Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế CHÍNH TRỊ đề CƯƠNG ôn THI môn KINH tế QUÂN sự SAU đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.34 KB, 35 trang )

1
ĐỀ SỐ 1
CÂU 1: Hãy phân tich lam rõ sự cần thiết khách quan bảo đảm kinh tế cho quốc
phòng. Ý nghia vân đề nghiên cứu?
Bảo đảm kinh tế cho quốc phòng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là tổng thể các quá trình, các biện pháp được Nhà nước và nhân dân tiến hành nhằm thoả
mãn mọi nhu cầu về phương tiện vật chất, kỹ thuật, tài chính, nhân lực cho quốc phòng sẵn sàng
ứng phó thắng lợi với các tình huống an ninh truyền thống và phi truyền thống để bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

1. Sự cần thiết khách quan
* Cơ sở lý luận
- Xuất phát từ mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng.
Kinh tế và quốc phòng là hai hoạt động thuộc hai lĩnh vực nhưng không mâu thuẫn đối lập nhau,
mà giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ và thống nhất biện chứng với nhau. Chủ nghĩa Mác - Lênin
không chỉ khẳng định trình độ phát triển sản xuất là nhân tố quyết định trong việc phát triển xã hội, mà
còn nhấn mạnh vai trò quyết định của nó trong chiến tranh. Kinh tế là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp,
quyết định đến thành bại của quân đội, qui mô, cơ cấu tổ chức của các lực lượng vũ trang, đến hình thức
và phương thức tiến hành chiến tranh, đến sự phát triển của nghệ thuật quân sự.
Xem xét quan hệ giữa bạo lực và kinh tế, Ph.Ăngghen cho rằng, bạo lực không đơn thuần là
hành vi của ý chí, mà đòi hỏi phải có tiền đề để thực hiện, đó là các công cụ, trong đó công cụ hoàn
hảo hơn sẽ thắng công cụ không hoàn hảo bằng; nghĩa là kẻ sản xuất ra công cụ bạo lực hoàn hảo
hơn… phải thắng kẻ sản xuất ra công cụ bạo lực không hoàn hảo bằng. Điều đó cho thấy, thắng lợi
của bạo lực phụ thuộc vào việc sản xuất vũ khí, và việc sản xuất vũ khí lại dựa vào sản xuất, nghĩa
là dựa vào “lực lượng kinh tế”, vào “tình hình kinh tế”, và phương tiện vật chất mà bạo lực chi phối;
xét đến cùng thì tiền phải do sản xuất kinh tế làm ra; vậy một lần nữa, bạo lực lại do tình hình kinh
tế quyết định, kinh tế cung cấp cho bạo lực phương tiện để tạo ra và duy trì công cụ bạo lực.
Ph.Ăngghen đưa ra kết luận: “Không có gì lại phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế hơn là
chính ngay quân đội và hạm đội”. Phát triển luận điểm đó, V.I.Lênin cho rằng “... trong bất cứ cuộc
chiến tranh nào, kinh tế... quyết định”, đặc biệt trong chiến tranh hiện đại “tổ chức kinh tế có một ý
nghĩa quyết định”. Như vậy, kinh tế là nhân tố quyết định qui mô, tổ chức biên chế lực lượng vũ


trang, phương thức tiến hành chiến tranh.
Tuy nhiên kinh tế quyết định đến quốc phòng, chiến tranh không phải trực tiếp mà gián tiếp
thông qua tiềm lực kinh tế quân sự để tạo thành sức mạnh quân sự. Điều này cũng có nghĩa là không
phải có kinh tế mạnh là có quốc phòng mạnh. Để phục vụ cho quốc phòng, nhất là khi chiến tranh
xảy ra phải thông qua tổng thể các biện pháp bảo đảm kinh tế thì mới đáp ứng yêu cầu của hoạt
động quốc phòng, chiến tranh.
- Tư tưởng HCM, quan điểm của Đảng ta về bảo đảm kinh tế cho QP và chiến tranh
Thứ nhât, bảo đảm kinh tế cho quốc phòng là vấn đề cốt lõi của việc chuẩn bị thực lực kinh
tế kháng chiến.
Theo quan điểm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn kháng chiến lâu dài phải
chuẩn bị đầy đủ, qua nhiều giai đoạn gian lao; đặc biệt, trong điều kiện vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc, thì “kinh tế là một ngành hoạt động tối quan trọng”, “một mặt trận rất quan trọng”. Vì thế,
muốn kháng chiến thắng lợi “không thể không chú ý đến vấn đề động viên kinh tế ”. Để thực hành
động viên kinh tế, phải khéo léo huy động mọi lực lượng của cả nước, sao cho “người có sức giúp
sức, có tiền giúp tiền, có của giúp của” 1 cho kháng chiến. Do thực hiện tốt động viên kinh tế mà
chúng ta đã huy động hết thảy nhân lực, vật lực, tài lực cho kháng chiến và kiến quốc. Nhờ đó thực
lực nền kinh tế kháng chiến được bổ sung, tăng cường một cách nhanh chóng, không chỉ góp phần
quan trọng làm lên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mà còn tạo tiền đề chuẩn bị
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 477.


2
động viên kinh tế trong kháng chiến chống Mỹ. Điều đó cho thấy, kinh tế và động viên kinh tế là
vấn đề cốt lõi của nền kinh tế kháng chiến.
Thứ hai, bảo đảm kinh tế cho quốc phòng là chủ động chuẩn bị sớm nền kinh tế để vừa
phục vụ kháng chiến trước mắt, vừa sẵn sàng đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau khi
kháng chiến thắng lợi.
Thứ ba, toàn dân kháng chiến là đặc trưng tiêu biểu của bảo đảm kinh tế trong chiến tranh

chiến tranh giải phóng dân tộc
Thứ tư, tiết kiệm và tăng gia sản xuất là một sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta để bảo đảm kinh tế cho quốc phòng trong điều kiện chiến tranh
Thứ năm, trong điều kiện chiến tranh, để bảo đảm kinh tế phải động viên toàn diện các
ngành, các lĩnh vực, trong đó nhấn mạnh động viên nhân lực, giao thông, công nghệ (công nghiệp),
nông nghiệp, tài chính và tiết kiệm.
Từ những vấn đề trên cho thấy, bảo đảm kinh tế cho quốc phòng đã trở thành chủ trương chiến
lược của Đảng ta không chỉ trong đấu tranh chống xâm lược, mà cả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Ngày nay, vấn đề này đã được Đảng ta kế thừa, phát triển lên trình độ mới, phù hợp, hiệu quả
hơn trong tình hình mới.

- Xuất phát từ vai trò của kinh tế đối với chiến tranh ngày càng tăng lên.
Chiến tranh càng hiện đại nhu cầu kinh tế cho chiến tranh càng tăng cả về số lượng, chất lượng và
chủng loại. Do đó để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng đó, đòi hỏi mỗi quốc gia phải có sự chuẩn bị kinh tế
cho chiến tranh.

Điều đó được thể hiện trên các nội dung sau:
Đặc điểm của chiến tranh hiện đại là quy mô tuy không lớn nhưng mức tiêu hao rất lớn về
nhân lực, vật tư, tài chính. Chiến tranh càng hiện đại, khối lượng sử dụng và tiêu hao vật chất, kỹ
thuật càng lớn. Chẳng hạn:
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, để sản xuất cho chiến tranh “Mỹ đã phải động viên hơn
60%... Liên Xô đã động viên tới 78%... Nước Đức động viên toàn bộ khả năng sản xuất công nghiệp
để sản xuất sản phẩm quân sự”.
Mức tiêu hao vật chất, kỹ thuật của chiến tranh Trung Đông lần thứ tư khoảng “hai lần đại
chiến thế giới lần thứ hai; 20 lần đại chiến lần thứ nhất”2.
Trong chiến tranh vùng Vịnh (năm 1991) con số khổng lồ hơn: mỗi ngày Mỹ tiêu tốn gần 1,5 tỷ
USD; một giờ bắn 0,6 vạn tấn đạn; huy động 80 bộ môn kinh tế và kỹ thuật tham gia sản xuất quân sự; 38
công ty hàng không; 7 công ty đường sắt; 10 công ty hàng hải; 73 công ty sản xuất thực phẩm. Liên quân
Anh, Pháp, Đức, Canađa... huy động hơn 1.000 công ty tham gia cuộc chiến này.
Với mức tiêu hao lớn như vậy nếu chỉ dựa vào mức độ dự trữ nóng và năng lực của công

nghiệp quốc phòng thì không thể đáp ứng được. Ngay cả các nước có tiềm lực kinh tế và quốc
phòng mạnh, có khả năng cho phép dự trữ lớn cũng không thể dự trữ sẵn trong kho một khối lượng
vật chất đủ bù đắp tiêu hao trong thời gian dài của chiến tranh. Thông thường chỉ chuẩn bị ở mức tối
ưu cho phép từ 3 đến 6 tháng tùy khả năng của từng nước mà mức dự trữ khác nhau. Hết thời gian
đó nền kinh tế quốc dân, trong đó có công nghiệp dân dụng phải cung ứng kịp thời cho nhu cầu tiếp
theo của chiến tranh. Điều đó có nghĩa là tùy theo quy mô chiến tranh mà tiến hành động viên cục
bộ hoặc toàn bộ nền kinh tế để tập trung sản xuất các loại sản phẩm quân sự cho chiến tranh. Nếu
chỉ dựa vào mức dự trữ trong thời bình mà không quan tâm hoặc không xác định kế hoạch để động
viên kinh tế thì khó có thể tồn tại ngay từ ngày đầu chiến tranh chứ chưa nói đến duy trì động viên
trong các giai đoạn tiếp theo.

2

“Chương 9: Xây dựng động viên quốc phòng”, Giáo trình chiến lược học phát triển quốc phòng, Nxb. Đại học Quốc phòng Trung Quốc, Bắc Kinh,
1992, Phòng Khoa học kinh tế - Quân sự, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng - Kinh tế dịch, tr. 19.


3

* Thực tiễn bảo đảm kinh tế cho quốc phòng ở một số nước trên thế giới
Thực tiễn cho thấy, bảo đảm kinh tế cho quốc phòng và chiến tranh được tiến hành ngay từ khi
xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng. Từ nhà nước chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa đến nhà nước xã hội chủ nghĩa đều phải bảo đảm kinh tế cho quốc phòng, chỉ khác nhau ở
mục đích bảo đảm.
- Trong xã hội nô lệ và phong kiến, nguồn bảo đảm kinh tế cho quốc phòng được lấy từ các
sản phẩm và tiền thuế của khu vực nông nghiệp và các xưởng thủ công; quy mô bảo đảm chưa lớn,
tính chất chưa phức tạp;
- Đến chủ nghĩa tư bản, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự phát triển của vũ khí,
phương tiện kỹ thuật quân sự làm cho quy mô và tính chất của chiến tranh phát triển, theo đó là yêu
cầu bảo đảm kinh tế cho quốc phòng, chiến tranh tăng nhanh. Để bảo đảm kinh tế cho quốc phòng,

nhất là khi chiến tranh, nhà nước tư sản thường tiến hành các biện pháp chủ yếu sau:
Một là, xây dựng các đạo luật bảo đảm kinh tế cho quốc phòng như: luật nghĩa vụ quân sự;
luật dự bị động viên; luật ngân sách… Theo đó là bộ máy đồ sộ từ trung ương đến cơ sở để tổ chức
động viên kinh tế cho chiến tranh.
Hai là, coi trọng hiện đại hoá quân đội, chủ động chuẩn bị tiềm lực kinh tế quân sự đáp ứng
nhu cầu quốc phòng, chiến tranh.
Ba là, thực hiện quân sự hoá nền kinh tế, huy động tối đa năng lực sản xuất quân sự, mở rộng
quy mô, cơ cấu sản xuất quân sự đáp ứng yêu cầu chiến tranh.
Bốn là, tăng ngân sách quốc phòng, kể cả khi chiến tranh lạnh đã kết thúc.
Năm là, chủ động dữ trữ chiến lược cơ sở vật chất, tài chính, nhân lực cho quốc phòng và
chiến tranh.
Sáu là, thông qua các khối quân sự, liên minh quân sự để tăng cường khả năng bảo đảm kinh
tế cho quốc phòng, chiến tranh.
- Bảo đảm kinh tế cho quốc phòng ở Liên Xô
Sau cách mạng tháng Mười, trước nguy cơ xâm lược, V.I.Lênin cho rằng, nếu kinh tế không
được chuẩn bị sớm, từ trước thì việc tiến hành chiến tranh chống xâm lược là điều không thể. Vì
theo V.I.Lênin: “Cuộc chiến tranh cách mạng này cần được chuẩn bị lâu dài, nghiêm túc, bắt đầu
phát triển kinh tế…”3. Trong nhiều trường hợp, V.I.Lênin khẳng định kinh tế có vai trò quyết định sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, theo đó để chuẩn bị quốc phòng, ngăn chặn chiến tranh phải
“bắt đầu phát triển kinh tế”. Với nhận thức đó, V.I.Lênin đã lãnh đạo thành công việc khôi phục nền
kinh tế nước Nga, khẩn trương chuẩn bị kinh tế quân sự để tiến hành chiến tranh vệ quốc, góp phần
đập tan mưu đồ xâm lược, thôn tính của chủ nghĩa đế quốc đối với nước Nga Xô Viết, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Liên Xô và sự nỗ lực của nhân dân, chỉ trong thời gian
ngắn từ 1917-1937 Liên Xô đã trở thành nước công nghiệp hiện đại, trong đó công nghiệp quốc
phòng có khả năng trang bị vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự hiện đại đáp ứng yêu cầu của các
lực lượng vũ trang.
Trước nguy cơ chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô đã thi hành những biện pháp đặc biệt,
tăng thêm quân số của lực lượng vũ trang, xây dựng thêm các sư đoàn không quân, thiết giáp, pháo
binh và hạm đội; tổ chức lại Hồng quân; xây dựng mới nhiều cơ sở công nghiệp quốc phòng. Đến

năm 1940, số lượng nhà máy sản xuất máy bay tăng 74% so với năm 1937. Năng lực sản xuất máy
bay, xe thiết giáp có công suất cao hơn Đức 1,5 lần. Nhà máy sản xuất súng bộ binh, pháo, đạn vượt
xa Đức. Liên Xô đã thi hành nhiều biện pháp để động viên kinh tế cho chiến tranh, mở rộng hậu cần,
nhất là hậu cần quân đội để đáp ứng nhu cầu của Hồng quân.
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô đã ban hành nhiều sắc lệnh nhằm động viên mọi
nguồn lực để năng lực sản xuất và tiềm lực kinh tế, nhất là tiềm lực kinh tế quân sự , hướng mọi lực
3

V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 35, Nhà xuất bản Tiến Bộ, Mátxcơva - 1976, tr. 481.


4
lượng, mọi phương tiện để bảo đảm tốt nhất, nhanh nhất cho Hồng quân. Nhờ vậy, trong thời gian
chiến tranh, Liên Xô đã sản xuất 134 ngàn máy bay, 103 ngàn xe tăng và pháo tự hành, 825 ngàn đại
bác và súng cối; trong khi Đức chỉ sản xuất 79 ngàn máy bay, 54 ngàn xe tăng, 170 ngàn đại bác và
súng cối.
- Bảo đảm kinh tế cho quốc phòng ở một số nước ASEAN
Ngoài Việt Nam, Lào, Cămpuchia, hầu hết các nước ASEAN đều có sự bảo trợ quân sự của
Mỹ. Mặc dù vậy, việc bảo đảm kinh tế cho quốc phòng ở các nước này vẫn được chính phủ quan
tâm. Có thể tham khảo trên một số nội dung:
Một là, bảo đảm kinh tế cho quốc phòng thông qua ngân sách quốc phòng (4-5% GDP). Với
nguồn ngân sách lớn, lại được Mỹ, Nhật hỗ trợ nên Thái Lan, MaLaixia, Inđônêxia, Myanma,
Singapo đã xây dựng được tiềm lực quân sự mạnh, trong đó quân đội Thái Lan, Singapo với nhiều
quân binh chủng có vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự tương đối hiện đại.
Malaixia, Inđônêxia, Myanma, Philippin đang chuyển quân đội từ lực lượng ứng phó với xung
đột dân tộc và chống nổi dậy sang xây dựng quân đội có khả năng ứng phó với nguy cơ xâm lược.
Ngoài bảo đảm từ ngân sách quốc phòng, quân đội các nước này còn có nguồn thu từ tổ hợp công
nghiệp quốc phòng thông qua xuất, nhập khẩu vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự, chuyển giao
công nghệ, nổi bật là Singapo, MaLaixia.
Hai là, về phương thức bảo đảm kinh tế cho quốc phòng. Kết hợp giữa hậu cần quân đội và cơ

chế thị trường. Trong đó cơ chế thị trường chiếm tỷ trọng 60-79%. Đây là phương thức bảo đảm có
hiệu quả trong thời bình.
Ba là, ngoài ra, các nước này còn thường xuyên nhận được viện trợ quân sự thông qua trao
đổi, mua bán vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự với phương Tây và một số nước thuộc Liên Xô
cũ, Trung Quốc, Ân Độ…`
Tuy nhiên việc bảo đảm kinh tế cho quốc phòng ở các nước này còn hạn chế như: chưa xây
dựng được nền quốc phòng toàn dân; chịu sức ép từ sự bảo trợ của Mỹ; quá nhấn mạnh cơ chế thị
trường nên khi đất nước chuyển sang trạng thái chiến tranh sẽ gặp khó khăn, nhất là động viên kinh
tế cho chiến tranh.
- Bảo đảm kinh tế cho quốc phòng ở Việt Nam
1. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)
Trong kháng chiến chống Pháp, do nhận thức và đánh giá đúng vai trò của kinh tế và chuẩn bị
tiềm lực kinh tế quân sự mà Đảng ta đã lãnh đạo thực hiện kết hợp chiến đấu với sản xuất, vừa đánh
giặc vừa tăng gia sản xuất. Với đường lối “kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kháng chiến có
thắng lợi thì kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng
lợi”, nên trong điều kiện kháng chiến, chúng ta đã xây dựng nhiều cơ sở sản xuất quốc phòng để sản
xuất vũ khí, phương tiện vật chất khác, đồng thời huy động tối đa tiềm lực kinh tế để tăng cường
thực lực quốc phòng. Thực chất đây là quá trình chuẩn bị tiềm lực kinh tế quân sự cho kháng chiến
trường kỳ.
2. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)
Trong kháng chiến chống Mĩ, để bảo đảm kinh tế cho kháng chiến, tại Hội nghị Trung ương
lần thứ 11 (khóa III), Đảng ta chủ trương: chuyển hướng nền kinh tế và tăng cường quốc phòng cho
kịp với sự phát triển tình hình theo hướng kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường quốc
phòng, ra sức động viên lực lượng của miền Bắc chi viện cho miền Nam, tích cực phát triển kinh tế
theo từng vùng chiến lược, làm cho từng vùng có khả năng tự giải quyết phần lớn nhu cầu ăn, mặc,
ở, học, bảo vệ sức khỏe, tiêu dùng thiết yếu, phục vụ sản xuất, xây dựng và chiến đấu. Nhờ thực
hiện có hiệu quả chủ trương này, dù bị chiến tranh phá hoại của Mỹ tàn phá nặng nề, nhưng kinh tế
miền Bắc đã thể hiện sức mạnh ưu việt, không chỉ đứng vững mà còn phát triển nhiều mặt; cơ bản
khắc phục thiếu thốn và yếu kém về vật chất, vũ khí, trang bị quân sự, vừa đáp ứng yêu cầu đánh
thắng chiến tranh phá hoại, bảo vệ miền Bắc, vừa chi viện với mức độ ngày càng cao cho miền

Nam; xây dựng và tăng cường tiềm lực mọi mặt, góp phần ổn định đời sống, làm tròn nhiệm vụ của


5
hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam.
3. Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ 1975 đến nay
Sau khi đất nước thống nhất, cùng với việc hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời sống nhân
dân, trong điều kiện hoà bình, Đảng ta chủ trương thực hiện giảm quân số thường trực và ngân sách quốc
phòng, điều chỉnh lại thế bố trí chiến lược về quân sự, quốc phòng trên phạm vi cả nước.
Mặc dù thành tựu của thời kỳ đổi mới đã tạo thế và lực mới cho phát triển triển đất nước và
điều kiện thuận lợi để chuẩn bị tiềm lực kinh tế quân sự, nhưng chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch đang đẩy mạnh “diễn biến hòa bình” nhằm phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của
nhân dân ta, tiến tới xóa bỏ chế độ chính trị ở nước ta. Vì thế, chuẩn bị tiềm lực kinh tế để bảo đảm
kinh tế cho quốc phòng trong bối cảnh đó được đặt ra trực tiếp và thường xuyên hơn. Để tạo thế và
lực mới cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội XI chủ trương “Phát triển kinh tế - xã
hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn”, trong đó “… phát triển kinh tế là trung tâm, là một
trong những nhân tố quan trọng bảo vệ Tổ quốc…” và “xây dựng tiềm lực kinh tế của đất nước
vững mạnh là yếu tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc…”. Điều đó cho
thấy, chúng ta đã nhận thức đúng, toàn diện, sâu sắc và biện chứng hơn vai trò của kinh tế và chuẩn
bị tiềm lực kinh tế để bảo đảm kinh tế cho quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ; là con đường
tất yếu để nước ta thoát nghèo và nguy cơ tụt hậu, giữ vững ổn định xã hội. Đó còn là tiền đề nâng
cao tiềm lực kinh tế, tăng cường sức mạnh quốc phòng. Để có tiềm lực kinh tế mạnh, chúng ta vừa
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa hoàn thiện các yếu tố của chủ nghĩa xã hội với từng
bước tích lũy tiềm lực khoa học và công nghệ, nhất là khoa học và công nghệ quân sự, trình độ tác
chiến của lực lượng vũ trang, khi cần có thể nhanh chóng huy động và chuyển hóa thành thực lực
quốc phòng.
Từ vấn đề trên cho thấy, chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta đều coi trọng và
nhấn mạnh vai trò của kinh tế, nhất là chuẩn bị kinh tế để bảo đảm kinh tế cho quốc phòng, sẵn sàng

ứng phó với mọi tình huống.
2. Ý nghia
- Về nhận thức lý luận về sự cần thiết, nội dung BĐKT, giải pháp bảo đảm kinh tế cho QP và
bổ sung, phát triển lý luận....
- Về hành động thực tiễn: Quán triệt chủ trương của Đảng và tuyên truyền sâu rộng trong
nhân dân; phát huy vai trò tham mưu của QĐ trong BĐKT cho QP.


6
CÂU 2: Đảng ta chỉ rõ: “Sự kết hợp giữa kinh tế va quốc phòng được tiến hanh dưới
nhiều hình thức va đã bước đầu mang lại kết quả” (Văn kiện ĐH VIII, tr.163,). Bằng kiến thực
kinh tế quân sự, hãy phân tich lam rõ vân đề trên trong bối cảnh hiện nay ?

1. Quan niệm về kết hợp kinh tế với quốc phòng
Kết hợp kinh tế với QP-AN ở nước ta là: hoạt động tích cực, chủ động của Nhà nước và
nhân dân (dưới sự lãnh đạo của Đảng) trong việc gắn kết chặt chẽ hoạt động kinh tế, QP-AN trong
một chỉnh thể thống nhất trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương, thúc đẩy nhau cùng
phát triển, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng CNXHvà BVTQ Việt Nam XHCN.Kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường
củng cố QP-AN được Đảng ta khẳng định là một nội dung quan trọng trong đường lối xây dựng và
BVTQ Việt Nam XHCN và được triển khai trên quy mô rộng lớn, toàn diện hơn. Việc kết hợp phát
triển kinh tế với tăng cường củng cố QP-AN trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, bộ,
ban ngành có bước chuyển biến cả trong nhận thức và tổ chức thực hiện, đã thu được nhiều kết quả
quan trọng (VKDH8...),

2. Phân tích vấn đề
* Đánh giá kết quả của hoạt động kết hợp…hiện nay.
- Về sự lãnh đạo của Đảng: Kết hợp kinh tế với quốc phòng luôn là một nội dung quan trọng trong
đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và được thể hiện trong tất cả các văn kiện của Đại Hội Đại biểu Đảng
toàn quốc; đặc biệt Hội nghị Trung ương 8 khoá IX , Khóa XI đã có nghị quyết về chiến lược BVTQ.

- Về quản lý nhà nước: + Quốc Hội đã ban hành hàng loạt các luật, pháp lệnh liên quan đến
nhiệm vụ BVTQ và kết hợp KT với QP như: luật nghĩa vụ quân sự; luật sĩ qua, pháp lệnh dự bị động
viên; pháp lệnh dân quân tự vệ (đã nâng lên thành luật năm 2009); pháp lệnh động viên công
nghiệp; pháp lệnh công nghiệp quốc phòng…
+ Chính Phủ cũng đã ban hành hàng loạt các Nghị định hướng dẫn tổ chức thực hiện như:
Nghị định số 15/2001/NĐ-CP ngày 01/5/2001 của Chính phủ về Giáo dục Quốc phòng; Nghị định
119/2004?NĐ-CP ngày 11/5/2004 của Chính Phủ về công tác quốc phòng ở các bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và địa phương…
- Về giáo dục quốc phòng toàn dân: Công tác giáo dục quốc phòng đã được triển khai trên
các đối tượng. Giáo dục quốc phòng là một nội dung bắt buộc trong chương trình đào tạo của các
trường trung học phổ thông, trung cấp, cao đẳng, đại học; là một nội dung bồi dưỡng kiến thức của 5
đối tượng. Nhờ đó ý thức về nhiệm vụ quốc phòng và năng lực tổ chức thực hiện của các tầng lớp
nhân dân, nhất là cán bộ, đảng viên được nâng lên một bước.
- Trong triển khai thực hiện các các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, QP –AN
+ Trong triển khai thực hiện các các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội:
Phát triển nền kinh tế thị trường… đã tạo cơ sở cho xây dựng tiềm lực quốc phòng - an ninh
bằng chính khả năng của nền kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã gắn kết với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế
trận an ninh nhân dân, tạo điều kiện tốt hơn cho việc tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, từng
bước hiện đại hóa cơ sở vật chất, phương tiện, vũ khí, khí tài cho quốc phòng - an ninh.
Công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đã gắn kết 2 nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh. Nhiều công trình trọng điểm quốc gia đã thể hiện
được kết hợp kinh tế với quốc phòng như: Thuỷ điện sông Đà; đường HCM; Phát triển chương trình cơ
khí trọng điểm quốc gia; trong ngành đóng tàu; bưu chính viễn thông; lọc dầu Dung Khuất Quảng ngãi…
+ Trong nhiệm vụ quốc phòng-an ninh: Tổ chức sắp xếp lại quân đội theo hướng tinh, giảm
“xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”; Chú trọng đầu tư cho
công nghiệp quốc phòng, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng nòng cốt; sử dụng quân đội tham gia
phát triển kinh tế-xã hội; đặc biệt là phát triển các khu kinh tế quốc phòng, các khu quốc phòng kinh
tế, tham gia phát triển kinh tế-xã hội dưới nhiều hình thức.



7
Tiềm lực quốc phòng - an ninh tiếp tục được tăng cường; an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội được giữ vững
* Đánh giá những hạn chế
- Phát triển kinh tế chưa thật vững chắc….Văn hóa, xã hội có nhiều mặt còn bất cập. , Chất
lượng nguồn nhân lực thấp, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ chưa thực sự là quốc sách hàng
đầu. Hội nhập quốc tế nhanh nhưng chưa tận dụng tốt cơ hội để phát triển cũng như hạn chế mặt trái
của hội nhập.
- Nhận thức về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế-xã hội với quốc phòng an ninh ở một số
còn chưa rõ, chưa đúng và chưa đầy đủ.
- một số ngành, lĩnh vực và địa phương còn chưa chủ động tích cực, hoạt động thiếu đồng
bộ; cơ chế hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành còn lúng túng; nội dung, phương thức gắn kết hợp
chậm đổi mới.
- Sự phối hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh trong phê
duyệt, ký kết các dự án đầu tư nước ngoài chưa có cơ chế rõ ràng, chặt chẽ, nên một số chương
trình, dự án sau khi xây dựng xong đã ảnh hưởng không nhỏ đến thế trận quốc phòng - an ninh và
lợi ích quốc gia dân tộc.
Ví dụ: ca si nô ở Hải Phòng; Đồi vọng Cảnh Ở Huế; trận địa phòng không ở Hà nội bị nhà cao tầng 3
phía che chắn; xây cầu vượt đường 5 xe chở tên lửa không qua được; nhiều địa phương cấp phép cho nước
ngoài trồng rừng (hơn 300 ha) ở những địa bàn nhạy cảm mà cơ quan quân sự không được thông báo; nhiều
địa phương khi cấp phép cho nước ngoài đầu tư không có ý kiến tham gia của cơ quan quân sự. Dẫn đến
nhiều cửa ngõ ra vào thành phố, thị xã; địa hình có giá trị quốc phòng-an ninh bị xâm phạm.
Nguyên nhân: khách quan là chạy theo kinh tế; trong thời bình, chiến tranh chưa đặt ra trực
tiếp. Nguyên nhân chủ quan là công tác giáo dục, quản lý nhà nước còn hạn chế…
- Hệ thống cơ chế, chính sách để triển khai kết hợp chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, từ đó chưa tạo thuận
lợi cho các cấp, ngành kết hợp. Ví dụ: cơ chế phối hợp giữa chính quyền, quân đội, công an trong xây dựng
quy hoạch, kế hoạch phát triển địa phương, bộ, ban ngành còn chưa có; chưa có pháp lênh động viên các
ngành khác ngoài công nghiệp; Trong xây dựng nhà cao tầng ở thành phố, đô thị chưa có quy định nhà bao
nhiêu tầng phải có tầng ngầm và nếu xây nhà có tầng ngầm thì được ưu đãi gì.

- Công nghiệp QP của ta còn quá nhỏ bé: công nghệ lạc hậu, khép kính, năng suất thấp.
* Những vấn đề đạt ra trong kết hợp ... hiện nay
Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến
phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc, khó lường. Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển cả về quy
mô, mức độ và hình thức với những tác động tích cực và tiêu cực sẽ tạo ra cơ hội và thách thức đan
xen. Tình hình kinh tế thế giới sau thời kỳ suy thoái và khủng hoảng, sẽ từng bước được khắc phục
và ổn định, nhưng vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Những vấn đề mang tính toàn cầu
như: an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, cạn kiệt tài nguyên, đói nghèo, dịch
bệnh, biến đổi khí hậu, thảm họa thiên nhiên,… sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế thế giới
thời gian tới. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có ĐNA vẫn là khu vực phát triển năng
động, nhưng còn tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định; mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo vẫn tồn tại;
tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt với những diễn biến phức tạp, nhất là ở Biển
Đông; đang xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới.
Trong nước, những năm tới môi trường hòa bình, ổn định vẫn tiếp tục được duy trì và giữ
vững; kinh tế sẽ phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng; những hạn chế, yếu kém trong quản lý kinh tế từng
bước được khắc phục; thực hiện nhiều hơn các hiệp định thương mại tự do song phương và đa
phương. Tiềm lực QP-AN của đất nước tiếp tục được tăng cường, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu
cầu xây dựng và BVTQ. Quan hệ với các nước láng giềng và trong khu vực sẽ được củng cố, tăng
cường; đường biên, mốc giới có liên quan sẽ tiếp tục được giải quyết, tạo cơ sở pháp lý cho quản lý,
bảo vệ biên giới quốc gia cả trên bộ và trên biển.


8
Tuy nhiên, trong xây dựng, phát triển KT-XH vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là những hạn chế
về quản lý vĩ mô nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. Thực hiện kết hợp kinh tế với
QP-AN tuy đó đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế trong
điều kiện phát triển KTTT và HNQT. Về QP-AN, sẽ tiếp tục có những diễn biến phức tạp trên vùng
chủ quyền biển đảo của nước ta. Trong nội địa, còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định; các thế
lực thù địch sẽ tiếp tục tạo cớ để tập hợp lực lượng tiến hành gây rối chính trị và trật tự xã hội trên
một số địa bàn với quy mô, mức độ khác nhau. Mặt khác, an ninh phi truyền thống mang tính toàn

cầu vẫn là mối đe dọa thường xuyên đối với nước ta.
Những đặc điểm trên đây là yếu tố tạo ra thuận lợi và cơ hội to lớn cùng với những khó khăn,
thách thức gay gắt trong thực hiện các mục tiêu phát triển KT-XH và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ; đồng thời, cũng là những yếu tố tác động trực tiếp đến thực hiện kết hợp kinh tế
với QP-AN trong thời kỳ HNQT. Do vậy, nhận rõ đặc điểm tình hình, nắm chắc những thuận lợi và khó
khăn là cơ sở để các cấp, các ngành lãnh đạo, chỉ đạo việc kết hợp đạt hiệu quả.


9
ĐỀ SỐ 2
CÂU 1: Vân dung tư tưởng của V.I.Lênin về mối liên hệ giữa kinh tế với chiến tranh
trong tác phẩm Hải cảng Lữ Thuân thât thủ, hãy phân tich lam rõ cơ sở lý luân va thực tiễn
của kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh ở nước ta ?

* Khái niệm kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh ở nước ta là: hoạt động tích cực, chủ động của Nhà
nước và nhân dân (dưới sự lãnh đạo của Đảng) trong việc gắn kết chặt chẽ hoạt động kinh tế, quốc
phòng, an ninh trong một chỉnh thể thống nhất trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương,
thúc đẩy nhau cùng phát triển, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh ở nước ta là một tất yếu, được xuất phát từ cơ sở
lý luận và thực tiễn sau:

* Phân tích cơ sở lý luận
- Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế với chiến tranh, quốc phòng, an ninh;
chiến tranh, quốc phòng, an ninh với kinh tế. Các nhà kinh điển Mác-Lênin khẳng định kinh tế,
chiến tranh, quốc phòng, an ninh là những lĩnh vực khác nhau, song giữa chúng có quan hệ biện
chứng tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, kinh tế là yếu tố suy cho đến cùng quyết định đến chiến
tranh, quốc phòng, an ninh; chiến tranh, quốc phòng, an ninh tác động trở lại kinh tế.
Kinh tế quyết định đến nguồn gốc ra đời, bản chất của chiến tranh, quốc phòng, an ninh; quyết định

đến việc cung cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, nhân lực cho hoạt động quốc phòng, an ninh. Ph.Ăngghen
đã khẳng định: “Không có gì phụ thuộc vào kinh tế tiên quyết hơn là chính quân đội và hạm đội”;
“Thắng lợi hay thất bại của chiến tranh đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế...”4.
Trong tác phẩm, “Hải cảng Lữ - Thuận thất thủ”, Lênin đã lấy dẫn chứng trong lịch sử rằng: Việc Nhật
đánh chiếm Mãn Châu (Trung Quốc) cũng như Anh và Pháp đánh chiếm thành Xê-va-xtô-pôn chỉ vì đây là
những “vùng béo bở”, một thị trường rộng lớn, có thể mang lại cho họ những lợi ích to lớn và giúp họ thực hiện
sự thống trị về kinh tế. Còn với chính cuộc chiến tranh Nga - Nhật, Lênin đã phân tích và chỉ ra cái nguyên
nhân kinh tế sâu xa của nó, rằng khi mở cuộc chiến tranh, chính phủ chuyên chế hy vọng sẽ giành được thắng
lợi dễ dàng đối với Nhật, vì cho rằng thắng lợi này sẽ mở ra những thị trường tiêu thụ mới và nâng cao uy tín
của chính phủ chuyên chế Nga hoàng, giúp nó đè bẹp phong trào cách mạng ở trong nước . Từ việc chỉ rõ
nguồn gốc kinh tế của cuộc chiến tranh, Lênin chỉ ra cho những người cách mạnh rằng: “Giai cấp vô sản cách
mạng phải tuyên truyền không mệt mỏi chống chiến tranh, đồng thời luôn luôn nên nhớ rằng chừng nào còn sự
thống trị của giai cấp nói chung thì chiến tranh là không thể trừ bỏ được”
- Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân lực cho quốc
phòng, an ninh, qua đó quyết định đến tổ chức biên chế của lực lượng vũ trang; quyết định đến
đường lối chiến lược quốc phòng, an ninh. Vì vậy, để xây dựng quốc phòng, an ninh vững mạnh
phải xây dựng, phát triển kinh tế.
Trong tác phẩm “Hải cảng Lữ Thuận thất thủ”, V.I.Lênin còn chỉ ra vai trò quyết định của
kinh tế trong xây dựng lực lượng vũ trang, hình thức và phương pháp tác chiến trong chiến tranh.
Người cho rằng, chất lượng, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang trước hết phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế đạt được. Khi nền kinh tế không vững mạnh, lạc hậu, trì trệ thì kéo theo là “các sĩ
quan không có học thức, không được rèn luyện, thiếu liên hệ chặt chẽ với binh sĩ và không được
binh sĩ tin cậy”, nó cũng dẫn đến tình trạng tối tăm, thối nát, mù chữ, khiếp nhược của quần chúng
nông dân và trong thời đại như thế thì chẳng có sự dẻo dai nào, chẳng có thế lực nào, chẳng có hình
thức chiến đấu nào có thể đem lại ưu thế được. Với một nền kinh tế lạc hậu như chế độ Nga Hoàng
lúc này thì nó đã trở thành chướng ngại cho việc tổ chức quân sự phù hợp với yêu cầu tối tân. Uy
lực quân sự của nước Nga chuyên chế chỉ là hào nhoáng bề ngoài”. Điều đó sẽ không thể mang lại
4



10
những lợi thế và cũng không có được chiến thắng trong chiến tranh. Và như vậy, “Việc thất thủ của
hải cảng Lữ Thuận là một trong những tổng kết lịch sử vĩ đại nhất về tội ác của chế độ Nga Hoàng”
một bằng chứng không thể chối cãi được về vai trò tất yếu, quyết định của kinh tế đối với tiến trình
và kết cục của chiến tranh.
- Quốc phòng, an ninh không chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà còn tác động trở lại với kinh tế
trên cả góc độ tích cực và tiêu cực.
QP, an ninh vững mạnh sẽ tạo môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển kinh tế. Quá trình
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong thời bình, ở mức độ nhất định cũng có tác dụng kích
thích kinh tế phát triển,
Mặt khác hoạt động quốc phòng, an ninh tiêu tốn đáng kể một bộ phận nguồn nhân lực, vật
lực, tài chính của xã hội. Những tiêu dùng này, như V.I.Lênin đánh giá, là tiêu dùng “mất đi”, không
quay vào tái sản xuất xã hội. Do đó, sẽ ảnh hưởng đến tiêu dùng của xã hội, ảnh hưởng đến sự phát
triển của nền kinh tế. Hoạt động quốc phòng, an ninh (thông qua học thuyết quân sự, chiến lược
quân sự quốc phòng, an ninh) còn ảnh hưởng đến đường lối phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế. Hoạt
động quốc phòng, an ninh còn có thể dẫn đến huỷ hoại môi trường sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho kinh
tế, nhất là khi chiến tranh xảy ra.
Lênin chỉ ra rằng: chiến tranh xảy ra sẽ gây nên sự tổn thất hết sức nặng nề về con người, kể
cả sức lực, trí lực, xương máu lẫn tính mạng. Chỉ riêng việc thất thủ ở hải cảng Lữ Thuận trước quân
Nhật đã làm cho Nga tổn thất hàng chục nhân viên phục vụ hạm đội ưu tú và cả một quân đoàn bộ
binh. Không chỉ gây ra những mất mát nặng nề về con người, trong tác phẩm “Hải cảng Lữ Thuận
thất thủ”, V.I.Lênin cũng chỉ rõ chiến tranh còn mang đến những thiệt hại vô cùng to lớn về kinh tế,
tài chính, các nguồn lực xã hội.
- Dựng nước đi đôi với giữ nước. Xây dựng CNXH và BVTQ Việt Nam xã hội chủ nghĩa là
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.
* Phân tích cơ sở thực tiễn
Các quốc gia trên thế giới chúng ta thấy, dù là nước lớn hay nước nhỏ; kinh tế phát triển hay
chưa phát triển; dù chế độ chính trị như thế nào thì mỗi quốc gia cũng đều chăm lo thực hiện kết hợp
phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, kể cả những nước mà hàng trăm năm
nay chưa có chiến tranh.

Việc kết hợp kinh tế với QP trên thế giới được thể hiện rõ nét trên các góc độ sau:
Một là, các nước đều chú ý xây dựng khung khổ pháp lý tạo điều kiện cho việc huy động
nhân lực, vật lực bảo vệ chủ quyền quốc gia. Các đạo luật như: luật nghĩa vụ quân sự, luật dự bị
động viên, luật an ninh; luật dân quân tự vệ; luật động viên công nghiệp... được chú ý xây dựng .
Hai là, bộ máy động viên kinh tế cho quốc phòng, chiến tranh được xây dựng từ trên xuống dưới
và hàng năm được diện tập thực hành rút kinh nghiệm. Nhiều nước có Bộ phòng thủ dân sự với chức năng
quyền hạn khá lớn khi tham gia phê duyệt các dự án đầu tư, các công trình quan trọng của quốc gia.
Ba là, trong phát triển kinh tế, nhất là tại các thành phố, các khu vực nhạy cảm, các công
trình trọng điểm quốc gia đã được nhà nước chú ý kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng ngay từ
khâu quy hoạch, kế hoạch, đến tổ chức triển khai thực hiện. Ví dụ, xây dựng đường giao thông
ngầm trong thành phố, nhà cao tầng có tầng ngầm; trong thời bình đã chủ động xây dựng các công
trình quân sự, nơi trú ẩn, làm việc của chính phủ trong lòng đất; xây dựng giao thông, thông tin bưu
điện... theo hướng lưỡng dụng; bảo vệ các địa hình địa vật có giá trị về quân sự...
Bốn là, trong xây dựng lực lượng quân sự, các nước đều chú ý kết hợp duy trì lực lượng
thường trực hợp lý với xây dựng lực lượng dự bị động viên rộng khắp. Ví dụ, xanh ga po, hiện có 24
trung đoàn dự bị động viên; triều tiên có 5,5 triệu quân dự bị động viên; Hàn quốc có 4,5 triệu quân dự
bị động viên.
Năm là, các nước đều chú ý đến tính lưỡng dụng trong các cơ sở sản xuất quốc phòng và
sản xuất dân sự.
Chẳng hạn, tỷ trọng hàng dân dụng trong 51 cơ sở công nghiệp quốc phòng ở Mỹ là 57%, hàng quốc


11
phòng 43%. Tỷ trọng này ở 37 cơ sở công nghiệp quốc phòng Châu Âu là 55% và 45%.
Ở Việt Nam, sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh đã có
lịch sử lâu dài. Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật sống còn của dân tộc ta.
Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, luôn lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm trọng, đề ra
kế sách giữ nước với tư tưởng: “nước lấy dân làm gốc”, “dân giàu, nước mạnh”, “ quốc phú binh
cường”; thực hiện “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc để “yên dân” mà “vẹn đất”. Thực hiện kế sách “ngụ binh ư nông”, “động vi binh, tĩnh vi dân” để

vừa phát triển kinh tế, vừa tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Trong xây dựng, phát
triển kinh tế, đã sử dụng nhiều chính sách như khai hoang lập ấp ở những nơi xung yếu để “phục binh
sẵn, phá thế giặc dữ” từ xa; phát triển nghề thủ công để vừa sản xuất ra các công cụ sản xuất, vừa sản
xuất ra các vũ khí, phương tiện phục vụ cho toàn dân đánh giặc; chăm lo mở mang đường sá, đào sông
ngòi, kênh rạch, xây đắp đê điều để vừa phát triển kinh tế, vừa tạo thế trận đánh giặc, cơ động lực
lượng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, do nắm vững quy luật và biết kế
thừa kinh nghiệm của lịch sử nên đã thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh một cách nhất quán với những chủ trương sáng tạo, phù hợp với từng thời kỳ của cách
mạng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954) Đảng ta đề ra chủ trương
“Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “Vừa chiến đấu, vừa tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”; vừa thực
hiện phát triển kinh tế ở địa phương vừa tiến hành chiến tranh nhân dân rộng khắp; “Xây dựng làng kháng
chiến”, địch đến thì đánh, địch lui ta lại tăng gia sản xuất.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), kết hợp phát triển kinh tế
với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh đã được Đảng ta chỉ đạo thực hiện ở mỗi miền với
nội dung và hình thức thích hợp.
Ở miền Bắc, để bảo vệ chế độ Xã hội Chủ nghĩa và xây dựng hậu phương lớn cho miền Nam đánh
giặc, Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra chủ trương: “Trong xây dựng kinh tế, phải thấu suốt nhiệm vụ
phục vụ quốc phòng, cũng như trong củng cố quốc phòng phải khéo sắp xếp cho ăn khớp với công cuộc xây
dựng kinh tế”. Theo tinh thần đó, miền Bắc đã xây dựng, phát triển chế độ xã hội mới, nền kinh tế,
văn hoá mới, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; đồng thời kết hợp chặt chẽ với chăm lo củng
cố quốc phòng, an ninh vững mạnh, đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững
chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa và chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược.
Ở miền Nam, Đảng chỉ đạo quân và dân ta kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch với củng cố mở
rộng hậu phương, xây dựng căn cứ địa miền Nam vững mạnh. Đây chính là một điều kiện cơ bản
bảo đảm cho cách mạng nước ta đi đến thắng lợi.
Từ khi nước ta độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội (từ 1975 đến nay) kết hợp phát
triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh được Đảng ta khẳng định là một nội dung
quan trọng trong đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và được triển

khai trên quy mô rộng lớn, toàn diện hơn. Từ năm 1986 đến nay, với tư duy mới về kinh tế và quốc
phòng, an ninh, việc kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trên
phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, bộ, ban ngành có bước chuyển biến cả trong nhận thức
và tổ chức thực hiện, đã thu được nhiều kết quả quan trọng.
Đại hội Đảng XI, nhận thức về kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng - an ninh và
củng cố quốc phòng - an ninh với phát triển kinh tế đã được Đảng ta coi trọng nhấn mạnh: Sự ổn định và
phát triển bền vững của đất nước là nền tảng của quốc phòng - an ninh và củng cố quốc phòng - an
ninh là điều kiện quan trọng để bảo đảm cho kinh tế phát triển bền vững.


12
CÂU 2. Hãy phân tich các giải pháp bảo đảm kinh tế cho quốc phòng Việt Nam hiện
nay. Ý nghia vân đề nghiên cứu ?

* Khái niệm bảo đảm kinh tế cho quốc phòng
Bảo đảm kinh tế cho quốc phòng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là tổng thể các quá trình, các biện pháp được Nhà nước và nhân dân tiến hành nhằm thoả
mãn mọi nhu cầu về phương tiện vật chất, kỹ thuật, tài chính, nhân lực cho quốc phòng sẵn sàng
ứng phó thắng lợi với các tình huống an ninh truyền thống và phi truyền thống để bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nội dụng bd...

* Phân tích giải pháp
1. Giáo dục nhận thức
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để đất nước không bị động, bất
ngờ, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống thì chuẩn bị tiềm lực kinh tế để bảo đảm cho quốc phòng
cần được nhận thức từ mấy vấn đề sau:
Một la, chuẩn bị tiềm lực kinh tế và bảo đảm kinh tế cho quốc phòng, sẵn sàng ứng phó với
mọi tình huống là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bản chất của
chuẩn bị tiềm lực kinh tế, đặc biệt là chuẩn bị tiềm lực kinh tế quân sự để bảo đảm kinh tế cho quốc
phòng là sự gắn kết quá trình xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường sức mạnh quốc

phòng thành một thể thống nhất, thúc đẩy nhau phát triển. Mục đích chuẩn bị tiềm lực kinh tế là tạo
sức mạnh răn đe, ngăn chăn từ xa nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, thực hiện thắng lợi đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nếu tiềm lực kinh tế được chuẩn bị tốt, có hiệu
quả ngay trong thời bình, sẽ tạo được sức mạnh tổng hợp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; ngược lại,
không chỉ khó có sức mạnh thật sự, mà còn phát sinh sơ hở để các thế lực thù địch có thể lợi dụng
chống phá cách mạng nước ta.
Hai la, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, nghĩa vụ và trình độ của các chủ thể về chủ
trương bảo đảm kinh tế cho quốc phòng. Bảo đảm kinh tế cho quốc phòng là chủ trương chiến lược
của Đảng. Vì vậy, cần thường xuyên quán triệt sâu sắc chủ trương này trong toàn xã hội, đặc biệt là
đội ngũ cán bộ chủ trì trong hệ thống chính trị, nhằm thống nhất cả nhận thức và hành động. Phải
thấy rằng, bảo đảm kinh tế cho quốc phòng, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống là chủ trương đầu
tư cho phát triển bền vững, là trách nhiệm của toàn dân, trong đó sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng;
trách nhiệm quản lý nhà nước của Chính phủ giữ vai trò quyết định. Chủ trương này chỉ có thể thành
hiện thực khi mọi tổ chức và cá nhân trong hệ thống chính trị có nhận thức đầy đủ và phát huy tốt
vai trò, trách nhiệm của mình trong việc chuẩn bị kinh tế và bảo đảm kinh tế cho quốc phòng. Do
vậy, cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục để toàn dân nhận thức sâu sắc trách nhiệm và tự
giác tham gia thực hiện. Cùng với đó là năng lực, trình độ về chuyên môn nghiệp vụ, trình độ về
chính trị và ý thức quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước giàu mạnh của các chủ thể phải
không ngừng được bồi đắp, ngày càng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Ba la, chuẩn bị kinh tế và bảo đảm kinh tế cho quốc phòng trong thời bình là nhiệm vụ cơ
bản, thường xuyên, có tính qui luật. Ở nước ta hiện nay, để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, chúng ta không coi nhẹ
nhiệm vụ chuẩn bị tiềm lực kinh tế quân sự để “chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền
thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống” 5. Với ý nghĩa đó, trong
bối cảnh còn giai cấp và đấu tranh giai cấp, còn mưu đồ xâm lược, nhất là khi cuộc chạy đua vũ
trang mới đang hình thành, thì chuẩn bị kinh tế, nhất là tiềm lực kinh tế quân sự để bảo đảm kinh tế

5


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 233.


13
cho quốc phòng thời bình, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu quốc phòng khi cần thiết là nhiệm vụ cơ bản,
thường xuyên, có tính quy luật, góp phần bảo đảm cho đất nước phát triển bền vững.
Bốn la, nội dung cốt lõi của việc bảo đảm kinh tế cho quốc phòng là xây dựng công nghiệp
quốc phòng độc lập, tự chủ, hiện đại. “Công nghiệp quốc phòng là một phần quan trọng của thực
lực và tiềm lực quốc phòng, an ninh; là bộ phận của công nghiệp quốc gia”, là ngành công nghiệp
đặc thù hoạt động công ích, ngoài nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển, sản xuất, cải tiến, hiện đại hoá
vũ khí, trang bị, vật tư và sản phẩm khác phục vụ quốc phòng, công nghiệp quốc phòng còn “tham
gia phát triển kinh tế, xã hội, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Như vậy,
công nghiệp quốc phòng không đơn thuần là ngành sản xuất vật chất, mà còn đảm nhận nhiệm vụ
chính trị đặc biệt mà các ngành công nghiệp khác không muốn làm, không có khả năng làm, hoặc
không được làm, đó là “bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật từng bước hiện
đại”. Với ý nghĩa đó, “Mở rộng phương thức huy động nguồn lực xây dựng công nghiệp quốc phòng
và nâng cao khả năng bảo đảm của công nghiệp quốc phòng” là chủ trương xây dựng công nghiệp
quốc phòng độc lập, tự chủ, hiện đại. Đây là vấn đề chiến lược nảy sinh từ nhu cầu xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, một nội dung cốt lõi của việc bảo đảm kinh tế cho quốc phòng trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
2. Thường xuyên làm tốt công tác tạo nguồn và dự trữ vật chất
Tạo nguồn và dự trữ vật chất là một trong những khâu then chốt của công tác bảo đảm kinh tế
cho quốc phòng
* Tạo nguồn bảo đảm. Có 4 nguồn:
- Nguồn trong nước
- Nguồn từ hoạt động sản xuất, làm kinh tế của lực lượng vũ trang
- Nguồn khai thác từ nước ngoài
- Nguồn thu của địch (chỉ có trong chiến tranh)
Mỗi nguồn bảo đảm trên đều có vị trí, có thế mạnh riêng. Trong đó:
- Nguồn từ hậu phương là nguồn bảo đảm cơ bản, thường xuyên, quan trọng có ý nghĩa quyết

định. Nguồn này chủ yếu do Nhà nước cung cấp và phần đóng góp của nhân dân và các tổ chức kinh
tế - xã hội.
- Nguồn từ hoạt động sản xuất, làm kinh tế của LLVT rất quan trọng
- Nguồn khai thác từ nước ngoài giúp nâng cao trình độ trang bị phương tiện kỹ thuật quân sự
trong nước
- Nguồn thu của địch góp phần đáp ứng kịp thời yêu cầu bảo đảm
Biện pháp tạo nguồn
- Nguồn trong nước: Nguồn này được quyết định bởi tiềm lực kinh tế cả trong thời bình và
thời chiến. Vì vậy, để có thể bảo đảm tốt kinh tế cho quốc phòng trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thì ngay trong thời bình cần:
+ Trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để phát triển kinh tế - xã hội,
kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại mà tạo ra tiềm lực mọi mặt cho quốc
phòng.
+ Có kế hoạch, phương án thích hợp để nhanh tróng chuyển nền kinh tế từ thời bình sang thời
chiến ngay từ thời kỳ đầu chiến tranh, duy trì năng lực sản xuất quân sự để bảo đảm cho chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc.
+ Có cơ chế, chính sách và luật pháp quy định trách nhiệm, quyền lợi của công dân và các
thành phần kinh tế nhằm huy động tốt nhất mọi nguồn lực cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh thời
bình và khi có chiến tranh.
+ Phát huy nội lực, chủ động hội nhập quốc tế, tranh thủ vốn, khoa học và công nghệ phục vụ
cho phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh, ưu tiên đầu tư phát triển khoa học và
công nghệ quân sự.


14
+ Lực lượng vũ trang nói chung, ngành hậu cần quân đội nói riêng, tham gia tích cực và có
hiệu quả vào quá trình xây dựng đất nước; phát triển tiềm lực mọi mặt và tạo nguồn cung cấp cho
lực lượng vũ trang.
- Nguồn từ hoạt động sản xuất, làm kinh tế của lực lượng vũ trang
Sản xuất, làm kinh tế là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của quân đội ta, vừa góp phần tham

gia phát triển kinh tế - xã hội, vừa tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho quốc phòng, cải thiện đời
sống bộ đội, thực hiện quan điểm tự lực, tự cường trong công tác hậu cần.
Để phát huy thế mạnh của quân đội về lực lượng, trình độ kỹ thuật, tính kỷ luật và năng lực
khoa học và công nghệ quân sự, Quân uỷ Trung ương đã có Nghị quyết về tham gia lao động sản
xuất và làm kinh tế, theo đó:
+ Về sản xuất quốc phòng: Sản xuất, sửa chữa vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự đáp ứng
yêu cầu huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang trong thời bình; đồng thời có lực
lượng dự trữ cho giai đoạn đầu chiến tranh; chuẩn bị mọi mặt để sẵn sàng mở rộng sản xuất quân sự
khi cần thiết. Tận dụng cơ sở vật chất, nguồn nhân lực quân sự để sản xuất sản phẩm dân dụng; từng
bước hiện đại hoá công nghiệp quốc phòng Việt Nam, phù hợp khả năng kinh tế và phương thức tiến
hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
+ Tập trung làm tốt nhiệm vụ xung kích xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trên phạm vi
cả nước. Đã và đang triển khai xây dựng hơn 20 khu kinh tế - quốc phòng ở hầu khắp các địa bàn chiến
lược thuộc 7 Qk, trong đó tập trung nhiều ở 3 QK phía Bắc, nhiều nhất là Qk2 (5 khu KT-QP).
+ Đẩy mạnh tăng gia sản xuất tự túc trong tất cả các đơn vị, góp phần nâng cao hiệu quả phục
vụ đời sống và xây dựng quân đội.
- Nguồn khai thác từ nước ngoài:
Trong điều kiện toàn cầu hoá, nhất là toàn cầu hóa kinh tế, thông qua mở rộng hoạt động đối
ngoại và kinh tế đối ngoại nói riêng, có thể khai thác ngoại lực (vốn, công nghệ) để phát triển kinh tế
và phát triển công nghiệp quốc phòng. Đồng thời mở rộng thị trường; thêm bạn bớt thù; tranh thủ sự
giúp đỡ của các nước trong cộng đồng quốc tế với công cuộc giữ nước của chúng ta.
- Nguồn thu của địch trong chiến đấu: chiến lợi phẩm thu được của địch
* Dự trữ vật chất
Dự trữ vật chất thời bình
Cùng với tạo nguồn phải tổ chức tốt dự trữ vật chất, nhất là vật tư chiến lược để chủ động bảo
đảm kinh tế cho quốc phòng. Dự trữ vật chất phải được thực hiện cả ở phạm vi quốc gia và trong
quân đội, trong đó:
- Dự trữ quốc gia do Trung ương, các địa phương và các ngành tổ chức.
- Dự trữ ở các cấp trong quân đội (chiến lược, chiến dịch, chiến thuật) cho sẵn sàng chiến đấu
thực hiện theo quyết định của Tổng tham mưu trưởng

Riêng dự trữ chiến đấu được quy định theo yêu cầu của từng nhiệm vụ chiến đấu cụ thể. Căn
cứ vào dự báo nhu cầu tiêu thụ, dự kiến tiêu hao, tổn thất, khả năng dự trữ, khả năng vận chuyển...
để cấp trên quy định cho cấp dưới.
Vi du: Theo chỉ thị 41/TTMT ký ngày 27/7/2001 về quy định dự trữ thời bình và năm đầu
chiến tranh cho các quân khu như sau:
+ Lương thực, thực phẩm: 20 ngày cho các Qk:1,2,3,4,5,7,9;
+ Quân trang: Qk5,7,9 dự trữ 30% quân số; Qk1,2,3,4 dự trữ 20% quân số;
+ Nhiên liệu: Qk 1,2,3,4: dự trữ 4 cơ số xăng xe máy, 2 cơ số xăng dầu tầu thuyền; Qk 5,7,9:
dự trữ 5 cơ số xăng xe máy, 2 cơ số xăng dầu tầu thuyền…
Dự trữ vật chất thời chiến
- Hậu cần lực lượng vũ trang: dự trữ theo nhiệm vụ tác chiến, chiến dịch
- Khu vực phòng thủ tỉnh (tp): Hậu cần khu vực phòng thủ địa phương dự trữ đủ cho tác chiến
của khu vực phòng thủ, dự trữ một phần cho nhiệm vụ tiếp theo và sẵn sàng chi viện cho cả nước
theo yêu cầu của trên. Lượng tối thiểu phải đạt khoảng 70% tổng lượng dự trữ theo yêu cầu; đồng


15
thời tiếp tục tạo nguồn bổ sung trong quá trình tác chiến. Lực lượng phải bảo đảm gồm: bộ đội địa
phương mỗi tỉnh (tp) có thể 1-2 trung đoàn bộ binh, một số phân đội hoả lực và chuyên môn; mỗi
huyện (quận) 1-2 tiểu đoàn bộ binh, cùng các lực lượng dân quân tư vệ. Các xã (phường), các cơ
quan, cơ sở sản xuất, kinh doanh… từ trung đội, đại đội đến tiểu đoàn dân quân tự vệ cơ động,
trung đoàn tự vệ chiến đấu và một số phân đội chuyên môn, cùng một số lực lượng khác như Công
an, Biên phòng và nhân dân tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Kho trong căn cứ hậu cần
khu vực phòng thủ dự trữ khoảng 2-3 tháng; bộ đội địa phương dự trữ cho 1-2 đợt hoạt động tác
chiến, mỗi đợt khoảng 10-20 ngày.
+ Hậu cần các quân khu: dự trữ đủ cho tác chiến của chủ lực quân khu, bảo đảm cho bộ đội
địa phương tỉnh (tp), huyện (quận); bảo đảm một số mặt, chủ yếu là súng đạn, mìn… cho dân quân,
tư vệ xã (phường), các cơ quan, cơ sở sản xuất, kinh doanh, thanh niên xung phong phục vụ chiến
đấu và dự trữ theo yêu cầu của trên, sẵn sàng bảo đảm cho bộ đội chủ lực của Bộ tác chiến trên địa
bàn quân khu. Tuỳ theo vị trí, chức năng, nhiệm vụ mỗi quân khu có khoảng 4-5 sư đoàn bộ binh,

một số trung, lữ đoàn binh chủng chiến đấu.
3. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, phương thức bảo đảm kinh tế cho quốc phòng phù hợp
với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay
-Cơ chế bảo đảm
Hiện nay, cơ chế kinh tế thay đổi, do đó cơ chế bảo đảm kinh tế cho quốc phòng cũng phải
thay đổi cho phù hợp. Tuy nhiên, việc đổi mới cơ chế bảo đảm kinh tế cho quốc phòng phải tính đến
quy luật của chiến tranh. Hiện nay chúng ta thực hiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, nhưng không có nghĩa là trong bảo đảm kinh tế cho quốc phòng phải xoá bỏ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung chuyển hoàn toàn sang cơ chế thị trường, mà phải kết hợp cả hai cơ chế, phát
huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu của từng cơ chế. Theo đó, trong thời bình, phải thực hiện tốt
hơn, thường xuyên hơn hoạt động bảo đảm bằng tiền thay cho bảo đảm bằng hiện vật; khi chiến
tranh xảy ra thì ngược lại.
- Phương thức bảo đảm
Phương thức bảo đảm là tổng thể các phương pháp, cách thức tổ chức bảo đảm nhằm đáp ứng
đầy đủ, kịp thời nhu cầu về mọi mặt cho lực lượng vũ trang huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu.
Từ thực tiễn bảo đảm kinh tế cho quốc phòng và chiến tranh giải phóng dân tộc có thể vận
dụng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc 3 phương thức bảo đảm như: bảo đảm tại chỗ; cơ động và
theo khu vực (tự nghiên cứu thêm)
- Công tác vận tải
Nhiệm vụ vận tải trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc rất phức tạp, khẩn trương, liên quan đến
nhiều đối tượng khác nhau, lực lượng vận tải huy động từ nhiều nguồn, trình độ và khả năng đều,
địch đánh phá ác liệt... Vì vậy, ngành vận tải quân sự kết hợp với hệ thống giao thông vận tải của
Nhà nước, các địa phương và các thành phần kinh tế thuộc khu vực phòng thủ để huy động lực
lượng, phương tiện vận tải, lấy lực lượng vận tải quân sự làm trung tâm hiệp đồng, phối hợp.
Phải tổ chức tốt mạng đường vận chuyển, có đường chính, dự bị, vòng tránh, có phương án khắc
phục các tình huống trong quá trình vận chuyển; kết hợp sử dụng nhiều loại phương tiện, vận dụng linh
hoạt các phương thức vận tải cả đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường không, đường ống. Trong khu
vực phòng thủ cần triệt để tận dụng các loại phương tiện vận tải cơ giới nhỏ và thô sơ cho phù hợp với thực
tiễn địa phương nhằm nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả vận chuyển, đáp ứng yêu cầu bảo đảm cho

chiến tranh, đồng thời hạn chế thấp nhất thiệt hại do địch đánh phá.
- Huy động các thành phần kinh tế bảo đảm kinh tế cho quốc phòng
Quốc phòng của Việt Nam là quốc phòng toàn dân. Vì vậy, việc bảo đảm kinh tế cho quốc
phòng cũng dựa trên cơ sở toàn dân.
Làm tốt công tác giáo dục để mọi người dân hiểu quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình
đối với nhiệm vụ bảo đảm kinh tế cho quốc phòng.


16
Thể chế hoá thành luật để mọi công dân, mọi tổ chức trong hệ thống chính trị, mọi thành phần
kinh tế thực hiện nghĩa vụ của mình.
Củng cố và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Vì đây là khu vực bảo đảm nhanh
nhất, kịp thời nhất.
4. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác bảo đảm kinh
tế cho quốc phòng
* Vai trò lãnh đạo của Đảng
+ Nắm bắt tình hình thực tiễn, kịp thời đề ra đường lối, chủ trương lãnh đạo sát đúng với từng
giai đoạn.
+ Tổ chức kiểm tra, đôn đốc các cơ quan, ban ngành, địa phương thực hiện.
+ Thường xuyên tổng kết thực tiễn, đúc rút thành luật, bổ sung hoàn thiện đường lối chủ
trương lãnh đạo.
* Vai trò quản lý Nhà nước
+ Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh.
+ Hoàn thiện luật pháp, chính sách bảo đảm như: luật nghĩa vụ quân sự; luật dự bị động viên;
luật quốc phòng; pháp lệnh động viên công nghiệp; pháp lệnh công nghiệp quốc phòng; Pháp lệnh
động viên quốc phòng.
+ Tăng cường các nguồn dự trữ của nhà nước, nhất là lương thực, thực phẩm, vật tư chiến
lược, tài chính, lực lượng dự bị động viên...
+ Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện của bộ máy nhà nước liên quan đến bảo đảm kinh tế
cho quốc phòng.

5. Hoàn thiện bộ máy quản lý bảo đảm kinh tế cho quốc phòng
- Bộ máy quản lý hoạt động bảo đảm kinh tế cho quốc phòng có vai trò quan trọng đối với
toàn bộ quá trình bảo đảm kinh tế cho quốc phòng, từ khai thác nguồn đến tổ chức thực hành bảo
đảm trong các tình huống cụ thể.
- Bộ máy bảo đảm phải hoạt động ăn khớp nhịp nhàng từ trung ương đến cơ sở; liên quan đến
nhiều cấp, ngành, cả trong và ngoài lực lượng vũ trang.
- Biện pháp hoàn thiện:
+ Xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cấp.
+ Xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cấp, ngành, địa phương.
+ Bồi dưỡng năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức: đào tạo tại trường; thông
qua diễn tập thực hành các hình thức để bồi dưỡng.
Bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước đang đặt ra nhiều nội dung mới, toàn diện, phức tạp
và khó lường hơn về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là khi các thế lực thù địch đang
đẩy mạnh diễn biến hòa bình, tận dụng mọi cơ hội, tạo nhiều nguyên cớ để chống phá cách mạng
nước ta. Điều đó làm gia tăng sự cần thiết phải sớm xây dựng tiềm lực kinh tế đủ mạnh, nhất là tiềm
lực kinh tế quân sự, để thời bình góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước phát
triển bền vững; đồng thời sẵn sàng chuyển tiềm lực đó thành thực lực quốc phòng, giành thắng lợi
khi phải tiến hành các hoạt động quân sự, hoặc phải tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

* Ý nghĩa


17
ĐỀ SỐ 3
CÂU 1: Đảng ta nêu rõ: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an
ninh với kinh tế trong từng chiến lược qui hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội; chú trọng vùng
sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo”(Văn kiện Đại hội XI, tr.234). Dựa vao lý luân về nội dung kết hợp,
hãy phân tich lam sáng tỏ vân đề trên?

* Quan niệm về kết hợp KT với QPAN.

Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh ở nước ta là: hoạt động tích cực, chủ động của Nhà
nước và nhân dân (dưới sự lãnh đạo của Đảng) trong việc gắn kết chặt chẽ hoạt động kinh tế, quốc
phòng, an ninh trong một chỉnh thể thống nhất trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương,
thúc đẩy nhau cùng phát triển, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh ở nước ta là một tất yếu, được được tiến hành

trên tất các các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó Đảng ta xác định: ....
* Phân tích
* Kết hợp… trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
Kết hợp phát triển kinh tế với củng cố qp phải được thể hiện ngay trong xác định chiến lược
phát triển kt-xh; trong quy hoach, kế hoạch phát triển các ngành kinh tế, các vùng kinh tế.
Trong xác định chiến lược, việc kết hợp phải được thể hiện ở mục tiêu; tổ chức sắp xếp lực lượng;
trong lựa chọn các giải pháp chiến lược. Các nội dung này phải được thể hiện ngay trong chiến lược phát
triển kt - xh của quốc gia cũng như qui hoạch phát triển các ngành, các vùng của nền kinh tế.
VK DH 11 “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với QP -AN, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong
từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn
Muốn làm được điều đó phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các bộ, ban ngành, các địa phương
có liên quan với cơ quan quân sự các cấp từ đầu ở tất cả các khâu: từ khảo sát, nghiên cứu xây dựng xác
lập các quy hoạch, kế hoạch chiến lược đầu tư phát triển kinh tế-xã hội gắn với chiến lược quốc phòng và
chiến lược an ninh; đến việc đầu tư nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật; đào tạo, bố trí, sử dụng nhân
lực, nhân tài, trang bị kỹ thuật; cải tạo địa hình, xây dựng hạ tầng cơ sở, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
phân bổ điều chỉnh dân cư... được thể hiện ở sự lồng ghép các yêu cầu quốc phòng-an ninh vào trong quá
trình đầu tư xây dựng, phát triển kinh tế-xã hội, vừa bảo đảm phát triển kinh tế nhanh bền vững, vừa bảo
đảm cho quốc phòng- an ninh có đủ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.
* Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh trong phát triển các vùng kinh tế chú trọng vùng xâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo .
Kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh trong phát triển các vùng kinh tế là sự gắn
kết chặt chẽ giữa phát triển vùng kinh tế chiến lược, với xây dựng vùng chiến lược quốc phòng, an
ninh, nhằm tạo ra thế bố trí chiến lược mới cả về kinh tế lẫn quốc phòng, an ninh trên từng vùng

lãnh thổ, trên địa bàn tỉnh, thành phố, theo ý đồ phòng thủ chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
vững trên toàn cục và mạnh ở từng trọng điểm. Hiện nay Đảng ta xác định phải chú trọng nhiều hơn
cho các vùng xâu vùng xa, vùng biển đảo và vùng biên giới.
* Đối với vùng xâu, vùng xa, biên giới
- Về kinh tế - xã hội, địa bàn vùng sâu vùng xa thường có mật độ dân cư thưa thớt, trình độ
dân trí thấp và còn nhiều hủ tục lạc hậu; cơ sở hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội kém phát triển, giao thông
đi lại khó khăn (có nơi còn chưa có đường giao thông) tỷ lệ đói nghèo rất cao (lên đến vài chục phần trăm).
- Vùng núi biên giới của nước ta có chiều dài tiếp giáp với Trung Quốc, Lào, Campuchia. Đây là
địa bàn sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc ít người, mật độ dân số thấp (trung bình khảng 20 - 40
người/1km2), kinh tế chưa phát triển, trình độ dân trí thấp, đời sống dân cư còn nhiều khó khăn. Vùng núi
biên giới có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phòng thủ bảo vệ Tổ quốc.
Trước đây các vùng này đã từng là căn cứ địa kháng chiến, hậu phương chiến lược của cả
nước. Ngày nay, trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, các vùng núi biên giới vẫn là vùng chiến lược hết


18
sức trọng yếu. Trong khi đó, ở đây còn nhiều khó khăn, yếu kém về kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc
phòng, an ninh dễ bị kẻ thù lợi dụng để lôi kéo, kích động đồng bào, thực hiện âm mưu chiến lược
“diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, nhiều nơi tình hình rất phức tạp.
Về quốc phòng, an ninh, đây là những địa bàn chiến lược, căn cứ kháng chiến cũng có ý nghĩa
như “vị trí tiền tiêu”, “phên dậu” của Tổ quốc; là nơi kẻ thù thường lựa chọn làm bàn đạp trong
thực hiện kế hoạch tiến sâu vào nôi địa để phá hoại cách mạng nước ta.
Mục tiêu của việc kết hợp kinh tế với quốc phòng trên địa bàn vùng sâu, vùng xa biên giới là:
Phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, gắn với quốc phòngan ninh; cơ cấu lại dân cư, ổn định dân cư tại chỗ và bố trí dân cư mới ở nơi khác đến. Để thực hiện
mục tiêu đó, các khu KT- QP đứng chân trên địa bàn vùng sâu vùng xa, có nhiệm vụ xây dựng kết
cấu hạ tầng, tổ chức sản xuất, làm dịch vụ; trồng rừng và bảo vệ rừng cũng như môi trường sinh
thái; giữ gìn các di sản văn hoá tuyên truyền của các dân tộc…
Hiện nay, các khu KTQP đã và đang đi vào hoạt động, hình thành cơ chế tổ chức và quản lý
khá đa dạng. Các dự án có doanh nghiệp (công ty) thì doanh nghiệp làm chủ dự án, còn không có
doanh nghiệp thì do quân khu làm chủ dự án và thành lập các đoàn kinh tế- quốc phòng tham gia

phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn vùng sâu vùng xa như: Khu KTQP Mẫu sơn - tỉnh Lạng Sơn;
Khu KTQP Bảo Lạc - Bảo lâm - tỉnh cao Bằng; Khu KTQP Xín Mần - tỉnh Hà Giang; Khu KTQP
Sông Mã - tỉnh Sơn La và Lai Châu; Khu KTQP Bắc Hải Sơn - tỉnh Quảng Ninh; Khu KTQP Khe
Sanh - tỉnh Quảng Trị; Khu KTQP Binh Đoàn 15 - tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc… Trong Những
năm qua được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự phối hợp giúp đỡ của chímh quyền địa
phương các cấp các khu KTQP được xây dựng trên địa bàn vùng sâu, vùng xa đã góp phần to lớn
vào việc cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân nhất là đồng bào dân tộc thiểu
số. Điều này được thể hiện thông qua những đóng góp to lớn của các khu KTQP đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương trong những năm qua.
Theo thống kê của Cục Kinh tế - Bộ Quốc Phòng từ năm 2000 - 2009 các khu KTQP đóng
quan trên địa bàn vùng sâu vùng xa xây dựng được 1.085,7 km đường giao thông các loại; 75 cầu bê
tông và cầu treo với tổng chiều dài 1.044 m; 21 bản định cư mới; 37 bệnh xá quân dân y kết hợp với
diện tích 20.135m2 ; 36 công trình cấp điện sinh hoạt; 29,7 ha cây giống… Ngoài ra các khu kinh tế
trực tiếp sản xuất như Binh đoàn 15, 16 đã khai hoang trồng được 26.000 ha cây cao su (trong đó có
20.000 ha đang cho sản phẩm), việc các khu KTQP trực tiếp sản xuất tập trung đã giúp nhân dân
khai hoang, cải tạo đồng ruộng, xây đựng ruộng lúa nước, xây dựng đồng cỏ phục vụ chăn nuôi…
Từ khi triển khai dự án dự án 135 đến nay với số vốn lồng ghép không nhiều các Đoàn KTQP đã hộ
trợ được cho 5.100 hộ đồng bào dân tộc phát triển sản xuất, đã xây dựng mô hình trên 200 ha cây
lương thực; 73 ha cây công nghiệp, 238 ha cây ăn quả…. Mặt khác, việc phát triển kinh tế gắn với
quốc phòng trên địa bàn vùng sâu, vùng xa còn góp phần sắp xếp giúp dân xoá đói giảm nghèo.
Theo thống kê cho thấy từ năm 2000 - 2009 các khu KTQP trên địa bàn vùng sâu vùng xã đã góp
phần tạo việc làm cho 25.326 hộ dân (trong đó có 7.250 hộ là đồng bào dân tộc ít người). Việc phát
triển kinh tế gắn với quốc phòng trên địa bàn vùng sâu vùng xa còn góp phần vận động quần chúng,
đưa văn hoá, y tế về thôn bản, xây dựng chính quyền cơ sở.
Việc kết hợp cần tập trung vào các nội dung sau:
Phải quan tâm đầu tư phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh ở các vùng cửa khẩu,
các vùng giáp biên giới với các nước.
Phải tổ chức tốt việc định canh, định cư tại chỗ và có chính sách phù hợp để động viên, điều
chỉnh dân số từ các nơi khác đến vùng núi biên giới
Tập trung xây dựng các xã trọng điểm về kinh tế và quốc phòng, an ninh. Trước hết, cần tập

trung xây dựng phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở, mở mới và nâng cấp các tuyến đường dọc, ngang,
tuyến đường vành đai biên giới.
Thực hiện tốt chương trình xóa đói, giảm nghèo, chương trình 135 về phát triển kinh tế - xã hội
đối với các xã nghèo. Đối với những nơi có địa thế quan trọng, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn,


19
cần kết hợp mọi nguồn lực, mọi lực lượng của cả Trung ương và địa phương để cùng lo, cùng làm.
Đặc biệt với các địa bàn chiến lược trọng yếu dọc sát biên giới, cần có chính sách động viên
và sử dụng lực lượng vũ trang, lực lượng quân đội làm nòng cốt xây dựng các khu kinh tế quốc
phòng, hoặc các khu quốc phòng - kinh tế, nhằm tạo thế và lực mới cho phát triển kinh tế và tăng
cường sức mạnh quốc phòng, an ninh.
* Đối với vùng biển đảo
Nước ta có vùng biển vừa dài vừa rộng, với diện tích hơn 1 triệu km 2 (gấp hơn 3 lần diện tích
đất liền). Vùng biển đảo nước ta có nhiều tiềm năng về hải sản và khoáng sản, là cửa ngõ thông
thương giao lưu quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài, có khả năng phát triển một số ngành mũi n họn
của đất nước trong tương lai. Tuy nhiên, việc khai thác lợi thế đó của ta còn nhiều hạn chế, đặc biệt vùng
biển đảo của ta hiện nay đang có nhiều tranh chấp rất phức tạp, chứa đựng nguy cơ đe doạ chủ quyền
quốc gia, lợi ích dân tộc và rất dễ bùng nổ xung đột. Trong khi đó, chúng ta lại chưa có chiến lược tổng
thể hoàn chỉnh về phát triển kinh tế biển và bảo vệ biển, đảo. Lực lượng và sức mạnh tổng hợp trên biển
còn quá mỏng. Vì vậy, việc quan tâm thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng,
an ninh trên vùng biển, đảo là đòi hỏi bức bách và rất quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài, nhằm
nhanh chóng tạo ra thế và lực đủ sức bảo vệ, làm chủ toàn diện vùng biển, đảo, góp phần thúc đẩy các
ngành kinh tế biển phát triển nhanh làm giàu cho Tổ quốc.
Nội dung kết hợp cần tập trung vào các vấn đề sau:
Tập trung trước hết vào xây dựng, hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế và xây dựng thế
trận quốc phòng, an ninh bảo vệ biển, đảo trong tình hình mới, làm cơ sở cho việc thực hiện kết hợp kinh
tế với quốc phòng, an ninh một cách cơ bản, toàn diện, lâu dài. Phải xây dựng quy hoạch, kế hoạch, cơ
chế chính sách để động viên, khích lệ dân ra đảo trụ bám làm ăn lâu dài. Có chính sách từng bước đưa
dân ra vùng ven biển và các tuyến đảo gần trước để có lực lượng xây dựng căn cứ hậu phương, trụ bám

phát triển kinh tế và bảo vệ biển, đảo một cách vững chắc, lâu dài. Phát triển các loại hình dịch vụ trên
biển, đảo, tạo điều kiện cho dân bám trụ, sinh sống, làm ăn.
Xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện mở rộng liên kết làm ăn kinh tế ở vùng biển, đảo
thuộc chủ quyền nước ta với các nước phát triển, nhằm tạo ra các đối tác đan xen lợi ích và đối
tượng chống lại sự lấn lướt của các nước lớn. Thông qua đó, vừa thể hiện chủ quyền của nước ta,
vừa hạn chế âm mưu bành trướng lấn chiếm biển đảo của các thế lực thù địch, tạo thế và lực để giải
quyết hoà bình các tranh chấp trên biển, đảo.
Chú trọng đầu tư phát triển chương trình đánh bắt xa bờ, thông qua đó xây dựng lực lượng
dân quân biển, các hải đoàn tự vệ của ngành Hàng hải, Cảnh sát biển, kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn
kịp thời những hoạt động vi phạm chủ quyền biển, đảo của nước ta... Xây dựng một số đơn vị kinh
tế - quốc phòng mạnh trên biển, đảo để làm nòng cốt cho phát triển kinh tế biển và tạo thế bảo vệ
biển, đảo vững chắc.
Xây dựng phương án đối phó với các tình huống có thể xảy ra ở vùng biển, đảo nước ta. Mạnh dạn
đầu tư xây dựng lực lượng nòng cốt và thế trận phòng thủ trên biển, đảo, trước hết là phát triển và hiện đại
hoá lực lượng Hải Quân NDVN để đủ sức mạnh canh giữ, bảo vệ vùng biển, đảo.


20
CÂU 2. Đảng ta nhân mạnh: Để thực hiện tốt Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới (NQ TƯ 8 khoa XI), chúng ta cần tăng cường nguồn lực đầu tư cho quốc phòng, an
ninh. Bằng kiến thức kinh tế quân sự hãy phân tich nội dung bảo đảm kinh tế cho quốc phòng
ở nước ta hiện nay ?
Bảo đảm kinh tế cho quốc phòng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là tổng thể các quá trình, các biện pháp được Nhà nước và nhân dân tiến hành nhằm thoả
mãn mọi nhu cầu về phương tiện vật chất, kỹ thuật, tài chính, nhân lực cho quốc phòng sẵn sàng
ứng phó thắng lợi với các tình huống an ninh truyền thống và phi truyền thống để bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Từ khái niệm trên cho thấy nội dung bảo đảm kinh tế cho quốc phòng gồm:
* Bảo đảm nguồn nhân lực
Đây là nội dung rất quan trọng vì trong mọi hoạt động nói chung, hoạt động bảo vệ Tổ quốc

nói riêng thì nguồn nhân lực luôn giữ vai trò quyết định. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, trước sự
phát triển mạnh của cách mạng khoa học và công nghệ, vũ khí trang bị quân sự có sự phát triển vượt
bậc, theo đó là phương thức tiến hành chiến tranh cũng đã thay đổi, thì vai trò của nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao càng trở nên quan trọng.
Quốc phòng Việt Nam là quốc phòng toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Vì
vậy, bảo đảm nguồn nhân lực cho QP, trước hết là bảo đảm cho lực lượng vũ trang có đủ số và chất
lượng đáp ứng hoạt động BVTQ. Đồng thời phải chú ý đến lực lượng toàn dân rộng rãi.
Để bảo đảm nguồn nhân lực cho lực lượng vũ trang đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong
mọi tình huống, công tác bảo đảm phải được chuẩn bị chu đáo ngay từ thời bình thông qua tổng thể các
biện pháp như: tạo nguồn, đăng ký, tổ chức, huấn luyện quân dự bị động viên; xây dựng lực lượng dân
quân tự vệ; xây dựng luật pháp, cơ chế, chính sách huy động nhân lực… Trong thời bình, việc bảo đảm
nguồn nhân lực cho lực lượng vũ trang được duy trì ở mức hợp lý, khi chiến tranh xảy ra thì bảo đảm tối
đa nhân lực cho lực lượng vũ trang thông qua động viên nguồn lực này.
* Bảo đảm cơ sở vât chât, phương tiện kỹ thuât quân sự
Cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật quân sự là điều kiện không thể thiếu trong hoạt động
quốc phòng, giữ vai trò quan trọng đối với hiệu quả hoạt động. Khi chiến tranh xảy ra, nhu cầu về
cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật quân sự tăng đột biến, nhất là thời kỳ đầu chiến tranh, thường
vượt mức thông thường và ngoài khả năng dự trữ chiến lược.
Nội dung bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật quân sự bao gồm: vũ khí; quân lương,
quân trang, y tế, giao thông vận tải, thông tin liên lạc…
Nguồn bảo đảm được khai thác từ nhiều nguồn như:
- Nguồn trong nước (thông qua sản xuất, sửa chữa);
- Nguồn nước ngoài (mua sắm, viện trợ);
- Nguồn tự bảo đảm của lực lượng vũ trang và quân đội nói riêng;
- Nguồn từ chiến lợi phẩm (chỉ có trong chiến tranh).
Trong các nguồn trên thì nguồn trong nước giữ vai trò quyết định, các nguồn khác rất quan
trọng. Vì vậy, để chủ động nguồn bảo đảm trong nước phải tập trung phát triển kinh tế, trên cơ sở đó mà
tăng cường tiềm lực kinh tế quân sự; đồng thời đăng ký, quản lý các nguồn động viên; chuẩn bị phương
án động viên kinh tế cho chiến tranh; kết hợp kinh tế với quốc phòng ngay từ thời bình.
* Bảo đảm tai chinh

Đây là nội dung quan trọng của bảo đảm kinh tế cho quốc phòng, nhất là trong điều kiện nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua bảo đảm tài chính, các đơn vị, địa phương khai
thác cơ sở vật chất trong và ngoài nước mà không cần cung cấp bằng hiện vật. Trong điều kiện bình
thường, bảo đảm tài chính cho quốc phòng thường được các nước duy trì ở 4-5% GDP. Trong chiến
tranh nhu cầu tài chính cho quốc phòng tăng nhanh, nhà nước phải thông qua các biện pháp như tăng
thuế, vay nước ngoài, phát hành công trái… để bảo đảm cho quốc phòng và chiến tranh.
Giải pháp


21

- Giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, nghĩa vụ và trình độ của các chủ
thể về chủ trương bảo đảm kinh tế cho quốc phòng
-Thường xuyên làm tốt công tác tạo nguồn và dự trữ vật chất
- Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, phương thức bảo đảm kinh tế cho quốc phòng
phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác bảo
đảm kinh tế cho quốc phòng
- Hoàn thiện bộ máy quản lý bảo đảm kinh tế cho quốc phòng


22
ĐỀ SỐ 4:
CÂU 1. Quan điểm của Đảng la: “Khai thác tối đa tiềm năng va lợi thế của vùng biển,
ven biển, kết hợp với an ninh, quốc phòng, tạo thế va lực để phát triển mạnh kinh tế-xã hội,
bảo vệ va lam chủ vùng biển của Tổ quốc” (Văn kiện Đại hội VIII, tr.211). Bằng kiến thức kết
hợp kinh tế với quốc phòng, hãy phân tich lam sáng tỏ vân đề trên?

* Tiềm năng, lợi thế vùng biển, ven biển Việt Nam

Trong xu hướng vận động, phát triển của nền kinh tế thế giới hiện nay, biển đang là một
mục tiêu của nhiều quốc gia hướng tới. Vấn đề chủ quyền biển đảo đang nổi lên như một tôn chỉ lớn
cho các quốc gia có biển. Việt Nam chúng ta có bờ biển dài hơn 3.260km, có trên 3.000 hòn đảo ven
bờ và hai quần đảo là Hoàng Sa và Trường Sa nằm giữa Biển Đông; có 12 quần đảo. Các vùng biển,
đảo nằm trên địa giới hành chính thuộc 28 tỉnh, 125 huyện ven biển, trong đó có 12 huyện đảo. Chỉ
tính riêng các hải đảo, quần đảo thì Việt Nam có hơn 1.656 km 2, trong đó có hơn 66 đảo thường xuyên
có dân làm ăn sinh sống, với hơn 155.000 người. Với 3/4 lãnh thổ (bao gồm cả lãnh hải) nước ta là biển.
Nên biển, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển nhanh và bền vững của nước ta; tỷ trọng
thu nhập quốc dân (GDP) từ nguồn lợi biển ngày càng lớn; chiến lược biển của các nước trong khu vực
đều liên quan và tạo sức ép lớn đối với nước ta. Do đó, kết hợp phát triển kinh tế biển với tăng cường
sức mạnh quốc phòng, an ninh trên biển cần được coi trọng trong hoạch định chiến lược phát triển quốc
gia, và là nhu cầu cấp bách trong giai đoạn chiến lược hiện nay. VKDH8...
Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: Phải “gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc
phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển”.
Thanh tựu
- Chúng ta cũng đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo thế đứng chân ổn định, vững chắc, sẵn
sàng đối phó với các tình huống phức tạp xẩy ra trên biển. Xây dựng hệ thống nhà ở, tường, kè chống xói
lở trên các đảo thuộc các quần đảo; đã đầu tư hàng chục tỷ đồng cho xây dựng các công trình bảo đảm đời
sống cho bộ đội và nhân dân huyện đảo Trường Sa. Đã xây dựng các lực lượng chuyên trách để từng bước
thực hiện quản lý Nhà nước trên các vùng biển thông qua việc xây dựng các lực lượng và phương tiện để
chỉ huy điều hành cứu hộ, cứu nạn trên biển như: hệ thống quan sát, trinh sát, cảnh giới từ xa, thông tin liên
lạc hàng hải; thành lập đội tàu tuần tra biên phòng, kiểm ngư, hải quan; tổ chức xây dựng và trang bị cho
lực lượng cảnh sát biển; xây dựng hệ thống đèn biển;
- Về đầu tư phát triển, chúng ta cũng đã đầu tư hỗ trợ phát triển nghề đánh cá xa bờ. Với hàng trăm
tỷ đồng của chương trình Biển Đông - Hải đảo và nguồn vốn phát triển của ngân hàng Châu Á (ADB), đã
đầu tư xây dựng hàng chục công trình cảng và khu dịch vụ hậu cần nghề cá trên các đảo và một số điểm
ven bờ, đóng mới nhiều tàu dịch vụ hậu cần nghề cá. Đã hỗ trợ nhiều tỷ đồng đầu tư cho các hoạt động
tuyên truyền về chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc trên biển đảo; đấu tranh quốc phòng - an ninh, ngoại
giao; nghiên cứu và điều tra cơ bản
- Trình độ khoa học về biển, những vấn đề quân sự, QP, AN trên biển, nhất là về sức chiến

đấu và khả năng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biển của các LLVT trên biển và ven bờ sẽ được nâng lên.
Các cơ sở kinh tế biển và ven biển trong quá trình phát triển sản xuất kinh doanh đã có sự xác định ý
thức trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo; việc gắn phát triển kinh tế với ý thức QP - AN.
Hạn chế
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế biển và ven biển vẫn còn nhiều vấn đề chưa thực sự
gắn chặt với lợi ích quốc phòng - an ninh quốc gia; quản lý phát triển kinh tế biển vẫn còn thiên về coi
trọng lợi ích kinh tế thậm chí còn có trường hợp lỏng lẻo trong quy trình quản lý người nước ngoài tham
gia các hoạt động kinh tế trên vùng biển Việt Nam như vụ Để người Trung quốc kinh doanh, nuôi cá, thu
mua hải sản quy mô lớn bên cạnh quân cảng Cam Ranh cả chục năm . Điều đó có thể làm ảnh hưởng tới
lợi ích quốc phòng - an ninh quốc gia và chủ quyền biển đảo.
Nội dung kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh vùng biển đảo
- Mục tiêu: Phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển (gắn phát triển kinh tế-xã
hội vùng biển, ven biển với QPAN vùng biển đảo).


23
- Phát triển mạnh kinh tế đảo, khai thác hải sản xa bờ gắn với tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và
giữ vững chủ quyền vùng biển quốc gia. Lồng ghép các chương trình để xây dựng các khu kinh tế quốc phòng ở vùng biên giới, hải đảo làm nòng cốt cho phát triển kinh tế biển, tạo thế và lực bảo vệ
vững chắc biển, đảo, đồng thời phải có các phương án đối phó với các tình huống có thể xẩy ra trên
vùng biển, đảo.
- Tập trung xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển gắn với xây dựng thế trận quốc
phòng - an ninh bảo vệ biển, đảo một cách cơ bản, lâu dài. Có kế hoạch và chính sách đầu tư xây
dựng các căn cứ hậu phương trên biển và bờ biển.
- Mở rộng liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài về khai thác dầu khí, đánh bắt thủy hải
sản, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đồng thời tạo thế đan xen lợi ích, tạo ra đối trọng để
hạn chế và chống lại sự lấn lướt của các nước lớn.
Giải pháp
Một là: Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của nước ta
đồng thời phải gắn chặt với lợi ích quốc phòng và an ninh quốc gia.
Phát triển kinh tế biển mà đặc biệt là các khu kinh tế phải gắn với CDCCKT của địa phương và

của vùng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn và bảo
đảm phát triển bền vững; phát triển kinh tế phải hướng tới hiện đại; đảm bảo sử dụng một cách hiệu quả
cả quỹ đất, mặt nước và không gian, phải hướng tới hình thành khu chức năng nòng cốt, chủ đạo và gắn
kết chặt chẽ với phát triển vùng. Phát triển các khu kinh tế theo từng giai đoạn, phù hợp với điều kiện cụ
thể và phù hợp với định hướng phát triển KT - XH của cả nước.
Phát triển các khu kinh tế phải chú ý tới yêu cầu bảo vệ môi trường và yêu cầu an ninh, quốc
phòng; tuyệt đối không chỉ vì lợi ích kinh tế mà làm phương hại đến lợi ích quốc phòng, phương hại
đến chủ quyền quốc gia trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Hai là, Các đơn vị kinh tế biển và ven biển nhất thiết phải xây dựng lực lượng an ninh gắn
với hệ thống an ninh quốc gia
Đây là vấn đề khó, liên quan đến lợi nhuận doanh nghiệp nhưng lại là vấn đề nhất thiết trong
điều kiện hiện nay; khi mà tình hình Biển Đông đang có nhiều diễn biến phức tạp.
Quá trình thiết lập, xây dựng và phát triển các khu kinh tế biển và ven biển cần có những
điều khoản quy định về nhiệm vụ quốc phòng – an ninh cho mỗi chủ thể sản xuất kinh doanh. Đối
với những đơn vị kinh tế đã và đang hoạt động cần có chính sách bổ sung những điều khoản liên
quan đến lợi ích cả về kinh tế và quốc phòng; khuyến khích những đơn vị kinh tế này tham gia đóng
góp cả về con người và tài chính; gắn quyền lợi kinh tế với trách nhiệm quốc phòng – an ninh đối
với các chủ thể sản xuất kinh doanh kinh tế biển và ven biển.
Ba là, Tăng cường các ngành kinh tế mang tính lưỡng dụng trong các khu kinh tế biển và ven biển
Trong bối cảnh hiện nay, khi các quốc gia đều hướng ra biển thậm chí có những quốc gia bất
chấp chủ quyền và luật pháp quốc tế; lợi dụng sức mạnh kinh tế, quân sự của mình gây nên những vấn
đề bất hợp pháp trên biển Đông. Chính vì thế, để đảm bảo phát triển kinh tế gắn với quốc phòng – an
ninh đòi hỏi cần có chính sách phù hợp nhằm tăng cường các ngành kinh tế mang tính lưỡng dụng trong
các khu kinh tế biển và ven biển, ứng phó với các tình huống bất trắc xẩy ra trên biển Đông.
Mỗi ngành kinh tế đều có những công nghệ và hoạt động riêng biệt mang tính đặc thù; kinh
tế biển và ven biển cũng vậy. Trong quá trình phát triển sản xuất kinh doanh, vận dụng những thành
tựu công nghệ hiện đại cần quan tâm đến mục tiêu chuyển hướng sang phục vụ thời chiến nếu xẩy
ra. Mỗi chủ thể sản xuất kinh doanh cần phải chuẩn bị con người, tổ chức thực hiện triệt để pháp
lệnh dân quân tự vệ; triển khai chương trình huấn luyện và giáo dục quốc phòng hàng năm chú trọng
chất lượng phòng thủ biển và an ninh tự vệ trên biển.

Làm được đồng bộ các giải pháp này sẽ góp phần gắn chặt phát triển kinh tế biển và ven biển
với vấn đề quốc phòng – an ninh trên biển. Giữ vững được chủ quyền quốc gia, bảo vệ lợi ích kinh
tế của mỗi doanh nghiệp và của đất nước trước tình hình hiện nay.


24
CÂU 2: Hãy phân tich nội dung kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường QP-AN
trong mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại . Ý nghia vân đề nghiên cứu ?

* Khái niệm kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường QP-AN.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh ở nước ta là: hoạt động tích cực, chủ động của Nhà
nước và nhân dân (dưới sự lãnh đạo của Đảng) trong việc gắn kết chặt chẽ hoạt động kinh tế, quốc
phòng, an ninh trong một chỉnh thể thống nhất trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương,
thúc đẩy nhau cùng phát triển, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh ở nước ta là một tất yếu, được được tiến hành

trên tất các các lĩnh vực của đời sống xã hội.....
* Phân tích.
- Thuận lợi và khó khăn của mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng-an ninh
Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là tổng thể các quan
hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác còn lại,
hoặc với các tổ chức kinh tế quốc tế khác, được thực hiện dưới nhiêu hình thức, hình thành và phát
triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế.
Toàn cầu hóa kinh tế là xu hướng khách quan hiện nay, lôi cuốn tất các các nước tham gia,
trong đó có Việt Nam. Đây là một quá trình vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp,
đặc biệt là đối với các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích của mình, chống lại những áp đặt phi lý
của các cường quốc kinh tế, các công ty xuyên quốc gia, vì một tật tự kinh tế quốc tế công bằng.
Với nước ta, mở rộng phát triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu trong quá trình đổi mới toàn

diện đất nước. Quá trình này cho phép Việt Nam tận dụng ngoại lực (vốn, khoa học công nghệ, mở
rộng thị trường, học cách quản lý của các nước tiên tiến…) phát huy nội lực để phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trong nước.
Tuy nhiên, quá trình mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại cũng là thời cơ để các thế lực thù
địch lợi dụng chống phá cách mạng nước ta. Chính vì vậy phải kết hợp tốt kinh tế với quốc phòng,
an ninh trong mở rộng kinh tế đối ngoại.
- Nội dung kết hợp
+ mở rộng hợp tác kinh tế với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm kinh tế quốc tế lớn,
các tổ kinh tế quốc tế và khu vực phải quán triệt và thực hiện tốt nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi,
tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc; giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình.
+ Kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh trong phát triển kinh tế đối ngoại phải
được thể hiện ngay từ khâu lựa chọn đối tác làm ăn. Phải lựa chọn được các đối tác có thiện chí làm
ăn với ta; có sức mạnh kinh tế, có ưu thế chế ngự với sự cạnh tranh, chống phá của các thế lực thù
địch đối với cách mạng nước ta.
+ Lựa chọn các lĩnh vực kêu gọi đầu tư và phân bổ đầu tư vào các ngành, lĩnh vực, địa bàn sao
cho vừa có lợi cho phát triển kinh tế, vừa bảo đảm quốc phòng, an ninh của quốc gia. Khắc phục tình
trạng chỉ thấy lợi ích kinh tế trước mắt mà không tính đến lợi ích lâu dài và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện tốt việc quản lý các khu chế xuất, các khu công nghiệp, các đặc khu kinh tế có liên doanh, liên
kết với nước ngoài, bảo vệ chủ quyền an ninh đất nước. Chú trọng xây dựng các tổ chức chính trị xã hội
như: tổ chức Công đoàn, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, lực lượng tự vệ…đồng thời phải chú trọng bồi
dưỡng ý thức tự tôn dân tộc, tinh thần cảnh giác đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia
cho cán bộ, nhân viên là người Việt Nam làm việc trong các cơ sở kinh tế của nước ngoài, hoặc các cơ
sở kinh tế có liên doanh liên kết với nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.


25
+ Lựa chọn một số ngành, lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh đầu tư ra nước ngoài, kết hợp phát
triển kinh tế với thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Phát huy vai trò của cán bộ, nhân viên các đại
sứ quán, lãnh sự quán của nước ta ở nước ngoài trong việc quảng bá sản phẩm hàng hoá, truyền thống,
văn hóa Việt Nam; đồng thời nắm vững đường lối đối ngoại, đường lối quân sự của nước ngoài cung cấp

tình hình giúp Đảng, Nhà nước hoạch định chính sách đối ngoại đúng đắn.

+ Kết hợp trong mở rộng hợp tác công nghiệp quốc phòng.
Đây là một trong vấn đề quan trọng không chỉ có ý nghĩa trong việc tận dụng nguồn ngoại
lực, mà còn góp phần khắc phục tình trạng phát triển khép kín của CNQP nước ta, phù hợp với xu
hướng phát triển của thế giới và khu vực.
Ngày nay, sự phát triển của KH - CN trong lĩnh vực quân sự đã đưa đến sự xuất hiện ngày càng
nhiều công nghệ mới làm cho vòng đời của các công nghệ ngày một ngắn đi. Do đó, thường xuyên đổi
mới VKTBKT bằng cách không ngừng nghiên cứu, ứng dụng những công nghệ mới trong sản xuất hàng
hóa quân sự là yêu cầu khách quan đối với CNQP của mọi quốc gia. Tuy nhiên, CNQP là ngành sản xuất
cần rất nhiều vốn, công nghệ và phương pháp quản lý hiện đại, đặc biệt là đối với sản xuất các loại vũ khí
công nghệ cao. Trong thế giới ngày nay, không một quốc gia nào có thể tự mình đảm nhiệm được tất cả
các yêu cầu về vốn, công nghệ trong nghiên cứu, chế tạo mọi loại VKTBKT. Do đó, trong CNQP, thực
hiện khép kín việc sản xuất trong phạm vi từng nước là điều không khả thi. Bên cạnh đó, do sự tác động
mạnh mẽ của xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, nên đối với sản xuất trong CNQP cũng không thể nằm ngoài
xu hướng đó. Cố nhiên, do tính đặc thù mà toàn cầu hóa trong CNQP thường diễn ra với tiến trình chậm
hơn, qui mô và phạm vi hẹp hơn. Đối với vũ khí bộ binh thông thường, các nước đang phát triển có thể sản
xuất khép kín trong nước, thì những loại VKTBKT hiện đại, vũ khí công nghệ cao đòi hỏi phải có sự liên
kết của nhiều đối tượng, phải huy động cả nền kinh tế quốc dân cũng như hợp tác quốc tế. Thông qua hợp
tác quốc tế, các nước có cơ hội để lựa chọn con đường, cách thức đi riêng trong phát triển CNQP của quốc
gia mình. Trên tinh thần ấy, chúng ta chủ trương tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế trong CNQP cũng
nhằm mục đích tận dụng thời cơ quốc tế, rút kinh nghiệm từ các nước đi trước để tìm ra con đường trong
phát triển, hiện đại hóa CNQP Việt Nam và coi đó là một trong những giải pháp quan trọng không thể
thiếu trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Hợp tác quốc tế trong CNQP là hoạt động đặc biệt trong hợp tác kinh tế quốc tế. Hoạt động
này vừa mang tính chất kinh tế, vừa mang tính chất quân sự trong quan hệ đối ngoại. Hợp tác quốc tế
trong CNQP cũng bao gồm các nội dung như: trao đổi thông tin KHKT - CNQS; hợp tác trong nghiên
cứu, sản xuất VKTBKT ; cung cấp vốn, dịch vụ, nguyên liệu cho sản xuất quốc phòng; đào tạo nguồn
nhân lực; mua bán công nghệ và các sản phẩm quân sự khác...với các hình thức hợp tác, liên doanh hai
bên, nhiều bên giữa xí nghiệp của các quốc gia, giữa xí nghiệp với chính phủ nước ngoài và giữa các

nước với nhau. Tuy nhiên, là lĩnh vực có liên quan đến QP - AN nên sự hợp tác, liên kết sẽ diễn ra với
phạm vi, mức độ hẹp hơn, khó khăn trở ngại nhiều hơn so với hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kinh tế
nói chung. Trên cơ sở đường lối, nguyên tắc trong quan hệ quốc tế của Đảng, vận dụng vào lĩnh vực
quan hệ quốc tế về CNQP, cần thực hiện một số biện pháp chủ yếu sau:
Một là, đổi mới và nâng cao hiệu quả hợp tác trong CNQP với các nước bạn bè truyền thống.
Trong lịch sử, chúng ta đã có quan hệ hợp tác về CNQP với các nước trong hệ thống XHCN
trước đây. Tuy nhiên, khi hoàn cảnh quốc tế, trong nước có nhiều thay đổi, chế độ chính trị ở một số
nước có sự biến động lớn, theo đó, các mối quan hệ hợp tác trong CNQP cũng khác nhiều so với thời
kỳ chiến tranh lạnh. Hiện nay, để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế với các nước bạn bè truyền thống,
một mặt, phải duy trì các mối quan hệ truyền thống sẵn có; mặt khác, cần đổi mới, nâng cao hiệu quả
hợp tác theo hướng hai bên cùng có lợi, phù hợp với xu hướng hợp tác quốc tế trong thời kỳ mới.
Quan niệm về các nước bạn bè truyền thống, trước hết bao gồm các nước XHCN ở Đông âu và Liên
Xô trước đây mà hiện nay đang có thái độ cũng như quan hệ tốt với Việt Nam và một số nước có quan
hệ truyền thống hữu nghị với nước ta. Trong số đó, đặc biệt ưu tiên hợp tác với Nga, Trung Quốc và
Lào. Đây đều là những nước có lợi ích chính trị lâu dài trong quan hệ hợp tác với Việt Nam. Trong ba


×