Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Đảng lãnh đạo nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.16 KB, 34 trang )

MỤC LỤC
2.1. Quan điểm, nhận thức về vị trí vai trò của Đảng
với Nhà nước.........................................................13
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời (1930) đã giành được quyền lãnh
đạo cách mạng trở thành nhân tố chủ yếu quyết định cách mạng Việt Nam từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngay từ khi thành lập nước (1945) đến nay
Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội.
Cả về lý luận và thực tiễn, khẳng định và thừa nhận vị trí, vai trò lãnh đạo nhà
nước và toàn xã hội của Đảng, thể hiện trên thực tế suốt chiều dài lịch sử dân
tộc.
Các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 đều xác định nguyên tắc Đảng lãnh
đạo Nhà nước. Đó là nguyên tắc trụ cột của cả hệ thống chính trị. Khi Đảng khởi
xướng công cuộc đổi mới đất nước thì những vấn đề lý luận thực tiễn về xây
dựng Nhà nước pháp quyền càng được luận chứng một cách khoa học, thể hiện
sự quan tâm, xây dựng Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, xét về mối quan hệ
Đảng với Nhà nước nói riêng và với cả hệ thống chính trị nói chung thì ta mới
chỉ dừng lại ở những nguyên tắc cơ bản. Mối quan hệ này còn có một loạt vấn
đề đặt ra là Đảng lãnh đạo Nhà nước như thế nào, ra sao…
Cả về mặt thực tiễn và lý luận còn nhiều lúng túng. Ta thấy thực tiễn
Đảng lãnh đạo Nhà nước còn nhiều hạn chế yếu kém. Sự phân định còn chưa
rõ ràng, còn chồng chéo. Để làm rõ các căn cứ khoa học, đề xuất giải pháp
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn nội dung:
“Đảng lãnh đạo Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu; phân tích cơ
sở lý luận và thực tiễn Đảng lãnh đạo Nhà nước, phân tích thực trạng, đề xuất
giải pháp, phương hướng nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu


Ngay từ khi Đảng ta đời và lãnh đạo cách mạng đến nay đã trên 80 năm.
Chính từ trong thực tiễn lãnh đạo đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc thì
thuật ngữ “Đảng lãnh đạo” đã trở lên phổ thông. Đến Đại hội VI (1986) công
cuộc đổi mới toàn diện đã diễn ra, bên cạnh đổi mới kinh tế thì hệ thống chính
trị cũng dần dần được đổi mới cho phù hợp. Từ đó thuật ngữ “Đảng lãnh đạo
Nhà nước” được phổ biến. Nhằm làm rõ cơ sở lý luận, vai trò sự đảm bảo sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thì nhiều học giả, nhiều nhà khoa học đã
quan tâm nghiên cứu vấn đề này. Đã có nhiều công trình khoa học và đề tài
nghiên cứu được ra đời:


- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Xây dựng thể chế Đảng lãnh đạo Nhà
nước ở nước ta hiện nay năm 2003.
- Một số vấn đề về phương thức lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới,
Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11/2007.
- Những nguyên tắc cơ bản của Đảng trong lãnh đạo công cuộc đổi mới,
Vũ Văn Phúc, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3/2008.
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính
trị, Nguyễn Văn Huyên, Tạp chí Lý luận chính trị, số 04/2008.
- Thể chế Đảng lãnh đạo trong điều kiện Nhà nước pháp quyền ở nước ta,
Ngô Ngọc Thắng, Tạp chí Lý luận chính trị, 06/2006.
- Đại hội X của Đảng với việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng, Phạm Ngọc Quang, Tạp chí lý luận chính trị, số 05/2006.
….
Trên đây là một số đề tài nghiên cứu, có liên quan đến vấn đề này.
3. Mục tiêu nhiệm vụ
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Đảng lãnh đạo Nhà
nước và khảo sát thực trạng Đảng lãnh đạo Nhà nước hiện nay. Đề xuất phương
hướng và giải pháp nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện

nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:
Tiểu luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin: chủ nghĩa
duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời sử dụng những lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về
Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước, Nhà nước pháp quyền.
- Phương pháp phân tích tài liệu:
Phương pháp tổng hợp, so sánh, quy nạp, diễn dịch, thống kê, logíc…
5. Ý nghĩa thực tiễn của tiểu luận
Tiểu luận góp phần nâng cao nhận thức về Đảng, Đảng lãnh đạo Nhà nước,
Nhà nước pháp quyền và bổ sung lý luận cho Đảng ta trong quá trình lãnh đạo
sự nghiệp cách mạng.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận cùng một số phụ trang như: danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung của tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về Đảng lãnh đạo Nhà nước trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng Đảng lãnh đạo Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
2


Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với nhà nước.

3


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÀ

NƯỚC TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Quan niệm về Đảng, Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước
1.1.1. Đảng chính trị
Đảng chính trị là một hiện tượng đặc thù của xã hội phân chia giai cấp và
đấu tranh giai cấp. Có thể đưa ra một số khái niệm như sau: Đảng theo nghĩa
chung nhất là “nhóm người liên kết lại với nhau để hoạt động với những mục
đích nhất định” (1). Theo quan niệm này thì Đảng bao gồm nhiều tổ chức phe
đảng, bè đảng, dư đảng và kể cả đảng chính trị. Từ điển chủ nghĩa cộng sản khoa
học khái niệm về đảng như sau: “Đảng chính trị là bộ phận tích cực nhất và có
tổ chức của một giai cấp nào đó hay một tầng lớp nào đó của một giai cấp. Sự
tồn tại của các Đảng chính trị có gắn liền với sự phân chia xã hội thành các
giai cấp và sự không đồng nhất của các giai cấp đó, gắn liền với những sự khác
nhau về lợi ích của các giai cấp và của các tập đoàn hợp thành giai cấp. Đảng
chính trị là một công cụ chính trị quan trọng nhất mà nhờ đó giai cấp đấu tranh
cho lợi ích của giai cấp mình”(2). H.J.Wianch (Mỹ) cho rằng nói đến Đảng thì
Đảng là tổ chức đam mê lợi ích chính trị nhất nhưng đó là lợi ích của cộng đồng
xã hội. Ngoài lợi ích đó ra Đảng chính trị không có lợi ích nào khác. Nhà nghiên
cứu khoa học chính trị Trần Thị Hoài Trân thì cho rằng: “Đảng là một nhóm
người cùng chung một lý tưởng chính trị, kết hợp lại thành một tổ chức để chinh
phục chính quyền hay để tham gia vào chính quyền”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì Đảng chính trị là tổ chức
chính trị của một giai cấp, đảng là hình thức cao nhất của giai cấp, đại biểu cho
lợi ích của giai cấp. Đảng cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp
công nhân, Đảng bao gồm những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp công nhân đại
biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc... Ngày nay trên thê giới
có đến hàng trăm đảng chính trị với những nét riêng biệt khác nhau và cách thức
tổ chức hoạt động cũng như tham chính đều khác nhau tuỳ theo thể chế chính trị
cũng như mỗi quốc gia.
1.1.2. Đảng cầm quyền

Đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo chính quyền là một khái niệm chính trị đặc
biệt quan trọng trong các khoa học chính trị và trong đời sống chính trị. Cho đến
nay cũng có nhiều cách nhìn nhận và lý giải khác nhau về khái niệm, nội dung
của những phạm trù này.
Thứ nhất, Đảng cầm quyền là đảng nắm trong tay chính quyền chi phối
chính quyền, phân biệt với thời kỳ đảng chưa nắm chính quyền.
Thứ hai, Đảng cầm quyền là Đảng nắm trong tay chính quyền chi phối
được chính trị và do đó chi phối được cả bộ máy nhà nước. Để trở thành đảng
4


cầm quyền ngoài việc tiến hành đấu tranh cách mạng hoặc đảo chính giành
chính quyền. Trong các xã hội dân chủ, Đảng phải là đảng đa số trong Nghị viện
(Chính thể cộng hoà, quân chủ lập hiến).
Thứ ba, trong mộ số trường hợp đặc biệt, đảng cầm quyền không phụ thuộc vào
việc có là đảng đa số hay không và đảng đó cũng không có người của mình nắm giữ
cương vị đứng đầu chính phủ, nhưng đảng đó vẫn cầm quyền.
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, đảng cầm quyền là nhân tố tiên quyết
đối với mọi thắng lợi của cách mạng. Trên cơ sở phát triển sáng tạo lý luận về
Đảng cầm quyền của chủ nghĩa Mác-Lênin về đảng chính trị nói chung. Hồ Chí
Minh luôn coi xây dựng đảng của giai cấp công nhân là một nhiệm vụ cực kỳ
quan trọng. Người khẳng định: “Trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì
vận động và tổ chức quần chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô
sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững thì cách mạng mới thành công như người
cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm
nòng cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, phải theo chủ nghĩa ấy, Đảng mà
không có chủ nghĩa như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(3).
Theo Người thì Đảng cách mệnh có nghĩa là Đảng của giai cấp vô sản, đội tiên
phong của giai cấp công nhân, xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc về Đảng
kiểu mới của chủ nghĩa Mác- Lênin. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2/1951

Người nói: “Trong lúc này Đảng không chỉ là Đảng giai cấp công nhân mà còn
là đảng của nhân dân lao động và toàn dân tộc” (4).
1.1.3. Đảng lãnh đạo Nhà nước
Phạm trù Đảng lãnh đạo Nhà nước chỉ được sử dụng đối với các Đảng
Cộng sản cầm quyền trong các nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, giải nghĩa nội
dung, phạm trù Đảng lãnh đạo Nhà nước các nhà khoa học chính trị trong các
nước xã hội chủ nghĩa cũng có nhiều cách lý giải khác nhau.
Theo từ điển tiếng Việt: “Lãnh đạo chính trị đề ra chủ trương, đường lối và
tổ chức động viên thực hiện”.
Khái niệm Đảng lãnh đạo Nhà nước ở nước ta thực chất là nói đến đảng
cầm quyền, đảng có chính quyền, nắm chính quyền, là nói đến quan hệ lãnh đạo
của Đảng ta đối với Nhà nước. Hai chủ thể chính trị Đảng và Nhà nước ở nước
ta có địa vị và pháp lý khác nhau: Nhà nước là công cụ của Đảng thực hiện chức
năng công quyền. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và
xã hội. Đảng là một bộ phận đồng thời là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính
trị. Địa vị chính trị này được xác lập là kết quả của quá trình đấu tranh giải
phóng dân tộc ta suốt từ năm 1930 đến nay. Hiến pháp quy định địa vị chính trị
của Đảng, nhưng chưa được thể chế hoá thành những nguyên tắc, luật lệ, hệ
thống các cơ cấu, tổ chức để đảm bảo sự lãnh đạo đó của Đảng, mà thực chất là
Nhà nước thực thi quyền lực chính trị của Đảng. Thể chế Đảng lãnh đạo Nhà
nước là tổng thể những nguyên tắc luật lệ, hệ thống tổ chức chức năng để thực
hiện quyền lực chính trị của Đảng đối với mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước.
5


Có thể khái quát sự lãnh đạo của Đảng đó đối với nhà nước ở một số nội
dung sau đây:
Một là, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị
quyết, quyết định, nguyên tắc giải quyết các vấn đề trọng đại của quốc kế dân

sinh; xử lý những vấn đề có ý nghĩa chính trị quan trọng, phức tạp.
Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá cụ thể hoá đường lối quan
điểm chủ trương chính sách lớn của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch
các chương trình mục tiêu lớn của nhà nước, đảm bảo cho nghị quyết của Đảng
đi vào cuộc sống một cách đầy đủ, kịp thời.
Ba là, Đảng lãnh đạo xây dựng tổ chức hệ thống chính trị phù hợp với
nhiệm vụ, bảo đảm xây dựng được một nhà nước thực sự trong sạch vững mạnh,
hoạt động có hiệu quả, hiệu lực cao. Đảng lãnh đạo Nhà nước và các đoàn thể
thông qua việc thống nhất lãnh đạo và quản lý công tác tổ chức cán bộ và đội
ngũ cán bộ chủ chốt công tác trong cơ quan Nhà nước.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ việc lãnh đạo bằng tổ chức với lãnh đạo qua các cá
nhân đảng viên theo nguyên tắc tập trung dân chủ và nêu cao vai trò trách nhiệm
của đảng viên là Thủ trưởng cùng với việc kiện toàn các tổ chức, làm rõ chức
năng nhiệm vụ. Mọi cán bộ, đảng viên phải tiên phong gương mẫu trong hành
động cũng như trong tác phong, tổ chức, gắn bó mật thiết với quần chúng.
Năm là, Đảng kiểm tra giám sát hoạt động của bộ máy Nhà nước thông qua
tổ chức Đảng, đảng viên và các ban của Đảng; đồng thời lãnh đạo công tác
thanh tra của nhà nước, lãnh đạo tổ chức kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà
nước.
Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng đảm bảo cho nhà nước theo đúng đường lối
chính trị, đảm bảo phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà nước hoàn thàh mọi nhiệm vụ. Sự lãnh
đạo của Đảng có nội dung toàn diện bao gồm cả chính trị, tư tưởng và tổ chức
cán bộ. Sứ mệnh lịch sử của Đảng cộng sản cầm quyền là lãnh đạo toàn diện xã
hội, quy tụ sức mạnh của cả dân tộc để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản.
1.2. Quan niệm về Nhà nước pháp quyền
1.21. Quan niệm về Nhà nước
Trong tiếng Việt thuật ngữ Nhà nước có nhiều nghĩa. Thuật ngữ Nhà nước
có thể được dùng để chỉ xã hội, cũng có thể được dùng để chỉ một bộ máy quyền

lực cấu thành từ một hệ thống các yếu tố cơ bản bao gồm: quân đội, cảnh sát,
nhà tù, toà án, luật pháp, hệ thống quan chức từ Trung ương đến cơ sở… được
giai cấp cầm quyền tổ chức ra và sử dụng cho mục đích của nó trong việc cai trị
xã hội. Nhà nước và quyền lực Nhà nước đã từ lâu tồn tại trong thực tiễn chính
trị của xã hội. Và do vậy, pháp luật và quyền lực của pháp luật cũng đã được con
người biết đến từ lâu trong đời sống thực tiễn của mình.

6


Trong tác phẩm “Nguồn gốc của giai đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước”, Ănghen đã phân tích sâu sắc vấn đề này và đi tới kết luận: “Nhà nước là
sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định, xã hội đó đã
phân chia thành những mặt đối lập không thể điều hoà mà xã hội đó bất lực
không sao loại bỏ được.. thì phải cần có một lực lượng đứng trên xã hội làm
nhiệm vụ dịu bớt xung đột, giữ trật tự và lực lượngđó nảy sinh và từ xã hội,
nhưng lại đứng trên xã hội và ngày càng xa rời xã hội, chính là Nhà nước”(5).
Thuật ngữ Nhà nước được Ănghen sử dụng ở đây chính là Nhà nước được
Ănghen sử dụng ở đây chính là tương đồng với thuật ngữ - Nhà nước - bộ máy.
Nhà nước ra đời gắn liền với sự ra đời của các giai cấp và cuộc đấu tranh gay gắt
giữa các giai cấp trong xã hội. Nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị được
sử dụng như những phương tiện để đàn áp và bóc lột những giai cấp bị áp bức
và để tổ chức toàn xã hội theo một trật tự phù hợp với lợi ích của giai cấp thống
trị ấy.
Trên cơ sở vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin về nhà
nước, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu khảo sát các mô hình Nhà nước trên thế giới.
Người nhận ra rằng đối với Nhà nước thực dân phong kiến là Nhà nước phản
động, phản dân chủ cần phải đập đổ. Đối với nhà nước tư sản, Người so sánh đối
chiếu giữa những lời nói hoa mỹ giả dối của các chính trị gia tư sản với các hành
động thực tế của nhà nước để nhận diện chính xác bản chất thực sự của nền dân

chủ tư sản. Qua thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga và
chính quyền Xô Viết, Người hiểu rõ bản chất của một Nhà nước cách mạng.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Người đã bổ sung, hoàn chỉnh tư
tưởng về xây dựng một Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, một Nhà
nước thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính dân tộc và tính nhân
dân sâu sắc, một Nhà nước thực sự trong sạch vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả.
1.2.2. Quan niệm về Nhà nước pháp quyền
Vào thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước công nguyên, ở Hy Lạp đã hình thành
nên các Aten - những nhà nước dân chủ đầu tiên thế giới. Tư tưởng chính trị của
các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tiêu biểu như: Xôlông (638-559 trước công
nguyên), Xôcrát (469-399) trước công nguyên, Anxtốt (384-322 trước công
nguyên) là sự chuẩn bị về mặt tinh thần cho sự ra đời của phạm trù Nhà nước
pháp quyền.
Nhưng phải đến thời kỳ tư bản chủ nghĩa, kết cấu chính trị cũ bị phá bỏ
thay vào đó là thời kỳ công nghiệp bắt đầu mới mở đường dẫn tới Nhà nước
pháp quyền của phương Tây. Người đầu tiên xác định bản chất của Nhà nước
pháp quyền thông qua việc phân biệt nó với Nhà nước chuyên chế là
Môngtexkiơ (1689-1775) tác giả của tác phẩm “Bàn về tinh thần Pháp luật, ông
viết: “Trong chính thể chuyên chế… chỉ người cai trị mà không luật lệ gì hết,
chỉ theo ý chí và sở thích của hắn mà thôi” (6). Còn Nhà nước pháp quyền bất
chấp của nó là gì đi nữa thì đều vận hành trên pháp luật.

7


Còn Rút Xô (1712-1778) tác giả của “Bàn về khế ước xã hội” đã mở đầu
tác phẩm này bằng những dòng sau: “Tôi muốn tìm xem trong trật tự dân sự có
chăng một số quy tắc cai trị chính đáng, vững chắc biết đối đãi với người như
người với người và có chăng những luật pháp đúng với nghĩa chân thực của nó (7).
Vì thực tế đương thời đã cho thấy: “Người ta sinh ra tự do nhưng rồi đâu đâu

cũng sống trong xiềng xích”(8). Trong khế ước xã hội mọi người đều bình đẳng
không có cá nhân nào được hưởng đặc quyền đặc lợi.
Như vậy, về cơ bản nội dung của phạm trù Nhà nước pháp quyền đã được
hình thành trong triết học khai sáng Pháp. Nội dung của phạm trù này còn được
trình bày trong một loạt các tác phẩm của Cantơ (1724-1804).
Khi nghiên cứu về sự phát triển của Nhà nước, chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra
rằng: trong lịch sử xã hội có giai cấp đã tồn tại 4 kiểu Nhà nước chủ nô, phong
kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa. Cơ sở để phân loại là quan điêm duy vật lịch sử,
mà cụ thể là học thuyết hình thái kinh tế-xã hội. Dưới ánh sáng của học thuyết
đó, bản chất giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp bất kỳ Nhà nước nào
cũng phải thực hiện như bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh xã hội, phát triển
kinh tế - xã hội.
Mặc dù có nhiều quan điểm về Nhà nước pháp quyền khác nhau nhưng nhìn
chung Nhà nước pháp quyền đều mang các đặc trưng cơ bản sau:
- Là Nhà nước thừa nhận và tôn trọng tính tối cao của luật pháp mà trước
hết là Hiến pháp.
- Nhà nước này tuân thủ nguyên tắc phân công quyền lực. Hành pháp, lập
pháp, tư pháp.
- Nhà nước phải có sự hiện diện của một nền dân chủ thực sự.
- Nhân quyền là mục đích tối cao và cũng là thiêng liêng của Nhà nước
pháp quyền.
- Trong quan hệ quốc tế Nhà nước pháp quyền là Nhà nước thực hiện một
cách tận tâm các cam kết quốc tế và nghĩa vụ pháp lý.
Bằng tổng kết lịch sử và những quan điểm hiện đại xung quanh nội dung
phạm trù Nhà nước pháp quyền có thể đi đến kết luận, Nhà nước pháp quyền là
một hình thức tổ chức vận hành quyền lực mà quyền lực đó được xác định là
thuộc về nhân dân dựa trên các nguyên tắc phục tùng tính tối cao của pháp luật,
phân công quyền lực dân chủ, công bằng, nhằm mục đích bảo vệ tối đa quyền
của mọi công dân.
1.2.3. Quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền

Từ khi công cuộc đổi mới bắt đầu (1986), Đảng ta đã xác định được mối
quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Sự đổi mới tư duy
lãnh đạo của Đảng được bắt đầu từ đổi mới trong tư duy lãnh đạo kinh tế với
việc lãnh đạo và xây dựng thực hiện hàng loạt các chính sách chuyển đổi sang
cơ chế thị trường. Sự đổi mới tư duy của Đảng về sự lãnh đạo Nhà nước theo
hướng lãnh đạo Nhà nước pháp quyền gắn với quá trình đổi mới tư duy về xây
8


dựng và phát triển kinh tế-xã hội đó. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Điều đó đã từng bước mở rộng dân chủ
trong mọi mặt, nhà nước phải thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ các quyền sở hữu, các
thành phần kinh tế… Từ những yêu cầu đó đòi hỏi Nhà nước phải được thay đổi,
tổ chức bộ máy theo hướng dân chủ và pháp quyền như một tất yếu khách quan.
Đại hội VI của Đảng (1986) đánh dấu bước ngoặt đổi mới cũng được đánh
dấu bước chuyển có ý nghĩa trong nhận thức và thực tiễn về vai trò của pháp
luật. Tại Đại hội này nhận thức của Đảng về nhà nước pháp quyền còn rất mới
mẻ. Quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền của Đảng chỉ được hình thành
và phát triển khi công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu.
Đại hội VII (1991) của Đảng chưa nêu khái niệm Nhà nước pháp quyền
nhưng đã xác định nhiều nội dung cải cách liên quan đến xây dựng Nhà nước
pháp quyền.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
thông qua tại Đại hội VII (1991) nêu vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
như là một trong những phương hướng cơ bản, theo đó, hệ thống chính trị sẽ
được tổ chức và hoạt động theo hướng hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
quyền lực thuộc về nhân dân. Đến Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đại hội VIII
(1994) lần đầu tiên Đảng ta sử dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền”, Hội
nghị xác định xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam - Nhà nước của dân, do
dân, vì dân.

Hội nghị Trung ương 8 khoá VII (1995) cũng ra Nghị quyết về xây dựng và
củng cố Nhà nước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Nhưng Nghị quyết của Đại
hội VIII đã xác định quan điểm và phương hướng cơ bản, những định hướng
chính trị chủ yếu cho quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước ta theo hướng
cho quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Đại hội VIII (1996) và các Nghị quyết Trung ương 3, 4 (khoá
VIII) tiếp tục bổ sung và phát triển các quan điểm về việc củng cố và hoàn thiện
Nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tại Hội
nghị Trung ương 3 khoá VIII Trung ương Đảng đã có những nhận định cụ thể
hơn khi chỉ ra rằng việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong
điều kiện nền kinh tế thị trường là một nhiệm vụ mới mẻ phức tạp phải vừa làm
vừa rút kinh nghiệm.
Đại hội IX (2001) xác định vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ công tác to lớn. Nghị quyết
hội nghị Trung ương 4, Trung ương 5 tiếp tục khẳng định vấn đề đó.
Đại hội X, Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định, phát triển chủ trương
lớn và chủ trương và các quan điểm đối với việc xây dựng nhà nước pháp
quyền. Đó là xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền đảm bảo
nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân... Sự hình thành và phát triển
quan điểm của Đảng ta về vấn đề nhà nước pháp quyền và xây dựng Nhà nước
9


pháp quyền qua thực tế cho thấy là một khó khăn phức tạp và phải cân nhắc kỹ
lưỡng. Quan điểm, nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền của Đảng ta đã
có những bước tiến lớn trên một số vấn đề chủ yếu.
Thứ nhất, từ chỗ còn xa lạ với khái niệm Nhà nước pháp quyền, xem nó là
sản phẩm cho nền chính trị tư bản đã đi đến thừa nhận Nhà nước pháp quyền và
hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền.

Thứ hai, đến nay Đảng ta ngày càng nhận thức rõ rằng xây dựng nhà nước
pháp quyền có mối quan hệ biện chứng với phát triển kinh tế thị trường và xã
hội công dân, xây dựng nhà nước pháp quyền không chỉ là công việc riêng về
Nhà nước.
Thứ ba, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn vấn đề có tính đặc thù trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. Những đặc thù này cho
những đặc điểm về kinh tế chính trị và xã hội trong quá trình phát triển hiện nay
quy định.
1.3. Kinh nghiệm Đảng cầm quyền ở một số nước trên thế giới
1.3.1. Đảng cầm quyền ở các nước tư bản chủ nghĩa
Trong thời đại ngày nay, các Đảng chính tri có ảnh hưởng lớn lao đến đời
sống chính trị, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn đối với cả quốc tế. ở
các nước tư bản chủ nghĩa, các lực lượng cầm quyền đều có xu hướng duy trì sự
tồn tại hệ thống đa đảng đối lập, cùng cạnh tranh. Các hệ thống, Đảng này hoặc
đại diện cho một giai cấp hay cho nhóm lợi ích nào đó trong xã hội. Các nước tư
bản phương Tây quan niệm để tránh sự độc tài chính trị thì họ không cho phép
tồn tại một hệ nhất nguyên độc đảng cầm quyền. Họ quan niệm để thể hiện như
một sử dụng hoà chính trị giữa khát vọng phát triển kinh tế với khát vọng dân
chủ chính trị giữa khát vọng phát triển kinh tế với khát vọng dân chủ chính trị
thì phải thực hiện đa nguyên chính trị đa đảng đối lập.Trong hệt thống các đảng
phải có thường có một hay vài đảng nổi trội thường xuyên cầm quyền trong thời
gian dài. Trong các nền chính trị tư sản, Đảng cầm quyền được xác định chỉ là tổ
chức chính trị, không phải là cơ quan công quyền. Để tạo ra và thực hiện ý chí
chung của xã hội, thực hiện vai trò nắm quyền, đảng cầm quyền thông qua Nhà
nước. ý chí của đảng cầm quyền đường lối, chủ trương - được thể hiện thông
qua ý chí nhà nước. Điển hình như đảng cầm quyền ở một số nước.
Singapo: Từ khi cầm quyền đã thực hiện thành công những chương trình cải
cách kinh tế-xã hội, phát triển đất nước, thoả mãn nhu cầu củađông đảo quần
chúng nhân dân ở mức độ nhất định và giành được sự ủng hộ của họ. Đảng cũng
đã thu phục được phong trào công dân, lập ra những hiệp hội nhân dân. Việc PAP

tăng cường sự kiểm soát đối với các tổ chức xã hội quần chúng, một mặt làm tăng
uy tín của Đảng trong xã hội, củng cố quyền lực mặt khác tạo ra thêm những khó
khăn cho các lực lượng đối lập.
Thuỵ Điển: Cương lĩnh mới của Đảng công nhân dân chủ xã hội. Thuỷ
Điển (SAP) nhấn mạnh kinh tế toàn cầu hoá phải liên hợp các lực lượng tiến bộ
của các nước trên thế giới, thành lập liên minh chính trị mới, biến toàn cầu hoá
10


thành công cụ thúc đẩy dân chủ, phúc lợi và công bằng xã hội, dẫn dắt xã hội
phát triển về phía trước. Cương lĩnh cho rằng chế độ sở hữu là đa thành phần,
nhiều hình thức. Đảng chủ trương phân biệt chủ nghĩa tư bản với kinh tế thị
trường, đó là: “một hệ thống phân phối” tài nguyên và tiền tệ làm môi giới.
Inđônêxia: Để thâu tóm quyền lực, một thời gian dài, Đảng Golka và tổng
thống Xuháctô, đã thống trị diễn đàn chính trị bằng việc biến nhà nước trở thành
một thiết chế hạn hẹp. Việc ban hành 5 đạo luật của nhà nước đều nhằm cản trở
các công dân, các chính đảng tham gia vào đời sống chính trị.Quyền hành pháp
trở nên không thể kiểm soát nổi lấn lướt cả tư pháp và lập páp và thành viên của
nghị viện đều có đặc quyền do tổng thống bổ nhiệm mà không cần ra tranh cử.
Theo quy định 1000 đại biểu thì 600 là do tổng thống bổ nhiệm. Tổng thống thời
bổ nhiệm các thành viên nội các các quanchức cao cấp của chính quyền địa
phương.Các đảng đối lập khôngcó ghế trong nội các.
1.3.2. Đảng cầm quyền ở các nước XHCN
- Đảng Bônsêvich cầm quyền ở Liên Xô
Sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại,
Đảng Bônsêvich Nga đã bắt tay vào lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, bảo vệ tổ quốc mà trọng tâm là lãnh đạo phát triển kinh tế.
Theo chỉ dẫn của Lênin, Đảng Bônsêvich đã đổi mới cách thức phương
pháp lãnh đạo đối với các lĩnh vực đời sống xã hội, đối với chính quyền Xô Viết
và cá đoàn thể quần chúng, trong đó vấn đề quan trọng nhất là đổi mới phương

thức lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền Xô Viết.
Sau khi Lênin mất (1924) đặc biệt là những thập kỷ 80-90 của thế kỷ XX,
thì tư duy biện chứng ấy không được quán triệt sâu sắc và có hiệu quả trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn của Đảng cộng sản Liên Xô. Sự lãnh đó của
Đảng đối với Nhà nước, nhìn chung ở các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội theo
mô hình này (Xô Viết cũ) cũng như vậy. Với đặc điểm là xây dựng trên cơ sở
kinh tế kế hoạch tập trung cao độ, quyền lực nhà nước chủ yếu tập trung ở cá
nhân người lãnh đạo. Đặc trưng đó biểu hiện ở những vấn đề cụ thể sau:
Thứ nhất, không tách đảng ra khỏi chính quyền, đảng làm chính quyền.
Trong thực tế không phân biệt rạch ròi mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với
cơ quan Nhà nước và các tổ chức đoàn thể xã hội. Đảng bị Nhà nước hoá, còn
Nhà nước chỉ như bình hoa cây cảnh của Đảng, cơ quan đại biểu của nhân dân
chỉ là hình thức.
Thứ hai, quyền lực quá tập trung vào Trung ương và cá nhân người lãnh
đạo cao nhất. Mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì Trung ương đều có quyền lực
lớn, địa phương không có quyền tự chủ. Quyền lực nhà nước tập trung trong tay
người lãnh đạo tối cao là Stalin, quyền lực càng phình to, dẫn đến cộng quyền.
Thứ ba, không tách đảng khỏi chính quyền sẽ sinh ra giữ chức vụ suốt
đời,chế độ này tạo ra nhiều bất cập, cán bộ trẻ ít được lưu tâm trọng dụng dẫn
đến lãng phí nhân tài.
11


Thứ tư, quyền lực của cơ quan giám sát Nhà nước bị suy yếu. Mô hình Xô
viết - thể chế tập trung quyền lực chỉ có tác dụng tích cực ở những thời kỳ nhất
định chứ không phải là mô hình hoàn thiện.
- Thể chế Đảng cộng sản cầm quyền ở Trung Quốc
Hội nghị Trung ương 3 khoá XI của Đảng Cộng sản Trung Quốc (12-1987)
là dấu mốc quan trọng đánh dấu mở đầu công cuộc cải cách mở cửa. Hội nghị
này là bước ngoặt vĩ đại có ý nghĩa sâu xa trong lịch sử xây dựng đất nước

Trung Quốc. Việc xoá bỏ rối loạn, trở lại với cái đúng trên tất cả các mặt tư
tưởng, chính trị, tổ chức được bắt đầu. Thể chế chính trị Trung Quốc trước đây
hình thành và phát triển trong thể chế kinh tế kế hoạch tập trung, cao độ, nó tồn
tại nhiều khuyết tật. Vì vậy, phải tiến hành cải cách, cải cách là tăng cường dân
chủ hoá về đường lối, thể chế và hoạt động của hệ thống chính trị, trong đó
Đảng cộng sản là Trung tâm. Tiến hành cải cách kinh tế đòi hỏi phải cải cách thể
chế chính trị cho phù hợp. Để cải cách thể chế chính trị thì phải thể hiện dân chủ
hoá để thực hiện dân chủ hoá. Trung Quốc cần phải thực hiện 3 yêu cầu:
- Một là, đòi hỏi chính phủ phải thay đổi chức năng bộ máy và thể chế
nhân sự.
- Hai là, thành quả của cải cách thể chế kinh tế đòi hỏi thể chế chính trị
phải cải cách tương ứng để củng cố..
- Ba là, sự phát triển của kinh tế thị trường phải dân chủ hoá chính trị.
Công cuộc cải cách mở cửa phải kiên trì phương hướng một trung tâm,hai
điểm cơ bản (Một trung tâm là lấy phát triển kinh tế là một trung tâm, hai điểm
cơ bản: điểm cơ bản thứ nhất là kiên trì cải cách mở cửa, điểm cơ bản thứ hai
là kiên trì 4 nguyên tắc cơ bản: một là kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa. Hai
là kiên trì chuyên chính dân chủ nhân dân. Ba là, kiên trì sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản. Bốn là, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông).
Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc là yếu tố luôn luôn
được coi trọng. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc được thể hiện ở các
nội dung sau:
Thứ nhất, quán triệt phương hướng và mục tiêu lãnh đạo chính trị.
Thứ hai, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của cải cách chính trị: phát
triển dân chủ, tăng cường pháp chế, thực hiện chính quyền và xí nghiệp tách rời
với nhau, tinh giảm bộ máy hoàn thiện chế độ giám sát dân chủ, duy trì ổn định
đoàn kết. Trong quá trình cải cách thể chế chính trị Đảng Cộng sản Trung quốc
cũng đã đạt được một số tư tưởng bước đầu quan trọng: thể chế lãnh đạo của
Đảng được cải cách, Đảng đã được tách ra khỏi xí nghiệp, chế độ Đại hội đại
biểu nhân dân được hoàn thiện, bộ máy chính quyền được cải cách. Chế độ nhân

sự cán bộ được cải cách, chế độ hiệp thương chính trị và đa đang hợp tác dưới
sự lãnh dạo của Đảng cộng sản Trung Quốc được hoàn thiện.Dân chủ được thực
hiện ở chính sách xây dựng nông thôn trật tự. Tuy vậy thể chế chính trị Trung
Quốc vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: vấn đề quyền lực quá tập trung, vấn
đề Đảng và chính quyền không tách rời.
12


Chương 2
THỰC TRẠNG ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC TRONG ĐIỀU KIỆN
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở NƯỚC TA TỪ NĂM 1986
ĐẾN NAY
2.1. Quan điểm, nhận thức về vị trí vai trò của Đảng với Nhà nước
2.1.1. Đổi mới vị trí, vai trò của Đảng đối với Nhà nước
Trong hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta đã giành được
những thành tựu hết sức quan trọng trên mọi phương diện: kinh tế, chính trị, an
ninh, quốc phòng và hoạt động đối ngoại. Để giành được những thắng lợi này,
Đảng ta đã không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính
trị, đặc biệt là phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và đã đạt được
những thành tựu tiến bộ quan trọng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã xác định: Phải đổi mới phương thức
lãnh đạo đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội và hệ thống chính trị. Trong đó
trọng tâm là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Thực
hiện Nghị quyết Đại hội VI, Hội nghị trung ương 6, khoá VI đã đặt vấn đề: “Đổi
mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị” phân định rõ
chức năng, nhiệm vụ trên cơ sở đó, đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo
của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng.
Tại Đại hội VII Đảng ta khẳng định, để đổi mới và kiện toàn hệ thống chính
trị vấn đề mấu chốt là phân định rõ chức năng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa
Đảng và Nhà nước và các đoàn thể nhân dân trong “Cương lĩnh xây dựng đất

nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Phương thức lãnh đạo của
Đảng được xác định khá hoàn chỉnh”, “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh,
chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác, bằng công
tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hoạt động
gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng
lực và phẩm chất hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các
đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức và trong hệ thống
chính trị”(9).
Hội nghị Trung ương 3 Khoá VII về đổi mới chỉnh đốn Đảng đã chỉ rõ
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, Chính phủ, Toà án và Viện
kiểm sát. Tại Hà Nội đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII phương thức lãnh đạo của
Đảng đã được cụ thể hoá hơn.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, đặc biệt tại Hội nghị Trung ương 3
khoá VIII (6-1997) khi tổng kết vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước ta,Đảng ta đã nhận định: “Nội dung phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với nhà nước đã có những bước đổi mới, vừa đảm bảo tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ động của các cơ
quan Nhà nước”(10). Đến Đại hội IX trên cơ sở tổng kết thực tiễn, quyền lực đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đại hội chỉ rõ: “Đảng
thực hiện sứ mệnh lãnh đạo thông qua việc đề ra đường lối chủ trương, các
13


chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm tra tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng và hiến pháp, pháp luật của Nhà nước”(11).
Như vậy, từ Đại hộiVI đến Đại hội XI việc đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước đã được phát triển ngày càng phong phú và hoàn
chỉnh trên những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là một
nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, là yêu cầu thực tiễn của việc

xây dựng kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân.
Thứ hai, mục tiêu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cần phải xác
định hơn vai trò, chức năng, nhiệm vục của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân, phương thức lãnh đạo chung của toàn Đảng và
phương thức lãnh đạo toàn thể của từng cấp, trong từng lĩnh vực, đối với từng tổ
chức; phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đoàn thể và xã hội, đồng
thời phải có phương thức lãnh đạo trong nội bộ Đảng.
Cùng với những phát triển về quan điểm, đường lối trong những năm gần
đây, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, trong thực tiễn chỉ đạo,
điều hành và tổ chức thực hiện đã đạt được những thành tựu nhất định và có ý
nghĩa to lớn.
2.1.2. Đảng xác định chức năng nhiệm vụ của Nhà nước
Việc đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là điều kiện tiên
quyết Nhà nước ta thực sự là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, bảo đảm bản chất giai
cấp công nhân của Nhà nước. Vấn đề đặt ra chỉ là ở chỗ, sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước cần được thực hiện như thế nào để giải quyết tốt mối quan hệ
giữa đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc nâng cao tính thực quyền
của Nhà nước.
Nhiều văn kiện của Đảng ta đã khẳng định: Đảng lãnh đạo xã hội bằng Nhà
nước thông qua mặt trận, các đoàn thể, các tổ chức xã hội, bằng sự gương mẫu
của đảng viên, bằng tổ chức Đảng. Đảng là lực lượng lãnh đạo chứ không quản
lý đất nước. Quản lý đất nước thuộc chức năng của Nhà nước với sự tham gia
của nhân dân. Trên thực tế bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập trước yêu cầu
của giai đoạn mới. Nhà nước bước tiến trong việc đổi mới nền hành chính quốc
gia còn rất hạn chế. Tình trạng quan liêu, nhiều tầng nhiều nấc của bộ máy hành
chính làm cho việc quản lý các quá kinh tế - xã hội chưa thật nhanh nhạy và có
hiệu quả. Tình trạng hách dịch, nhũng nhiễu cửa quyền của một bộ phận công
chức nhà nước chưa được khắc phục, kỷ cương phép nước ở nhiều nơi bị xem
thường. Sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với Nhà nước còn chưa có hiệu

quả. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước còn nhiều điểm chưa
thật rõ ràng. Vẫn còn tình trạng một số cơ quan đảng làm thay việc Nhà nước,
can thiệp sâu vào công việc Nhà nước, đồng thời cũng có tình hình một số nơi
sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bị buông lỏng.

14


Đảng lãnh đạo Nhà nước có nghĩa là Đảng phải xác định chức năng, nhiệm
vụ của Nhà nước. Đây là vấn đề rất quan trọng trong nội dung Đảng lãnh đạo
Nhà nước, bởi có như vậy mới tách bạch làm cơ đầu là nhiệm vụ của Đảng, đâu
là nhiệm vụ của Nhà nước. Nếu không xác định rõ chức năng nhiệm vụ Nhà
nước sẽ dẫn đến tình trạng Đảng bao biện, lấn sân Nhà nước như thực tế trước
đây đã diễn ra.
Chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước phải được xác định rõ trong các văn
bản, Nghị quyết của Đảng. Chức năng của Nhà nước ta theo hướng xây dựng
một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta xác định ngay tại
Đại hội lần thứ VI (12/1986). Tại Đại hội này Đảng ta xác định chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước trong điều kiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ chế
quản lý: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chức năng của Nhà nước là thể chế hoá
bằng pháp luật quyền hạn, lợi ích nghĩa vụ của nhân dân lãnh đạo và quản lý
kinh tế xã hội theo pháp luật. Nhà nước ta phải đảm bảo quyền dân chủ thực sự
của nhân dân lãnh đạo, đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm quyền
làm chủ của nhân dân”(12).
Tại Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII và các ăn kiện Đại hội Đảng, Đảng ta
xác định và cụ thể hơn chức năng của Nhà nước đó là:
- Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết nền kinh tế: “Chức năng điều tiết
phải nhằm đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng bước phát
triển, hạn chế phăan hoá giàu nghèo, ngăn ngừa, khắc phục các hiện tượng tiêu
cực, các mặt trái của kinh tế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và xử lý nghiêm

minh những hành vi phạm pháp” (13). Nhà nước định hướng sự phát triển bằng
các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế chính sách trên cơ sở tôn trọng
các nguyên tăc của thị trường.
- Nhà nước tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát
huy các nguồn lực của xã hội cho phát triển, các chủ thể hoạt động kinh doanh
bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công khai minh bạch, có trật tự kỷ cương.
- Nhà nước hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội quan trọng. Nhà nước là người đại diện cho nhân dân, thực hiện
vai trò sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân. đây là chức năng đặc thù
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nắm giữ những bộ phận then chốt có vai trò chi
phối nền kinh tế.
- Nhà nước đảm bảo tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ
mô hạn chế các rủi do và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, Nhà nước điều
tiết thu nhập đảm bảo tính ổn định và sự phát triển bền vững của nền tài chính
quốc gia.
- Về nhiệm vụ của Nhà nước, Đảng ta xác định cụ thể trên một số mặt chủ
yếu sau:
+ Nhà nước có nhiệm vụ cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành
pháp luật và các chính sách cụ thể. Nhà nước có trách nhiệm xây dựng hệ thống
pháp luật, chính sách, chế độ các bộ luật do Quốc hội soạn thảo và ban hành, các
15


văn bản dưới luật hay mọi cơ sở của Nhà nước đều phải thực hiện đúng tư
tưởng, quan điểm, đường lối của Đảng.
+ Nhà nước có nhiệm vụ xây dựng chiến lược kinh tế xã hội và cụ thể hoá
chiến lược đó thành những chương trình, kê hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
Nhiệm vụ này yêu cầu Nhà nước phải có các cơ quan chức năng soạn thảo và cá
chiến lược, kế hoạch phát triển thực hiện các mục tiêu của Đảng.
+ Nhà nước có Nhà nước, quản lý hành chính- xã hội và hành chính kinh

tế, điều hành các hoạt động, xã hội trong toàn xã hội theo kế hoạch, giữ vững
pháp luật, kỷ cương, Nhà nước và trật tự xã hội, giữ vững quốc phòng. Trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ này đòi
hỏi Nhà nước phải tăng cường quản lý điều hành theo pháp luật. Nhà nước phải
xây dựng một hệ thống pháp luật và ngày càng hoàn chỉnh nó. Trong quá trình
quản lý, điều hành bằng pháp luật, Nhà nước cần phải thực hiện, kỷ cương,
thường xuyên tuyên truyền giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật.
+ Nhà nước có nhiệm vụ kiểm tra việc thực hiện kế hoạch đã đề ra, phát
triển những mất cân đối và đề ra các biện pháp khắc phục. Nhà nước không chỉ
có trách nhiệm xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, mà quan trọng hơn
là không kiểm tra việc thực hiện chúng.
+ Nhà nước có nhiệm vụ xây dựng bộ của mình bảo đảm sự trong sạch,
vững mạnh có hiệu lực và có hiệu quả với một đội ngũ có phẩm chất chính trị
và năng lực quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế xã hội. Đây là nhiệm vụ trọng
tâm đối với Nhà nước ta để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
trên các lĩnh vực lập pháp của Nhà nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng chính là
nội dung Đảng lãnh đạo Nhà nước trên các lĩnh vực đó.
2.2. Đảng lãnh đạo về tổ chức và hoạt động của các cơ quan quyền lực
Nhà nước từ 1986 đến nay
2.2.1. Đảng lãnh đạo cơ quan lập pháp (Quốc hội)
Cách mạng được đổi mới có một bước quan trọng ngay từ khâu bầu cử đại
biểu Quốc hội được hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động tăng
cường bộ phận chuyên trách trong cơ cấu đại biểu Quốc hội, làm tốt hơn chức
năng lập pháp tăng cường công tác giám sát và quyết định các vấn đề trọng đại
của đất nước. Quốc hội hoạt động thường xuyên hơn, hoạt động ngày càng dân
chủ hơn, tăng cường tranh luận, thảo luận một cách thẳng thắn, thiết thực mở
rộng chất ấn, tưng cường lắng nghe và tiếp xúc cử tri... Nhờ vậy, hoạt động của
Quốc hội ngày càng sinh động hơn, hấp dẫn hơn, quyền hơn, hiệu quả hơn, được

nhân dân quan tâm nhiều hơn.Đảng đã có phương hướng chiến lược lập pháp;
Ban hành hiến pháp 1992 và chỉ đạo sửa đổi Hiến pháp đó để phản ánh đúng đắn
thành quả đổi mới tư duy và thực tiễn đổi mới đất nước; đã sửa đổi và ban hành
nhiều văn bản pháp luật quan trọng liên quan tới tổ chức và hoạt động của các
cơ quan quyền lực Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội, các thành phần kinh
16


tế, hàng trăm quy định lỗi thời bị loại bỏ, nhiều quyền công dân và quyền con
người đã được cụ thể hoá và thể chế hóa.
Đại hội VI của Đảng (12/1986) chính thức công bố đường lối đổi mới toàn
diện đất nước. Đảng ta khẳng định trước hết Đảng phải đổi mới, từ đó đổi mới
Đảng đến đổi mới Nhà nước, đổi mới Nhà nước đến lượt mình trước hết phải
đổi mới Quốc hội; Đó là một trật tự không thể đảo ngược chính là từ định hướng
chiến lược đó mà trong lãnh đạo đổi mới Nhà nước Đảng đã rút ra những bài
học quý báu.
Thứ nhất, Đảng đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của Nhà nước, Quốc hội
đổi mới quan hệ với Nhà nước, với quốc hội, với một cơ chế mới thay cho cơ
chế thời chiến trong đó Đảng tôn trọng Nhà nước, tôn trọng Quốc hội, Đảng
khẳng định đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội phải lấy
việc thực hiện chức năng lập pháp là chủ yếu, xác định rõ mối quan hệ quan hệ
giữa Ban cháp hành Trung ương, Bộ Chính trị với Quốc hôi, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội trong hoạt động lập pháp, xác định trách nhiệm của Đảng đoàn Quốc
hội, của các đại biểu Quốc hội trong lãnh đạo thực hiện chức năng lập pháp của
Quốc hội.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng việc giới thiệu đảng viên, ưu tú để
nhân dân lựa chọn bầu vào các cơ quan Nhà nước đồng thời mở ra khả năng cho
những người ngoài Đảng có đức có tài được tham gia vào Quốc hội.Chủ trương
này của Đảng được thể hiện trong Hiến pháp có ý nghĩa vô cùng quan trọng ở
chỗ:

- Nó khởi đầu cho một cơ chế thu hút người tài ra phụng sự đất nước.
- Nó đặt cơ sở cho việc đổi mới cơ cấu đại biểu Quốc hội.
- Nó đặt cơ sở cho việc hình thành cơ chế phản biện đối với đường lối chủ
trương của Đảng, và cho chính ngay hoạt động lập pháp của quốc hội..
Và từ những ý nghĩa đó, chủ trương của Đảng thể hiện sự ’đối xử” dân chủ
của Đảng đối với Quốc hội- một thiết chế mang bản chất dân chủ, chỉ ra đời
trong chế độ dân chủ và từ đó phát huy được vai trò của Quốc hội đối với sự
lãnh của Đảng.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo Quốc hội bằng việc kiểm tra
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, với phương
thức này Đảng vừa đảm bảo tính định hướng chính trị trong hoạt động của Nhà
nước, của Quốc hội, vừa hỗ trợ cho Nhà nước, quốc hội thực hiện được chức
năng, nhiệm vụ của mình, bởi hiệu lực, tính thực quyền của Quốc hội chỉ có thể
đo được bằng hiệu lực thực tế của các đạo luậtdo quốc hội ban hành. Cũng theo
chủ trương này nhiều cán bộ của Đảng, công chức Nhà nước bị thoái hoá biến
chất đã bị xử lý theo pháp luật, làm cho bộ máy Đảng, bộ máy Nhà nước trong
sạch.
Thứ tư, Đảng lãnh đạo Quốc hội bằng sự nêu gương mẫu mực của các đảng
viên là đại biểu Quốc hội. Theo phương thức này, Đảng chủ trương để cao và cụ
thể hóa tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội; thực hiện một quy trình bầu cử chặt chẽ,
17


trong đó có việc lấy ý kiến không chỉ nhân dân nơi ứng cử viên cư trú, mà lấy ý
kiến cả cơ quan đơn vị công tác, phát huy vai trò của mặt trận tổ quốc một cách
thực chất trong hiệp thương, giới thiệu ra ứng cử; thực hiện chế độ công khai
hoá tài sản của ứng cử viên; tăng cường chế độ trách nhiệm của đại biểu trước
cử tri, đặc biệt là bổ xung chế độ Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức
danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn khi tiến hành sửa đổi, bổ sung một số
điều của Hiến pháp 1992.

Chính là từ những sự đổi mới trên của Đảng trong lãnh đạo Quốc hội mà
Quốc hội trong những năm đổi mới đã có những thay đổi cơ bản: tính đại biểu
và tính quyền lực cao nhất của Quốc hội được thể hiện rõ nét hơn; các chức
năng của Quốc hội nhất là công lập pháp đã có chuyển biến quan trọng và đạt
nhiều thành tựu đáng kể. Quốc hội ngầy càng dân chủ, chủ động, sáng tạo, có
hiệu quả hơn.
Trong quá tình Đảng lãnh đạo Quốc hội cũng còn một số hạn chế sau:
Quốc hội phải là nơi tập trung lương tri và trí tuệ cao nhất của đất nước.
Các đại biểu Quốc hội của chúng ta cũng phải có tầm và tầm chính trị chiến
lược.Nếu trình độ không tương xứng thì đây không chỉ là nhược điểm của các
đại biểu mà còn do Quốc hội chưa có hệ thống tổ chức cơ quan và chuyên gia
hỗ trợ nhận thức cho các đại biểu Quốc hội- một sự cần thiết phổ biến của mọi
quốc gia trên thế giới đương đại.
Giám sát là một trong những chức năng của Quốc hội, nhưng việc đề xuất
vẫn chậm và triển khai thực hiện còn chưa hiệu quả. Tổ chức thể chế, nhân sự
cho việc này vẫn chưa có những tiến triển. Chừng nào công việc này chưa được
đẩy mạnh bằng tổ chức và thể chế rõ ràng thì việc giám sát khó có thể hình
thành.
Đại biểu Quốc hội từ các ngành, các cấp của chính phủ qua đơn giá và hoạt
động độc lập của đại biểu quốc hội vẫn còn quá ít.
Quan hệ Quốc hội - dân là quan hệ rất cơ bản trong hệ thống thể chế dân
chủ, quan hệ không phải là khâu trung gian giữa dân và Nhà nước mà Quốc hội
là cơ quan quyền lực của dân, là dân dưới dạng đại biểu. Nguyện vọng, ý chí và
sáng kiến của dân được tập trung vào đại biểu của họ và chuyển thành nội dung
bàn bạc của Quốc hội. Nhưng giữa đại biểu quốc hội và dân ở ta vẫn còn một
khoảng cách rất xa. Các đại biểu Quốc hội về địa phương thường là cán bộ chính
quyền rơi vào vào cương toả của cán bộ chính quyền.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam chúng ta phải khắc phục mạnh tình trạng này, phải có đại biểu chuyên
nghiệp nghiệp có quyền lực rõ ràng có nhiều hoạt động giao tiếp với dân, có

trách nhiệm với dân.
2.2.2. Đảng lãnh đạo cơ quan hành pháp (Chính phủ)
Đảng lãnh đạo chính phủ kiện toàn tổ chức, bộ máy và cơ quan chính
quyền địa phương đã sắp xếp các cơ quan bộ và cơ quan ngang bộ để hình
thành các bộ quản lý nhà nước theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực tách dần chức
18


năng quyền lực Nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp; phân biệt chức năng cơ quan hành chính công quyền với các đơn vị sự
nghiệp, với dịch vụ công. Qua sắp xếp thay đổi bộ máy Chính phủ hiện nay nhìn
chung điều hành ngày càng nhanh nhạy, kịp thời, hiệu quả.
Đảng lãnh đạo chính phủ tiến hành cải cách bộ áy chính phủ và cơ quan
chính quyền địa phương đã sắp xếp các cơ quan ngang bộ và cơ quan ngang bộ
để hình thành các bộ quản lý Nhà nước theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực tách
dần chức năng Quản lý Nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp; phân biệt chứ năng cơ quan hành chính công quyền với các đơn vị sự
nghiệp, với dịch vụ công. Qua sắp xếp thay đổi bộ máy chính phủ hiện nay nhìn
chung điều hành ngày càng nhanh nhẹn, kịp thời, hiệu quả.
Đảng lãnh đạo chính phủ tiến hành cải cách một bước nền hành chính quốc
gia trên tất cả các lĩnh vực, thể chế hành chính, tổ chức bộ máy hành chính,
phương thức và đội ngũ công chức hành chính theo hướng ngày càng khoa học
khoa học hoá, chính quy hoá, công khai hoá, quy chế hoá, từng bước xã hội hoá
hoạt động hành chính.Trung ương Đảng xác định nội dung, phạm vi lãnh đạo
của Đảng đối với chính phủ, trước hết là ở Trung ương làm rõ mối quan hệ lãnh
đạo giữa Ban chấp hành trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư với chính phủ. Qua
ban cán sự Đảng Chính phủ và các cán bộ Đảng giữ vị trí chủ chốt trong chính
phủ, Đảng lãnh đạo chính phủ, Đảng lãnh đạo chính phủ thể chế hoá các chủ
trương lớn của Đảng thành quy định của chính phủ theo cách thức, trình tự và
thủ tục Nhà nước. Đã đổi mới cách thức chuẩn bị và ra quyết định của cấp uỷ

Đảng về các vấn đề kinh tế - xã hội. Đảng giao trách nhiệm cho các ban của
Đảng đồng thời phát huy khả năng của các cơ quan chính phủ, trực tiếp là các tổ
chức Đảng và đảng viên trong cơ quan Nhà nước, trong việc chuẩn bị các tổ
chức Đảng và đảng viên trong cơ quan Nhà nước, trong việc chuẩn bị các quan
điểm của Trung ương. Đối với các chủ trương quan trọng về phát triển kinh tếxã hội, dài hạn, các công trình tầm cỡ quốc gia, Trung ương Đảng hoặc Bộ
Chính trị có nghị quyết hay chỉ thị về tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu cần đạt các
chính và các biện pháp chủ yếu cần áp dụng. Chính phủ quan điểm các chỉ tiêu
cụ thể, các chủ trương, biện pháp cụ thể về kỹ thuật và tài chính, theo đó, kiểm
tra các tổ chức đảng và cán bộ đảng viên trong việc thực hiện các chủ trương,
chính sách đó.
Đảng lãnh đạo chínhh phủ đổi mới phương thức hoạt động theo yêu cầu cải
cách nền hành chính Nhà nước, tiến bộ một phần nền hành chính trong sạch dân
chủ và hiện đại. Đã có bước tiến trong đổi mới việc quy hoạch đào tạo, sử dụng
cán bộ quản lý Nhà nước của Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp;
nêu cao yêu cầu chuyên nghiệp hoá đội ngũ công chức hành chính.
Những đổi mới đó đã làm cho sự điều hành của chính phủ được nhanh nhạy
có hiệu quả hơn; một nền hành chính gần dân , thân dân, vì dân từng bước được
xác lập và củng cố; một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước có chuyên môn nghiệp
vụ thành thạo công việc từng bước được hình thành. Dưới sự lãnh đạo của Trung
ương Đảng, Ban cán sự Đảng chính phủ, chính phủ đã có một sự chuyển biến
19


quan trọng từ chính phủ tập trung quan liêu bao cấp sang chính phủ của nền kinh
tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.Theo đó, Chính phủ có những đổi
mới tích cực và rõ rệt theo hướng tăng cường chức năng nghiệp vụ của một cơ
quan hành pháp trong hệ thống các cơ quan quyền lực của một Nhà nước pháp
quyền.Chính phủ ngày càng giao quyền nhiều hơn cho các doanh nghiệp, các
hiệp hội ngành nghề và các tổ chức xã hội khác. Chính phủ ngày càng được xác
định và tự nó xác định đúng vị trí trong điều hành có hiệu quả hơn mọi mặt của

đời sống văn hoá, chính trị, kinh tế, văn hoá, các hoạt động đối nội đối ngoại.
Về cơ cấu tổ chức, đã có sự phân biệt ngỳ càng rõ hơn, giữa chức năng
quản lý hành chính nhà nước và chức năng quản lý sản xuất kinh doanh, đưa các
đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước ra khỏi các bộ chủ quản hình thành
các đảng công trong Nhà nước.
Về cơ chế hoạt động, trên cơ sở của của chủ trương, đường lối của Đảng,
Hiến pháp pháp luật của Nhà nước, chính phủ ta đã có những điều chỉnh quan
trọng trong việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình cho phù hợp với
yêu cầu của tình hình mới: Theo đó chính phủ chủ yếu quản lý ở tầm vĩ mô
thông qua các chính sách, kế hoạch và pháp luật. Chính phủ ngày càng tập trung
hơn vào việc cạnh tranh với các đối tác trong và ngoài nước, mũi nhọn có khả
năng cạnh tranh với các đối tác trong và ngoài nước, tạo dựng môi trường chính
trị, pháp lý ổn định và vững chắc cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thu hút đầu
tư nước ngoài xây dựng cơ sở văn vật chất hạ tầng…
Trong quá trình đổi mới chính phủ, Đảng tập trung sự lãnh đạo vào cải cách
hành chính theo hướng xây dựng một nền hành chính thông suốt hiệu lực hiệu
quả của một Nhà nước pháp quyền. Dưới sự lãnh đạo, chính phủ đã từng bước
tập trung trước hết vào việc cải cách thủ tục hành chính từng bước xây dựng nền
hành chính một cửa, loại bỏ nhiều thủ tục xin - cho gây phiền hà, tạo sự thông
thoáng đổi mới dân chủ môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và đời
sống của nhân dân.
*Những hạn chế trong lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ
Có thể khẳng định thành công của sự nghiệp đổi mới qua hoạt động của
chính phủ là to lớn. Nhưng những nhược điểm và khuyết điểm ở đây vấn còn rất
nặng nề ngay cả ở những mắt khâu cơ bản.
Số lượng các vấn đề kinh tế - xã hội nội chính mà ban cán sự Đảng chính
phủ các ban sự Đảng ở cán bộ và các ban của Đảng báo cáo, xin ý kiến Trung
ương Đảng vẫn quá nhiều, có cả những công việc cụ thể và trách nhiệm quản lý
Nhà nước và thẩm quyền của chính phủ, của thủ tướng.
Về tổ chức lãnh đạo trực tiếp, toàn diện lĩnh vực an ninh quốc phòng còn

chưa thật rõ, nhiều việc thuộc phạm vi quản lý hành chính tổ chức hậu cần, các
vấn đề kinh tế - xã hội áp dụng chung cho các ngành các cấp mà cơ quan quốc
phòng công an cũng phải theo quan điểm của Nhà nước. Vai trò của Nhà nước ở
đây bị mờ nhạt.

20


Nhiệm vụ cụ thể và phương thức hoạt động của ban cán sự Đảng chính phủ,
mối quan hệ Ban cán sự và trách nhiệm của đồng chí Uỷ viên Bộ chính trị chưa
thật rõ ràng.
Chưa có một trách nhiệm rõ ràng cho ban cán sự đảng và các cán bộ cao
cấp của Đảng giữ cương vị chủ chốt trong chính phủ, trong việc quản lý, sử
dụng cán bộ.
Những hạn chế của việc Đảng lãnh đạo cơ quan hành pháp đã Đại hội X
xác định: “Bộ máy nhà nước chậm đổi mới chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc
phát triển kinh tế-xã hội.Những yếu kém của bộ máy Quản lý nhà nước và công
tác cán bộ chưa được khắc phục. Năng lực và phẩm chất của nhiều cán bộ công
chức thoái hoá biến chất. Dân chủ ở nhiều nơi bị vi phạm, kỷ cương phép nước
chưa nghiêm. Quan liêu tham nhũng lãng phí còn nghiêm trọng, đặc biệt là tình
trạng nhũng nhiễu cửa quyền, thiếu trách nhiệm của một bộ phận không nhỏ
cán bộ công chức, nhất là các cơ quan giải quyết công việc cho dân và doanh
nghiệp, bộ máy chính quyền cơ sở nhiều nơi yếu kém”(14).
Tham nhũng tiếp tục phát triển mạnh mẽ cùng những tác động tiêu cực của
kinh tế thị trường, những tàn dư của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp còn tồn
tại khá nặng ở các ngành, cấp đang gây trở ngại lớn đến việc thực hiện tốt các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nền hành chính nước nhà còn mang nặng dấu ấn của cơ chế quản lý tập
trung, quan liêu bao cấp, chưa đáp ứng được những yêu cầu của cơ chế quản lý,
mới cũng như yêu cầu phục vụ nhân dân trong điều kiện mới, hiệu lực hiệu quả

chưa cao.
Tất cả những vấn đề trên Chính phủ biết, Quốc hội biết, dân biết và các giải
pháp cơ bản cũng đã được đề xuất nhưng quan tâm hoạt động không tương xứng
cách tiếp cận sai; tính cục bộ cá nhân cản trở mạnh trong xử lý thực tiễn.
2.2.3. Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp
Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Trung ương
Đảng, bộ chính trị, Ban bí thư chúng ta đã tiến hành nhiều cải cách trong lĩnh
vực tư pháp. Đã thành lập ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương. Ban chỉ
đạo cải cách tư pháp Trung ương đã có chương trình công tác thường xuyên và
đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng. Trong 6 tháng năm 2005, Ban
chính trị khoá IX lại có nghị quyết về tăng cường cải cách tư pháp. Theo đó hệ
thống các cơ quan tư pháp nước ta đã có một bước cải tiến theo yêu cầu dân chủ
và pháp quyền. Lĩnh vực hoạt động tư pháp đã có những bước chuyển biến tích
cực. Từ nhận thức đến tổ chức thực tiễn, từng bước đáp ứng tốt hơn yêu cầu
nhiệm vụ mới.
- Đảng lãnh đạo lực lượng công an nhân dân
Nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là đảm bảo
sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, trong đó phải đảm bảo sự lãnh đạo trực
tiếp, tuyệt đối của Đảng về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang nhân dân nói
chung và công an nhân dân nói riêng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nhiệm
21


vụ của công an là bảo vệ và phục vụ nhân dân, bảo vệ Đảng, chính quyền và
bảo vệ sự nghiệp Xã hội chủ nghĩa”15. Vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện
quyền lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng Công an nhân
dân là một tất yêu khách quan.
Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam khoá IX xác định: Đảng lãnh đạo QĐND
và CAND Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, xây dựng quân đội và công
an trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tình cảm trung thành tuyệt đối

với Đảng với tổ chức hết công phục vụ nhân dân, là lực lượng nòng cốt cùng
toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa giữ gìn trật tự và an toàn
xã hội.
Về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công an nhân dân.
+ Đảng quyết định những vấn đề về đường lối,chủ trương,chính sách, đảm
bảo an nih chính trị, trật tự an toàn xã hội.
+ Đảng xác định con người nhiệm vụ và quyết dịnh tổ chức cán bộ của lực
lượng công an nhân dân.
+ Các cơ quan chuyên môn của ban chấp hành trung ương Đảng thực hiẹn
việc lãnh đạo chỉ đạo kiểm tra, giám sát hoạt động của lực lượng công an nhân
dân và các cơ quan bảo vệ pháp luật..
+ Đảng trực tiếp lãnh đạo cho ý kiến chủ đạo về phương pháp cách thức,
mức độ giải quyết xử lý những vấn đề lớn, hệ trọng, những vụ việc phức tạp
nhạy cảm về chính trị xã hôi và quan hệ đối ngoai.
Để đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp tuyệt đối về mọi mặt của Đảng đôíi với lực
lượng công an nhân dân và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
xã hội trong điều kiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay,
tiến hành đổi mới và chỉnh đốn tổ chức Đảng, đảm bảo nâng cao sức chiến đấu của
các tổ chức Đảng trong lực lượng công an nhân dân.
- Đảng lãnh đạo tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Công cuộc đổi mới tổ chức và đổi mới của các cơ quan tư pháp nói chung
và Viện kiếm sát nói riêng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền đựơc
khởi xướng từ hôi nghị Ban chấp hành Trung ương khoá VII đã đưa ra những
quyết định chỉ đạo sau:
Về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân; làm tốt hơn nữa
công tac kiểm sát việc tuân thủ pháp luật về kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh
đối ngoại.
Xây dựng đội ngũ kiểm sát viên theo các tiêu chuẩn đã được pháp lệnh
kiểm sát viên quy định.
Nghiên cứu tổ chức hệ thống các cơp quan điều tra hợp lý, bởi chồng chéo, xác

định quyền hạn và trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan điều tra và điều tra viên theo
hướng phân biệt thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng.
Đại hội Đảng VIII xác định nhiệm vụ lớn của ngành kiểm soát nhân dân.
22


+ Tăng cường trách nhiệm nghiệm pháp lý của Viện kiểm soát nhân dân
đối với công tác bắt, giam giữ và phải được phê chuẩn đối với từng trường hợp.
Sai sót thì phải chịu trách nhiệm.
+ Đồng chí Bí thư Ban cán sự Đảng, Viện kiểm soát nhân dân tối cao chủ
tri phối hợp cùng Đảng uỷ cơ quan Trung ương, Ban chấp hành Đảng toà án
nhan dân các tỉnh, thành uỷ có kế hoạch triển khai cụ thể công tác.
Đối với các cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm soát, Nghị quyết Đại
hội IX, 2001 đã chỉ rõ: “Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của
các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ
tư pháp trong công điều tra, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án. Không để
xảy ra những trường hợp oan trái. Viện kiểm soát nhân dân thực hiện tốt chức
năng công tố và kiểm soát hoạt động tư pháp”16.
- Đảng lãnh đạo toà án nhân dân
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Toà án nhân dân được thực hiện thông qua
hoạt động sau đây;
Sự lãnh đạo của Đảng đối với toà án trước hết thể hiện bằng việc Đảng ban
hành những văn kiện trong đó thể hiện những quan điểm, chủ trương, chính sách
để chỉ đạo tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân.
Đảng lãnh đạo kiện toàn đội ngũ cán bộ toà án nhân dân cho ý kiến về tổ
chức Toà án nhân dân giới thiệu những cán bộ có năng lực và trình độ chính trị
vững vàng, phát triển, xử lý những cán bộ vi phạm.
Đảng lãnh đạo thực hiện chức năng xét xử và giải quyết các công việc khác
theo quyết định của pháp luật. Đảng thường xuyên nghe báo cáo tổng hợp tình
hình công tác của Toà án nhân dân để từ đó có sự lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp.

Đối với những vụ án lớn, trọng điểm các cấp uỷ thường có sự chỉ đạo xét xử
nhằm đảm bảo cho toà án thực hiện đúng đường lối chủ trương của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, song cấp uỷ không định tội danh, mức án, nhiều vụ án khác
của Đảng lãnh đạo thông qua công tác kiểm tra của Đảng.
Thực tiễn sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của toà án
nhân dân đã nảy sinh một số vấn đề sau đây:
- Sự chỉ đạo của một số cấp uỷ, tổ chức Đảng chưa được tập trung kiên
quyết. Công tác lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức hoạt động Toà án nhân dân
có lúc có nơi không được tiến hành thường xuyên, thậm trí buông lỏng làm cho
tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân có những biểu hiện trì trệ, thiếu thẩm
phán, thiếu cán bộ ở nhiều toà án. Công tác giáo dục chính trị ở nhiều nơi chưa
tốt, chưa bám sát chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
- Vẫn còn có những trường hợp cấp uỷ bao biện, làm thay, can thiệp không
đúng vào công tác xét xử của toà án vi phạm nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ
tuân theo pháp luật của thẩm phán, hội thẩm làm xuất hiện tư tưởng ỷ lại, thụ
động, không giám chịu trách nhiệm về những công việc thuộc chức năng, nhiệm
vụ của mình.
23


- Công tác triển khai thực hiện Nghị quyết Đảng về tổ chức và hoạt động
của Toà án nhân dân còn chậm, nhất là việc thể chế hoá thành những văn bản
pháp luật chưa thực sự đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra.
2.3. Những nguyên tắc về Đảng lãnh đạo Nhà nước ở nước ta hiện nay

Đảng lãnh đạo nhà nươc và lãnh đạo xã hội là đảm bảo và phát huy
quyền làm chủ thực sự của nhân dân làm cho nhân dân là người chủ của xã hội,
nhân dân có quyền làm chủ và thực hiện nghĩa vụ người chủ của mình.
Đây là bản chất và là động lực và sức mạnh quyết định thắng lợi đối với
giai đoạn thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng xã hội

ta thành một xã hội dân chủ. Trong chế độ xã hội đó, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là dân chủ của số đảng của đa số nhân dân lao động. Đây là định hướng
chính trị tổng quát và bao trùm hoạt động lãnh đạo và cầm quyền của Đảng đối
với Nhà nước. Mục đích sâu xa lâu dài của sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước là làm cho Nhà nước thực sự là tổ chức quyền lực của nhân dân và đại diện
cho quyền lực và ý chí của toàn dân, ngày càng vững mạnh và hoàn thiện về tổ
chức bộ máy, thực sự là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước với tư cách là lực lượng tiên phong dẫn đường,
vạch ra và tổ chức thực hiện phương hướng chính trị của Nhà nước, đảm bảo giữ
vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước kiểu mới. Đảng lãnh đạo cầm
quyền phải tỏ rõ vai trò và hiệu quả của sự lãnh đạo cầm quyền đó bằng cách
xây dựng được Nhà nước pháp quyền mạnh. Đảng lãnh đạo Nhà nước quản lý
để nhân dân làm chủ và vì nhân dân. Mục đích sâu xa của lãnh đạo Đảng cầm
quyền: Định hướng chính trị tổng quát là bao trùm trênlà nguyên tắc hướng đầu
bất biến. Trong tình hình đang diễn ra cuộc đấu tranh phức tạp về tư tưởng, lực
lượng như hiện nay việc khẳng định nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước càng
trở nên quan trọng và cần thiết.
Đảng lãnh đạo nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
phải sao cho có một Nhà nước pháp quyền mạnh, có thực lực, thực quyền, đảm
bảo quyền lực thuộc về nhân dân, thống nhất và tập trung quyền lực vào nhân
dân. Có sự phân công và phối hợp thực hiện các quyền đó giữa các cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp, không phân chia quyền lực theo thuyết tam quyền.
Nguyên tắc này là quan điểm chính trị nhất quyền của chế độ chính trị nước
ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nó dựa vững chắc trên cơ sở lực lượng và thực
tiễn Việt Nam, chỉ đạo nhất quán tổ chưc và hoạt động của Nhà nước chứ không
phải là vấn đề kỷ luật thuần tuý của Quản lý Nhà nước. Cần khẳng định Nhà
nước pháp quyền là một hình thức tổ chức và một trình độ phát triển của Nhà
nước mà lịch sử đã từng biết đến, là phát triển quan trọng trong văn hoá, văn
minh nhân loại. Xây dựng Nhà nước pháp quyền là sự cần thiết tất yếu để phát
triển kinh tế thị trường và phát triển dân chủ. Đó còn là con đường và giải pháp

tiến tới xã hội hiện đại, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng có thể và
cần phải học tập những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong nền dân chủ tư
sản.
24


Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam là xây dựng một Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, tập chung, thống
nhất, không phân chia quyền lực mà có sự phân công phối hợp theo chức năng,
nhiệm vụ giữa các bộ phận cấu thành Nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản mang bản
chất giai cấp công nhân là giai cấp đại diện chân chính nhất cho lợi ích của dân
tộc và nhân dân lãnh đạo.
Đảng lãnh đạo Nhà nước với bản chất và mục tiêu như vậy sẽ làm cho
Đảng luôn luôn nhận được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng. Thống nhất bản
chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, dân tộc sâu sắc đó là đặc trưng cơ bản
của Nhà nước do Đảng lãnh đạo. Một nhà nước pháp quyền mạnh và có hiệu lực
trở thành đảm bảo quan trọng cho Đảng cộng sản cầm quyền.
Đảng lãnh đạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, nguyên tắc chính trị cốt tử của Đảng cộng sản và là nguyên tắc
tổ chức hoạt động của Nhà nước pháp quyền, của hệ thống chính trị ở nước ta.
Tập trung dân chủ, bảo đảm cho Đảng là một Đảng hành động, có sức
mạnh chiến đấu, đoàn kết, nhất trí, có kỷ luật, kỷ cương, có sức mạnh của tổ
chức khi hành động muôn người như một. Nguyên tắc này suy yếu, bị xem nhẹ,
Đảng bị tan vỡ về mặt tổ chức, biến thành hỗn loạn, mất sinh khí chính trị. Tập
trung dân chủ từ một quan điểm, nguyên tắc chính trị, phải được xây dựng thành
một chế độ công tác trong ứng xử, hành động mà mọi tổ chức Đảng từ cơ sở tới
Trung ương mọi cán bộ đảng viên phải tự giác chấp hành tuân thủ. Điều lệ Đảng
là bộ luật tối cao của Đảng. Tập trung dân chủ là một chế định chính trị làm rõ
mối quan hệ giữa dân chủ và tập chung: Tự do thảo luận tranh luận, có quyền

bảo lưu ý kiến, kiến nghị tới tận cơ quan lãnh đạo cao nhất, nhưng phải chấp
hành Nghị quyết của tổ chức. Tập trung dân chủ lấy dân chủ làm cơ sở và lấy
tập chung làm điều kiện, phương thức thực hiện trong nguyên tắc này là tập
chung không đối lập với dân chủ, mà chỉ đạo lập với sự phân tán, tản mạn, cục
bộ địa phương, tự do vô chính phủ. Và dân chủ klhông độc lập với tổ chức mà
chỉ độc lập với quan liêu, chuyên chế, độc tài không có tổ chức uỷ không có dân
chủ mà không có dân chủ đảm bảo thì tổ chức không thành.
Cần phải đề cao chế độ báo cáo, thành thị, kỷ luật, chế độ chấp hành trách
nhiệm cá nhân, thẩm quyền của thủ trưởng hành chính các cấp. Mặt khác, cần
chú trọng công tác thanh kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại tố cáo. Chế độ
hay nguyên tắc tập trung dân chủ còn phải được thực hiện đúng đắn trong công
tác cán bộ, trong các cơ quan nhà nước, tăng cường kỷ luật công vụ đạo đức
công chức… Tổ chức mạnh, kỷ luật, pháp luật nghiêm minh, Đảng lãnh đạo Nhà
nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền như hiện nay phải đảm
bảo chú trọng tới nguyên tắc tập trung dân chủ, nhất là trong mối quan hệ giữa
Đảng và Nhà nước, giữa các cấp uỷ, chính quyền cùng cấp…
Đảng lãnh đạo nhà nước pháp quyền theo phương thức dân chủ và và nội
dung chính trị phù hợp với chức năng, nhiệm vụ trọng trách của Đảng cầm
quyền.
25


×