Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế CHÍNH TRỊ các tập đoàn KINH tế NHÀ nước ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.9 KB, 15 trang )

1

TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Thực hiện thí điểm hoạt động các tập đoàn kinh tế trong thời gian qua chính
là đưa Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa IX của Đảng vào cuộc sống. Tiếp
tục nghiên cứu và hoàn thiện mô hình này là đòi hỏi khách quan để xây dựng
những tập đoàn kinh tế mạnh ở Việt Nam đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu
vực và quốc tế, thực hiện tốt mục tiêu bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Chủ trương phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam
Việc mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đặt ra yêu cầu cần phải
tổ chức sắp xếp các doanh nghiệp nhỏ, manh mún thành những doanh nghiệp
lớn để đủ khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài, tăng cường vị trí
của doanh nghiệp nhà nước trong việc bảo đảm vai trò chủ đạo, dẫn dắt các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác hoạt động theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Cạnh tranh dẫn đến tích tụ và tập trung vốn, vì vậy tất yếu sẽ
hình thành doanh nghiệp lớn, tức các tập đoàn kinh tế. Các tập đoàn này hoạt
động có hiệu quả sẽ làm nòng cốt trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa IX) đã xác định: Hình thành
một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham
gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh
doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế
quốc dân, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong nước và ngoài nước, có
trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, đào tạo, nghiên cứu triển khai với
sản xuất kinh doanh. Thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế trong một số lĩnh vực
có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh
tế quốc tế có hiệu quả như: dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng…
Triển khai thực hiện Nghị quyết này, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng thí
điểm mô hình tập đoàn kinh tế từ đầu năm 2005 nhằm thực hiện các mục tiêu:
(1) Tập trung đầu tư và huy động các nguồn lực hình thành nhóm công ty có
quy mô lớn trong các ngành, lĩnh vực then chốt, phát triển, nâng cao khả năng




2

cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế; (2) Bảo đảm các cân đối lớn trong nền
kinh tế quốc dân, ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển cho các
ngành, các lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế; thúc đẩy liên kết trong chuỗi
giá trị gia tăng, phát triển các thành phần kinh tế khác; (3) Tăng cường quản lý,
giám sát có hiệu quả đối với vốn, tài sản nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp
trong tập đoàn; (4) Tạo cơ sở để hoàn thiện cơ chế chính sách và pháp luật về
tập đoàn kinh tế.
Đại hội đảng XI xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao hiệu
quả hoạt động của danh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và tổng
công ty. Sớm hoàn thiện thể chế hoạt động của các tập đoàn, các tổng công ty
nhà nước. Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; xây dựng một số tập
đoàn kinh tế mạnh, đa sở hữu trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối.
Phân định rõ quyền sỏ hữu của nhà nước và quyền kinh doanh của doanh
nghiệp, hoàn thiện cơ chế quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp”.
(Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, trang 110)

2. Mô hình và đặc trưng của các Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam
* Mô hình Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam
Ở những nước khác nhau trên thế giới, tập đoàn kinh tế có những cấu trúc
rất riêng biệt. Ở Nhật Bản, các tập đoàn kinh tế được tổ chức hoặc theo chiều dọc
hoặc theo chiều ngang và phát triển tùy theo các ngành nghề; các tập đoàn gồm
một ngân hàng, một công ty mẹ hoặc một công ty thương mại và một nhóm các
hãng sản xuất. Ở Hàn Quốc, các tập đoàn kinh tế thường được kiểm soát bởi một
gia đình hoặc một nhóm ít gia đình và được tổ chức thống nhất theo chiều dọc.
Các tập đoàn kinh tế ở Trung Quốc lại phát triển theo cấu trúc riêng biệt, đó là
các tập đoàn kinh tế đa ngành quy mô lớn có mối ràng buộc chặt chẽ với Nhà

nước chứ không phải với các gia đình riêng biệt như ở Hàn Quốc.
Ở Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, tập đoàn kinh tế là nhóm
các công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định, hướng dẫn tiêu chí, tổ chức


3

quản lý và hoạt động của tập đoàn kinh tế. Đến nay, Chính phủ đã thành lập 12
tập đoàn kinh tế nhà nước theo hai mô hình, đó là:
- Tổ chức lại các tổng công ty nhà nước (các tổng công ty 90 và 91): gồm
10 tập đoàn: Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Công
nghiệp Cao su Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, Tập đoàn
Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt
Nam, Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Bảo
Việt, Tập đoàn Viễn thông Quân đội, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam.
- Tổ hợp các doanh nghiệp độc lập có cùng lĩnh vực hoạt động: gồm 2 tập
đoàn là Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ
hợp các doanh nghiệp độc lập hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng và cơ
khí chế tạo, bao gồm: Tổng công ty Sông Đà, Tổng công ty Sông Hồng, Tổng
công ty Cơ khí Xây dựng, Tổng công ty Đầu tư phát triển xây dựng, Tổng công
ty Lắp máy Việt Nam và Tổng công ty Xây dựng và Phát triển hạ tầng. Tập
đoàn Phát triển nhà và đô thị Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ hợp từ:
Tổng công ty Phát triển nhà và đô thị, Tổng công ty Xây dựng Bạch Đằng, Tổng
công ty Xây dựng Hà Nội, Tổng công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng, Tổng
công ty Đầu tư xây dựng cấp thoát nước và Môi trường Việt Nam.
* Đặc trưng của các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam:
Một là, được hình thành chủ yếu từ việc chuyển đổi và tổ chức lại các
tổng công ty nhà nước theo quyết định của Chính phủ.
Hai là, hoạt động trong những ngành kinh tế mũi nhọn, những lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế theo mục tiêu chiến lược phát triển của từng tập đoàn

mà tư nhân và các thành phần kinh tế khác khó có thể thực hiện được do hạn
chế về năng lực tài chính hoặc kinh nghiệm quản lý; là một trong những công
cụ điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ.
Ba là, hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con (chuyển từ quan
hệ hành chính trong tổng công ty nhà nước trước đây sang quan hệ về đầu tư
vốn); quy mô và khả năng tích tụ vốn có trình độ cao hơn và quy mô lớn hơn so


4

với các tổng công ty trước đây (trước khi chuyển đổi sang mô hình tập đoàn);
phạm vi hoạt động được mở rộng không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài.
Bốn là, hợp tác và liên kết kinh doanh giữa các đơn vị trong tập đoàn
kinh tế được nâng cao; quan hệ chặt chẽ giữa các đơn vị thành viên về đầu tư
vốn và tài chính, thị trường, phân công chuyên môn hóa, nghiên cứu và phát
triển, thể hiện rõ nét đặc trưng quan hệ giữa các doanh nghiệp thành viên trong
tập đoàn kinh tế.
Năm là, quan hệ nội tại của tập đoàn kinh tế nhà nước bao gồm:
- Công ty mẹ (gọi tắt là doanh nghiệp cấp I) là doanh nghiệp do Nhà nước
giữ 100% vốn hoặc giữ quyền chi phối theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
- Công ty con của doanh nghiệp cấp I (gọi tắt là doanh nghiệp cấp II) là
các doanh nghiệp do doanh nghiệp cấp I giữ quyền chi phối; được tổ chức dưới
hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một hoặc hai thành viên
trở lên, tổng công ty theo hình thức công ty mẹ – công ty con, công ty liên
doanh, công ty con ở nước ngoài.
- Công ty con của doanh nghiệp cấp II và các cấp tiếp theo.
- Các doanh nghiệp liên kết của tập đoàn gồm: Doanh nghiệp có vốn góp
dưới mức chi phối của công ty mẹ và của công ty con; doanh nghiệp không có
vốn góp của công ty mẹ và của công ty con, tự nguyện tham gia liên kết dưới
hình thức hợp đồng liên kết hoặc không có hợp đồng liên kết, nhưng có mối

quan hệ gắn bó lâu dài về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ
khác với công ty mẹ hoặc doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn.
Sáu là, quan hệ giữa tập đoàn với bộ, ngành và Chính phủ: Nhà nước là
chủ sở hữu của tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam. Chính phủ thống nhất thực
hiện quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty mẹ và đối với phần vốn nhà
nước tại tập đoàn kinh tế nhà nước; Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập
công ty mẹ, quyết định tổ chức lại, giải thể, chuyển đổi sở hữu công ty mẹ theo
đề nghị của bộ quản lý ngành và ý kiến của các bộ, ngành có liên quan; Thủ
tướng Chính phủ giao bộ quản lý ngành, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc


5

Chính phủ và hội đồng quản trị tập đoàn thực hiện một số quyền của chủ sở hữu
theo pháp luật hiện hành, theo Điều lệ tổ chức và hoạt động của từng tập đoàn.
Bảy là, quản lý, giám sát đối với tập đoàn kinh tế nhà nước được thực
hiện theo các phương thức: Thông qua chế độ báo cáo của hội đồng quản trị
công ty mẹ; thông qua thực hiện kiểm toán tại công ty mẹ và các đơn vị thành
viên; thông qua thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất của công ty mẹ;
thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát, đánh giá của các cơ quan theo quy định
của pháp luật.
3. Vai trò của các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam
Trong vòng 7 năm, kể từ ngày đề án thí điểm tập đoàn kinh tế nhà nước
đầu tiên được Thủ tướng phê duyệt, Việt Nam đã nhanh chóng xây dựng được
12 tập đoàn. Các tập đoàn này đang nắm lượng tài sản khổng lồ của quốc gia và
đóng vai trò nòng cốt trong việc thực hiện một số chính sách lớn về phát triển.
Do vậy, hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước có ảnh hưởng lớn
đến sức khỏe của cả nền kinh tế nói chung. Vai trò tích cực của các tập đoàn
kinh tế thể hiện ở những mặt sau:
Thứ nhất, góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển của nền kinh

tế đất nước, tạo nguồn ngoại tệ và nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, hạn
chế nhập siêu, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, thực hiện vai trò chi phối, bảo đảm việc sản xuất, cung ứng các
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế; là lực lượng vật chất quan
trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế (được thể hiện rõ nhất là
trong giai đoạn 2008 – 2009, khi đất nước phải đối phó với những diễn biến bất
lợi và ảnh hưởng xấu từ suy thoái kinh tế thế giới và khu vực đối với nền kinh tế
quốc dân), bảo đảm cân đối cung – cầu và giữ ổn định giá các sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế (xăng dầu, điện, đạm, khí hóa lỏng,
than…) để bình ổn thị trường, kiềm chế lạm phát.
Thứ ba, là đầu tàu đi trước, mở đầu, tạo môi trường thuận lợi cho các
doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế phát triển.


6

Thứ tư, nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ
sở huy động, tập trung các nguồn lực, tăng nhanh năng lực sản xuất, đầu tư
trong các ngành đòi hỏi công nghệ cao và nhu cầu vốn lớn, lĩnh vực then chốt.
Thứ năm, thực hiện sự gắn kết giữa nghiên cứu, triển khai, ứng dụng khoa
học – công nghệ, đào tạo và sản xuất, kinh doanh.
Thứ sáu, cùng với việc tập trung mở rộng phát triển ở trong nước, các tập
đoàn kinh tế đã vươn ra đầu tư mạnh ở nước ngoài, thương hiệu ngày càng được
khẳng định, góp phần tạo dựng được hình ảnh và uy tín của Việt Nam trong khu
vực và trên thế giới.
Thứ bảy, là lực lượng quan trọng của Nhà nước trong việc bảo đảm an
ninh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và khẳng định chủ quyền quốc gia, bảo đảm
an ninh năng lượng, an ninh lương thực, bảo vệ môi trường.
Thứ tám, là lực lượng chủ lực cùng Chính phủ và xã hội thực hiện các
chương trình an sinh xã hội vì cộng đồng.

4. Thành tựu đạt được trong những năm vừa qua.
Sau khi được hình thành và đi vào hoạt động, các tập đoàn kinh tế đã tích
cực đầu tư, mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động; cơ cấu lại và đa dạng hóa sở
hữu các đơn vị thành viên; kinh doanh đa ngành, trong đó tập trung vào ngành
nghề chính; huy động được các nguồn lực để thực hiện các mục tiêu trọng điểm,
các chiến lược phát triển quan trọng; tích cực nghiên cứu, triển khai ứng dụng
và chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh, chú trọng nâng cao
năng lực quản lý, điều hành của đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật, tay nghề của
đội ngũ công nhân kỹ thuật và người lao động trong các doanh nghiệp, tạo điều
kiện quan trọng để thực hiện mục tiêu xây dựng thành tập đoàn kinh tế mạnh, có
tầm cỡ trong khu vực, làm nòng cốt để Việt Nam chủ động và thực hiện có hiệu
quả hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhìn vào Danh sách 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (VNR500), có
thể thấy các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước đang chiếm những vị trí
dẫn đầu, chứng tỏ đó là những tổ chức kinh tế thực sự lớn về quy mô. Năm


7

2006, tám tập đoàn kinh tế cùng với 96 tổng công ty, công ty lớn của Nhà nước
sở hữu gần 400.000 tỉ đồng, chiếm hầu hết vốn của Nhà nước có tại các doanh
nghiệp nhà nước. Các tập đoàn và tổng công ty đang nắm giữ 75% tài sản cố
định của quốc gia, khoảng 60% tổng tín dụng ngân hàng trong nước và tổng vốn
vay nước ngoài và tạo ra khoảng 40% tổng sản phẩm trong nước. Bước sang
năm 2009, trong bảng xếp hạng VNR500, có 100% số các tập đoàn kinh tế cùng
với 60% số các tổng công ty hiện tại đã góp mặt, với tỷ trọng về doanh thu
chiếm tới 41.85%. Năm 2011, trong tốp 10 doanh nghiệp lớn nhất Việt nam, các
tập đoàn, các tổng công ty nhà nước chiếm 41,6% doanh thu với sự góp mặt của
những cái tên như: Tập đoàn Dầu khí VN đứng đầu tiên trong bảng xếp hạng,
VNPT xếp thứ 3, Tập đoàn Viễn thông Quân đội xếp ở vị trí thứ 7, Tập đoàn

Điện lực Việt Nam EVN ở vị trí thứ 5. Vị trí thứ 8 thuộc về Tập đoàn Công
nghiệp Than – Khoáng sản VN (TKV), và đáng chú ý có một ngân hàng quốc
doanh cũng lọt vào trong top 10 là Ngân hàng NNPTNT VN (Agribank)
Về thực trạng đầu tư ngoài ngành chính, báo cáo ngày 8/9/2011 của đảng
ủy khối doanh nghiệp trung ương cho biết có 21/31 tập đoàn kinh tế, tổng công
ty nhà nước, và ngân hàng đầu tư ra ngoài ngành nghề kinh doanh chính với
tổng số vốn đầu tư hơn 22.590 tỉ đồng. Trong đó sáu doanh nghiệp đầu tư từ
1.000 tỉ đồng trở lên, tiêu biểu như: Tập đoàn Dầu khí, đầu tư 6.690 tỉ đồng (gần
4% vốn điều lệ), chủ yếu là đầu tư vào tài chính, Tập đoàn Công nghiệp cao su
đầu tư 3.700 tỉ (xấp xỉ 20% vốn điều lệ), trong đó hơn 1.500 tỉ là vào bất động
sản, EVN là 2.100 tỉ.
Trong năm 2011, có nhiều tập đoàn và tổng công ty làm ăn có hiệu quả
với mức tăng sản lượng hay doanh thu đạt từ 20 - 50% so với năm 2010. Đó là
tập đoàn Dầu khí, Công nghiệp Cao su, Bưu chính Viễn thông và các tổng công
ty giấy, cà phê, lương thực miền Bắc.
5. Hạn chế và nguyên nhân
* Hạn chế:


8

Thực tiễn hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước trong thời gian
qua đã khẳng định thành công bước đầu trong việc thực hiện chủ trương đúng
đắn của Đảng và mục tiêu thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước của
Chính phủ. Tuy nhiên, mô hình tập đoàn kinh tế ở Việt Nam còn mới mẻ, vì vậy
cũng bộc lộ một số hạn chế đó là:
- Quy mô và nguồn vốn quá nhỏ so với các tập đoàn kinh tế trong khu
vực và trên thế giới; tổ chức và hoạt động chưa có đổi mới nhiều so với tổng
công ty nhà nước trước đây, chưa tạo được sự đột phá mạnh mẽ cho mô hình tập
đoàn kinh tế; một số lĩnh vực không thực sự cần thiết nhưng vẫn thành lập các

tập đoàn như dệt may, trồng và khai thác chế biến cao su, đầu tư bất động sản.
Vì những ngành nghề kinh doanh này đã có rất nhiều doanh nghiệp tư nhân
đang kinh doanh khá hiệu quả đồng thời cũng không phải là những ngành có vai
trò then chốt.
- Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của các tập
đoàn kinh tế chưa được hoàn thiện, chưa tách bạch rõ chức năng quản lý hành
chính nhà nước với chức năng của chủ sở hữu nhà nước đối với các tập đoàn
kinh tế; cơ chế quản lý tập đoàn còn nhiều bất cập.
Các tập đoàn kinh tế nhà nước về bản chất thuộc sở hữu toàn dân. Chính
phủ là người đại diện thực hiện quyền sở hữu toàn dân đó nhưng không trực tiếp
thực hiện quyền của chủ sở hữu mà cử ra hội đồng quản trị làm đại diện. Tuy
nhiên, hiện không có quy định nào thể hiện sự giám sát tập thể của chủ sở hữu
nhà nước đối với đại diện chủ sở hữu trong quá trình hoạt động của tập đoàn.
Nhân dân chỉ có thể giám sát kết quả hoạt động nếu kết quả ấy được báo cáo
công khai theo một quy định chặt chẽ. Trong khi hội đồng quản trị - người đại
diện chủ sở hữu nhà nước, chỉ lập báo cáo định kỳ hoặc báo cáo theo yêu cầu của
Thủ tướng, nhưng cũng có rất nhiều trường hợp các báo cáo này đã được “xử lý”.
Tiếp theo là thành phần hội đồng quản trị. Hiện thành phần này phần lớn
là cán bộ quản lý doanh nghiệp có lợi ích gắn chặt với lợi ích của doanh nghiệp
và thường là những lợi ích ngắn hạn sẽ chi phối quyết định của họ. Việc này sẽ


9

có ảnh hưởng lớn đến khả năng thực hiện những mục tiêu chiến lược dài hạn và
trong nhiều trường hợp là xung đột với lợi ích của chủ sở hữu. Trong thành
phần hội đồng quản trị của những tập đoàn quan trọng có một số thành viên từ
các bộ ngành. Sự tham gia của các thành viên này cũng dẫn đến hai hệ lụy: Một
là xung đột lợi ích giữa chủ sở hữu và lợi ích của chính doanh nghiệp; hai là
thiên vị doanh nghiệp, làm méo mó chính sách quản lý.

Đáng ngại hơn là tình trạng các chủ tịch hội đồng quản trị của các tập
đoàn kinh tế nhà nước, các tổng công ty nhà nước không tôn trọng ý kiến của
các bộ trưởng, thứ trưởng do không nằm dưới sự quản lý trực tiếp của những
người này. Đó là tình trạng mà Tiến sĩ Lê Đăng Doanh gọi là xuất hiện những
“kiêu binh. Điều này rất không có lợi cho việc thực thi trách nhiệm quản lý của
nhà nước.
- Kết quả sản xuất, kinh doanh của một số tập đoàn chưa tương xứng với
đầu tư của Nhà nước, hiệu quả hoạt động chưa cao, năng suất lao động còn thấp,
sức cạnh tranh chưa đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.
Tại một hội nghị hồi tháng 4-2008 ở Hà Nội, Bộ Tài chính cho biết tính
đến cuối năm 2007, tổng giá trị đầu tư ra ngoài các lĩnh vực kinh doanh chính
của 70 tập đoàn, tổng công ty nhà nước là gần 117.000 tỉ đồng, trong đó đầu tư
vào lĩnh vực tài chính, ngân hàng và bất động sản là hơn 23.400 tỉ đồng. Tuy
nhiên, cho đến năm 2010 – 2011, có rất nhiều tập đoàn và tổng công ty nộp báo
cáo tài chính với những con số thống kê tình trạng lỗ như: Báo cáo ngày 8/9
năm 2011 của khối doanh nghiệp trung ương cho biết, tập đoàn Công nghiệp tàu
thủy Việt Nam (Vinashin) thực hiện tái cơ cấu chậm, sản xuất kinh doanh chưa
đáp ứng được yêu cầu đề ra; một số đơn vị thành viên chưa có khả năng trả nợ
lương, bảo hiểm xã hội cho người lao động. Tập đoàn Điện lực lỗ lũy kế tính
đến ngày 30-6-2011 là 31.565 tỉ đồng (trong đó năm 2010 lỗ 23.647 tỉ đồng, sáu
tháng đầu năm 2011 lỗ ước 7.918 tỉ đồng). Theo Kiểm toán Nhà nước, tính đến
cuối năm 2011, nợ phải trả của EVN lên đến 239.761 tỉ đồng (khoảng 11,5 tỉ đô
la Mỹ), trong đó nợ ngắn hạn là 65.493 tỉ đồng (hơn 27%) và nợ dài hạn là


10

174.268 tỉ đồng (gần 73%); Tổng công ty Hàng hải Việt Nam trong sáu tháng
đầu năm 2011 lỗ 660 tỉ đồng, khoản nợ nhận từ Vinashin chuyển sang 16.000 tỉ
đồng. Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam trong bảy tháng đầu năm 2011 lỗ 1.449

tỉ đồng. Tập đoàn Sông Đà thiếu vốn do chưa được chủ đầu tư thanh toán công
nợ lên đến trên 5.500 tỉ đồng.
Báo cáo cũng cho biết, xét về hiệu quả kinh doanh, ngoài những doanh
nghiệp nêu trên dự kiến lỗ, thì tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của hầu hết
các đơn vị thuộc lĩnh vực sản xuất, thương mại dịch vụ, xây dựng đều giảm sút
so với năm 2010. Một số doanh nghiệp thuộc lĩnh vực vận tải, xây dựng, xi
măng, sắt thép có tỷ lệ lợi thuận trên vốn chủ sở hữu đạt thấp, khoảng dưới 5%.
- Việc thực hiện huy động vốn, nguồn lực của các thành phần kinh tế khác
vào sản xuất, kinh doanh thông qua cổ phần hóa, tiếp nhận doanh nghiệp thành
viên, cùng các thành phần kinh tế khác thành lập các công ty cổ phần mới tạo ra
cơ cấu đa sở hữu ở một số tập đoàn triển khai còn chậm; dẫn tới hạn chế về thu
hút thêm vốn, kinh nghiệm quản lý, điều hành và sự giám sát của xã hội đối với
hoạt động của tập đoàn kinh tế.
- Một số tập đoàn chưa phát huy được vai trò chi phối trong lĩnh vực hoạt
động, tỷ lệ nợ trên vốn còn quá cao, dẫn đến độ rủi ro lớn, khả năng thanh toán
nợ thấp. Việc xử lý các tồn tại về tài chính còn chậm do nhiều nguyên nhân
nhưng chưa được khắc phục. Tỷ lệ nợ phải trả 8 tập đoàn kinh tế cùng với 96
tổng công ty, công ty lớn của Nhà nước lên đến 1,36 lần, tính đến cuối năm
2007 nhưng rất may là vẫn trong vòng có thể kiểm soát được. Tỷ lệ nợ vay trên
vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước rất cao. Theo báo cáo tháng
12/2011 vừa qua của Bộ Tài chính, có 30 tập đoàn, tổng công ty có tỷ lệ nợ phải
trả/vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần. Trong đó, có 7 tập đoàn, tổng công ty có tỷ lệ
này trên 10 lần, có 9 tổng công ty từ 5-10 lần, có 14 tổng công ty từ 3-5 lần, cá
biệt lên đến 42 lần trên vốn của chủ sở hữu. So với mức tỷ lệ nợ vay trên vốn
chủ sở hữu của các tập đoàn kinh tế quốc tế là chỉ từ 1 đến 3 lần thì tỷ lệ này là
một qua ngại lớn cho nền kinh tế. Tính đến cuối năm 2010, tổng nợ phải trả của


11


các tập đoàn, tổng công ty lên tới 1.088.290 tỉ đồng (khoảng 52 tỉ đô la Mỹ), lớn
hơn 1,67 lần so với tổng vốn chủ sở hữu là 653.166 tỉ đồng…
- Việc minh bạch số liệu của các tập đoàn kinh tế còn nhiều hạn chế
- Hiện tại, khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ tạo ra 1,2 triệu việc làm,
một tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số dân 88 triệu người ở Việt Nam.
* Nguyên nhân hạn chế
- Được thành lập, liên kết bằng quyết định hành chính, một số tập đoàn là
biến thể của mô hình tổng công ty cũ, nên chưa thực hiện được mục tiêu đề ra là
trở thành tập đoàn kinh tế mạnh. Việc xác định từ mục tiêu thành lập, ngành
nghề kinh doanh, cho đến cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành trong tập đoàn, vấn
đề quản lý cũng như các quy định về quản lý đầu tư trong tập đoàn kinh tế nhà
nước còn nhiều bất cập.
- Ảnh hưởng lớn của cơ chế bao cấp cũ
Việc Chính phủ bỏ một khoản tiền rất lớn để bù lỗ và hỗ trợ Vinashin về
cơ chế, chính sách để tập đoàn được thuận lợi trong sản xuất kinh doanh, là một
minh chứng. Hiện Chính phủ bảo lãnh 1.365 triệu đô la Mỹ cho 16 dự án xi
măng. Trong số đó, có bốn dự án được bảo lãnh đang "rất khó khăn" và "khó có
khả năng trả nợ". Đó là các dự án: Đồng Bành 45 triệu đô la Mỹ (Nhà nước bảo
lãnh năm 2008), Thái Nguyên 59 triệu đô la Mỹ (2005), Tam Điệp 133 triệu đô
la Mỹ (năm 2000) và Hoàng Mai 145 triệu đô la Mỹ (năm 1998).
- Công tác quản lý của nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước,
tổng công ty còn nhiều yếu kém. Việc dự báo, giám sát, đánh giá đối với hoạt
động của các tập đoàn kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của mô
hình này. Sự kiện Vinashin thua lỗ trầm trọng, nhưng vẫn báo cáo có lãi và
Chính phủ không hề biết thực tế này, là một ví dụ điển hình; ở một số tập đoàn
vẫn duy trì biện pháp quản lý hành chính đối với các công ty con
- Phương thức lãnh đạo của Đảng, hoạt động của tổ chức công đoàn và
đoàn thanh niên trong một số tập đoàn chưa thực sự phát huy tốt hiệu quả.



12

6. Phương hướng, giải pháp củng cố và phát triển các tập đoàn kinh
tế nhà nước hiện nay.
* Phương hướng củng cố và phát triển
Đại hội XI khẳng định: “Đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Khẩn trương cơ cấu lại ngành nghề
kinh doanh của các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước, tập trung vào
một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế”

(Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại

hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, trang 208)

Thời gian tới cần tập trung vào một số định hướng như sau:
.- Trước hết, cần xác định lại mục tiêu thành lập tập đoàn và các quy định
về đầu tư. Trong thời gian tới, các tập đoàn kinh tế nhà nước cần tập trung vào
mục tiêu thứ nhất. Như vậy, những ngành nghề mà khu vực tư nhân đã phát
triển mạnh, Nhà nước không cần chiếm cổ phần chi phối, thậm chí là không cần
tham gia nữa. Đồng thời, cũng nên đặt các tập đoàn, tổng công ty nhà nước vào
môi trường cạnh tranh quốc tế, kiểm soát chặt chẽ độc quyền tự nhiên.
- Sớm hoàn thiện và kịp thời có những hướng dẫn cụ thể các căn cứ pháp
lý bảo đảm cho hoạt động của các tập đoàn kinh tế, có các chính sách linh hoạt
phù hợp với từng thời kỳ để tạo điều kiện cho các tập đoàn kinh tế nhà nước
hoạt động bình đẳng trong sân chơi cạnh tranh.
- Phải tăng cường cơ chế và tổ chức quản lý các tập đoàn, chẳng hạn như
tăng số lượng thành viên độc lập trong hội đồng quản trị; thiết lập cơ chế đánh
giá tập thể của Chính phủ về hoạt động của hội đồng quản trị của các tập đoàn;
quy định lại tỷ lệ nợ trên vốn sở hữu; xây dựng hệ tiêu chí đánh giá hiệu quả
cho từng tập đoàn kinh tế theo mục tiêu dài hạn, nhằm phục vụ cho chính sách

cơ cấu của Chính phủ.
- Tiếp tục cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước với cách làm chặt chẽ hơn
* Giải pháp củng cố và phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam
Để bảo đảm tính bền vững của sự phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước ở
Việt Nam trong giai đoạn mới, cần:


13

- Nhà nước xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển các tập đoàn kinh
tế nhà nước; các tập đoàn kinh tế nhà nước rà soát lại chiến lược phát triển của
từng tập đoàn để có những điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai
đoạn mới. Tiếp tục nghiên cứu sâu hơn và quán triệt thực hiện nghiêm túc các
chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước,
chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tổ chức tổng kết đánh giá
kết quả hoạt động để chỉ ra những tồn tại, yếu kém, đúc kết những điểm mạnh,
điểm yếu, các cơ hội và thách thức, tích lũy những kinh nghiệm tốt từ hoạt động
thực tiễn thời gian qua của các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam; kết hợp với thực
hiện nghiên cứu một cách toàn diện về các mô hình tập đoàn kinh tế tiêu biểu
trên thế giới để có thể tìm ra một hoặc một số mô hình tập đoàn kinh tế phù hợp
với điều kiện kinh tế – xã hội của nước ta, trên cơ sở đó tìm ra hướng đi phù
hợp cho các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
- Quan tâm tới việc xây dựng và phát triển đội ngũ lao động của doanh
nghiệp; kiện toàn công tác quản lý của Nhà nước và thực hiện các quyền, nghĩa
vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với tập đoàn. Hình thành mới một cơ quan của
Chính phủ quản lý thống nhất mọi mặt hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà
nước. Thực hiện ủy quyền tối đa cho hội đồng thành viên tập đoàn trên cơ sở
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để các tập đoàn chủ động, quyết định kịp
thời và chịu trách nhiệm về các vấn đề lớn trong quá trình hoạt động sản xuất,
kinh doanh, đầu tư và đấu thầu đối với những vấn đề đòi hỏi phải có quyết định

nhanh chóng, không để lỡ những cơ hội sản xuất, kinh doanh; thường xuyên sửa
đổi, bổ sung Điều lệ tổ chức và hoạt động, Quy chế tài chính của tập đoàn cho
phù hợp với thực tiễn hoạt động của tập đoàn theo từng giai đoạn, từng thời kỳ.
- Đẩy mạnh tập trung và tích tụ vốn, khuyến khích các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư đan xen (trên cơ sở bảo đảm kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo ở những lĩnh vực, ngành nghề then chốt) thông qua
việc đẩy mạnh cổ phần hóa, cơ cấu lại nguồn vốn, tiếp nhận doanh nghiệp thành
viên, cùng các thành phần kinh tế khác thành lập các công ty mới… để tạo cơ


14

cấu đa sở hữu nhằm phát huy thế mạnh và tăng cường khả năng cạnh tranh của
các tập đoàn kinh tế trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu rộng. Đồng thời với đó là nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn
đầu tư của các tập đoàn, kiên quyết dừng hoặc cắt giấy phép đầu tư đối với
những dự án lớn chưa thật sự cần thiết, không hiệu quả.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý DN, kiên quyết loại
bỏ những cán bổ, Đảng viên, người lao động không đủ khả năng trình độ
chuyên môn ra khỏi các tập đoàn. Xây dựng tốt mối quan hệ giữa người quản lý
và người lao động, luôn tôn trọng và khuyến khích tính tự chủ sáng tạo của lực
lượng lao động tạo ra sức mạnh tổng hợp phát huy hiệu quả của các yếu tố sản
xuất, đặc biệt là yếu tố con người. Cần tăng cường chuyên môn hoá, kết hợp đa
dạng hoá cùng với những phương án quy mô hợp lý cho phép khai thác tối đa
lợi thế quy mô giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào. Tổ
chức, phối hợp với các hoạt động kinh tế thông qua các hình thức tổ chức liên
doanh, liên kết nhằm phát huy sức mạnh chung, tăng khả năng cạnh tranh và
tiêu thụ trên thị trường.
- Vận dụng khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến vận dụng vào sản xuất
để giảm thiểu chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh, sản lượng và khả năng

cạnh tranh. Đồng thời đấu tranh có hiệu quả với tư tưởng tàn dư của xã hội cũ
đang tồn tại trong thành phần kinh tế nhà nước, đề ra chế tài xử lý nghiêm
những kẻ có hành vi tham ô, tham nhũng, lãng phí, lạm dụng chức quyền…gây
thất thoát cho nguồn ngân sách quốc gia.
Nói tóm lại, sau những năm đưa vào hoạt động thí điểm, các tập đoàn
kinh tế nhà nước đã thực sự phát huy tốt vai trò chủ chốt của mình trong việc
định hướng cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, do thời gian
triển khai thực hiện thí điểm còn quá ngắn nên mô hình này còn bộc lộ nhiều
hạn chế, yếu kém cần được khắc phục. Với những bước đi thận trọng và cách
làm chặt chẽ, thời gian tới chúng ta sẽ từng bước phát triển và hoàn thiện mô
hình này./.


15

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí khao học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 4 (33), 2009
“thực trạng kinh doanh đa ngành của các tập đoàn kinh tế và tổng công
ty nhà nước ở Việt Nam hiện nay và vấn đề quản lý nhà nước”
2. Công bố bảng xếp hạng năm 2011, VNR500
3. Báo cáo của Chính phủ về tình hình KT - XH năm 2010 và nhiệm vụ
năm 2011
4. Báo cáo của Chính phủ về tình hình KT - XH năm 2011 và nhiệm vụ
năm 2012
5. Tư Giang “Nhiều tập đoàn thua lỗ, Nhà nước vẫn chìa tay” 18/09/2011
6. ThS. Nguyễn Văn Thạo, “Nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường, 01/10/2008
7. Đinh La Thăng, “Về tập đoàn kinh tế Việt nam sau gần 5 năm thí điểm
hoạt động”, 31/10/2010
8. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, XI, Nxb CTQG, H.2001 và 2011



×