Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO đề tài KINH tế CHÍNH TRỊ, PHÁT HUY VAI TRÒ của các DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG TRONG sự NGHIỆP CÔNG NGHIỆP hóa HIỆN đại hóa HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.84 KB, 31 trang )

MỤC LỤC

I

Trang
MỞ ĐẦU
3
Một số vấn đề lý luận và thực trạng về vai trò doanh
6
nghiệp công nghiệp quốc phòng trong công nghiệp hóa,

1.1.

hiện đại hóa
Quan niệm, đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp công

6

1.2.

nghiệp quốc phòng trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thực trạng và nguyên nhân trong phát huy vai trò doanh

12

nghiệp công nghiệp quốc phòng trong công nghiệp hóa,
II.

hiện đại hóa
Giải phát huy vai trò doanh nghiệp công nghiệp quốc


19

phòng trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
2.1

hiện nay
Thực hiện tốt quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp công nghiệp

19

quốc phòng đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
2.2

đại hóa đất nước
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu

23

phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.3

đất nước
Đa dạng hóa các nguồn vốn cho phát triển các doanh

26

nghiệp công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

29
30


Chữ viết đầy đủ
Chính trị quốc gia
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp quốc phòng
Hà Nội
Nhà xuất bản

Chữ viết tắt
CTQG
CNH,HĐH
CNQP
HN
Nxb


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn chuyên đề
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) đã đánh dấu
đưa nước ta bước vào thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Kể từ đó đến nay, với mục tiêu phấn đấu đưa nước ta đến
năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hương hiện đại, thì

yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn đã và đang trở thành
nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong suốt thời kỳ quá độ. Thực hiện nhiệm vụ
này đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của toàn Đảng, toàn dân của các thành phần kinh
tế, mà trước hết là các doanh nghiệp công nghiệp nói chung, trong đó có cả
doanh nghiệp CNQP. Đặc biệt khi đất nước đang trong điều kiện hòa bình, với
đặc điểm và tiềm năng của mình, việc phát huy vai trò của các doanh nghiệp
CNQP là vấn đề hết sức cấp thiết, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế đang diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng hiện nay.
Đồng thời, trước tình hình thực tế hiện nay, trong điều kiện thực hiện
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên ngoài mục tiêu công
ích, doanh nghiệp CNQP phải tham gia thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế,
xã hội để phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Theo đó, các doanh nghiệp
CNQP cần phát huy tốt vai trò, nâng cao năng lực để tham gia có hiệu quả vào
công cuộc phát triển kinh tế đất nước.
Mặt khác, hiện nay, hầu hết các nước phát triển đều có xu hướng
chuyển hướng chiến lược, xác định rõ mục tiêu phát triển doanh nghiệp
CNQP; cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp CNQP theo hướng tập đoàn lớn,
nhằm khai thác nguồn lực của các thành phần kinh tế để tăng cường kết hợp
sản xuất quân sự với dân sự. Phần lớn các nước ưu tiên phát triển công nghệ
lưỡng dụng, đẩy mạnh xuất khẩu và hợp tác quốc tế trong phát triển các
doanh nghiệp CNQP, đồng thời tăng cường kinh phí cho nghiên cứu, triển
khai đổi mới trong lĩnh vực quản lý. Nhiều quốc gia đã sử dụng một phần


4
nguồn năng lực hiện có của các doanh nghiệp CNQP để tham gia sản xuất,
phát triển kinh tế đất nước.
Ở Việt Nam, doanh nghiệp CNQP được xây dựng từ khá sớm và đạt
được những thành tựu quan trọng. Đặc biệt từ khi tiến hành công cuộc đổi
mới đến nay, Đảng và Nhà nước đã chú trọng phát triển CNQP nói chung và

các doanh nghiệp CNQP nói riêng, thể hiện rõ trong văn kiện các kỳ Đại hội
của Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, Nghị quyết 27 - NQ/TW của Bộ
chính trị (khóa IX) và Nghị quyết 06 - NQ/TW của Bộ chính trị (khóa XI) về
“ Xây dựng và phát triển CNQP đến năm 2020 và những năm tiếp theo”.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước, trong những năm qua, doanh
nghiệp CNQP đã có những bước phát triển quan trọng, bước đầu khẳng định
vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng. Tuy nhiên,
thực tiễn cũng cho thấy, vai trò của các doanh nghiệp CNQP trong những năm
qua chưa được phát huy đầy đủ do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ
quan, chưa phát huy hết lợi thế, nguồn lực sẵn có để tham gia vào quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, việc làm rõ vai trò
của các doanh nghiệp CNQP trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, đánh giá
đúng thực trạng để đề xuất những giải pháp nhằm phát huy tốt vai trò của
doanh nghiệp CNQP hiện nay là rất cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu “Vai trò
của doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng trong công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta hiện nay” làm chuyên đề nghiên cứu khoa học năm 2014
2. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu
2.1. Mục tiêu: Luận giải làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai
trò của doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng trong CNH, HĐH; trên cơ
sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp phát huy vai trò của doanh nghiệp
CNQP trong CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.


5
2.2. Nội dung:
- Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của doanh nghiệp CNQP trong
CNH, HĐH.
- Làm rõ vai trò của doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng trong

CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm nhằm phát huy vai trò của
doanh nghiệp CNQP trong CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về
mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng và chiến tranh; chủ trương, chính
sách của Đảng, nhà nước ta về doanh nghiệp nhà nước, về xây dựng và phát
triển CNQP; đồng thời kế thừa và phát triển kết quả nghiên cứu của một số
công trình liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử
dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; Ngoài ra, tác giả
còn sử dụng một số phương pháp như: thống kê, so sánh, phân tích, tổng
hợp, khảo sát...
4. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.


6
NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò doanh nghiệp công
nghiệp quốc phòng trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1. Quan niệm, đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp công nghiệp
quốc phòng trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.1.1. Quan niệm về doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng
Quan niệm về doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Theo Từ điển Bách khoa quân sự: Công nghiệp quốc phòng là bộ

phận của kinh tế quân sự và của nền công nghiệp đất nước, có chức năng sản
xuất, sửa chữa vũ khí trang bị và sản xuất các vật tư, trang bị hậu cần cần thiết
cho lực lượng vũ trang. CNQP gồm các xí nghiệp quốc phòng và các cơ sở
nghiên cứu khoa học – công nghệ. Sự phát triển CNQP phụ thuộc vào chế độ
chính trị, tình hình kinh tế - xã hội, sự phát triển khoa học, công nghệ mỗi
nước. CNQP còn sản xuất mặt hàng dân dụng.
Doanh nghiệp quốc phòng là doanh nghiệp nhà nước do Bộ Quốc
phòng trực tiếp quản lý để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh theo
pháp luật và quy định của Bộ Quốc phòng. Doanh nghiệp quốc phòng là một
pháp nhân kinh tế, bình đẳng với các doanh nghiệp nhà nước khác.
Từ các khái niệm trên, có thể hiểu: Doanh nghiệp công nghiệp quốc
phòng là bộ phận đặc thù của doanh nghiệp nhà nước, có tư cách pháp nhân,
có tài sản, có tên riêng, có trụ sở ổn định, do Bộ Quốc phòng trực tiếp quản
lý có chức năng chủ yếu sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị, sản xuất các vật
tư, trang bị hậu cần cho lực lượng vũ trang và tham gia sản xuất kinh tế


7
trong cơ chế thị trường trên cơ sở tận dụng nguồn lực hiện có ở các doanh
nghiệp.
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng
Doanh nghiệp CNQP là bộ phận đặc thù của doanh nghiệp nhà nước, thuộc
loại hình doanh nghiệp quốc phòng – an ninh. Doanh nghiệp CNQP vừa có đặc
điểm chung của doanh nghiệp Việt Nam, vừa có đặc điểm rất đặc thù đó là:
- Theo ngành nghề chủ yếu, các doanh nghiệp CNQP được chia thành
ba nhóm chính:
+ Nhóm I là các doanh nghiệp thuộc ngành cơ khí - hoá nổ. Các mặt
hàng kinh tế chủ yếu do các doanh nghiệp này sản xuất là vật liệu nổ công
nghiệp và một số sản phẩm cơ khí khác. Khả năng cung ứng các sản phẩm
kinh tế chủ yếu trong lĩnh vực vật liệu nổ, các doanh nghiệp này đã cung ứng

80% nhu cầu tiêu dùng trong nước (cả về số lượng và chủng loại), tiến tới
đảm bảo nhu cầu trong nước, không phải nhập khẩu.
Đánh giá chung, do vật liệu nổ công nghiệp là một trong những mặt
hàng Nhà nước độc quyền quản lý, kết hợp với điều kiện tỷ trọng hàng quốc
phòng hàng năm tương đối cao (khoảng trên 50% trong tổng doanh thu) nên
các doanh nghiệp thuốc nhóm này có nhiều thuận lợi, sản xuất không phải lo
đầu ra, sản phẩm ít bị cạnh tranh, đời sống ổn định và quy mô sản xuất ngày
càng phát triển
+ Nhóm II là các doanh nghiệp thuộc ngành cơ khí, điện dân dụng,
điện tử. Các mặt hàng kinh tế chủ yếu do doanh nghiệp này sản xuất ra và
cung cấp trên thị trường là đồ dùng gia đình (bếp dầu men, xoong nồi nhôm
các loại), đồ điện gia dụng (quạt điện, ổn áp, chấn lưu...), phụ tùng xe đạp, rèn
đúc phôi gang thép các loại. Khả năng cung ứng sản phẩm trên thị trường của
doanh nghiệp CNQP trên lĩnh vực hàng tiêu dùng là rất lớn.
+ Nhóm III là các doanh nghiệp thuộc ngành nhựa, cao su. Đây là
nhóm các doanh nghiệp có đặc thù công nghệ chuyên sâu, nên việc đầu tư đổi


8
mới công nghệ có nhiều thuận lợi hơn các doanh nghiệp thuộc ngành cơ khí.
Trên thực tế nhiều doanh nghiệp thuộc nhóm này đã mạnh dạn vay vốn để
mua sắm thiết bị, đổi mới công nghệ sản xuất ra các mặt hàng chất lượng cao,
đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt là các sản phẩm thay thế hàng
nhập ngoại. Kết quả đã tạo ra sự phát triển ổn định, doanh thu và hiệu quả
kinh tế đạt cao.
- Về chức năng, nhiệm vụ: Các doanh nghiệp CNQP vừa thực hiện
nhiệm vụ trọng tâm là sản xuất quốc phòng vừa phải tham gia sản xuất kinh tế
trong cơ chế thị trường để tồn tại và phát triển. Do đó, trong quá trình sản
xuất, hướng đầu tư bị chi phối, mục tiêu đầu tư không tập trung. Đây là một
trong những khó khăn rất lớn, ảnh hưởng tới quá trình tham gia sản xuất, mở

rộng thị trường của các doanh nghiệp CNQP.
- Về cơ sở hạ tầng: phần lớn các doanh nghiệp CNQP phải đứng chân
trên địa bàn khó khăn ở các tỉnh trung du, miền núi, xa các khu dân cư, đô
thị ... đã hạn chế khả năng giao lưu và tiếp cận thị trường xã hội, thông tin
chậm và thiếu. Nhiều doanh nghiệp được thành lập trong kháng chiến chống
Mỹ, mặc dù ban đầu được xây dựng tương đối cơ bản, nhưng sau thời gian
dài không được nâng cấp nên hiệu quả sản xuất thấp
- Về trang thiết bị: Phần lớn hệ thống trang thiết bị ở các doanh nghiệp
CNQP là thiết bị chuyên dùng cho sản xuất quốc phòng nên khi sản xuất kinh tế,
hàng hóa dân dụng không phù hợp, hiệu quả thấp.
- Trong một thời gian dài, các doanh nghiệp CNQP đã có sự cách biệt
với sự phát triển của đất nước, nhất là khi chuyển sang nền kinh tế thị trường và
tham gia vào sản xuất hàng hoá đã có những hạn chế và bất cập nhất định như
chất lượng, số lượng sản phẩm còn chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường,
hàm lượng khoa học trong từng loại sản phẩm chưa cao.


9
- Bộ máy quản lý cồng kềnh, kém hiệu quả; kinh nghiệm quản trị
doanh nghiệp trong điều kiện của nền kinh tế thị trường không nhiều làm ảnh
hưởng đến kết quả tham gia sản xuất kinh tế.
- Về Nguồn nhân lực: đội ngũ lao động ở các doanh nghiệp đông về
số lượng, vững vàng về chính trị nhưng một bộ phận không nhỏ được được
đào tạo trong thời kỳ trước, chậm tiếp thu cái mới và chưa theo kịp với trình
độ phát triển chung của quân đội và đất nước.
- Về vốn trong doanh nghiệp CNQP được sử dụng chia thành hai mục
đích khác nhau: vốn sản xuất CNQP và vốn sản xuất kinh tế. Cơ cấu vốn có
những mặt chưa hợp lý. Đồng thời, hầu hết các tài sản trong doanh nghiệp
CNQP là sở hữu nhà nước do quân đội quản lý, do đó các doanh nghiệp
không thể mang đi thế chấp để vay vốn.

- Các doanh nghiệp CNQP phải chịu tác động của hai nhóm quy luật
là nhóm các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường và nhóm các quy luật
quốc phòng và chiến tranh. Cả hai quy luật đó cùng tác động tới quá trình sản
xuất đã làm hạn chế sự năng động trong sản xuất, kinh doanh của các doanh
nghiệp CNQP.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng trong công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thứ nhất, doanh nghiệp CNQP nòng cốt là lực lượng quan trọng góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Là một bộ phận của công nghiệp quốc gia, ngoài chức năng sản xuất,
sửa chữa, bảo quản sản phẩm quân sự cho nhu cầu quốc phòng, doanh nghiệp
CNQP còn trực tiếp tham gia thực hiện mục tiêu CNH, HĐH, giữ vai trò như
một mắt xích kết nối giữa xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng. Với tiềm
năng về khoa học và công nghệ, về kết cấu hạ tầng, doanh nghiệp CNQP còn
là nguồn lực quan trọng tham gia một số chương trình mũi nhọn như: công


10
nghiệp hóa nông - lâm - ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng, xây dựng kết
cấu hạ tầng, nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ mới góp phần đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Là một chủ thể trong thành
phần kinh tế nhà nước hoạt động công ích, doanh nghiệp CNQP nòng cốt còn
tham gia trực tiếp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đó là:
Về cơ cấu theo sở hữu: Việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành
phần đã đưa lại những chuyển biến tích cực trong cơ cấu thành phần kinh tế
của nền kinh tế quốc dân. Đối với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là cực kỳ quan trọng.
Do đó, việc duy trì độc quyền nhà nước đối với doanh nghiệp CNQP là yếu tố
góp phần tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Về cơ cấu theo tăng trưởng: Doanh nghiệp CNQP chiếm một vị trí
quan trọng hiện nay trong nền kinh tế quốc dân. Đây vừa là doanh nghiệp sản
xuất ra sản phẩm tất yếu cho một nhu cầu tiêu dùng đặc biệt - tiêu dùng quân
sự; vừa là doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng dân dụng của đời
sống kinh tế - xã hội. Trong thời gian qua, nhờ kết hợp kinh tế với quốc phòng
mà khu vực doanh nghiệp CNQP có đóng góp không nhỏ vào tốc độ tăng
trưởng chung của công nghiệp quốc gia và nền kinh tế quốc dân.
Về cơ cấu lãnh thổ: Doanh nghiệp CNQP trên các địa bàn chiến lược
ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo là những hạt nhân phát triển để
Nhà nước đầu tư xây dựng các khu vực này thành các trung tâm công nghiệp,
dịch vụ tiểu vùng, khơi dậy tiềm năng kinh tế - xã hội tại chỗ và thu hẹp sự tụt
hậu so với các vùng trọng điểm ưu tiên khác theo phương châm “Kết hợp phát
triển các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác, tạo điều kiện cho các
vùng đều phát triển, phát huy được lợi thế của mỗi vùng, tránh chênh lệch quá
xa về nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng”, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.


11
Thứ hai, là một chủ thể của nền kinh tế quốc dân, doanh nghiệp công
nghiệp quốc phòng có đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội.
Trong thời gian qua, doanh nghiệp CNQP nòng cốt đã khắc phục tình trạng
khép kín biệt lập bằng việc tận dụng năng lực để sản xuất hàng hóa và dịch vụ
dân dụng góp phần đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống. Để hoà nhập
vào nền kinh tế quốc dân, doanh nghiệp CNQP đã kịp thời chuyển đổi theo
hướng phát triển công nghệ lưỡng dụng và tham gia sản xuất sản phẩm dân
dụng phục vụ nhu cầu dân dụng. Phát triển công nghệ lưỡng dụng đã trở
thành nội dung chiến lược quan trọng trong xu hướng xây dựng và phát triển
doanh nghiệp CNQP của nhiều nước. Hiệu quả có ý nghĩa về quốc phòng của
sự chuyển hướng là: nhờ tham gia sản xuất hàng hóa và dịch vụ dân dụng,

không chỉ tiết kiệm ngân sách nhà nước đầu tư cho doanh nghiệp CNQP nòng
cốt, mà doanh nghiệp CNQP còn có nhiều đóng góp quan trọng vào phát triển
kinh tế - xã hội. Nhờ sản xuất sản phẩm dân dụng, năng lực sản xuất quân sự
được bảo toàn, phát triển; trình độ tay nghề của đội ngũ cán bộ, công nhân
trong doanh nghiệp CNQP được giữ gìn và tái trang bị nhiều công nghệ hiện
đại để mở rộng sản xuất, tự khẳng định mình trong cơ chế thị trường. Trên cơ
sở đó, doanh nghiệp CNQP đã khẳng định là bộ phận năng lực sản xuất của
khối doanh nghiệp công nghiệp quốc gia và trở thành một trong các chủ thể
của nền kinh tế, được Nhà nước đầu tư và bình đẳng trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh theo Luật doanh nghiệp.
Thứ ba, doanh nghiệp CNQP là một bộ phận cấu thành quan trọng
trong doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp CNQP là ngành công nghiệp
thiết yếu không chỉ với quốc phòng, an ninh, mà có mối quan hệ hữu cơ, tác
động không nhỏ đối với phát triển khoa học và công nghệ cũng như nền kinh
tế quốc dân. Do chiếm giữ vị trí quan trọng mà nhiều nước coi doanh nghiệp
CNQP là một ngành ưu tiên đặc biệt, tập trung đầu tư và triển khai các


12
chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ mũi nhọn, vừa đáp ứng nhu
cầu quốc phòng, an ninh, vừa góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
Hiệu quả mà các doanh nghiệp CNQP mang lại đã khẳng định đầu tư
xây dựng và phát triển CNQP là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng đối với việc
phát triển đất nước, là phương tiện điều tiết nền kinh tế, nơi sản sinh ra đột
phá khoa học và công nghệ, giữ vai trò cầu nối giữa kinh tế quân sự với kinh
tế nói chung, mắt xích liên kết trực tiếp giữa phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường sức mạnh quốc phòng.
Thứ tư, doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng là lực lượng nòng cốt
trong sản xuất sản phẩm quân sự. Xây dựng và phát triển doanh nghiệp
CNQP bảo đảm tính tự chủ và tạo điều kiện để chủ động bảo đảm sản phẩm

quân sự bắt kịp với sự phát triển của khoa học và công nghệ, hỗ trợ cho sự
phát triển kinh tế - xã hội. Ngày nay, mỗi quốc gia không chỉ có lực lượng vũ
trang với số lượng thích hợp, được huấn luyện tốt, mà phải sẵn sàng có các
phương tiện chiến đấu đủ về số lượng, cơ số dự trữ cần thiết, hiện đại về tính
năng, phù hợp với con người, cách đánh và điều kiện địa lý. Đó là những vấn
đề có tính quy luật mà doanh nghiệp CNQP có chức năng bảo đảm.
1.2. Thực trạng và nguyên nhân trong phát huy vai trò doanh
nghiệp công nghiệp quốc phòng
1.2.1. Thực trạng về vai trò doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng
Trong nhiều năm trở lại đây, hệ thống các doanh nghiệp CNQP đã được
tích cực sắp xếp, điều chỉnh lại một bước cho phù hợp với tình hình mới. Từ
năm 1986, để phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế mới, Đảng, Nhà nước và Bộ
Quốc phòng đã chủ trương sắp xếp lại các doanh nghiệp quân đội theo hướng
gọn, nhẹ, đủ sức kinh doanh trong cơ chế mới. Đặc biệt sau năm 1996, từ 317
doanh nghiệp với 12 tổng công ty, qua nhiều lần bố trí, điều chỉnh lại đến nay
quân đội còn khoảng trên một trăm doanh nghiệp với 4 tổng công ty. Riêng đối
với các doanh nghiệp chuyên sản xuất, sửa chữa vừa và sửa chữa lớn, cải tiến,


13
hiện đại hóa vũ khí trang bị kỹ thuật, vật tư thiết bị hậu cần do Bộ Quốc phòng
quản lý tính đến năm 2009 có trên 50 doanh nghiệp. Các doanh nghiệp CNQP
nước ta hiện nay có khả năng sửa chữa vừa, sửa chữa lớn được hầu hết các loại
vũ khí trang bị kỹ thuật có trong biên chế và sản xuất được một số chủng loại vũ
khí. Các sản phẩm quốc phòng mà doanh nghiệp có thể sản xuất, sửa chữa được
quy tụ theo 10 nhóm chủ yếu (phụ lục 2). Trong 5 nhóm sản phẩm đầu tiên, các
doanh nghiệp có thể làm chủ công nghệ để chế tạo loại lớn hoặc đang xúc tiến
nghiên cứu, tiếp nhận chuyển giao công nghệ chế tạo và công nghệ sửa chữa lớn.
Tuy nhiên, vật tư và phụ tùng thay thế về cơ bản vẫn phải phụ thuộc vào ngoại
nhập. Đối với 5 nhóm sản phẩm sau, các doanh nghiệp CNQP mới chỉ có thể sửa

chữa vừa, một số cửa chữa lớn.
Cùng với sự điều chỉnh, sắp xếp hệ thống doanh nghiệp, các doanh
nghiệp CNQP đã cố gắng duy trì và phát triển năng lực sản xuất quốc phòng
trong điều kiện mới. Trong những năm qua, việc chuyển đổi cơ chế quản lý
các doanh nghiệp CNQP theo hướng hạch toán kinh doanh, trao quyền tự chủ
cho các doanh nghiệp, bước đầu đã phát huy được tính chủ động của các
doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, góp phần giữ gìn năng lực sản xuất
quốc phòng. Tỷ trọng hàng quốc phòng từ năm 1989 trở lại đây giảm mạnh,
chỉ chiếm từ 10-12 % giá trị doanh thu hàng năm. Song các doanh nghiệp
CNQP cũng đã sản xuất và đưa vào trang bị cho lực lượng vũ trang hàng loạt
sản phẩm mới như: súng ĐKZ82, B10VN; súng và đạn chống tăng kiểu mới;
súng phòng không cỡ nhỏ, đại liên, ngòi đạn cao xạ các loại; kính ngắm chỉ
huy, thùng dầu mềm cho máy bay MIC; cáp thông tin các loại; lưới ngụy
trang, tổng đài kỹ thuật số PMC 512, tàu chở dầu TD 01, giường cấp cứu
bệnh nhân nặng chạy điện, bàn phẫu thuật lưu động, xuồng ba lá bằng nhựa
tổng hợp.... Nhiều mặt hàng kinh tế đã chiếm lĩnh được thị trường như: quạt
điện, xi măng chịu mặn, vật liệu nổ công nghiệp, pháo hoa ... Một số đã thay
thế được hàng nhập ngoại như: phụ tùng cao su thay thế cho dầu khí, vật liệu


14
nổ công nghiệp. Xu hướng sản xuất để xuất khẩu đang triển khai ở các ngành
cơ khí, cao su, nhựa, vũ khí... Những năm gần đây, tuy đơn đặt hàng quốc
phòng giảm, nhưng nhờ chuyển hướng sản xuất hàng kinh tế nên hầu hết các
doanh nghiệp có đủ việc làm, đời sống người lao động cơ bản bảo đảm.
Tuy nhiên để đảm bảo vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang sẵn sàng
giành thắng lợi nếu chiến tranh công nghệ cao xảy ra, cũng như phát huy vai
trò trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, doanh nghiệp CNQP ở nước ta vẫn
còn có những hạn chế nhất định. Các doanh nghiệp CNQP nước ta chưa có
khả năng sản xuất nhiều phương tiện tác chiến mới như: trang bị trinh sát phát

hiện với độ chính xác cao, các phương tiện phòng tránh vũ khí hóa học, sinh
học, tên lửa hành trình ...; chưa sản xuất được các loại vũ khí cần thiết hiện
nay (tên lửa phòng không tầm thấp, tên lửa chống tăng vác vai, nhiều loại đạn
pháo chiến dịch, cao xạ phòng không các loại, vũ khí cho hải quân, các
phương tiện cơ động chất lượng cao...).
Trong sản xuất các mặt hàng kinh tế, số lượng, chủng loại chưa nhiều,
chất lượng một số mặt hàng còn hạn chế, chưa chiếm lĩnh được thị trường.
Đối với tiềm lực của các doanh nghiệp CNQP, thời gian qua đã có sự
chuyển biến tích cực. Tốc độ tăng trưởng và mức độ đóng góp của các doanh
nghiệp CNQP vào GDP của đất nước liên tục tăng. Các doanh nghiệp CNQP
với sự phát triển của trình độ công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật và tác phong
quản lý công nghiệp hiện đại xuất hiện ngày càng nhiều. Nhiều lĩnh vực công
nghệ lưỡng dụng đã và đang được triển khai tạo tiền đề cho việc kết hợp kinh
tế với quốc phòng ngày càng chặt chẽ như: công nghệ thông tin và viễn thông;
công nghệ hàng không; công nghệ đóng tàu; công nghệ lọc, hóa dầu; công
nghệ điện tử, tin học; công nghệ vật liệu mới;... Tuy nhiên, thực trạng cũng
cho thấy, năng lực nghiên cứu của các doanh nghiệp CNQP so với yêu cầu
của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH vẫn còn nhiều hạn chế. Tiềm lực của các
doanh nghiệp CNQP trong thời gian qua chủ yếu mới phát triển theo bề rộng,


15
tập trung vào các lĩnh vực gia công xuất khẩu, công nghiệp chế biến, lắp ráp,
khai thác tài nguyên... Những nền móng của công nghiệp nặng và các ngành
có trình độ công nghệ cao chưa được chú ý thỏa đáng. Trong lĩnh vực công
nghệ lưỡng dụng như: gia công cơ khí chính xác, tự động hóa, vật liệu mới,
luyện kim, hóa chất cơ bản... tuy đã có những tiến bộ nhất định nhưng chưa
tạo ra những đột phát trong sản xuất và nghiên cứu. Ngay trong ngành cơ khí,
luyện kim là một trong những nền tảng quan trọng để thúc đẩy phát triển
doanh nghiệp CNQP nói chung và yêu cầu CNH, HĐH đất nước, nhưng trình

độ, khả năng của các doanh nghiệp CNQP vẫn rất lạc hậu... Ngành sản xuất
thép tuy có tăng trưởng khá, nhưng chủ yếu mới sản xuất được thép xây dựng.
Trình độ công nghệ trong các doanhh nghiệp CNQP còn lạc hậu từ hai đến
năm thế hệ so với các nước tiên tiến trung bình trên thế giới. Trang bị máy
móc không đồng bộ, mức tiêu hao nguyên vật liệu cao, tỉ lệ công nghệ hiện
đại chỉ chiếm dưới 20%. Khả năng đồng hóa và thích nghi với công nghệ
nhập ngoại và phát triển công nghệ nội sinh còn yếu. Sức cạnh tranh hàng hóa
của các doanh nghiệp CNQP chưa cao; năng lực công nghệ không đồng đều
giữa các ngành, chưa tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu và sản xuất.
Đối với nguồn nhân lực của các doanh nghiệp CNQP, hiện đang tồn
tại một lực lượng khá đông đảo, gồm: cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công
nhân có tay nghề ở nhiều lĩnh vực khác nhau:“Tính đến năm 2012 trong toàn
quân có hàng vạn lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp CNQP, trong
đó có gần ½ được biên chế tại các doanh nghiệp thuộc Tổng cục CNQP, số
còn lại phân bố ở nhiều đầu mối khác trực thuộc Bộ Quốc phòng” [21, tr.1].
Kể từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, chất lượng nguồn nhân
lực trong các doanh nghiệp CNQP đã có nhiều chuyển biến tiến bộ cả về trình
độ năng lực, cơ cấu ngành nghề cũng như phẩm chất chính trị, lòng yêu
ngành, yêu nghề... Thực trạng và đặc điểm trên được phản ánh rõ nét trong
thực trạng lao động tại các doanh nghiệp CNQP thuộc Tổng cục CNQP. Theo


16
thống kê, toàn Tổng cục CNQP có hàng nghìn cán bộ được đào tạo cơ bản có
trình độ từ cao đẳng đến trên đại học. Số cán bộ này được phân bổ trên các
lĩnh vực: lãnh đạo quản lý, nghiên cứu chế thử, thẩm định và chuyển giao
công nghệ. Đây là lực lượng có khá nhiều kinh nghiệm chuyên môn cũng như
kinh nghiệm thực tiễn, có khả năng tiếp thu công nghệ tương đối hiện đại;
nghiên cứu, thiết kế, chế tạo được phần lớn các loại vũ khí trang bị cho sư
đoàn bộ binh và nhiều loại vật tư, khí tài khác; nghiên cứu, sản xuất được

nhiều mặt hàng kinh tế có giá trị. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp CNQP hiện
có hàng vạn cán bộ trung cấp và công nhân kỹ thuật (chiếm trên 65% quân
số); trong đó thợ bậc cao chiếm trên 59,6%, đại đa số được đào tạo khá cơ bản
với cơ cấu ngành nghề tương đối đồng bộ. Ngoài các lực lượng trên phải kể
đến nguồn nhân lực tương lai của các doanh nghiệp CNQP đang được đào tạo
tại các trường quân đội. Trong số các trường trên, đáng chú ý là Học viện kỹ
thuật quân sự với khoảng 12 chuyên ngành đại học kỹ thuật quân sự và 7
chuyên ngành sau đại học; trường Cao đẳng CNQP chuyên đào tạo cán bộ,
công nhân kỹ thuật với gần 40 ngành nghề khác nhau và lưu lượng khoảng
2.500 học viên/năm. Đây chính là các cơ sở đóng vai trò chủ yếu trong bổ
sung nguồn lực cho các doanh nghiệp CNQP. Tuy nhiên, thực trạng nguồn
nhân lực trong các doanh nghiệp CNQP cũng bộc lộ một số hạn chế nhất
định. Trước hết đó là tình trạng thiếu cán bộ đầu ngành, cán bộ chuyên môn
kỹ thuật giỏi. Một số cán bộ tuy được đào tạo ở bậc cao nhưng rất ít người có
trình độ chuyên môn sâu, hiểu biết đa ngành, có khả năng chủ trì thực hiện
các dự án lớn.
Nguyên nhân của tình trạng trên, do trình độ công nghệ sản xuất của
các doanh nghiệp CNQP nhìn chung còn lạc hậu, chủ yếu là công nghệ cơ khí
truyền thống thuộc thế hệ những năm 50 và 60 của thế kỷ XX. Một số doanh
nghiệp có ứng dụng công nghệ mới (thông tin, tự động hóa...) nhưng chưa tạo
ra sự chuyển biến mới. Do vậy, về công nghệ sản xuất, doanh nghiệp CNQP


17
không chỉ lạc hậu so với thế giới và khu vực mà còn thể hiện sự tụt hậu ngay
ở trong nước so với khu vực công nghiệp dân sự trên nhiều lĩnh vực. Riêng
công nghệ sửa chữa vũ khí trang bị kỹ thuật, Việt Nam được nhập ngoại ở
những thập niên 80 của thế kỷ XX, nhưng quy trình công nghệ không đồng
bộ, thiết bị, vật tư thiếu, phụ thuộc nhiều vào nước ngoài. Do đó, quy mô các
doanh nghiệp CNQP chủ yếu là quy mô vừa và nhỏ, doanh thu thấp. Thực tiễn

đã cho thấy, trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp nhỏ ít có khả năng duy
trì một cơ cấu đồng bộ các chuyên gia kỹ thuật cần thiết cho việc triển khai
ứng dụng và tiếp thu công nghệ mới. Trong khi đó, các doanh nghiệp CNQP
lại có xu hướng khép kín dây chuyền sản xuất, sửa chữa nên hiệu quả khai
thác các công trình bổ trợ không cao, gây lãng phí lớn về đầu tư và sử dụng
nhân lực quản lý. Bên cạnh đó, do các doanh nghiệp CNQP hầu hết được xây
dựng trong thời kỳ chiến tranh kéo dài, nên việc bố trí, quy hoạch các doanh
nghiệp không đồng đều trong phạm vi cả nước. Đa số doanh nghiệp CNQP
đóng tại miền Bắc, có rất ít đóng tại miền Trung và gần ¼ đóng tại miền Nam.
Trong đó, chỉ có các doanh nghiệp CNQP ở miền Bắc mới đảm nhiệm sản
xuất và sửa chữa được hầu hết các nhóm sản phẩm quốc phòng chủ yếu, còn
các doanh nghiệp CNQP phía Nam và miền Trung vẫn thiếu năng lực sản xuất
nhiều chủng loại vũ khí bộ binh thông thường.
1.2.2. Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế đối với phát huy vai trò
của các doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng
* Nguyên nhân của những thành tựu
- Nguyên nhân khách quan:
+ Tình hình phát triển kinh tế - xã hội đã có sự phát triển nhanh chóng
tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp CNQP tham gia sản xuất kinh
doanh hàng dân dụng.


18
+ Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm và dành sự đầu tư cho
các doanh nghiệp CNQP. Nghị quyết Đại hội XI nhấn mạnh đầu tư về kinh
phí cơ chế chính sách.
+ Các doanh nghiệp CNQP đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ và tạo
điều kiện của chính quyền và nhân dân, nhất là chính quyền và nhân dân địa
phương nơi các doanh nghiệp CNQP đứng chân trên địa bàn.
- Nguyên nhân chủ quan:

+ Đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, nhà quản lý ở các doanh nghiệp CNQP đã
có sự phát triển nhanh chóng cả về phẩm chất và năng lực góp phần quan
trọng trong sự phát triển các doanh nghiệp CNQP.
+ Các doanh nghiệp CNQP đã tích cực, chủ động và khắc phục khó
khăn để đưa doanh nghiệp CNQP phát triển; đồng thời, khai thác và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển doanh nghiệp, nhất là nguồn lực con
người thông qua hệ thống các quy định, chính sách của doanh nghiệp mà
nguồn lực này đã phát huy tác dụng đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
+ Các doanh nghiệp CNQP đã tạo được sự đoàn kết nhất trí, sự đồng
thuận cao của tập thể cán bộ, công nhân viên, viên chức quốc phòng trong
thực hiện nhiệm vụ nên đã quy tụ và tạo được sức mạnh to lớn góp phần thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ ở các doanh nghiệp CNQP mà Đảng, Nhà nước và
quân đội giao cho.
* Nguyên nhân của những hạn chế:
- Nguyên nhân khách quan:
+ Nhận thức của cấp ủy chính quyền các cấp trong và ngoài quân đội
về vị trí vai trò của doanh nghiệp CNQP đối với tham gia xây dựng phát triển
kinh tế đất nước còn hạn chế
+ Khả năng của nền kinh tế nước ta, tuy đã thoát khỏi một nước kém
phát triển và bước vào nhóm các nước phát triển trung bình, song nền kinh tế
vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhất là những năm gần đây đã tác động và ảnh


19
hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các doanh nghiệp CNQP. ( Nhất là
nguồn kinh phí ngân sách đầu tư cho các doanh nghiệp quốc phòng).
+ Hệ thống cơ chế, chính sách bao gồm cả cơ chế, chính sách về huy
động các nguồn lực của đất nước cho phát triển CNQP; cơ chế động viên công
nghiệp phục vụ quốc phòng, an ninh; cơ chế chính sách để các doanh nghiệp
CNQP tham gia sản xuất các mặt hàng cho nền kinh tế quốc dân; cơ chế, chính

sách và chế độ đãi ngộ để duy trì đội ngũ cán bộ kỹ thuật, giữ vững năng lực
sản xuất quốc phòng trong điều kiện thời bình… nói chung còn bất cập.
+ Hệ thống cơ sở vật chất, công nghệ còn lạc hậu và xuống cấp
nghiêm trọng; các doanh nghiệp CNQP còn gặp những khó khăn khác về
vốn, nguồn nhân lực…
+ Phát triển các doanh nghiệp CNQP gắn với các địa bàn chiến lược,
chiến dịch còn có những bất cập, nên khả năng mức độ tham gia sản xuất
những mặt hàng dân sự ở những vùng sâu, vùng xa còn hạn chế.
+ Các doanh nghiệp CNQP tham gia phát triển kinh tế đất nước còn
gặp phải những vướng mắc về hành chính và những rào cản khác làm ảnh
hưởng đến chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Chủ trương chính sách xây dựng và phát triển CNQP nói chung,
doanh nghiệp quốc phòng nói riêng còn chậm đổi mới; còn biểu hiện trông
trờ, ỷ nại còn ảnh hưởng bởi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp…
+ Lãnh đạo chỉ huy ở một số doanh nghiệp CNQP chậm đổi mới,
thiếu tính năng động sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm và
tham gia phát triển kinh tế đất nước.
II. Giải phát huy vai trò doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng ở
nước ta hiện nay
2.1. Thực hiện tốt quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp công nghiệp quốc
phòng đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước


20
Đây là giải pháp có ý nghĩa tiên quyết nhằm giải quyết một tồn tại có
tính lịch sử, là cơ sở để giải quyết các vấn đề khác (về quản lý, nguồn lực,
chuyên môn sản xuất..) nhằm phát huy tốt hơn vai trò của doanh nghiệp
CNQP đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay. Thực chất tái cơ cấu
là sắp xếp lại, tiến hành cơ cấu lại mô hình và đổi mới cơ cấu tổ chức quản lý

của các doanh nghiệp.
Khác với nhiều quốc gia trên thế giới, nhiều doanh nghiệp CNQP của
Việt Nam được hình thành do yêu cầu trực tiếp của cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ kéo
dài hơn 30 năm, trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt đã tạo nên một cơ cấu
lãnh thổ về doanh nghiệp CNQP không đồng đều trên phạm vi cả nước. Bên
cạnh đó, phần lớn vũ khí trang bị đều được viện trợ từ các nước XHCN anh
em trước đây nên đã tạo nên một cơ cấu công nghệ sản xuất thiếu đồng bộ
trong hệ thống doanh nghiệp CNQP ở nước ta. Cùng với đó, cơ cấu ngành
nghề, cơ cấu sản phẩm cũng chưa được quy hoạch hợp lý để khai thác thế
mạnh doanh nghiệp CNQP trong sản xuất hàng quân sự cũng như trong việc
tạo điều kiện tham gia phát triển kinh tế đất nước. Những bất cập đó đòi hỏi
phải thực hiện tốt tái cơ cấu doanh nghiệp CNQP nhằm mục đích vừa đáp ứng
yêu cầu về quốc phòng, vừa đáp ứng yêu cầu tham gia phát triển kinh tế đất
nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Trong những năm vừa qua, mặc dù
gặp không ít khó khăn từ suy thoái kinh tế thế giới nhưng nhìn chung các
doanh nghiệp CNQP vẫn đạt và vượt các chỉ tiêu, kế hoạch đề ra. Một số
doanh nghiệp đã đẩy mạnh sắp xếp lại tổ chức, nhân sự, từng bước ổn định
hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm cho người lao động. Để
thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp CNQP, trước hết, cần thực hiện một số giải
pháp chủ yếu sau:
Một là, phát triển các doanh nghiệp CNQP theo một cơ cấu hợp lý
trong tổng thể nền công nghiệp của đất nước. Sắp xếp, tổ chức lại hệ thống


21
các doanh nghiệp CNQP trên các địa bàn chiến lược phù hợp với yêu cầu của
chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, cần thực hiện tốt bố trí lại hệ
thống các doanh nghiệp CNQP theo nguyên tắc kết hợp kinh tế với quốc
phòng, an ninh, quốc phòng, an ninh với kinh tế. Theo đó, bố trí cơ cấu lãnh

thổ của các doanh nghiệp CNQP bên cạnh đáp ứng các yêu cầu quân sự, cần
tính đến yêu cầu của chiến lược phát triển kinh tế, xã hội nói chung, chiến
lược phát triển công nghiệp của từng vùng, từng khu vực nói riêng gắn với
tiền trình CNH, HĐH. Kết quả của sự điều chỉnh sắp xếp này sẽ tạo điều kiện
thuận lợi để các doanh nghiệp CNQP tham gia sản xuất những mặt hàng kinh
tế dân sự đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH của địa phương và đất nước.
Hai là, các doanh nghiệp phải thay đổi tư duy quản lý, cải cách về
quản lý, tái cấu trúc lại các quá trình sản xuất, trên cơ sở đó định hình mô hình
và cơ cấu tổ chức phù hợp với điều kiện và định hướng sản xuất của doanh
nghiệp. Bộ máy quản lý cần được tổ chức gọn nhẹ, tinh thông linh hoạt và có
hiệu quả. Bộ máy đó phải đủ năng lực để hoàn thành hai nhiệm vụ là sản xuất
quốc phòng và sản xuất kinh tế. Theo đó, các doanh nghiệp cần cần đặc biệt
quan tâm kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp
ủy, tổ chức đảng các cấp, đảm bảo giữ vững sự lãnh đạo của Đảng trong doanh
nghiệp. Đồng thời chú trọng công tác tổ chức, sắp xếp lại nhân sự, nhất là đối
với vị trí giám đốc công ty con. Cần đẩy mạnh đổi mới quản trị doanh nghiệp,
tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát tài chính, thực
hành tiết kiệm… nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, bảo đảm tốt
đời sống cho người lao động và tăng thu nộp ngân sách.
Ba là, các doanh nghiệp CNQP cần tích cực tái cơ cấu về ngành nghề
Các doanh nghiệp phải thanh lọc bớt những ngành nghề không phục vụ cho
lĩnh vực chính; đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, yếu kém kéo dài mà
chậm chuyển biến thì phải mạnh dạn giải thể, tránh làm ảnh hưởng tới hiệu
quả của hệ thống doanh nghiệp CNQP. Cần quán triệt và thực hiện tốt chủ


22
trương hạn chế việc thành lập mới các công ty; cắt giảm tối đa ngành, nghề
phụ, tập trung đầu tư phát triển một số lĩnh vực, ngành nghề mà doanh nghiệp
CNQP có thế mạnh; phát triển các doanh nghiệp CNQP theo tinh thần Nghị

quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị... Các doanh nghiệp CNQP cần chủ
động rà soát, xây dựng chiến lược phát triển, chiến lược sản xuất phù hợp với
mô hình hoạt động, quyết tâm giữ vững thương hiệu doanh nghiệp CNQP coi
trọng gắn hiệu quả sản xuất với nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ QPAN. Các cơ quan của Bộ Quốc phòng cũng như từng doanh nghiệp phải thẩm
định chặt chẽ từng dự án, phải chắc chắn sắp xếp được vốn thì mới tổ chức thi
công; tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động của doanh
nghiệp, đặc biệt là về lĩnh vực tài chính. Các doanh nghiệp phải công khai,
minh bạch kết quả sản xuất kinh doanh, các số liệu tài chính, tránh vì chạy
theo thành tích mà giấu thông tin, gây khó khăn cho việc điều hành, bất lợi
cho hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh việc nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Quốc phòng cần phải duy trì tốt
lực lượng dự bị động viên để sẵn sàng khi có tình huống
Bốn là, tái cơ cấu hệ thống doanh nghiệp CNQP (trừ những lĩnh vực
đặc biệt) theo nguyên tắc tạo sự cạnh tranh lẫn nhau và cổ phần hoá hoặc
chuyển một phần trách nhiệm cho các doanh nghiệp tư nhân đối với những
sản phẩm quân dụng mà nhà nước không cần thiết nắm giữ. Quá trình tái cơ
cấu, cần tính đến yếu tố đặc thù của các doanh nghiệp CNQP, đó là hiệu quả
sản xuất – phát triển kinh tế của doanh nghiệp cần phải được xem xét tổng
hợp giữ hiệu quả kinh tế và hiệu quả quốc phòng:
Đối với doanh nghiệp CNQP chuyên sản xuất vũ khí, tranh bị cho
quân đội thì hiệu quả hoạt động trước hết biểu hiện ở việc bảo toàn và phát
triển năng lực của doanh nghiệp, làm cho đơn vị đứng vững và từng bước
vươn lên trong cơ chế thị trường, tạo ra được thế bố trí chiến lược của đất
nước về kinh tế - quốc phòng – an ninh.


23
Đối với doanh nghiệp CNQP chuyên làm kinh tế, phải lấy hiệu quả
kinh tế làm chính. Mọi kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh phải được
hạch toán đầy đủ và coi tồn tại và phát triển thông qua cạnh tranh trên thị

trường là biểu hiện quan trọng của sự cần thiết tồn tại các doanh nghiệp này.
Năm là, lựa chọn trong chế tạo, cải tiến và nhập khẩu công nghệ sản
xuất, tạo ra một cơ cấu phù hợp với sản xuất quốc phòng cũng như tham gia
phát triển kinh tế. Trong điều kiện Việt Nam, việc sáng tạo ra công nghệ mới
còn hạn chế, các doanh nghiệp CNQP cần giải quyết hài hòa giữa chế tạo, cải
tiến và nhập khẩu. Đối với những loại công nghệ sản xuất, sửa chữa vũ khí,
trang bị hoặc một số mặt hàng dân dụng đơn giản có thể đẩy mạnh việc
nghiên cứu chế tạo, hạn chế việc nhập khẩu. Một số công nghệ có thể nghiên
cứu, cải tiến nâng cấp, có thể là công nghệ truyền thống của ta hoặc cần thiết
có thể nhập những dây chuyền công nghệ để chế tạo một số chi tiết nhằm
nâng cao tính năng một số loại vũ khí hoặc mặt hàng dân sự. Đối với những
sản phẩm gắn liền với tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại, khi nhập khẩu cần
chọn các loại công nghệ chế tạo tương đối hiện đại. Trong quá trình sáng tạo
công nghệ mới cũng như nhập khẩu công nghệ nước ngoài, cần đặc biệt ưu
tiên các loại công nghệ có tính lưỡng dụng cao. Phải cân nhắc, tính toán giữa
sản xuất và nhập khẩu công nghệ, đảm bảo tạo nên một hệ thống công nghệ
nhiều tầng theo một cơ cấu hợp lý với điều kiện kinh tế cho phép.
2.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát
triển của các doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Đây là giải pháp bảo đảm cho sự phát triển bền vững, là yêu cầu cấp
thiết trong điều kiện phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ nhằm đáp ứng
yêu cầu hội nhập và CNH, HĐH hiện nay.
Bất luận trong mọi thời đại, yếu tố con người luôn là khâu then chốt
trong các hoạt động kinh tế, xã hội nói chung, trong phát huy vai trò doanh


24
nghiệp CNQP nói riêng. Đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học,
của xu thế toàn cầu hóa đã mở ra những cơ hội phát triển cũng như thách thức

mới cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp CNQP
nói riêng. Tuy nhiên, để có thể đón đầu và áp dụng được những tiến bộ của
khoa học đòi hỏi người lao động phải có trình độ nhất định về khoa học kỹ
thuật và chuyên môn vững vàng, được cập nhật thường xuyên kiến thức khoa
học. Đây cũng là một trong các yếu tố góp phần làm giảm giá thành, nâng cao
chất lượng sản phẩm. Những điều này đòi hỏi các doanh nghiệp CNQP phải
chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong điều kiện hiện nay, để
phát huy tốt vai trò doanh nghiệp CNQP trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH,
nguồn nhân lực trong doanh nghiệp này phải là những người có đủ đức, tài,
được chuẩn bị tốt về kiến thức, văn hóa, được đào tạo thành thạo về kỹ năng
nghề nghiệp, có phương pháp tác phong khoa học. Riêng đội ngũ cán bộ
chuyên môn kỹ thuật phải có khả năng tiếp cận với khoa học công nghệ hiện
đại. Cùng với việc phát huy vai trò đội ngũ hiện có, phải khẩn trương đào tạo
đội ngũ kế cận. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các daonh nghiệp
CNQP cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
Hiện nay nhìn chung công tác đào tạo nguồn nhân lực cũng đã được các
doanh nghiệp CNQP quan tâm. Công tác tổ chức thi nâng bậc hàng năm được
thực hiện thường xuyên, bài bản. Đã xác định tiêu chuẩn cụ thể cho mỗi đối
tượng đào tạo theo các chương trình. Chương trình đào tạo của các doanh
nghiệp được xác định khá chi tiết và sát kế hoạch. Tuy nhiên trong xác định
nhu cầu đào tạo, thì hầu như các doanh nghiệp chưa thực hiện tốt hoạt động
phân tích công việc, đánh giá tình hình. Mục tiêu đào tạo thì đa số còn chung
chung, nhiều doanh nghiệp chưa có chính sách hỗ trợ kinh phí cho cán bộ. Do
vậy, để nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, trước hết cần
điều tra toàn diện nguồn nhân lực của đơn vị mình cả về trình độ chuyên môn,


25
khả năng phát triển, phẩm chất chính trị, thực tế đời sống. Qua đó, biết được

chính xác số lượng, chất lượng nguồn nhân lực hiện có ở doanh nghiệp mình;
và trên cơ sở đó, xác định được nhu cầu đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
của doanh nghiệp. Theo đó, cần xác định: bộ phận nào có nhu cầu đào tạo;
đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức gì? Cho đối tượng lao động nào và bao
nhiêu người. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp có kế hoạch gửi cán bộ, công
nhân của mình đi đào tạo, bồi dưỡng. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cần tập trung
vào kiến thức công nghệ mới, công nghệ điều khiển và kỹ năng ứng dụng các
thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp;
nâng cao kiến thức về kinh tế thị trường, trình độ quản lý và am hiểu hệ thống
pháp luật trong kinh doanh. Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, người lao
động có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sử dụng thành thạo vi
tính, am hiểu thị trường và luật lệ buôn bán quốc tế, áp dụng cơ chế bổ sung
và đào thải nhân lực để duy trì đội ngũ đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh,
nhân viên tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH.
Hiện nay, các doanh nghiệp thường sử dụng nhiều hình thức, có thể
gửi cán bộ, công nhân đi đào tạo trong các nhà trường quân đội hoặc gửi đi
nước ngoài. Đào tạo trong các nhà trường quân đội là hướng quan trọng nhất,
bởi ngoài việc đào tạo trình độ chuyên môn kỹ thuật mang tính chuyên sâu,
các nhà trường quân đội còn chú trọng bồi dưỡng bản lĩnh chính trị. Đối với
hình thức gửi đi đào tạo nước ngoài sẽ tốn kém hơn nhiều nhưng nếu không
quyết tâm thực hiện, các doanh nghiệp CNQP cũng sẽ dễ dẫn đến tụt hậu về
khoa học, công nghệ. Ngoài ra, cần chú trọng, phát triển nguồn nhân lực cho
các doanh nghiệp CNQP thông qua việc tuyển dụng từ các trường đại học,
trung học chuyên nghiệp. Hướng này vừa hiệu quả, vừa nhanh chóng. Tuy
nhiên, quá trình tuyển dụng cần nắm chắc chất lượng đào tạo và phẩm chất
chính trị, bảo đảm có trình độ phù hợp tương đối với yêu cầu của các doanh
nghiệp CNQP.



×