Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

tác phẩm kinh điển “ bàn về thuế lương thực quá tình nhận thức và vận dụng tư tưởng này ở việt nam tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.41 KB, 30 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
“ Bàn về thuế lương thực” của Lênin ra đời cách đây trên 80 năm, đã có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng to lớn không chỉ với nước Nga, mà còn đối
với nhiều nước khác trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó,
thành phần kinh tế tư bản nhà nước là một nội dung góp phần quan trọng
làm nên tính sáng tạo, điểm đột phá mạnh mẽ của Đảng cộng sản Bôn – sê –
vích( mà đi đầu là Lênin) trong chủ trương phát triển chính sách kinh tế mới;
là sự chuẩn bị đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội; là khâu trung gian để sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở phân tích điều kiện, bối
cảnh tổng quát thực tiễn phát triển của nước Nga Xô viết đang thực hiện bước
chuyển, bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Lênin chỉ rằng: Phải nhìn thẳng
vào sự thật, không nên chỉ hạn chế ở chỗ đem chủ nghĩa tư bản đối lập
một cách chung chung, trừu tượng với chủ nghĩa xã hội mà không chịu đi
sâu nghiên cứu vận dụng các hình thức kinh tế quá độ trung gian cần
thiết và các giai đoạn của sự quá độ ấy.
Đối với Việt Nam, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, nước ta đang
chuyển sang một giai đoạn mới – giai đoạn hình thành cơ cấu và thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thành phần kinh tế tư bản nhà nước
được coi là một vấn đề thực tiễn, một nội dung thiết thực trong quá trình phát
triển kinh tế, một vấn đề lý luận cần phải được nhân thức rõ, một vấn đề chiến
lược trong lãnh đạo quản lý.
Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài: Tư tưởng của Lênin về thành phần kinh
tế tư bản nhà nước trong tác phẩm “ Bàn về thuế lương thực. Quá tình nhận
thức và vận dụng tư tưởng này ở Việt Nam. Nhằm phục vụ thiết thực cho nhu
cầu của bản thân trong quá trình học tập và vận dụng vào công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước ta trong giai đoạn hiện nay, mà trước tiên là để nhận
thức đúng hơn, rõ ràng hơn về đặc điểm, vai trò, vị trí của thành phần kinh tế
tư bản nhà nước trong phát triển kinh tế đất nước; về sự cần thiết phát triển


thành phần kinh tế này, việc tranh thủ những thành tựu trong tổ chức sản xuất


và khoa học kĩ thuật của Chủ nghĩa tư bản để bắc những nhịp cầu nhỏ khi tiến
lên Chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ: đề tài phải thể hiện được tư tưởng của Lênin về sự cần thiết
phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước; vai trò, vị trí và các hình thức
của thành phần kinh tế này. Từ đó rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề
đối việc phát triển kinh tế nước ta hiện nay.
Phương pháp: để thực hiện nhiệm vụ trên, phương pháp của tôi là tiến
hành thu thập tài liệu, đọc tài liệu, tổng hợp, hệ thống hoá lại quan điểm của
Lênin về nội dung cần thể hiện và sự vận dụng của Đảng ta.
Tình hình nghiên cứu: Đề tài này có nhiều công trình nghiên cứu vì vậy
tôi có những thuận lợi nhất định trong việc tham khảo khi thực hiện đề tài.
Kết cấu của đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo. Nội dung đề tài gồm hai phần chính:
Chương I: Tư tưởng của Lênin về thành phần kinh tế tư bản nhà nước
trong tác phẩm “ Bàn về thuế lương thực”
1.1 Bối cảnh sự hình thành kinh tế tư bản nhà nước của Lênin
1.2 Những nội dung cơ bản về lý luận kinh tế tư bản nhà nước
Chương II: Quá trình nhận thức và vận dụng tư tưởng này ở Việt Nam.
Được sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo trong khoa,
nhưng do khả năng nhận thức của bản thân có hạn chế nên không tránh khỏi
thiếu sót. Rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý của thầy cô cùng các bạn.
Xin chân thành cảm ơn.


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I.
TƯ TƯỞNG CỦA LÊNIN VỀ THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ BẢN NHÀ
NƯỚC TRONG TÁC PHẨM “BÀN VỀ THUẾ LƯƠNG THỰC”
1.1. Sự hình thành lý luận kinh tế tư bản nhà nước của Lênin.
Trên thực tế từ cuối năm 1917, ngay sau khi chính quyền Xô viết được

thành lập, Lênin đã có những tư tưởng đầu tiên về sử dụng thành phần kinh tế
tư bản chủ nghĩa như là một hình thức kinh tế đặc thù của thời kì quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên quan niệm của Người về việc sử dụng chủ nghĩa
tư bản nhà nước còn ở những nét phác thảo và mang nặng tính chất là một
biện pháp chính trị nhằm củng cố sự độc quyền nhà nước trong lưu thông
hàng hoá, đặc biệt trong việc chống đầu cơ lúa mì của bọn địa chủ, Culắc và
thương nhân tư bản lúc bấy giờ.
Sau cách mạng tháng 10 và nội chiến kết thúc, vấn đề lý luận, chiến
lược lớn nhất của Đảng cộng sản Liên Xô là con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội từ một nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, khủng hoảng, kém phát triển. Vì
vậy việc tìm tòi, giải quyết vần đề lúc này là không đơn giản bởi vì:
Thứ nhất, trên cơ sở kế thừa phương pháp luận, tư tưởng của Mác để lại
về con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội, song chủ nghĩa Mác phản ánh quy
luật vận động của Chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫn đến Chủ nghĩa xã hội, nhưng
trên thực tế nước Nga lúc này đi lên Chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế thấp,
lạc hậu(ở đây Mác chỉ đề cập một vài dự báo) vì vậy, đòi hỏi phải trải qua một
qúa trình tìm tòi, sáng tạo cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước.
Thứ hai, vào những năm 1920 – 1921 là thời điểm bộc lộ hoàn toàn sự
phá sản của đường lối quá độ trực tiếp lên Chủ nghĩa xã hội được thực hiện
trong giai đoạn trước đó. Tư tưởng trung tâm của đường lối này là triệt để xoá
bỏ kinh tế tư bản tư nhân và mọi hình thức tư hữu khác, nhà nước hoá toàn bộ


qúa trình sản xuất, phân phối nhằm xoá bỏ tận gốc tình trạng người bóc lột
nguời, mặc dù lực lượng sản xuất còn rất thấp kém. Đây là biểu hiện cụ thể
quan điểm “chủ nghĩa xã hội không tưởng” trong điều kiện Đảng cộng sản
cầm quyền. Sự phá sản của đường lối này là thất bại đầu tiên của đường lối
“tả” khuynh trong phong trào cộng sản thế kỉ này.
Thứ ba, Đảng cộng sản cầm quyền trong một nước mà điều kiện kinh tế
- xã hội còn lạc hậu, gặp rất hiều khó khăn:

+ Về kinh tế : Cùng với hậu quả to lớn của chiến tranh, lúc này nước
Nga lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng: Năm 1920 so với 1913 tổng sản
phẩm nông nghiệp chỉ còn 1/2; đại công nghiệp còn 1/7; ngành giao thông vận
tải bị tê liệt vì thiếu than, thiếu phương tiện; nhân dân nhiều nơi bị đói và rất
thiếu thốn. Lênin ví nền kinh tế nước Nga lúc này như một người bị đánh thập
tử nhất sinh chỉ có thể đi lại bằng đôi nạng. “ Chúng ta đã thấy là những nét
căn bản của nền kinh tế chúng ta trong năm 1920 cũng giống như năm 1918.
Mùa xuân năm 1921, nhất là sau nạn mất mùa và dịch súc vật, tình cảnh của
nông dân, đã rất khổ sở vì nạn chiến tranh và sự phong toả, lại càng trầm
trọng đến cực độ”[1,286]
+ Về chính trị - xã hội:
Giai cấp tư sản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, chúng chạy
ra nước ngoài và hoạt động ngầm trong nước với nhiều hình thức khác nhau
(lập ra 50 tờ báo hàng ngày…) nhằm bôi nhọ Đảng và Nhà nước Xô - viết,
kích động giai cấp nông dân và các tổ chức phản động đứng dậy đấu tranh
“Nét đặc trưng nhất của những biến cố ở Crôn – stát chính là những dao
động của thế lực tự phát tiểu tư sản. Rất ít có cái gì cụ thể, chính xác, rõ
ràng. Chỉ có những khẩu hiệu mơ hồ: “tự do”, “tự do thương mại”, “ giải
phóng”, “các Xô - viết không có những người Bôn – sê – vích tham gia”,
hoặc bầu lại các Xô - viết hoặc thủ tiêu “chuyên chính của Đảng”v.v…Bọn
Men – sê – vích và xã hội chủ nghĩa – cách mạng tuyên bố rằng phong trào


Crôn – stát là phong trào “của mình”…Thế là tất cả bọn bạch vệ được động
viên ngay lập tức, có thể nói là nhanh như vô tuyến điện báo để “ủng hộ Crôn
– stát”. Bọn chuyên viên quân sự bạch quân ở Crôn – stát, nhiều chuyên viên
chứ không phải một mình Cô – dơ - lốp – xki, đặt kế hoạch đổ bộ lên Ô – ra –
ni – ên – bau - mơ, khiến cho quần chúng dao động trong phái Men – sê –
vích , xã hội chủ nghĩa – cách mạng và trong những người không đảng đâm
sợ. Hơn năm mươi tờ báo của bọn bạch vệ Nga ở ngoại quốc mở một cuộc

tuyên truyền điên cuồng “ủng hộ Crôn – stát”. Các ngân hàng lớn, bọn trùm
tư bản mở những cuộc lạc quyên để ủng hộ Crôn – stát”[1, 286 -287]. Đồng
thời với đó, nước Nga lúc này nằm trong vòng vây của Chủ nghĩa tư bản với
sức ép ngày càng tăng vì nó không thể chấp nhận sự tồn tại của một “ Nhà
nước đỏ”.
Sau một thời gian dài thực hiện chính sách cộng sản thời chiến nay đã
không còn phù hợp, kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Điều này đã dẫn đến
sự bất mãn, đấu tranh của nông dân ở nhiều nơi trên khắp nước Nga như:
Cuộc bạo loạn ở gần Lêningrat, sông Đông, Xi – bê – ri, Ucraina…đòi thay
đổi chính sách trưng thu lương thực và đòi tự do trao đổi lương thực trên thị
trường làm cho khối liên minh công nông có nguy cơ tan rã.
Ngoài ra, lúc này do trình độ tư duy lý luận và năng lực tổ chức thực
tiễn của Đảng cộng sản ( và Nhà nước) trong bước chuyển từ giai đoạn giành
chính quyền sang giai đoạn cầm quyền không theo kịp với sự phát triển nhanh
của thực tiễn. Đông đảo cán bộ, đảng viên còn mang nhiều nhận thức không
tưởng về Chủ nghĩa xã hội, còn quen với những kinh nghiệm giành chính
quyền và thời chiến.
Chính trong bối cảnh mới, phức tạp đó, Đại hội X của Đảng cộng sản
Bôn – sê – vích Nga ( họp từ ngày 8 đền ngày 16/3/1921), tại Đại hội này đã
thể hiện sự sáng tạo của Đảng cộng sản Bôn – sê – vích Nga mà đại biểu là
Lênin về “chính sách kinh tế mới” (NEP) và lý luận Chủ nghĩa tư bản nhà


nước “ chúng ta hãy xem xét bối cảnh chung, cơ bản của bức đồ biểu, mà trên
đó chúng ta đang vạch ra một mạng lưới những biện pháp thực tiễn của chính
sách của chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Để thử làm việc đó, tôi xin phép
trích ra đây một đoạn dài trong cuốn sách nhỏ của tôi với nhan đề là: “
Nhiệm vụ chủ yếu của thời đại chúng ta”. - Về bệnh ấu trĩ “ tả khuynh” và
tính tiểu tư sản”…Tôi chỉ giữ lại phần có liên quan đến lý luận về “ Chủ
nghĩa tư bản nhà nước” và những thành phần cơ bản của nền kinh tế quá độ

hiện nay của chúng ta từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”[1, 244].
1.2. Những nội dung cơ bản về lý luận kinh tế tư bản nhà nước của Lênin.
1.2.1 Khái niệm kinh tế tư bản nhà nước.
Như trên đã trình bày về sự hình thành lý luận về kinh tế tư bản nhà
nước của Lênin, chúng ta thấy rằng vào đầu thế kỉ XX, Lênin dùng phạm trù
“Chủ nghĩa tư bản nhà nước” để chỉ một khái niệm mới phản ánh một hiện
tượng kinh tế mới. Hiện tượng này ngày nay được dùng với phạm trù “kinh tế
tư bản nhà nước” ở nước ta.
Trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga lúc này khái niệm
“Chủ nghĩa tư bản nhà nước” được hiểu rất khác nhau. Chính vì vậy, Lênin đã
phải giải thích nhiều lần khái niệm này, nhằm thống nhất trong Đảng và Nhà
nước về khái niệm chủ nghĩa tư bản nhà nước trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội:
Xét về mặt quan hệ sản xuất: “chủ nghĩa tư bản nhà nước không phải
là tiền mà là quan hệ xã hội”. Là quan hệ kinh tế giữa nhà nước với tư nhân;
“Chủ nghĩa tư bản nhà nước là cái gì có tính chất tập trung, được tính toán,
được kiểm soát và được xã hội hoá”. Đó là, “ Sự kiểm kê và kiểm soát của
toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm”[1, 254].
Về bản chất của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội, Lênin viết “Ở đây không phải là chủ nghĩa tư bản nhà nước đấu tranh
với chủ nghĩa xã hội, mà là giai cấp tiểu tư sản cộng với chủ nghĩa tư bản tư


nhân cùng nhau đấu tranh chống lại cả chủ nghĩa tư bản nhà nước lẫn chủ
nghĩa xã hội”[1,249], và Lênin cũng chỉ ra sai lầm kéo dài của “những người
cộng sản cánh tả” là đã cho rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước đấu tranh chống
chủ nghĩa xã hội.
Xét về mặt trình độ lực lượng sản xuất: chủ nghĩa tư bản nhà nước
thuộc về nền “đại sản xuất”, nền sản xuất tiên tiến “chủ nghĩa tư bản nhà
nước về kinh tế cao hơn rất nhiều so với nền kinh tế hiện nay của nước ta”

[1,252] - nền sản xuất cơ khí hoá. Lênin đã so sánh chủ nghĩa tư bản nhà nước
với nền sản xuất nhỏ: “Khi du nhập chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình
thức tô nhượng. Chính quyền Xô viết tăng cường được nền đại sản xuất đối
lập với nền tiểu sản xuất, nền sản xuất tiên tiến đối lập với nền sản xuất lạc
hậu, nền sản xuất cơ khí hoá đối lập với nền sản xuất thủ công, nó tăng thêm
số sản phẩm mà nó thu được của đại công nghiệp( phần chia cho nó), nó
củng cố được những quan hệ kinh tế do nhà nước điều chỉnh đối lập với
những quan hệ tiểu tư sản vô chính phủ”[1,270]
1.2.2 Vị trí, vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Để dẫn chứng cho tính đúng đắn về chủ trương xây dựng và phát triển
chủ nghĩa tư bản nhà nước, đồng thời đập tan những luận điệu phản bác thiếu
cơ sở khoa học hòng làm dao động trong quần chúng muốn bác bỏ và chống
lại việc xây dựng chủ nghĩa tư bản nhà nước, chúng cho rằng “Một nước
Cộng hoà Xô viết xã hội chủ nghĩa mà chuyển sang chủ nghĩa tư bản nhà
nước, lại có thể là một bước tiến được ư?.. Đó chẳng phải là phản bội lại chủ
nghĩa xã hội hay sao?”[1,247]
Trên cơ sở phân tích, đánh giá bối cảnh tổng quát của nước Nga lúc này
là một nước kinh tế kém phát triển, đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội về phía
cách mạng chỉ có Nhà nước kiểu mới trong khi chủ nghĩa tư bản có nền kinh
tế - kĩ thuật hiện đại. Lênin đã phân tích một cách rõ nét trong tác phẩm của
mình về vị trí, vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước – cơ sở lý luận cho sự


cần thiết xây dựng và phát triển thành phần kinh tế này trong bối cảnh tổng
quát của nước Nga Xô viết lúc bấy giờ, cụ thể:
Thứ nhất, Phát triển kinh tế tư bản nhà nước chính là một bước
tiến lớn so với tình hình hiện nay trong nước Cộng hoà Xô viết “ Chủ
nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến so với tình hình hiện nay trong nước
Cộng hoà Xô viết của chúng ta. Nếu chẳng hạn trong nửa năm nữa mà ở
nước ta đã thiết lập được chủ nghĩa tư bản nhà nước thì đó sẽ là thắng lợi to

lớn và là điều bảo đảm chắc chắn nhất rằng qua một năm sau, chủ nghĩa xã
hội nước ta sẽ được củng cố hoàn toàn và trở nên vô địch”[1,247]. Khi đề cập
điều này, Lênin xác định sẽ gặp sự bác bỏ của những người đối lập, vì vậy
Người chỉ rõ những điều cần phải bàn tỉ mỉ hơn làm cơ sở chứng minh cho
việc phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước là đúng, chẳng hạn như
những vấn đề tổng quát sau: “ Thứ nhất cần phải phân tích xem bước quá độ
từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội là thế nào mà nó lại khiến chúng ta
có quyền và có căn cứ để tự gọi mình là Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô
viết. Thứ hai, cần vạch ra sai lầm của những người không nhìn thấy những
điều kiện kinh tế tiểu tư sản và tính tự phát riểu tư sản là kẻ thù chính của chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Thứ ba, cần hiểu rõ ý nghĩa của nhà nước Xô viết xét
trên phương diện sự khác biệt về mặt kinh tế giữa nó và nhà nước tư
sản”[1,247] và “ Chúng ta leo càng cao trên bậc thang chính trị ấy, chúng ta
thể hiện càng đầy đủ nhà nước xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản qua
các Xô viết, thì chúng ta càng ít có quyền lo sợ “ chủ nghĩa tư bản nhà nước”
hơn, chẳng lẽ điều đó không rõ ràng hay sao?”[1,256]
Thứ hai, Chủ nghĩa tư bản nhà nước là khâu trung gian, là sự
chuẩn bị đầy đủ nhất cho Chủ nghĩa xã hội. Điều này được thể hiện rõ qua
một loạt các luận chứng của Lênin:
Chủ nghĩa tư bản là khâu trung gian, bởi dựa trên những điều kiện hiện
tại ở Nga lúc bấy giờ – chính là chủ nghĩa tư bản tiểu tư sản chiếm ưu thế, từ


chủ nghĩa tư bản tiểu tư sản đi lên chủ nghĩa tư bản nhà nước với quy mô lớn
cũng như đi đến chủ nghĩa xã hội, đều phải trải qua cùng một con đường,
thông qua cùng một cái trạm trung gian, đó là sự kiểm kê và kiểm soát của
toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm. Ai không hiểu được điều ấy
thì người đó sẽ mắc phải sai lầm không thể tha thứ được trên vấn đề kinh tế,
hoặc là không biết tình hình thực tế, không nhìn thấy sự vật hiện có, không
biết nhìn thẳng vào sự thật, hoặc là chỉ tự hạn chế ở chỗ đem “ chủ nghĩa tư

bản” đối lập một cách trừu tượng với “chủ nghĩa xã hội”, chứ không nghiên
cứu những hình thức cụ thể và các giai đoạn của sự quá độ ấy trong lúc này ở
nước ta. Và không phải đến lúc này Lênin mới đánh giá cao vai trò này của
chủ nghĩa tư bản nhà nước mà ngay khi những người Bôn – sê – vích nắm
được chính quyền, Lênin cũng đánh giá như vậy. Để minh hoạ cho điều này,
Lênin trích dẫn một số nội dung trong cuốn “ Tai hoạ sắp đến và những
phương pháp để ngăn ngừa tai hoạ đó” viết vào tháng 9/1917:
“ …Vậy thì những thứ đem thay nhà nước Gioong – ke – tư bản, nhà nước
của bọn địa chủ và tư bản, bằng nhà nước dân chủ - cách mạng, nghĩa là một
nhà nước dùng biện pháp cách mạng để thực hiện một chế độ dân chủ đầy đủ
nhất? Các bạn hãy thấy rằng trong một nước dân chủ - cách mạng thực sự,
chủ nghĩa tư bản độc quyền - nhà nước tất nhiên và nhất định phải có nghĩa
là một bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
…Bởi vì chủ nghĩa xã hội không phải là cái gì khác hơn là một bước tiến liền
ngay sau chế độ độc quyền tư bản – nhà nước.
…Chủ nghĩa tư bản độc quyền - nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất
cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch
sử mà giữa nó( nấc thang đó) với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội thì
không có một nấc thang nào ở giữa cả”[1,256]
Và đứng trên ý nghĩa vật chất, kĩ thuật sản xuất mà xét thì theo Lênin,
nước Nga Xô viết còn chưa tiến đến “phòng chờ” của chủ nghĩa xã hội.


“ chúng ta còn chưa tiến đến “phòng chờ” của chủ nghĩa xã hội, và nếu
không đi qua “phòng chờ” mà chúng ta chưa đạt tới ấy thì ta không thể vào
cửa của chủ nghĩa xã hội được, chẳng lẽ điều đó không rõ ư?”[1,256]. Bởi
theo Lênin, trên thực tế nước Cộng hoà liên bang xã hội chủ nghĩa Xô viết
Nga: Ở phía Bắc Vô – lô – gda, phía Đông Nam Rô - xtốp trên sông Đôn và
Xa – ra - tốp, phía Nam Ô – ren – bua và Ôm – xcơ, phía Bắc Tôm – xcơ, có
những vùng đất rộng lớn mênh mông, ở đó sẽ có thể chứa được hàng chục

nước văn minh và rộng lớn. Nhưng, trên tất cả những vùng mênh mông ấy,
còn thịnh hành những phong tục gia trưởng, tình trạng nửa dã man và cả tình
trạng dã man nữa. Và trong những xóm làng xa xôi của phần còn lại của nước
Nga thì thế nào? tức là trong tất cả mọi nơi mà hàng chục dặm không có một
con đường lớn nào, tách xóm làng ra khỏi đường sắt, nghĩa là tách xóm làng
khỏi sự liên hệ vật chất với nền văn minh, với chủ nghĩa tư bản, với đại công
nghiệp, với thành thị lớn. Ở khắp mọi nơi, trong tất cả những xóm làng đó, há
không phải là chế độ gia trưởng, là tinh thần Ô – blô - mốp, tình trạng nửa dã
man đang ngự trị đó sao? Trước thực tế này, chỉ có thể chuyển trực tiếp lên
chủ nghĩa xã hội khi có một điều kiện - điều kiện đó là điện khí hoá. “ Nếu
chúng ta xây dựng được hàng chục trung tâm điện lực địa phương( ngày nay
chúng ta đã biết rõ có thể và phải xây dựng những nhà máy ấy ở đâu và như
thế nào), nếu chúng ta cung cấp được cho tất cả các làng xóm điện lực của
những nhà máy ấy, nếu chúng ta có được một số đầy đủ những động cơ điện
và các máy móc khác, thì lúc đó không cần phải hoặc hầu như không cần
phải có những bậc thang quá độ, những mắt xích trung gian để chuyển từ chế
độ gia trưởng lên chủ nghĩa xã hội.”[1,275].
Theo Lênin việc chuyển lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua một thời
gian dài ít nhất là mười năm - chỉ là hoàn thành công việc của phần đầu thôi;
còn vấn đề để giảm bớt thời hạn ấy thì đến lượt nó chỉ có thể xét đến khi nào
cách mạng vô sản thắng lợi ở những nước như Anh, Đức,Mỹ.


Đối với những năm sắp tới, phải biết nghĩ đến những mắt xích trung
gian có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các bước chuyển từ chế độ gia trưởng,
từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội. Ngay cả hiện nay nữa, thường
thường chúng ta vẫn còn lặp lại cái lý luận cho rằng: “chủ nghĩa tư bản là
xấu,chủ nghĩa xã hội là tốt”. Nhưng cái lý luận ấy là sai,vì nó không đếm xỉa
đến toàn thể các kết cấu kinh tế xã hội hiện có, mà chỉ nhìn thấy có hai kết cấu
trong số đó thôi.

Chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản lại
tốt so với thời trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình
trạng phân tán của những người tiểu sản xuất tạo nên. “Vì chúng ta chưa có
điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi
vậy, trong một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là
sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy, chúng ta phải lợi
dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường tư bản
nhà nước) là mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội,
làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng
sản xuất lên”[1,276]
Thứ ba, chủ nghĩa tư bản nhà nước ra đời là nhằm kết hợp giữa
kinh tế - kĩ thuật hiện đại của chủ nghĩa tư bản với sự quản lý của Nhà
nước. Lênin viết: “Không có kĩ thuật đại tư bản chủ nghĩa được xây dựng
trên những phát minh mới nhất của khoa học kĩ thuật hiện đại, không có một
tổ chức nhà nước có kế hoạch khiến cho hàng chục triệu người phái tuân theo
hết sức nghiêm ngặt một tiêu chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất và
phân phối sản phẩm thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được”[1,253].
Song nếu chỉ có trình độ kinh tế, kĩ thuật của chủ nghĩa tư bản thôi thì chưa đủ
mà cần phải có sự thống trị của giai cấp vô sản trong nhà nước. “Đồng thời
nếu không có sự thống trị của giai cấp vô sản trong nhà nước thì cũng không
thể nói đến chủ nghĩa xã hội được: đó cũng là một điều sơ đẳng”[1,253]


Như vậy, sự kết hợp chỉ có kết quả trên cơ sở hai mặt này đạt được trình
độ nhất định. Điều đó cũng có nghĩa là: không phải với bất cứ trình độ kinh tế,
kĩ thuật nào của chủ nghĩa tư bản, hay bất cứ trình độ quản lý nào của nhà
nước cũng có thể vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước có hiệu quả được.
Theo Lênin, chính chất lượng quản lý của Nhà nuớc làm cho chủ nghĩa
tư bản nhà nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội hoàn toàn khác với chủ
nghĩa tư bản nhà nước trong các nước tư bản.

Thứ tư, chủ nghĩa tư bản nhà nước là nhân tố kết hợp công nghiệp
với nông nghiệp trong một nước nông nghiệp lạc hậu, nhờ vậy mà:
Thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá một cách mạng mẽ.
Sớm khai thác tiềm năng đất nước, khôi phục và tăng thêm lực lượng
sản xuất của xã hội. Ở đây theo Lênin chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự liên
hợp nền sản xuất nhỏ lại.
Tạo thành cơ sở kinh tế của liên minh công nhân, nông dân và trí thức,
phát triển quan hệ giữa thành thị và nông thôn.
Vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ không đạt được mục tiêu nêu
trên khi phát triển các xí nghiệp công nghiệp, liên doanh mà lại tách rời với
việc phát triển nông nghiệp, nông thôn; khi phát triển khu vực đầu tư nước
ngoài dẫn đến mở rộng khoảng cách thành thị với nông thôn.
Thứ năm, Chủ nghĩa tư bản nhà nước có tác dụng liên kết sản xuất
nhỏ lại và khắc phục tính tự phát vô chính phủ của nó. “ Chủ nghĩa tư bản
nhà nước vẫn là một bước tiến to lớn dù cho chúng ta phải trả một khoản to
lớn hơn hiện nay, bởi vì trả “học phí” là một việc đáng giá, vì cái đó có ích
cho công nhân, vì việc chiến thắng được tình trạng hỗn độn, tình trạng suy
sụp về kinh tế và hiện tượng lỏng lẻo là cái quan trọng hơn hết, vì việc để tình
trạng vô chính phủ của những kẻ tiểu tư hữu tiếp tục tồn tại là một mối nguy
lớn nhất, đáng sợ nhất, nó sẽ làm cho chúng ta bị diệt vong (nếu chúng ta
không chiến thắng nó) một cách dứt khoát, còn trả một khoản lớn hơn cho


chủ nghĩa tư bản nhà nước thì điều ấy không những không làm cho chúng ta
bị diệt vong, trái lại, nó sẽ đưa chúng tư tưởng đến chủ nghĩa xã hội bằng con
đường chắc chắn nhất.”[1,251]. Vì vậy, chừng nào mà giai cấp công nhân học
biết cách giữ gìn trật tự nhà nước, chống tình trạng vô chính phủ của tiểu tư
hữu, chừng nào mà giai cấp công nhân học được cách sắp đặt tổ chức sản xuất
với quy mô lớn toàn quốc, trên cơ sở chủ nghĩa tư bản nhà nước thì khi ấy
theo Lênin tất cả những con chủ bài đều nằm trong tay công nhân và sẽ đảm

bảo cho chủ nghĩa xã hội được củng cố.
Thứ sáu, xét về mặt đối ngoại thì việc xây dựng và phát triển chủ
nghĩa tư bản nhà nước còn có ý nghĩa là thiết lập quan hệ kinh tế chặt
chẽ với các nước tư bản tiên tiến, nhờ đó tạo ra môi trường hoà bình để xây
dựng đất nước chẳng hạn như thông qua hình thức tô nhượng, thông qua việc
liên kết, liên minh giữa chính quyền nhà nước Xô viết với chủ nghĩa tư bản
nhà nước sẽ góp phần củng cố được những quan hệ kinh tế do nhà nước điều
chỉnh đối lập với những quan hệ tiểu tư sản vô chính phủ.
1.2.3 Các hình thức cơ bản của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Để thể hiện rõ hơn tư tưởng của mình về thành phần kinh tế tư bản nhà
nước, Lênin đã chỉ ra các hình thức cơ bản của nó:
1.2.3.1 Hình thức tô nhượng
Tô nhượng là sự hợp đồng giữa nhà nước với nhà tư bản, nhà tư bản
cam kết tổ chức sản xuất và trả cho nhà nước một phần sản phẩm làm ra và
nhận một phần khác dưới danh nghĩa là lãi.
Ví dụ: Tô nhượng về khai thác và vận chuyển gỗ. Tô nhượng về khai
thác than, dầu khí, khoáng sản…
Ý nghĩa của việc vận dụng hình thức tô nhượng trong nền kinh tế: lực
lượng sản xuất phát triển, số lượng sản phẩm tăng lên ngay trong thời gian
ngắn nhất. ““Khi du nhập chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức tô
nhượng. Chính quyền Xô viết tăng cường được nền đại sản xuất đối lập với


nền tiểu sản xuất, nền sản xuất tiên tiến đối lập với nền sản xuất lạc hậu, nền
sản xuất cơ khí hoá đối lập với nền sản xuất thủ công, nó tăng thêm số sản
phẩm mà nó thu được của đại công nghiệp( phần chia cho nó), nó củng cố
được những quan hệ kinh tế do nhà nước điều chỉnh đối lập với những quan
hệ tiểu tư sản vô chính phủ”[1,270]. Theo Lênin áp dụng một cách có chừng
mực và thận trọng, chính sách tô nhượng nhất định sẽ giúp chúng ta cải thiện
được nhanh chóng(đến một mức độ nào đó không cao lắm) tình trạng sản

xuất, đời sống của công nhân và nông dân và khi thực hiện hình thức tô
nhượng, các nhà tư bản phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định như:
phải chăm lo cải thiện đời sống cho người lao động trong các xí nghiệp tô
nhượng; phải tôn trọng pháp luật của nhà nước Xô viết bao gồm: luật về điều
kiện lao động; luật về khai thác tài nguyên; luật về môi trường, môi sinh, đặc
biệt là không có hoạt động chống phá nhà nước Xô - viết.
So với các hình thức khác, theo Lênin thì hình thức tô nhượng là hình
thức đơn giản nhất, rành mạch nhất và sáng tỏ nhất, là hình thức rõ rệt nhất
“Ở đây chúng ta có một hợp đồng trực tiếp, chính thức viết trên giấy tờ, với
chủ nghĩa tư bản Tây Âu, là chủ nghĩa tư bản văn minh nhất, tiên tiến nhất.
Chúng ta biết đích xác những cái lợi và cái hại cho chúng ta; chúng ta biết
đích xác thời hạn chúng ta cho tô nhượng, chúng ta biết những điều kiện để
chuộc lại trước kì hạn, nếu hợp đồng có nói đến quyền ấy…Về các tô nhượng
thì tất cả khó khăn của những nhiệm vụ là phải suy nghĩ, phải cân nhắc hết
mọi điều khi kí hợp đồng tô nhượng và sau đó phải biết theo dõi việc chấp
hành nó. Cố nhiên như vậy có khó khăn, và trong thời gian đầu không thể
tránh khỏi sai lầm. Nhưng so với những nhiệm vụ khác của cách mạng xã hội
và nói riêng so với các hình thức khác để phát triển, dung nạp và du nhập chủ
nghĩa tư bản nhà nước, thì những khó khăn ấy là rất nhỏ [1,270]


1.2.3.2 Hình thức hợp tác xã
Theo Lênin : “Các hợp tác xã cũng là một hình thức của chủ nghĩa tư
bản nhà nước nhưng ít đơn giản hơn, có hình thù it rõ rệt hơn, phức tạp hơn”
[1,271] và vì thế trong thực tế, nó đặt chính quyền Xô viết trước những khó
khăn lớn hơn.
Ý nghiã của việc xây dựng hợp tác xã:
Tạo điều kiện thuận lợi cho sự kiểm kê, kiểm soát, theo dõi, cho những
quan hệ đã ghi trong hợp đồng giữa nhà nước với nhà tư bản.
Nếu xét về mặt hình thức thương nghiệp thì hợp tác xã có lợi và có ích

hơn thương nghiệp tư nhân, chẳng những vì lý do đã kể trên mà còn vì nó tạo
điều kiện thuận lợi cho việc liên hiệp và tổ chức hàng triệu người, sau đó toàn
thể dân chúng; và tình hình ấy lại là một điều lợi rất lớn cho bước quá độ
tương lai từ chủ nghĩa tư bản nhà nước lên chủ nghĩa xã hội: “ Chuyển từ chế
độ hợp tác xã của những nhà sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ
tiểu sản xuất sang đại sản xuất, nghĩa là một bước quá độ phức tạp hơn
nhưng nếu thành công, lại có thể bao gồm được những khối quần chúng nhân
dân đông đảo hơn, nhổ được những gốc rễ sâu xa hơn và dai dẳng hơn của
những quan hệ cũ tiền xã hội chủ nghĩa, thậm chí tiền tư bản là những quan
hệ phản kháng mọi sự “đổi mới” một cách kịch liệt hơn…Chính sách hợp tác
xã sau khi thành công, sẽ giúp cho nền kinh tế nhỏ phát triển và sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho nền kinh tế nhỏ quá độ - trong một thời hạn không nhất
định – lên nền đại sản xuất trên cơ sở tự nguyện kết hợp”[1,273]
Để chứng minh cho tính ít đơn giản, tính phức tạp; làm rõ hơn về bản
chất của hình thức hợp tác xã, Lênin đã so sánh hợp tác xã với hình thức tô
nhượng thông qua cơ sở tồn tại của từng hình thức, cách quản lý cũng như
chính sách trong mổi hình thức. “ Bây giờ chúng ta hãy so sánh tô nhượng với
chế độ hợp tác, là những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.Tô
nhượng dựa trên cơ sở đại công nghiệp cơ khí hoá; chế độ hợp tác thì dựa


trên cơ sở tiểu công nghiệp, trên nền sản xuất thủ công mà một bộ phận thậm
chí còn có tính chất gia trưởng. Trong mỗi hợp đồng tô nhượng, tô nhượng
chỉ quan hệ đến độc một nhà tư bản hay độc một hãng, một xanh – đi – ca,
cácten hay tờ - rớt thôi, hợp tác xã lại bao gồm hàng ngàn, hàng triệu tiểu
nghiệp chủ”[1,272]; “Tô nhượng thì cho phép và thậm chí nhất thiết phải có
một hợp đồng chính xác và một thời gian chính xác. Hợp tác xã thì không có
hợp đồng và cũng không có thời hạn thật chính xác”[1,273] – theo Lênin, thủ
tiêu một đạo luật về hợp tác xã dễ hơn nhiều so với việc bãi bỏ một hợp đồng
tô nhượng, nhưng bãi bỏ hợp đồng tô nhượng có nghĩa là lập tức và đơn giản

cắt đứt ngay những quan hệ thực tế của sự liên minh kinh tế hay của sự
“chung sống” về mặt kinh tế của nhà tư bản; trái lại, không có sự thủ tiêu một
đạo luật nào về hợp tác xã và không một đạo luật nào nói chung có thể cắt đứt
ngay được chẳng những sự “chung sống” thực tế của Chính quyền Xô viết với
các nhà tư bản nhỏ, mà nói chung, còn không thể cắt đứt được các mối quan
hệ kinh tế hiện có. Về quản lý “Giám sát một kẻ được tô nhượng là việc dễ,
nhưng giám sát các xã viên hợp tác xã là một việc khó”[1,273]
1.2.3.3 Hình thức đại lý
Là hình thức nhà nước sử dụng các nhà tư bản thương nghiệp với tư
cách là một nhà buôn và trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm
của nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ.
1.2.3.4 Hình thức cho thuê
Là hình thức nhà nước cho một chủ kinh doanh tư bản thuê một xí
nghiệp hoặc vùng mỏ, hoặc khu rừng, hoặc khu đất, v. v; ở đây hợp đồng cho
thuê giống hợp đồng tô nhượng hơn cả.
Theo Lênin, hai hình thức này ở nước Nga Xô viết hoàn toàn không để
ý đến và không người nào suy nghĩ đến.


CHƯƠNG II.
QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG THÀNH PHẦN KINH TẾ
TƯ BẢN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
Kể từ khi Lênin khởi xướng chính sách kinh tế mới (NEP), trong đó có
việc sử dụng các hình thức kinh tế quá độ của chủ nghĩa tư bản nhà nước đến
nay với biết bao biến động chính trị phức tạp của nước Nga và cả thế giới.
Liên hệ với thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ta thấy:
Những năm trước 1975, một phần do bối cảnh lịch sử khi đó phải tập
trung sức người sức của cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp và nhất là
chống Mỹ cứu nước; mặt khác có phần chủ yếu là do nhận thức về những
nhiệm vụ xây dựng đầt nước trong thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở

nước ta lúc đó còn chưa đúng đắn, mang nặng tính chủ quan, duy ý chí nên đã
“nóng vội” muốn “đốt cháy giai đoạn”, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không
trải qua thời kì quá độ( mặc dù chúng ta vẫn nói là phải trải qua). Thực tế là
chúng ta đã tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm làm trong sạch ngay nền
kinh tế một cách vội vã theo hướng chỉ có tồn tại hai thành phần quốc doanh,
tập thể với loại hình sở hữu nhà nuớc và tập thể, còn sở hữu tư nhân gắn với
thành phần kinh tế tư nhân bị coi thường không cho phát triển, thậm chí có lúc
nóng vội đòi xóa bỏ ngay.
Sau ngày giải phóng miền Nam Việt Nam, cả nước thống nhất năm
1976, vấn đề giữ được chính quyền và tiến lên chủ nghĩa xã hội là một thách
thức lớn mà nhiều nước không vượt qua được - sự ra đời của hệ thống xã hội
chủ nghĩa cũng như sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu đã chứng
minh cho các Đảng cầm quyền thấy rõ: giành được chính quyền đã khó nhưng
giữ chính quyền còn khó hơn bội lần; xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thực tế
khó hơn vạn lần các lời tuyên bố, các mục tiêu đặt ra. Trên thực tế, thời gian
này ở nước ta, những sai lầm về kinh tế vẫn tiếp tục tái diễn – cách mạng
nước ta đã chuyển sang thời kì mới, nhưng tư duy kinh tế của chúng ta đã


không theo kịp sự chuyển biến của tình hình. Chúng ta đã nóng vội, chủ quan
lấy quy luật của chiến tranh thay cho những quy luật của kinh tế đang phát
huy tác dụng trong chặng đường đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Lẽ ra, giai đoạn mới của cách mạng đòi hỏi phải có nhận thức mới, tư duy
mới, thì những quan niệm cũ, tư duy cũ, kiến thức cũ vẫn tiếp tục làm nền
tảng lý luận cho sự tồn tại của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài đúng
một thập kỉ. Chúng ta đã thực hiện “ Nhà nước hoá nền kinh tế” bằng cách
xoá bỏ mọi thành phần kinh tế cá thể, tư nhân, tư bản tư nhân; thực hiện quốc
doanh hoá, tập trung hoá theo kế hoạch của Nhà nước về sản xuất, phân phối,
tiêu dùng; thi hành chế độ bao cấp thời chiến, thực hiện cấp pháp và giao nộp,
hiện vật hoá phân phối, bù lỗ qua ngân sách và để ngoài giá thành; đẻ ra bộ

máy nhà nước và các tổ chức kinh tế quan liêu, làm cho nền sản xuất xã hội,
các hoạt động kinh tế trở nên cứng nhắc và thụ động, năng suất lao động và
hiệu quả kinh tế không ngừng giảm sút; “ không nuôi nổi mình, trong mười
năm đã nhận viện trợ của Liên Xô lên đến hàng chục tỉ rúp, hàng năm cứ rút
dần mỗi năm vài trăm triệu rúp để chi cho tiêu dùng xã hội, giống như nước
đổ vào thùng không đáy, chúng ta ăn cả vào C1, C2, cho bao cấp và bù lỗ, vài
trăm triệu rúp khác thì rải ra trên rất nhiều công trình xây dựng” 1; tạo ra nhiều
kẽ hở, gia tăng tình trạng lãng phí, nạn tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi bòn rút
tài sản xã hội và làm biến dạng các quan hệ xã hội, làm gay gắt thêm tình
trạng bất bình đẳng, suy thoái cả kinh tế lẫn xã hội.
Tóm lại, việc vận dụng những tư tưởng chỉ đạo của Lênin về chinh sách
kinh tế mới cũng như sử dụng các hình thức kinh tế quá độ của chủ nghĩa tư
bản nhà nước ở miền Bắc trước 1975, ở trên cả nước sau 1975 (đến trước
1986) hầu như rất xem nhẹ đã làm cho: sức sản xuất bị kìm hãm, không phát
triển được; thất nghiệp tràn lan; năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất ngày
càng giảm sút; hàng hoá khan hiếm, lưu thông ách tắc do tình trạng chia cắt
1

Trường Chinh: Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại, Nxb ST, HN.1987, trang 13


thị trường; lạm phát siêu phi mã, giá cả tăng vọt; đời sống bấp bênh, các giá
trị đạo đức, tinh thần bị xói mòn, tiêu cực phát triển.
Chỉ đến những năm sau đổi mới, kể từ Đại hội VI của Đảng ta(12/1986)
cho đến nay kinh tế nước ta mới thực sự khởi sắc với những kết quả, thành
tựu phát triển vượt bậc. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự phát triển này song
chắc hẳn phải kể đến một nguyên nhân quan trọng là chúng ta đã nhận thức lại
một cách đúng đằn hơn về những nhiệm vụ, biện pháp, bước đi thích hợp cần
phải tiến hành mà trước hết về tư duy kinh tế là phải thừa nhận sự tồn tại
khách quan những đặc điểm vốn có của một nền kinh tế đang trong thời kì quá

độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó có nghĩa là phải thừa nhận về mặt biện
pháp, chính sách kinh tế là phải vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo những
tư tưởng chủ đạo của Lênin về “NEP”, về chủ nghĩa tư bản nhà nước mà trước
hết là thừa nhận sự tồn tại khách quan của một nền kinh tế nhiều thành phần,
bên cạnh các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa còn có cả các thành phần
phi xã hội chủ nghĩa hay như cách nói của Lênin là có cả “những mẩu, những
mảnh của chủ nghĩa tư bản, của nền sản xuất nhỏ”. Trên cơ sở đánh giá thành
tựu và hạn chế của các kỳ Đại hội trước (Đại hội IV, Đại hội V) về cải tạo xã
hội chủ nghĩa, củng cố quan hệ sản xuất mới, sử dụng các thành phần kinh tế.
Đại hội VI xác định “ Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đi đôi với việc ra
sức xây dựng những cơ sở và lực lượng kinh tế mới, phải rất coi trọng cải tạo
và sử dụng tốt các cơ sở và lực lượng kinh tế sẵn có bằng những hình thức và
bước đi thích hợp. Nhưng chúng ta chưa xác định rõ ràng, nhất quán những
quan điểm, chủ trương và chính sách chỉ đạo công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa. Đã có những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần
kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành
quốc doanh. Đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá, ít chú ý những đặc điểm
về tính chất của từng ngành, từng nghề, để lựa chọn hình thức tổ chức thích
hợp, có xu hướng muốn tổ chức ngay các hợp tác xã quy mô lớn, không tính


đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực của cán bộ. Về
nội dung cải tạo thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất mà không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức và chế độ phân
phối. Cách làm thường theo kiểu chiến dịch, gò ép, chạy theo số lượng, coi
nhẹ chất lượng và hiệu quả; sau những đợt làm nóng vội, lại buông lỏng. Do
đó, không ít tổ chức kinh tế được gọi là công tư hợp doanh, hợp tác xã, tổ hợp
tác sản xuất, chỉ có hình thức, không có thực chất của quan hệ sản xuất mới”
[2,22]. Trên cơ sở những hạn chế đó, chúng ta mới thừa nhận chủ nghĩa tư
bản nhà nước, coi “ kinh tế tư bản nhà nước là hình thức kinh tế quá độ, có

thể được tổ chức từ thấp đến cao, từ đại lý cung ứng và tiêu thụ hàng hoá,
làm gia công cho đến hợp doanh với Nhà nước”[2, 60].
Đến Đại hội VII, chủ nghĩa tư bản nhà nước đã được coi là một thành
phần kinh tế, cùng các đơn vị kinh tế khác có quyền tự chủ sản xuất kinh
doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự
nguyện; từng bước hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo hướng tư bản
nhà nước dưới nhiều hình thức. “ Nhà nước có thể liên doanh bằng nhiều hình
thức với tư nhân trong và ngoài nước, hình thành loại doanh nghiệp thuộc
thành phần tư bản nhà nước”[3,118].
Đại hội VIII tiếp tục xây dựng, bổ xung và phát triển về lý luận chủ
nghĩa tư bản nhà nước “Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến
bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ
môi trường sinh thái. Vận dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý
nền kinh tế thị trường là để sử dụng mặt tích cực của nó phục vụ cho mục đích
xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không đi theo con đường tư bản chủ
nghĩa”[3,18] Ở đây, Đảng ta xác định, việc xây dựng quan hệ sản xuất phải
từng bước từ thấp đến cao, với sự đa dạng hoá về hình thức sở hữu và bước đi


thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Mỗi hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất vốn có
bản chất riêng nhưng trong sản xuất, kinh doanh không ngăn cách nhau mà có
nhiều loại hình hỗn hợp, đan kết nhau, vừa bổ xung cho nhau vừa cạnh tranh
với nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật.
Thực tiễn những năm trước từ Đại hội VI cho thấy, chính sách kinh tế
nhiều thành phần đã góp phần giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, đưa
đến nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng của đất nước. Vì vậy, Đại
hội VIII khẳng định: tiếp tục “Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát

triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, lấy việc giải phóng sức sản
xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quá kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống của
nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành
phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh”[4,91].
Trong khi thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, một mặt cần
thoát ra khỏi sự trói buộc của tư duy cũ, những nhận thức không đúng trước
đây đối với các thành phần kinh tế, không thấy hết vai trò, tác động tích cực
của các thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội từ đó không chủ động tháo gỡ những vướng
mắc hoặc thiếu sự quản lý hướng dẫn các thành phần kinh tế này phát triển
đúng hướng. Đồng thời, với nhấn mạnh kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng, Đại hội VIII cũng
đánh giá cao vai trò của kinh tế tư bản nhà nước trong việc động viên
tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng quản lý…và khẳng định
cần phát triển phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Nhà nước
khuyến khích tư bản tư nhân chuyển hoá thành tư bản nhà nước dưới
nhiều hình thức khác nhau. Đại hội đã xếp thành phần kinh tế tư bản nhà
nước ở vị trí thứ ba sau kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác. Vì vậy, trong


chủ trương, chính sách phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước, Đảng ta
xác định: “ Kình tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức tổ hợp tác kinh
doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên
doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài. Kinh tế tư bản nhà nước
có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công
nghệ, khả năng tổ chức quản lý…của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân
họ, cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Áp dụng nhiều
phương thức góp vốn liên doanh giữa nhà nước với các nhà kinh doanh tư
nhân trong nước nhằm tạo thế, tạo lực cho các doanh nghiệp Việt Nam phát

triển, tăng sức hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài. Cải thiện môi trường đầu
tư và nâng cao năng lực quản lý để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp
của nước ngoài. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong
các xí nghiệp hợp tác liên doanh”[4,95].
Đến Đại hội IX, Đảng ta chủ trương: “ Phát triển đa dạng kinh tế tư
bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước
với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết
thực cho các bên đầu tư kinh doanh”[5,31]. Về môi trường, chính sách phát
triển, Đảng ta xác định đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở
ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi
nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành
phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi
công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do luật định và được
pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác
nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác,
cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội X, Đảng ta khẳng định “ Trên cơ sở ba chế độ sở hữu( toàn
dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành


phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản
nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt
động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”[6,83]
Hiện nay, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
được nghiên cứu. Chỉ trong mô hình này mới có chỗ cho chủ nghĩa tư bản
nhà nước. Đó là cơ sở cho việc xây dựng chính sách kinh tế tư bản nhà nước.
Điều này được khẳng định dựa trên các cơ sở:

Trong kinh tế thị trường mới có sự phát triển nhiều thành phần kinh tế.
Kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hoá và
kinh tế thị trường. Không có kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân thì không
cần có kinh tế tư bản nhà nước trong quá trình phát triển các giai đoạn của
kinh tế thị trường. Hơn nữa, thực tiễn xây dựng kinh tế trong các nước xã hội
chủ nghĩa trước đây cũng là một phản đề, một chứng minh từ phía ngược lại.
[7,68]
Trong kinh tế thị trường, kinh tế nhà nước trở thành một bộ phận của
kinh tế thị trường. Nó hoàn toàn khác với kinh tế nhà nước trong mô hình
kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Chỉ khi kinh tế nhà nước là
một bộ phận của kinh tế thị trường thì nó mới trở thành một trong những nhân
tố tạo thành kinh tế tư bản nhà nước.
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế lạc hậu, lại trải qua
nhiều năm trong thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp,
nên việc chuyển sang kinh tế thị trường là hợp quy luật. Như thực tiễn thế giới
đang diễn ra, kinh tế thị trường ở giai đoạn xã hội hoá cao hiện nay đang vận
động trong mâu thuẫn giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa với xu hướng phát
triển bền vững. Vì vậy, kinh tế thị trường ở nước ta tất yếu hướng tới sự phát
triển bền vững, trong đó tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi


trường phát triển đồng thuận với nhau. Đó là cơ sở xuất phát của định hướng
xã hội trong thực tế.
Trong mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa cần
có sự phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó cần có sự phát huy các
tiềm năng tăng trưởng của kinh tế tư nhân, tư bản tư nhân, vừa cần có sự
chuyển hoá các thành phần lên các nấc thang xã hội hoá cao. Sự vận động
mang tính quy luật ấy đã xác định tính tất yếu của kinh tế tư bản nhà nước
trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng như xác định tính
kinh tế thị trường này với sự có mặt và phát triển của kinh tế tư bản nhà nước.

Như vậy, từ Đại hội VI và lần lượt qua các kì Đại hội VII, VIII, IX, đến
Đại hội X, theo tiến trình đổi mới 20 năm qua, từ sự vận dụng của Đảng cho
thấy - trong điều kiện nước ta, kinh tế tư bản nhà nước một khi được phát triển
tốt, sẽ góp phần quan trọng trong định hướng xã hội chủ nghĩa, được thể hiện
ở các mặt:
Là lực lượng sản xuất hiện đại và cách tổ chức quản lý tiên tiến, nên
kinh tế tư bản nhà nước có trình độ xã hội hoá cao hơn trong nền kinh tế
nhiều thành phần. Ưu điểm này của kinh tế tư bản nhà nước trong điều kiện
nhà nước quản lý tốt, sẽ phát huy vai trò định hướng từ sức mạnh kinh tế và tổ
chức có hiệu quả của nó.
Kinh tế tư bản nhà nước có nhu cầu liên kết với nền nông nghiệp nhỏ,
thúc đẩy sản xuất hàng hoá(nguyên liệu cho công nghiệp). Vì vậy, kinh tế tư
bản nhà nước có vị trí quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá và nông
nghiệp nông thôn. Chỉ dừng lại kinh tế tư nhân và tư bản tư nhân trong nông
nghiệp không tiến tới kinh tế tư bản nhà nước thì không thể có được vai trò
định huớng xã hội chủ nghĩa đó.
Phát triển kinh tế tư bản nhà nước(với sức mạnh kinh tế và tổ chức của
nó) là nhân tố quan trọng để kết hợp công nghiệp với nông nghiệp trên phạm


vi vùng, hình thành cơ cấu vùng kinh tế. Nhờ đó, có cơ sở để khắc phục dần
chủ nghĩa địa phương cục bộ trong quản lý địa phương và quản lý ngành.
Các hình thức đầu tư nước ngoài vào nước ta, dù tên gọi là gì thì về
thực chất vẫn là kinh tế tư bản nhà nước. Các tổ chức kinh tế ấy hình thành từ
hai phía nội lực và ngoại lực và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Nhà
nước ta. Chính những điều kiện ấy làm cho loại hình kinh tế tư bản nhà nước
này có được vai trò góp phần định hướng nền kinh tế theo đường lối của Đảng
bằng nhân tố kinh tế.
Kinh tế tư bản nhà nước sẽ tạo môi trường thuận lợi cho quản lý nhà
nuớc có hiệu quả bởi: Kinh tế tư bản nhà nước nó mang tính tập trung sản

xuất và quản lý hiện đại của một hệ thống mở. Nhờ sự phát triển của nó mà có
thể khắc phục dần tình trạng manh mún, phân tán, chia cắt trong sản xuất và
trong quản lý ở nước ta; phát triển kinh tế tư bản nhà nước tạo cơ sở cho hình
thành một hệ thống kiểm kê, kiểm soát toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nó là
nhân tố chủ yếu để khắc phục tình trạng tự phát vô chính phủ trong kinh tế,
nhất là trong nông nghiệp, thương mại, dịch vụ. Nó cũng tạo cơ sở cho việc
đẩy lùi và ngăn chặn những tiêu cực( hối lộ, tham nhũng, lãng phí) trong các
cơ sở kinh tế, nhất là kinh tế nhà nước.
Trong khu vực đầu tư nước ngoài, kinh tế tư bản nhà nước không chỉ
đem lại nguồn vốn, chuyển giao công nghệ mà thậm chí còn quan trọng hơn
là đem vào cách quản lý kinh tế thị trường hiện đại.
Tóm lại, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta lạc hậu, kinh tế tư bản nhà
nước có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế thị trường, cũng như trong
việc góp phần định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế. Do tính khách quan
của vai trò này, nên sự phát triển của kinh tế tư bản nhà nước có ý nghĩa sâu
sắc về kinh tế và chính trị trong thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.


×