
(1800) làm ra xe lửa là cơ khí cách mệnh... ơng Đácuyn (1859) là cách
mệnh... ơng Các Mác là kinh tế học cách mệnh"1.
Có thể thấy khơng phải ở một con người, một đảng, một nhà nước... chỉ
làm cách mạng một lần là thôi, là đủ. Vì cách mạng có vận động, làm, tìm
được, xây dựng nên cái “mới” rồi, cái “tốt” rồi, nhưng do nhiều nguyên nhân
cái mới đang có, cái tốt hiện hành, đã trở thành cũ, xấu, đòi hỏi một cuộc cách
mạng “phá cái xấu, đổi ra cái tốt, phá cái cũ đổi ra cái mới”...
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam là minh chững hung hồn cho sự
đúng đắn, vững bền đối với định nghĩa của Nguyễn Ái Quốc về “cách mệnh”.
Cách mạng không phải chỉ làm một lần đánh đổ đế quốc, phong kiến là xong,
mà cách mạng là phải luôn luôn đổi mới, ngay trên cái mới đã cũ, cái tốt cũ
đang dần dần xấu đi... mặc rù đã hơn 84 trôi qua nhưng Định nghĩa “cách
mệnh” trong “Đường cách mệnh” đến hơm nay vẫn cịn ngun giá trị về lý
luận cũng như về thực tiễn, đó cũng là cẩm nang quý báu cho Đảng ta trong
suốt quá trình lãnh đạo đất nước trong tình hình mới.
2.2. Nội dung tư tưởng Hờ Chí Minh về tư cách người cách mệnh
trong tác phẩm "Đường cách mệnh"

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đạo đức là cái gốc của người cách mạng, do
vậy người cán bộ, đảng viên trước hết phải tự mình nêu một tấm gương đạo
đức, phải giác ngộ sâu sắc về vai trò nêu gương của mình. Bất kỳ ở đâu và bao
giờ Người cũng đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải trở thành tấm gương mẫu
1

10


mực về nhân cách đạo đức. Người nói, sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng lồi người, đó là một cơng việc to tát, nếu tự mình đã
khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đã hủ hố, xấu xa thì cịn làm nổi
việc gì.
Theo Hồ Chí Minh thì cuộc cách mạng ở Việt Nam do Đảng cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, không chỉ dừng lại ở giai đoạn là giải phóng dân tộc mà
còn tiến lên một giai đoạn cao hơn là giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó
là cuộc cách mạng giải phóng hồn tồn xã hội, giải phóng triệt để con người,
để xã hội trở nên tốt đẹp hơn. Theo nghĩa đó, thì đây cịn có nghĩa là một cuộc
cách mạng đạo đức vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam. Đạo đức có vai trị cực
kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng theo quan điểm Hồ Chí Minh, đạo
đức truyền thống của dân tộc Việt nam là một động lực tinh thần, một sức
mạnh to lớn trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xây
dựng chế độ mới.
Như vậy, con người trong quá trình thực hiện vai trò của mình trong sự
nghiệp cách mạng đó phải có đạo đức cách mạng. Đạo đức cần cho mọi
người, và đạo đức đặc biệt cần thiết cho cán bộ, đảng viên, cho những người
cách mạng. Tại sao? Bởi vì trong cuộc cách mạng khó khăn, gian khổ đó,
người cán bộ phải hy sinh rất nhiều thậm chí là cuộc sống để phục vụ lý
tưởng. Trong hồn cảnh đó, chỉ có những người có đạo đức chân chính mới
chiến thắng được cám dỗ và chiến thắng được bản thân để hồn thành

nhiệm vụ.
Cần, kiệm, liêm, chính, theo Hồ Chí Minh là bốn đức cơ bản của con
người. Bác nói: Trời có 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đơng; Đất có 4 phương: Đơng,
Tây, Nam, Bắc; Người có 4 đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính; Thiếu một mùa,
khơng thành trời; Thiếu một phương, không thành đất; Thiếu một đức,
không thành người. Như vậy đạo đức là một vấn đề cực kỳ quan trọng đối
với con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích nội dung cần, kiệm, liêm, chính rất
11


rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ. Người đã dành thời gian viết hẳn một cuốn sách
giải thích 4 chữ "Cần, kiệm, liêm, chính", với bút danh Lê Quyết Thắng
vào năm 1949.
Cần: Người phân tích cả nghĩa rộng, nghĩa hẹp. Chỉ ra rằng cần không
chỉ là cần cù, siêng năng, chăm chỉ, dẻo dai, mà còn là phải biết làm việc có
kế hoạch, có sự phân cơng, tính tốn một cách khoa học, là phải biết lao động
có năng suất cao, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng suất
lao động. Vì xét cho đến cùng, như Lênin nói, cái quyết định thắng lợi của
chế độ mới đối với chế độ cũ là ở chỗ nó đưa ra được năng suất lao động
mới cao hơn.
Đối với cán bộ công nhân viên chức, Người cho rằng: Cần là làm việc
phải đến đúng giờ, chớ đến muộn, về sớm, làm việc mau chóng, chu đáo. Việc
ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để đến ngày mai. Phải nhớ rằng dân đã
lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta, trong những thời giờ đó, ai lười
biếng tức là lừa gạt dân.
Nhìn trên tầm vĩ mô, cả nước cần cù siêng năng có ý nghĩa hết sức to
lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Mỗi người siêng năng thì ắt sẽ tiến bộ.
Cả nhà siêng năng thì chắc chắn ấm no. Cả làng siêng năng thì làm phồn
thịnh. Cả nước cần cù siêng năng thì dân giàu nước mạnh.

Theo Hồ Chí Minh, cần cù, siêng năng phải đi liền với kế hoạch thì cần
cù, siêng năng mới có tác dụng to lớn. Cơng việc bất kỳ to nhỏ đều có điều
nên làm trước, điều nên làm sau. Nếu khơng có kế hoạch, thì sẽ hao tổn thì
giờ, mất cơng nhiều mà kết quả ít.
Cũng theo Bác, cần và chuyên phải luôn luôn đi đôi với nhau. Chuyên
nghĩa là dẻo dai bền bỉ. Nếu không chuyên, nếu một ngày cần mà 10 ngày
không cần thì cũng vơ ích... cần là ln ln cố gắng, chăm chỉ, cả năm, cả
đời. Nhưng không làm quá trớn. Phải biết nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng
của mình để làm việc cho lâu dài.

12


Kiệm: theo Bác đó chính là sự tiết kiệm: tức là tiết kiệm sức lao động;
tiết kiệm thì giờ; tiết kiệm tiền của dân, của đất nước, của ngay cả chính
mình; phải biết tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành
cái to. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, khi không nên tiêu xài thì một đồng
xu cũng khơng nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho
Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế
mới đúng là kiệm. Tiết kiệm thì phải kiên quyết chống xa xỉ, ăn chơi, ăn
không ngồi rồi, mà hãy tự mình lo chính cuộc sống của mình và xã hội v.v...
Liêm: tức là trong sạch; không tham lam, không tham tiền của, địa vị,
lợi danh, không tham ăn ngon, mặc đẹp, sống yên, không ham người tâng bốc
mình... những cán bộ ở các công sở, từ xã, phường cho đến Trung ương phải
luôn lấy chữ Liêm làm đầu.
Bác nói: "Liêm là thước đo có tình người hay không”; "Nếu tham tiền
của, địa vị, danh tiếng là bất liêm”. Cán bộ phải thực hành - chữ liêm trước
để làm kiểu mẫu cho dân "Quan tham vì dân dại” bởi lẽ nếu dân hiểu biết
khơng chịu đút lót, thì quan dù khơng liêm cũng phải hố liêm. Chính vì thế
dân phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ liêm. Mỗi người

phải nhận thấy rằng tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với
nước với dân. Cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì sẽ gây nên tính liêm
khiết trong nhân dân. Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính là một dân tộc
giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ.
Nhìn vào thực tiễn trong cuộc sống thời gian qua, đã có những lúc
chúng ta mất những cán bộ cách mạng, những người đã từng vào sinh ra tử,
chỉ vì một chốc lát họ không làm chủ bản thân đã đánh mất chữ liêm trong
lịng mình.
Chính: tức là khơng tà, thẳng thắn, đúng đắn v.v... tất cả đều là những
đức tính cần thiết cho con người, mỗi gia đình, mỗi tập thể, mỗi cơ quan, địa
phương cũng như của cả dân tộc. Là người làm việc cơng, phải có công tâm,
công đức, chớ đem của công dùng vào việc tư, chớ đem người tư làm việc
13


cơng. Việc gì cũng phải cơng bình, chính trực, khơng nên tư ân, tư huệ, hoặc
tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người có tài
năng làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn, mà kéo vào chức nọ, chức kia.
Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn mình. Phải trung thành
với chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm "quan cách mệnh".
Theo Hồ Chí Minh mỗi người cần thực hiện đạo đức trên 3 mặt:
Đối với mình: Khơng tự cao tự đại, vì tự cao tự đại thì thất bại. Thất bại
vì kiêu ngạo vừa cạn lại bé như đĩa như chén, còn người khiêm tốn thì rộng
lại sâu như biển như sông.
Đối với người: Không nịnh trên nạt dưới, vì nịnh hót là đánh mất mình,
mà đánh mất mình là sai lầm lớn nhất của đời người; vì đối với loài người, lễ
vật lớn nhất là sự bao dung.
Đối với công việc: Không dối trá lọc lừa, vì dối trá lọc lừa cũng như
"tiền giả", "thuốc độc" nó vơ cùng nguy hiểm. Việc cơng đặt trên việc tư. Việc
thiện việc đúng dù nhỏ mấy cũng làm, khó mấy cũng làm, việc ác việc sai trái

dù nhỏ mấy cũng tránh, lợi mấy cũng khơng làm.
Chí cơng vơ tư: Có nghĩa là hết sức lo cho việc chung không màng tư
lợi. Hết sức về sự công bằng, đặt lợi ích của tập thể, của Đảng, của cách
mạng, của nhân dân, của Tổ quốc lên trên các lợi ích riêng tư. Thực hiện chí
cơng vơ tư cũng có nghĩa như thực hiện đạo đức, mình vì mọi người, mọi
người vì mình, theo tinh thần của chủ nghĩa tập thể.
Người cũng chỉ rõ phải: nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, bởi vì, theo Người: Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ thù nguy
hiểm của đạo đức cách mạng xã hội chủ nghĩa. “Chủ nghĩa cá nhân là một trở
ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa
xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá
nhân. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ gian ngoan, xảo quyệt, nó khéo léo dỗ
dành người ta đi xuống dốc. Nó là nguyên nhân sinh ra căn bệnh tham ơ, hủ
hố, lãng phí, xa hoa, tham danh, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, tự kiêu, tự
14


đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, quan
liêu, mệnh lệnh v.v...
Một người mà cần, kiệm, liêm, chính, chí, cơng, vơ tư thì đó là một con
người đáng kính. Vì đó là những người: “Giàu sang khơng thể quyến rũ;
nghèo khó khơng thể chuyển lay; uy vũ khơng thể khuất phục”. Đó là những
con người trọng đạo lý, vì đạo lý, tôn thờ đạo lý, vì lẽ công bằng, không khuất
phục quyền uy. “Trợn mắt coi khinh ngàn lực sĩ; cúi đầu làm ngựa đám nhi
đồng”.
Người không chỉ nêu lên từ đạo đức mà Người còn chỉ rõ đạo đức là cán
bộ phải: Đối với mình, đối với đồng chí mình, đối với cơng việc, đối với nhân
dân, đối với đoàn thể phải như thế nào? Và con đường để rèn luyện đạo đức
cho cán bộ, đảng viên là: "Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách
mạng, cho dân tộc; Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật Đảng, thực

hiện tốt đường lối chính sách của Đảng; Đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lao
động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục
vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi
công việc; Ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và
phê bình để nâng cao tư tưởng cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí
mình tiến bộ".
Theo Hồ Chí Minh, rèn luyện tư cách, đạo đức khơng chỉ là thực hiện
tốt những nguyên tắc mà còn phải đấu tranh chống lại những biểu hiện phi
đạo đức. Đó là địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, óc quân phiệt quan liêu, óc
hẹp hịi, ham chuộng hình thức, làm việc lối bàn giấy, vơ kỷ luật, kỷ luật
khơng nghiêm, ích kỷ, hủ hoá, bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu
ngạo, bệnh hiếu danh, bệnh hữu danh vô thực, kéo bè kéo cánh, bệnh xu
nịnh, a dua, bệnh khai hội, bệnh nể nang, bệnh quan liêu, mệnh lệnh, tham
ô, lãng phí…

15


16


CHƯƠNG 3
LIÊN HỆ VỚI VIỆC ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY.
3.1. Sự cần thiết phải học tập, qn triệt tư tưởng Hờ Chí Minh về
tư cách người cách mệnh trong bối cảnh hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo
đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh

đạo đức là cái gốc của người cách mạng, do vậy người cán bộ, đảng viên
trước hết phải tự mình nêu một tấm gương đạo đức, phải giác ngộ sâu sắc về
vai trò nêu gương của mình. Bất kỳ ở đâu và bao giờ Người cũng đòi hỏi mỗi
cán bộ, đảng viên phải trở thành tấm gương mẫu mực về nhân cách đạo đức.
Người nói, sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
lồi người, đó là một cơng việc to tát, nếu tự mình đã khơng có đạo đức,
khơng có căn bản, tự mình đã hủ hố, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì. Theo
Người trời có bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng; đất có bốn phương: Đơng, Tây,
Nam, Bắc; người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, thiếu một mùa thì
khơng thành trời; thiếu một phương thì không thành đất; thiếu một đức thì
không thành người. Đối với người cán bộ cách mạng, nếu khơng có bốn đức
ấy thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân. Do vậy, Người luôn nhắc
nhở cán bộ, đảng viên, mỗi người cách mạng phải giữ gìn cho bản thân mình
trong sạch sao cho giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó khơng thể
chuyển lay, uy vũ khơng thể khuất phục.
Trong cuộc sống, ai cũng có những nhu cầu cầu nhất định về vật chất
và tinh thần cho bản thân và gia đình. Nhưng nếu khơng có sự tự điều chỉnh,
để nhu cầu hợp lý trở thành những đòi hỏi phi lý, từ nhu cầu vật chất chính
đáng trở thành ham muốn quá đáng, và hơn nữa nếu nhu cầu khơng cịn là
17


phương tiện mà trở thành mục đích, dục vọng của cuộc sống thì con người sẽ
dẫn đến thoái hoá, biến chất, hư hỏng nhanh chóng. Vì thế, khi đã trau dồi các
đức tính trở thành những phẩm chất tự nhiên của chính mình, thì con người sẽ
có khả năng tự điều chỉnh nhu cầu và hành vi của mình một cách hợp đạo
đức. Trong công việc thường ngày, người cán bộ luôn phải trực diện giải
quyết nhiều vấn đề liên quan đến lợi ích, nếu xa rời các đức tính ấy thì rất dễ
bị sa ngã, hủ bại.
Trong thực tế hiện nay, những hiện tượng tiêu cực như tham nhũng,

hối lộ, lãng phí của cơng trước kia chỉ diễn ra ở cán bộ, đảng viên hoạt động
trong lĩnh vực kinh tế nhằm lợi dụng chức quyền, lợi dụng sơ hở trong quản
lý kinh tế để móc ngoặc, đầu cơ, bn lậu, sống xa hoa, truỵ lạc.... Và mức độ
ngày càng tăng, nếu trước kia chỉ là ăn cắp vặt, bớt xén mang tính chất đơn lẻ
thì nay diễn ra với nhiều thủ đoạn, có tính tổ chức chặt chẽ, móc nối chằng
chịt trên dưới, trong ngoài để trục lợi như: thông đồng, chia chác giữa các bên
trong đầu tư xây dựng cơ bản, giải phóng mặt bằng, mua sắm vật tư, thiết bị,
hàng hóa, đấu thầu và chỉ định thầu, phân phối dự án, hoàn thuế giá trị gia
tăng, cấp phát vốn, nhận lối lộ trong điều tra, truy tố, xét xử; ra giá trong việc
cung cấp thơng tin bí mật và trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ. Trong khi đó, tình
trạng bình bầu, đánh giá đảng viên, cơng chức của nhiều cơ quan, tổ chức còn
chung chung, việc nhận xét cán bộ lại quan liêu, kết luận đánh giá đa số đều
hồn thành cơng việc, nhưng trên thực tế khi cán bộ, công chức giải quyết
công việc lại dây dưa, đùn đẩy, thiếu trách nhiệm, làm cho doanh nghiệp,
nhân dân kêu ca, phàn nàn; thậm chí có ý kiến đánh giá sai lệch tới mức độ
vô trách nhiệm... Nguyên nhân của những hiện tượng tiêu cực trên là do
chúng ta chưa lường hết tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, chưa kịp
nhận dạng những hành vi tiêu cực nảy sinh nên lúng túng trong chuẩn bị tư
tưởng, khả năng tự đề kháng trong cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng khơng
có những biện pháp ngăn ngừa, khắc phục một cách hiệu quả khi sự việc sảy
ra... Nhưng nguyên nhân cơ bản là do xa rời các giá trị tư cách, đạo đức cách
18


mạng. Tất cả đều làm tổn hại đến uy tín, thanh danh của Đảng, làm lu mờ
vai trò nêu gương của người cán bộ, đảng viên trước quần chúng nhân dân.
Điều đó làm cho chúng ta càng thấm thía lời dạy của Bác về tư cách người
cách mệnh.
Ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn này là vấn đề cần thiết nhưng trước hết phải
bằng việc lựa chọn, bố trí đúng cán bộ, nhất là người đứng đầu phải có đức, có

tài, có bản lĩnh, tâm huyết và bằng chương trình hành động cụ thể, nêu cao
trách nhiệm của mỗi người, mỗi cơ quan, đơn vị. Thường xuyên giáo dục về tư
tưởng chính trị, nhân cách, lối sống cho cán bộ, đảng viên, trong chỉ đạo thực
hiện phải kiên quyết, ráo riết hơn.
Cần nêu cao hơn nưa học tập và làm theo tấm gương của Bác, mỗi cán
bộ, đảng viên phải thấm nhuần tư tưởng về đạo đức cách mạng của Người.
Đối với bản thân mình phải thực sự cần, kiệm, liêm, chính. Đối với nhân dân
phải có quan điểm phục vụ nhân dân, thật sự là người đầy tớ trung thành của
nhân dân. Đối với cơng việc phải hết lịng tận tuỵ hy sinh và có tinh thần trách
nhiệm cao. Đây là bài học quý báu về tư cách của người cán bộ cách mạng
trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh mà mỗi cán bộ, đảng viên hôm nay phải
thường xuyên học tập, rèn luyện và phấn đấu.
3.2. thực trạng đánh giá chất lượng cán bộ ở Việt Nam hiện nay.
Trước thực trạng đáng lo ngại về đạo đức, tư cách của một bộ phận
cán bộ, đảng viên hiện nay, việc quán triệt, vận dụng và học tập tư tưởng
Hồ Chí Minh về tư cách người cách mệnh là một yêu cầu và nhiệm vụ hết
sức cần thiết.
Tình hình đó đặt ra yêu cầu cần thiết phải quán triệt và học tập trước
hết về đạo đức cách mạng. Bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc
của cách mạng, bất kỳ ở đâu và bao giờ Người cũng đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng
viên phải trở thành tấm gương mẫu mực về nhân cách đạo đức.
Trong sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, do tác động tiêu cực
trong quá trình mở cửa, hội nhập, bên cạnh những thành tựu đạt được, thực
19


tiễn xã hội nước ta vẫn đang tồn tại một số hạn chế khuyết điểm, một bộ
phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, đạo đức - Đây là cơ hội cho kẻ
thù khoét sâu để chống phá hịng làm giảm uy tín của Đảng, Nhà nước ta với
nhân dân. Bởi vậy, việc nâng cao giáo dục đạo đức cách mạng cần, kiệm,

liêm, chính, chí cơng vơ tư cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tình hình
hiện nay là vấn đề quan trọng và cấp thiết. Vì vậy cần phải tăng cường công
tác giáo dục tư tưởng, chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ
nghĩa cá nhân để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên; đồng thời
xây dựng chỉnh đốn Đảng cốt nhằm cho Đảng ln vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong thời kỳ mới. Đặc biệt nâng cao bản
lĩnh chính trị, khả năng trí tuệ, năng lực lãnh đạo, phẩm chất đạo đức cách
mạng cho đội ngũ đảng viên. Đồng thời nắm vững và có khả năng vận dụng
sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối của Đảng và xây dựng nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân.
Hiểu rõ những vấn đề cơ bản về quản lý kinh tế, xã hội. Đồng thời xây dựng
ý chí cách mạng cao, rèn luyện đạo đức cách mạng theo gương sáng đạo đức
Hồ Chí Minh.
Với chủ tịch Hồ Chí Minh đạo đức ln là “cái gốc”, là “nền tảng” của
người cách mạng. Người cho rằng cũng như “sơng có nguồn mới có nước,
khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân”2. Đạo đức cách mạng khơng tự nhiên
mà có, mà là kết quả của một quá trình giáo dục, rèn luyện bền bỉ mà nên,
như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Đạo đức nội
hàm sức mạnh to lớn, người có đạo đức cách mạng mới “gánh được nặng” và
“đi được xa”. Đạo đức mà Hồ Chí Minh địi hỏi ở người cán bộ, đảng viên
chính là những biểu hiện tổng hịa của những tiêu chí đạo đức trong các mối
2

20


quan hệ của họ với Đảng, Nhà nước, giai cấp, nhân dân, dân tộc; trong các

mối quan hệ đa diện đa chiều của con người (đối với mình,đối với người, đối
với việc)... Đó là những phẩm chất: Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương
con người; cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư; là tinh thần quốc tế trong
sáng thủy chung... Những phẩm chất ấy được Người đặc biệt quan tâm trong
điều kiện Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền và đội ngũ cán bộ, đảng
viên là những “cơng bộc” của nhân dân.
Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng có sức mạnh tinh
thần to lớn; là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của cán bộ, đảng viên, làm tăng
sức mạnh của Đảng và chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Điều đó cũng có nghĩa
đặt ra một yêu cầu, đã là cán bộ, đảng viên thì trước hết phải trở thành một
công dân mẫu mực, làm nòng cốt cho giữ gìn phẩm chất đạo đức và kỷ cương
xã hội. Sự mực thước, nêu gương của người cán bộ, đảng viên trước nhân dân
là vơ cùng cần thiết, như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trước mặt quần chúng,
không phải ta cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần
chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân
dân, mình phải làm mực thước cho người bắt chước”.
Quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, để xây dựng
Đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân
dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, với quan điểm đổi mới tư duy, đổi
mới tổ chức, đổi mới cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác, Đảng ta
đã triển khai sâu rộng cơng tác xây dựng đảng nói chung và giáo dục đạo đức
cách mạng đối với cán bộ, đảng viên nói riêng. Từ năm 1987 đến 2004, BCH
Trung ương và Bộ Chính trị các khóa đã ban hành 15 nghị quyết chuyên đề về
xây dựng đảng trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, cán bộ và phương thức
lãnh đạo của Đảng. Trước những thử thách khắc nghiệt của kinh tế thị trường,
mở rộng dân chủ, mở cửa hội nhập với thế giới, tuyệt đại đa số cán bộ, đảng
viên vẫn tin tưởng vào đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Họ
đã khắc phục gian khổ, khó khăn, vượt qua thử thách, hăng hái đi đầu trong
21



công cuộc đổi mới, được dân tin, dân phục, dân yêu. Tuy nhiên, chúng ta cũng
đang đối mặt với một thực tế là tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống diễn ra ngày càng phổ
biến và trầm trọng.
Để khắc phục tình trạng đó, khơng ngừng nâng cao năng lực, sức chiến
đấu của Đảng, chúng ta cần quán triệt sâu sắc, vận dụng thật tốt tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh. Trước hết, phải nghiêm khắc nhìn nhận thực trạng, nguy cơ
đó với tinh thần dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, theo tinh thần Hồ Chí Minh:
“Chúng ta đã không hề che giấu sai lầm, trái lại chúng ta đã thật thà tự phê bình
và tích cực sửa chữa”. Trong các biện pháp tích cực sửa chữa, đặc biệt coi
trọng các biện pháp giáo dục nhằm làm cho cán bộ, đảng viên thấy rõ vai trò, vị
trí của mình trong Đảng và trong xã hội, có nhận thức đúng về những nguyên
nhân dẫn tới sự suy thối, từ đó thấy rõ sự cần thiết phải nâng cao tư tưởng
chính trị, chăm lo tu dưỡng đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống
những biểu hiện sa sút phẩm chất đạo đức. Bảo đảm các nguyên tắc trong tổ
chức và sinh hoạt Đảng...
Co thể nói, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm tới cơng tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên, coi đó là một vấn đề đặc biệt quan trọng của sự
nghiệp cách mạng, của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn đảng. Những điều Hồ
Chí Minh nói về đạo đức cách mạng cách đây đã rất lâu rồi nhưng chúng ta
vẫn như thấy đang nói về hơm nay, về tình hình tư tưởng đạo đức của cán bộ,
đảng viên hôm nay. Việc không ngừng nghiên cứu sâu sắc các quan điểm của
Hồ Chí Minh về tư cách người cách mệnh nói chung và giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; vận dụng các quan điểm,
tư tưởng đó và thực tiễn hoạt động của Đảng là một công việc căn cốt trong
xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Toàn Đảng và xã hội đang đẩy mạnh thực hiện
cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức, tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh. Tuy nhiên, để việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

22


Minh được hiệu quả hơn, để tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thấm sâu hơn
trong từng lời nói và việc làm của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân,
không chỉ tiến hành bằng một cuộc vận động là đủ mà phải coi đây là sinh
hoạt chính trị thường xuyên trong Đảng và trong toàn xã hội, qua đó góp phần
nâng cao văn hóa đảng, để Đảng ta mãi mãi là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu
cho trí tuệ, lương tâm và danh dự của dân tộc.
3.3. Những biện pháp chủ yếu trong việc nâng cao chât lượng cán
bộ ở Việt Nam hiện nay.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn dành sự quan tâm lớn đối với công tác cán bộ của Đảng. Người
cho rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Công việc thành công hoặc
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Trước yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới hiện nay, vấn đề lựa chọn,
sàng lọc và rèn luyện đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước
có đủ tiêu chuẩn về tài và đức, để hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng giao là
cần thiết. Muốn vậy:
Một là, Phải có những biện pháp tích cực nhất để làm trong sạch đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, đặc biệt là khắc phục tình trạng tham
nhũng, cửa quyền, hách dịch, xa rời quần chúng trong một số khơng ít cán bộ.
Có như vậy mới củng cố lòng tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng
và quần chúng mới tự giác đi theo con đường của Đảng vạch ra. Thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, đến nay việc lựa chọn, xây
dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng ở các cấp đã có
những bước tiến triển đáng ghi nhận. Chúng ta đã dần dần trẻ hóa được đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý , nhất là ở cấp cơ sở, thay đổi được một số cán
bộ lãnh đạo, quản lý có khuyết điểm và giảm sút ý chí chiến đấu, khơng đáp
ứng u cầu, nhiệm vụ được giao; đề bạt được một số cán bộ có phẩm chất,

năng lực và tín nhiệm, cắm chốt ở những lĩnh vực quan trọng. Những cán bộ
này đã góp phần tạo ra một bước phát triển mới về kinh tế và xã hội ở đó.
23


Tuy nhiên, xem xét một cách nghiêm túc trên tổng thể từ vĩ mô đến vi
mô, từ Trung ương đến địa phương và cơ sở vẫn thấy còn nhiều thiếu sót tồn
tại, biểu hiện ở nhiều mặt: Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt có đổi
mới nhiều nhưng chưa mạnh. Qua khảo sát thực tế của, ở một số địa phương
thuộc ba vùng lãnh thổ: đồng bằng, trung du và miền núi cho thấy đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý có 70% làm tốt cơng việc; 20% phải bồi dưỡng thêm mới
có thể phát huy tốt được, cịn 10% khơng đủ năng lực để đảm nhiệm cơng
việc được giao, địi hỏi phải thay hoặc cho đi đào tạo lại mới có thể đáp ứng
được yêu cầu đòi hỏi của cách mạng hiện nay.
Thực trạng trên đây của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay địi
hỏi phải có những biện pháp hữu hiệu khắc phục, nếu không sẽ làm cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của Đảng, Nhà nước không mạnh lên
mà còn bị yếu đi và làm giảm lòng tin của quần chúng. Văn kiện Đại hội XI
cũng nêu rõ: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ, thực hiện
tốt chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa... Trọng
dụng người có đức, có tài. Nâng cao chất lượng cơng tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ... Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền,
chạy chỗ, chạy tước, chạy bằng cấp, chạy huân chương. Kịp thời thay thế yếu
kém về phẩm chất, năng lực, khơng hồn thành nhiệm vụ, giảm sút uy tín...
Do vậy, một biện pháp quan trọng là phải tăng cường công tác quản lý cán bộ,
cấp uỷ Đảng, thủ trưởng các ngành, đơn vị cấp trên phải sử dụng tốt những bộ
phận tham mưu, các ngành chuyên môn nghiệp vụ của cấp mình, coi trọng
công tác phát động quần chúng ở cơ sở để tăng cường kiểm tra, kiểm soát các
hoạt động của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cấp dưới.
Khi thấy cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp dưới có biểu hiện tiêu cực phải

kịp thời uốn nắn, ngăn chặn; phải thi hành kỷ luật Đảng hoặc Nhà nước một
cách nghiêm khắc, kịp thời đối với những cán bộ đã phạm sai lầm; mặt khác,
cấp trên cũng phải khẩn trương nghiên cứu đề ra những thể chế, những quy
định mà trước đây chưa có, hoặc đã có nhưng khơng cịn phù hợp với yêu cầu
24


về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện
nay, thậm chí sửa đổi cả những thể lệ, chế độ tuy mới đề ra nhưng khơng phù
hợp với thực tế. Có như vậy mới có cơ sở đúng đắn để xem xét đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, nhất là cấp cơ sở tốt hay xấu, là những cán bộ
chủ chốt thật sự năng động trong các hoạt động sản xuất kinh doanh hay chỉ
lợi dụng những chỗ sơ hở trong thể lệ, chế độ quản lý để trục lợi cá nhân.
Có làm được như vậy mới sàng lọc, lựa chọn những cán bộ chủ chốt tốt,
thanh lọc những cán bộ xấu, không đủ phẩm chất và năng lực ra khỏi
cương vị chủ chốt.
Hai là, Đào tạo và bồi dưỡng lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của
Đảng, Nhà nước theo yêu cầu mới, trang bị những kiến thức cơ bản về chính
trị, quản lý xã hội và quản lý kinh tế để đội ngũ cán bộ này có được phẩm
chất chính trị và năng lực trí tuệ ngang tầm với địi hỏi của cách mạng trong
giai đoạn hiện nay. Đây là vấn đề khá cấp bách để hình thành đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước cho nhu cầu cách mạng trước mắt cũng
như lâu dài. Bác Hồ dạy: "Đã lựa chọn đúng cán bộ, còn cần dạy bảo lý luận
cho cán bộ. Chỉ thực hành mà khơng có lý luận cũng như có một mắt sáng
một mắt mù". Vì vậy người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thường xuyên học
tập để nâng cao hiểu biết, không thể tự cho mình đã giỏi. Học ở đâu? Bác Hồ
nói: "Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, khơng học
nhân dân là một thiếu sót lớn".
Sự đào tạo và bồi dưỡng lại đội ngũ cán bộ của Đảng phải được tiến
hành bằng nhiều biện pháp: mở các lớp bồi dưỡng ngắn ngày; tổ chức cho cán

bộ lãnh đạo hội thảo khoa học các chuyên đề về lãnh đạo, quản lý xã hội và
kinh tế; tổ chức tham quan thực tế để học hỏi những kinh nghiệm của nhau; tổ
chức tốt hệ thống thông tin, truyền tin để tạo điều kiện cho cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt ở các cấp nhận tin và xử lý tin nhanh nhất, thuận lợi nhất...
Một vấn đề quan trọng có tác dụng bồi dưỡng nâng cao trình độ nhận thức và
năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý một cách có
25


×