Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Công tác soạn thảo và ban hành văn bản tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.61 KB, 65 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành báo cáo này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn tận
tình của các cán bộ, nhân viên Văn phòng Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam trong
việc thực hiện các nghiệp vụ cũng như thu thập tài liệu để viết báo cáo, đặc biệt
là chị Nguyễn Thị Loan, Trưởng phòng Lưu trữ Viện, là người trực tiếp giám sát
và hướng dẫn công việc cho tôi trong thời gian thực tập. Đồng thời, tôi cũng
cám ơn sâu sắc các thầy cô khoa Quản trị Văn phòng đã tổ chức đợt thực tập tạo
cơ hội để tôi thực hành những kiến thức đã học vào thực tế và giúp tôi học hỏi
được những kinh nghiệm quý giá.
Trong quá trình thực tập và hoàn thiện báo cáo, tôi còn gặp nhiều thiếu sót
trong kỹ năng thực hiện công việc cũng như trong quá trình tổng hợp những
thông tin thu thập được. Kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Quý
thầy cô cũng như các cán bộ tại Viện để bài báo cáo được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước hiện nay, trên mọi lĩnh vực,
hầu hết các công việc từ chỉ đạo, điều hành, quyết định, thi hành đều gắn liền
với văn bản, cũng có nghĩa là gắn liền việc soạn thảo, ban hành và tổ chức sử
dụng văn bản. Do đó, vai trò của công tác soạn thảo và ban hành văn bản là rất
quan trọng Có thể thấy được nếu quan tâm làm tốt công tác này sẽ góp phần bảo
đảm cho các hoạt động của nền hành chính nhà nước được thông suốt. Nhờ đó
góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hành chính nhà nước và thúc đẩy nhanh
chóng công cuộc cải cách hành chính hiện nay. Trên thực tế công tác soạn thảo
và ban hành văn bản trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước hiện


nay nói chung đã đạt nhiều thành tích đáng kể, đáp ứng được yêu cầu cơ bản của
quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên hiện
nay vẫn còn nhiều văn bản quản lý nhà nước nói chung còn bộc lộ nhiều khiếm
khuyết như: văn bản có nội dung trái pháp luật, thiếu mạch lạc; văn bản ban
hành trái thẩm quyền; văn bản sai về thể thức và trình tự thủ tục ban hành; văn
bản không có tính khả thi, và những văn bản đó đã, đang và sẽ còn gây nhiều
ảnh hưởng không nhỏ đối với mọi mặt của đời sống xã hội, làm giảm uy tín và
hiệu quả tác động của các cơ quan hành chính nhà nước.
Trên cơ sở những kiến thức được trang bị cũng như những hiểu biết thông
qua khảo sát thực tế trong thời gian thực tập tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam,
em đã lựa chọn đề tài “Công tác soạn thảo và ban hành văn bản tại Viện Hàn
lâm KHXH Việt Nam”. Hy vọng đề tài sẽ cung cấp cho bạn đọc đặc biệt là các
bạn sinh viên chuyên ngành Quản trị Văn phòng những thông tin mới về một
trong những nhiệm vụ cơ bản của nhà quản trị văn phòng từ đó có thể ứng dụng vào
công việc sau này.
2. Lịch sử nghiên cứu
Soạn thảo và ban hành văn bản là vấn đề được quan tâm trong nhiểu
nghiên cứu với các khía cạnh khác nhau như về kỹ thuật trình bày, hiệu lực và
hiệu quả của văn bản trong quản lý. Trong nước, phải kể đến những công trình
3


đã được công bố như:
- Phương pháp soạn thảo văn bản hành chính của tác giả Lê Văn In,
Phạm Hưng. NXB Chính trị quốc gia, năm 1996;
- Hướng dẫn soạn thảo văn bản quản lý hành chính Nhà nước của tác giả
Lưu Kiếm Thanh. NXB Thống kê 1999 Xuất bản lần thứ 2, có sửa chữa và bổ
sung 2000;
- Soạn thảo và xử lý văn bản quản lý Nhà nước của tác giả Nguyễn Văn
Thâm, năm 1999;

- Soạn thảo, ban hành và quản lý văn bản quản lý Nhà nước của tác giả
Tạ Hữu Ánh. NXB Chính trị Quốc gia, năm 1999;
- Kỹ thuật xây dựng và ban hành văn bản của tác giả Lưu Kiếm Thanh,
năm 2002;
- Hướng dẫn kỹ thuật nghiệp vụ hành chính của nhóm tác giả Nguyễn
Văn Thâm, Lưu Kiếm Thanh, Nguyễn Xuân Lam, Bùi Văn Lự , năm2000;
-

Văn bản quản lý Nhà nước và kỹ năng soạn thảo văn bản của Đại học Luật Hà

-

Nội, năm 2002;
Lý luận và phương pháp công tác văn thư của Giáo sư Vương Đình Quyền,

-

năm 2005;
Soạn thảo ban hành văn bản và công tác văn thư của Triệu Văn Cường, Trần

-

Như Nghiêm, năm 2006;
Giáo trình Nghiệp vụ công tác văn thư của Trường Đại học Nội vụ Hà

-

Nội( 2009);
Những điều cần biết về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính của


-

Nguyễn Quang Thi, năm 2011;
Soạn thảo văn bản hành chính của TS Ngô Sỹ Trung, năm 2015…
Những công trình nêu trên đã đề cập một cách có hệ thống và đầy đủ
những vấn đề chủ yếu liên quan đến việc soạn thảo, ban hành và quản lý văn bản
nhà nước như: Thẩm quyền ban hành, vai trò, chức năng của văn bản, trách
nhiệm, nhiệm vụ quản lý văn bản trong hoạt động quản lý, quy trình soạn thảo...
Đây là những công trình được sử dụng làm cơ sở lý luận cho báo cáo.
Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu ở cấp độ Luận án Tiến sĩ
như:
4


-

Hiệu lực và hiệu quả quản lý văn bản hành chính của Nguyễn Thế Quyền, năm

-

2004;
Luận văn Thạc sĩ” Xây dựng và ban hành văn bản hành chính của Bộ Nội vụ

-

trong điều kiện cải cách hành chính”, năm 2006;
Xây dựng và ban hành văn bản hành chính của Bộ Nội vụ trong điều kiện cải
cách hành chính. Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thanh Bình, Học viện Hành

-


chính quốc gia, năm 2006;
Khảo sát, đánh giá việc thực hiện các quy định của Nhà nước, của Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam về quản lý hành chính và quản lý hành chính trong công
tác văn thư và lưu trữ ở Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Nhiệm vụ cấp Bộ do

-

GS.TS Võ Khánh Vinh làm chủ nhiệm, năm 2007;
Hoàn thiện quy trình ban hành và thực hiện văn bản quy phạm pháp luật của
chính quyền địa phương cấp tỉnh. Luận án tiến sỹ của Hà Quang Thanh, Học

-

viện Hành chính quốc gia, năm 2006;
Hoàn thiện công tác soạn thảo và ban hành văn bản hành chính ở Bộ Lao động
– Thương binh và xã hội đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính hiện nay. Luận

-

văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Hường, Học viện Hành chính, năm 2010;
Đánh giá công tác ban hành và quản lý văn bản của Viện Khoa học xã hội Việt
Nam. Luận văn thạc sỹ Quản lý hành chính công của Đỗ Hữu Phương, Học viện

-

Hành chính, năm 2011.
Khóa luận tốt nghiệp gồm có các đề tài như:
” Công tác soạn thảo và ban hành văn bản hành chính thông thường của Bộ


-

Nội vụ” của Phạm Ngọc Huyền, Học viện hành chính( 2011);
“ Công tác soạn thảo và ban hành văn bản hành chính tại Cục Công nghiệp địa
phương- Bộ Công thương” Của Phạm Thị Loan, Đại học Nội vụ Hà Nội( 2016)

Một số bài viết liên quan đến công tác soạn thảo và ban hành văn bản trên
các Tạp chí như: “ Đổi mới và nâng cao chất lượng văn thư- một yêu cầu cấp
bách trong cải cách hành chính ở nước ta”, tác giả Nguyễn Quốc Thắng, Tạp
chí Văn thư lưu trữ Việt Nam số 6( 6/2008); Bài viết của Tác giả Nguyễn Trọng
Biên “ Một số vấn đề về sử dụng con dấu trong các cơ quan, tổ chức ở nước ta
hiện nay”, Tạp chí Văn thư lưu trữ số 11( 11/2008)…
Ở phạm vi ngoài nước, cũng có một số nghiên cứu liên quan đến đề tài
này như Quản trị hành chính Văn phòng của tác giả Mike Harvey( 1996) Cuốn
5


sách này chủ yếu trình bày vai trò của các nghiệp vụ Văn phòng trong đó có
soạn thảo và ban hành văn bản với những nguyên tắc lý thuyết và thực hành;
Cuốn sách Ngữ pháp văn bản của tác giả O.T. Moskalkaja (1996) nghiên cứu
văn bản dưới góc độ ngữ pháp, những nguyên tắc không thể thiếu trong xây
dựng văn bản, các yếu tố cấu thành ngữ pháp..
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về công tác soạn thảo và ban hành
văn bản khá tổng quan và đa dạng, đề cập đến các nội dung của công tác này từ
tầm quan trọng đến các yếu tố thể thức và kỹ thuật trình bày, quy trình, thủ tục
ban hành văn bản, phân công trách nhiệm soạn thảo…. ở những phạm vi và mức
độ khác nhau. Đây chính là nguồn tài liệu quan trọng trong quá trình làm bài
khóa luận này.
Như vậy đã có bài viết nghiên cứu về công tác soạn thảo và ban hành văn
bản tại Viện Hàn lâm của ThS Đỗ Hữu Phương năm 2011( lúc đó Viện có tên

gọi là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam). Bài báo cáo là sự tiếp thu và kế thừa
các nghiên cứu trước và tìm hiểu thực trạng công tác này tại Viện Hàn lâm
KHXH dựa trên kiến thức đã học và những gì khảo sát được trong thời gian thực
tập.
3. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu chung của đề tài: Đề tài đi sâu tìm hiểu và làm rõ thực trạng,
những mặt đã làm được,những hạn chế và nguyên nhân từ đó đề xuất các giải
pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác soạn thảo và ban hành
văn bản tại Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Khảo sát về thẩm quyền ban hành văn bản, nội dung, thể thức, kỹ thuật
trình bày, ngôn ngữ và quy trình soạn thảo, ban hành văn bản của Viện
+ Đánh giá ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân chủ quan, khách quan của
những hạn chế để đề xuất các giải pháp mang tính áp dụng.
3.2. Nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung vào 3 nội dung chính:
- Đưa ra cơ sở khoa học của việc nghiên cứu công tác soạn thảo và ban
6


hành văn bản tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng công tác soạn thảo và ban hành văn bản của Viện
Hàn Lâm KHXH Việt Nam
- Xây dựng các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng công tác soạn thảo
và ban hành văn bản của Viện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu chung của khoa học như: Thống kê phân tích, so sánh và tổng hợp...
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: sử dụng để nghiên cứu hệ thống lý

luận và thực tiễn trước đó về công tác tham mưu tổng hợp của các cơ quan hành
chính nhà nước nói chung, Viện hàn lâm KHXH Việt Nam nói riêng.
- Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp số liệu: thu thập các thông tin
và chọn lọc những thông tin cần thiết.
- Phương pháp phỏng vấn: Thu thập thông tin trực tiếp từ các cán bộ trong
Văn phòng về thực tế công tác soạn thảo và ban hành văn bản tại cơ quan nhằm
bổ sung và làm rõ thông tin, dữ liệu đã thu thập được.
5. Đối tượng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu
- Về đối tượng nghiên cứu: Công tác soạn thảo và ban hành văn bản của
Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
- Về phạm vi và giới hạn nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu thực
trạng công tác soạn thảo văn bản tại Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam
6. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài cung cấp luận cứ khoa học để xây dựng các đề án tăng cường chất
lượng, hiệu quả công tác soạn thảo và ban hành văn bản tại Viện Hàn lâm
KHXH Việt Nam. Đồng thời, đưa ra được một số giải pháp có tính khả thi, áp
dụng cho cả Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam và các cơ quan khác.
- Sản phẩm đề tài là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho cho các nghiên
cứu sau đó cùng chuyên đề.
- Góp phần cải tiến lề lối làm việc của đội ngũ công, viên chức, nâng cao
vai trò lãnh đạo của cán bộ cơ quan.
7. Giả thuyết nghiên cứu
7


Công tác soạn thảo và ban hành văn bản tại Viện Hàn lâm vẫn còn tồn tại
những hạn chế về thể thức văn bản, thủ tục, trình tự ban hành,.. làm giảm hiệu
quả của các quyết định quản lý và tính hợp lý hợp pháp của văn bản. Việc nâng
cao chất lựong của công tác này sẽ góp phần không nhỏ vào hoạt động chung
của cơ quan.

8. Kết cấu của đề tài
Ngoài danh mục từ viết tắt, tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài được chia
làm 3 Chương:
Chương 1: Lý luận chung về công tác soạn thảo văn bản
Chương này trình bày cơ sở lý luận chung nhất về công tác soạn thảo và
ban hành văn bản, các khái niệm, tầm quan trọng, yêu cầu và quy trình soạn thảo
văn bản nói chung để làm nền tảng cho việc khảo sát thực trạng công tác này ở
chương sau.
Chương 2: Thực trạng công tác soạn thảo và ban hành văn bản tại Viện Hàn
lâm KHXH Việt Nam.
Trên cơ sở những lý thuyết được trình bày ở chương 1, chương 2 tập trung làm
rõ thực trạng của công tác soạn thảo, ban hành văn bản của Viện trên nhiều phương
diện với những số liệu thống kê cụ thể.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng công tác soạn thảo và ban
hành văn bản tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
Sau khi phân tích thực trạng ở chương 2, trên cơ sở đó nhận xét ưu nhược
điểm và đưa ra các giải pháp thiết thực để nâng cao hiệu quả công tác soạn thảo,
ban hành văn bản của Viện.

8


Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC
SOẠN THẢO VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN
1.1.Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm văn bản
Qua nghiên cứu, tìm hiểu về khái niệm văn bản, thuật ngữ “văn bản” xuất
hiện ở nước ta vào những năm đầu của thập kỷ 80 và chính thức được dùng
trong các văn bản của Chính phủ. Tại Thông tư số 02/BT ngày 11/01/1982 của
Bộ trưởng - Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng hướng dẫn việc xây dựng và ban

hành văn bản có viết: “cơ quan ban hành văn bản phải theo đúng thẩm quyền
của mình, các văn bản của cơ quan nhà nước ở các cấp ban hành đều phải căn
cứ vào Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và các văn bản của cấp trên; hình thức văn
bản ban hành phải theo đúng quy định của pháp luật; từ ngữ, cách viết cũng
phải theo đúng từ ngữ, cách viết văn bản Nhà nước”. Điều 146 của Hiến pháp
1992 ghi rõ: “Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ
bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác
phải phù hợp với Hiến pháp”. Như vậy, thuật ngữ “văn bản” đã được dùng trong
các văn bản chính thống của Nhà nước từ những năm 80 của thế kỷ XIX.
Văn bản nói chung là một loại phương tiện ghi tin và truyền đạt thông tin
bằng ngôn ngữ. Văn bản được hình thành trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội. Tùy theo lĩnh vực cụ thể mà văn bản có nội dung khác nhau và được thể
hiện bằng các hình thức khác nhau. Thường đó là tập hợp của các câu có tính
trọn vẹn về nội dung và hoàn chỉnh về thể thức, có tính liên kết chặt chẽ và
hướng tới một mục đích nhất định.
Trong cuốn “ Kỹ thuật và ngôn ngữ soạn thảo văn bản quản lý Nhà nước”
của Tác giả Bùi Khắc Việt do Nhà xuất bản khoa học xã hội ấn hành năm 1997
có trình bày khái niệm về văn bản như sau: ” Văn bản là sản phẩm của lời nói,
thể hiện bằng hình thức viết. Tuy nhiên văn bản không phải đơn thuần là tổng số
từ ngữ, những lời nói trên giấy mà là kết quả tổ chức có ý thức của quá trình của
quá trình, nhằm thực hiện một mục tiêu nào đó”. [42;10]
Dưới góc độ ngôn ngữ học, Lê A và Đinh Thanh Huệ đã định nghĩa văn
bản như sau: “Văn bản là sản phẩm lời nói ở dạng chữ viết của hoạt động giao
9


tiếp mang tính hoàn chỉnh về hình thức, trọn vẹn về nội dung nhằm đạt tới một
hoặc một số giao tiếp nào đó” [33,139].
Trong cuốn Tiếng Việt thực hành của nhóm tác giả Nguyễn Quang Ninh
và Hồng Dân đề cập” Văn bản là một thể hoàn chỉnh về hình thức, trọn vẹn về

nội dung, thống nhất về cấu trúc, độc lập về giao tiếp, dạng tồn tại điển hình
của văn bản là ở dạng viết “.[26;15]
Xem xét dưới góc độ hành chính học, trong sách Lý luận và phương pháp
công tác văn thư, tác giả Vương Đình Quyền nhận định” Văn bản là khái niệm
dùng để chỉ công văn giấy tờ hình thành trong hoạt động của cơ quan tổ chức”
[34;57], còn dưới góc độ văn bản học thì ” Văn bản được hiểu là vật mang tin
được ghi bằng kí hiệu ngôn ngữ nhất định” [34;56].
Như vậy, theo nghĩa chung nhất thì văn bản là một loại phương tiện ghi
tin và truyền đạt thông tin. Thông tin trong văn bản là thông tin về các sự vật,
hiện tượng, sự kiện sản sinh trong quá trình tự nhiên và xã hội.
1.1.2. Khái niệm văn bản quản lý nhà nước
Theo nghĩa chung nhất Văn bản quản lý Nhà nước là những văn bản dó
các cơ quan Nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành theo một trình tự,
thủ tục, hình thức luật định, mang tính quyền lực và làm phát sinh các trách
nhiệm pháp lý trong quá trình thực hiện.
Trong sách” Soạn thảo và xử lý văn bản quản lý Nhà nước” của Tác giả
Nguyễn Văn Thâm đã đưa ra khái niệm” Văn bản quản lý Nhà nước là văn bản
thể hiện ý chí, mệnh lệnh của cơ quan Nhà nước đối với cấp dưới. Đó là hình
thức để cụ thể hóa pháp luật, là phương tiện để điều chỉnh những quan hệ xã
hội thuộc phạm vi quản lý của Nhà nước. Văn bản quản lý Nhà nước do cơ quan
Nhà nước ban hành và sửa đổi theo Luật định” [38;26]
Tác giả Vương Đình Quyền đề cập đến khái niệm Văn bản quản lý Nhà
nước trong cuốn Lý luận và phương pháp công tác văn thư như sau” Văn bản
quản lý Nhà nước là văn bản mà các cơ quan Nhà nước dùng để ghi chép,
truyền đạt các quyết định quản lý và các thông tin cần thiết cho hoạt động quản
lý theo đúng thể thức, thủ tục và thẩm quyền luật định”. [34;58]
Như vậy, có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về khái niệm này. Trong
10



phạm vi báo cáo, Văn bản quản lý Nhà nước được hiểu theo nghĩa chung nhất
như đã trình bày ở trên.
1.1.3. Khái niệm văn bản hành chính
Trong cuốn Phương pháp soạn thảo và ban hành văn bản hành chính, tác
giả Nguyễn Minh Phương nhận định: “Văn bản hành chính là những loại văn
bản do cơ quan, tổ chức ban hành để trao đổi, giải quyết, đề nghị, phản ánh một
vấn đề, một công việc nào đó theo quy định của pháp luật”. [32;7]
Tác giả Ngô Sỹ Trung khái quát khái niệm này trong cuốn Soạn thảo vản
bản hành chính( 2015) như sau: “ Văn bản hành chính là các thông tin quản lý
thành văn được hình thành trong hoạt động quản lý, điều hành của các tổ chức
tham gia quản lý xã hội”. [41;6]
Như vậy có thể hiểu Văn bản hành chính là văn bản mang tính thông tin
dùng để ghi chép, truyền đạt quyết định quản lý và các thông tin cần thiết khác
cho hoạt động quản lý theo đúng thẩm quyền, thể thức và thủ tục luật định.
Nói cách khác, văn bản hành chính là phương tiên quan trọng để đảm bảo
thông tin trong quản lý và nó phản ánh kết quả của hoạt động quản lý, đồng thời
nó truyền đạt ý chí, mệnh lệnh của cấp trên đối với cấp dưới thuộc phạm vi quản
lý. Văn bản hành chính là thông tin giao dịch chính thức giữa các cơ quan tổ

-

chức với nhau hoặc giữa cơ quan tổ chức với công dân.
Văn bản hành chính gồm có 2 loại:
Văn bản hành chính cá biệt: Là phương tiện thể hiện quyết định quản lý do cơ
quan có thẩm quyền ban hành nhằm quyết định các vấn đề cụ thể của cơ quan.
Các văn bản hành chính cá biệt thường gặp là: Quyết định bổ nhiệm, quyết định

-

nâng bậc lương…

Văn bản hành chính thông thường là những văn bản có nội dung chứa đựng các
thông tin mang tính chất điều hành hành chính trong các cơ quan Nhà nước như
văn bản hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, báo cáo tình hình, trao đổi công việc,
theo dõi tình hình thực hiện công việc.
Văn bản hành chính thông thường gồm 2 loại chính:
+ Văn bản có tên loại: Quyết định, quy chế, thông báo, quy định, nội quy,
hướng dẫn, đề án, báo cáo, chương trình, kế hoạch, biên bản, tờ trình, hợp đồng,
các loại giấy( giấy giới thiêu, giấy đi đường, giấy nghỉ phép, giấy ủy quyền)…,
11


các loại phiếu( phiếu khảo sát, phiếu gửi, phiếu trình)
+ Văn bản không có tên loại: Công văn
1.2.Các chức năng của Văn bản
1.2.1. Chức năng pháp lý
Văn bản là phương tiện ghi chép và truyền đạt các văn bản quy phạm
pháp luật và để điều tiết các mối quan hệ xã hội bằng hệ thống luật pháp đã được
văn bản hóa, tạo điều kiện phổ biến rộng rãi, đầy đủ, chính xác việc thực thi
pháp luật một cách đúng đắn, nghiêm minh và thống nhất.
Các thông tin về pháp luật, các quy định của Nhà nước, mối quan hệ và
trách nhiệm pháp lý của các cơ quan đều được thể hiện bằng văn bản. Do vậy
văn bản là công cụ được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội, đồng thời
cũng là tiếng nói chính thức của cơ quan đó, được thể hiện bằng dấu của cơ quan
và chữ ký của người có thẩm quyền. Đó là những bằng chứng đảm bảo cho văn
bản ban hành có giá trị pháp lý, tức là có hiệu lực thi hành và trong một số
trường hợp có thể dùng làm căn cứ để giải quyết mâu thuẫn, truy cứu trách
nhiệm.
1.2.2. Chức năng thông tin
Chức năng thông tin là chức năng bao quát nhất của văn bản, vì trong quá
trình quản lý, điều hành và các hoạt động khác của cơ quan, tổ chức thì văn bản


-

là phương tiện truyền tải thông tin quan trọng nhất và phổ biến nhất.
Các thông tin văn bản cung cấp có thể là:
Thông tin về đường lối của Đảng, các chính sách, pháp luật của Nhà nước liên

-

quan đến mục tiêu, chức năng nhiệm vụ của cơ quan
Các thông tin quản lý trong nội bộ tổ chức
Các quyết định quản lý giữa các cơ quan với nhau, hoặc giữa các bộ phận trong

-

cơ quan
Thông tin về các mặt hoạt động của cơ quan
1.2.3. Chức năng quản lý
Văn bản là phương tiện hữu hiệu trong việc truyền đạt các quyết định
quản lý cho cấp dưới một cách thuận lợi và chính xác.
Trong công tác quản lý, văn bản được sử dụng vào nhiều mục đích quan
trọng như: Truyền đạt các quyết định quản lý, hướng dẫn, đôn đốc thực hiện
công việc; báo cáo tình hình lên cấp trên, liên hệ, trao đổi công việc với các cơ
12


quan khác. Trong đó khâu quan trọng nhất là truyền đạt các quyết định quản lý
như triển khai các nội dung của chủ trương, chính sách, kế hoạch… Các thông
tin trong văn bản sẽ làm cơ sở để tổ chức quản lý các hoạt động của cơ quan,
tiến hành kiểm tra đôn đốc cũng như đánh giá hiệu quả công việc đồng thời là cơ

sở pháp lý để đề ra các quy định đảm bảo tính hiệu quả và tính luật.
1.3.Những yêu cầu đối với công tác soạn thảo và ban hành văn bản
1.3.1. Yêu cầu về thẩm quyền
Mỗi cơ quan tổ chức tham gia quản lý xã hội, trong quá trình tồn tài và
phát triển đều phải thực hiện hoạt động hành chính trong nội bộ và với cơ quan
tổ chức khác, và các thông tin đó phải được văn bản hóa.
Văn bản ban hành phải đảm bảo đúng thẩm quyền về nội dung và thẩm
quyền về hình thức
Thẩm quyền về nội dung: Văn bản phải đảm bảo phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ, quyền hàn của cơ quan ban hành theo đúng với văn bản quy định;
không có sự chồng chéo, mâu thuẫn chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan
Thẩm quyền về hình thức: Văn bản được ban hành đúng thể loại văn bản
được quy định với từng loại cơ quan, cá nhân.
1.3.2. Về hiệu lực văn bản
Văn bản dùng để điều chỉnh hành vi và các mối quan hệ xã hội vì thế sẽ
căn cứ vào đó để xác định hiệu lực thi hành. Có văn bản chỉ áp dụng một lần, có
phạm vi điều chỉnh hẹp và ít đối tượng thi hành cũng có văn bản có hiệu lực
thường xuyên, phạm vi điều chỉnh rộng và nhiều đối tượng thi hành.

13


1.3.3. Yêu cầu về nội dung
Nội dung văn bản là thành phần quan trọng nhất của văn bản. Mỗi loại
hình văn bản có nội dung khác nhau song đều phải đảm bảo các yêu cầu cũng
như mục đích ban hành, phải đảm bảo phù hợp với chủ trương, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là đối với văn bản QPPL ban
hành phải đúng thẩm quyền, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất
của hệ thống văn bản QPPL, đảm bảo tính thực tiễn, tính lịch sử... của văn bản.
- Nội dung văn bản ban hành phải có tính mục đích, tức là phải trả lời

được câu hỏi: văn bản này ban hành để làm gì? giải quyết công việc gì? phạm vi
giải quyết đến đâu? hiệu quả thực hiện sẽ ra sao? Mục đích của nội dung văn
bản thể hiện ở tính thiết thực, đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra, phù hợp với
pháp luật hiện hành, không trái với văn bản của cấp trên, có tính khả thi và góp
phần hoàn thiện, nâng cao chất lượng của hệ thống văn bản pháp luật. Đây là
yêu cầu đòi hỏi tất yếu mà mọi văn bản khi soạn thảo cần thực thi. Vì thực tiễn
là cơ sở của chân lý, là tiêu chuẩn của pháp luật, văn bản ban hành phù hợp với
thực tiễn sẽ khẳng định tính đúng đắn của văn bản đó.
- Nội dung văn bản phải phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ chính
trị của cơ quan, tổ chức, phải đảm bảo chính xác tuyệt đối về mặt pháp lý, phải
đúng thẩm quyền và đảm bảo tính thống nhất, tính chính xác, không làm thiệt
hại đến lợi ích hợp pháp của công dân.
Để đáp ứng được yêu cầu này đòi hỏi người tham gia vào công tác soạn
thảo văn bản không những phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước còn phải có tâm đức trong công việc mới có thể thể chế hoá
đầy đủ, chính xác và khách quan vào văn bản trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
- Nội dung văn bản ban hành phải đảm bảo tính khoa học: tính khoa học
của văn bản thể hiện ở chỗ: văn bản có đầy đủ thông tin pháp lý và thông tin từ
thực tiễn, các thông tin này phải được xử lý và đảm bảo tính chính xác, logic về
nội dung, nhất quán về chủ đề tránh tình trạng trùng lặp, chồng chéo trong các
14


quy định, tản mạn, vụn vặt về pháp luật. Tính khoa học của văn bản còn thể hiện
ở việc sử dụng ngôn ngữ đại chúng để mọi tầng lớp nhân dân đều hiểu được.
Tính khoa học còn thể hiện thông qua việc lựa chọn hình thức văn bản phải phù
hợp với từng công việc cụ thể để người soạn thảo trình bày nội dung văn bản
cần truyền đạt thuận lợi nhất, tuân thủ pháp luật và các quy định hiện hành đơn

giản, đảm bảo thẩm mỹ mà không vi phạm nguyên tắc.
- Nội dung văn bản phải đảm bảo tính phổ thông đại chúng: văn bản khi
soạn thảo và ban hành phải đáp ứng với trình độ dân trí, dễ hiểu, dễ nhớ song
không làm ảnh hưởng đến tính nghiêm túc chặt chẽ và khoa học của văn bản. Vì
sự quản lý của cơ quan, tổ chức nhất là sự quản lý của cơ quan quản lý nhà nước
luôn gắn chặt với đời sống xã hội, liên quan trực tiếp tới nhân dân, chính nhân
dân là đối tượng thực thi. Tính phổ thông đại chúng giúp cho quần chúng nhân
dễ dàng, nhanh chóng nắm bắt chính xác ý đồ của cơ quan ban hành văn bản để
từ đó có hành vi đúng đắn thực hiện.. Tính dân chủ của văn bản chỉ thực sự có
được khi: văn bản phản ánh được nguyện vọng của nhân dân, vừa có tính thuyết
phục, vừa có tính động viên nhân dân, tạo được không khí lành mạnh trong việc
tuân thủ pháp luật và xây dựng đạo đức xã hội trong nhân dân. Các quy định cụ
thể trong văn bản không trái với các quy định trong Hiến pháp về quyền lợi,
nghĩa vụ của công dân.
- Văn bản phải có tính khả thi: tính khả thi là một yêu cầu đối với mọi
loại hình văn bản, đồng thời đó cũng là hiệu quả của sự kết hợp đúng đắn và hợp
lý các yêu cầu đã nêu trên.
Ngoài ra, để các nội dung của văn bản được thi hành đầy đủ, nhanh chóng
và hiệu quả, văn bản còn phải hội tụ các điều kiện sau:
+ Nội dung văn bản đưa ra những yêu cầu về trách nhiệm thi hành hợp lý,
nghĩa là phù hợp với trình độ năng lực, khả năng vật chất của chủ thể thi hành.
Đây cùng là yêu cầu về kinh tế vì nếu nội dung văn bản ban hành phù hợp với sự
phát triển của kinh tế xã hội thì sẽ thúc đẩy xã hội phát triển. Ngược lại nếu văn
bản đưa ra các quy định, mệnh lệnh vượt quá khả năng kinh tế thì không có cơ
sở, điều kiện vật chất để thực thi, sẽ làm tổn hại đến uy tín của Nhà nước và tạo
điều kiện phát sinh tiêu cực. Nếu văn bản chứa đựng các quy phạm hay mệnh
15


lệnh quá lạc hậu sẽ không kích thích sự năng động, sáng tạo của các chủ thể và

làm lãng phí thời gian và tài sản của Đất nước.
+ Nội dung văn bản phải phản ánh được các quy luật kinh tế nhằm đưa
các quy định, mệnh lệnh hướng nền kinh tế cũng như toàn bộ xã hội vận động
theo đúng các quy luật khách quan.
Với các yêu cầu trên ta thấy, khi quy định các quyền cho chủ thể phải kèm
theo các điều kiện bảo đảm để thực hiện các quyền đó; đồng thời phải nắm vững
điều kiện, khả năng mọi mặt của đối tượng thực hiện văn bản nhằm xác lập trách
nhiệm của họ trong các văn bản cụ thể.
1.3.4. Thể thức và kỹ thuật trình bày
Kỹ thuật trình bày văn bản gồm khổ giấy, kiểu trình bày, định lề văn bản,
vị trí các thành phần thể thức, phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ được thực hiện theo
các quy định sau:
- Nghị định số 110/2004/NĐ- CP ngày 08/04/2004 của Chính phủ về công
tác văn thư;
-

Nghị định số 09/2010/NĐ-CP
- Thông tư số 01/2011/TT-BNV ngày 19 tháng 01 năm 2011 của Bộ Nội
vụ hướng dẫn thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính
Về thể thức bao gồm các thành phần bắt buộc sau:
+ Quốc hiệu
+ Tên cơ quan, tổ chức ban hành văn bản
+ Số, ký hiệu văn bản
+ Địa danh, ngày tháng năm ban hành văn bản
+ Tên loại và trích yếu nội dung văn bản
+ Nội dung văn bản
+ Chức vụ, họ tên và chữ ký của người có thẩm quyền
+ Dấu của cơ quan tổ chức
+ Nơi nhận
Bên cạnh các thành phần thể thức bắt buộc trên, có thể có các thành phần

khác tùy thuộc mục đích và nội dung của văn bản như:
+ Dấu chỉ mức độ khẩn
+ Dấu chỉ mức độ mật
16


+ Dấu chỉ dẫn về phạm vi lưu hành, đối tượng phổ biến
+ Địa chỉ cơ quan; Địa chỉ thư điện tử, số điện thoại, số Fax, địa chi trang
thông tin điện tử
+ Ký hiệu người đánh máy và số lượng văn bản phát hành
+ Chỉ dẫn phụ lục kèm theo
+ Đánh số trang
Các yếu tố này sẽ được làm rõ trong phần thực trạng công tác soạn thảo
và ban hành văn bản ở chương II.
1.3.5. Quy trình soạn thảo và ban hành văn bản
Trong sách Lý luận và phương pháp công tác văn thư, GS Vương Đình
Quyền đề cập” Quy trình soạn thảo văn bản là trình tự các công việc cần thực
hiện trong quá trình soạn thảo văn bản. Quy trình soạn thảo văn bản cho phép
định hướng từ đầu một cách hợp lý nhất đối với từng cơ quan, từng đơn vị, từng
loại văn bản được soạn thảo”. [34;192]
Tác giả Nguyễn Văn Thông đưa ra quy trình này trong cuốn Soạn thảo và
xử lý văn bản quản lý nhà nước gồm 05 bước sau:
+ Xác định mục đích và nội dung các vấn đề cần văn bản hóa từ đó xác
định tên loại văn bản
+ Xây dựng bản thảo
+ Thông qua lãnh đạo
+Xử lý kỹ thuật về mặt hành chính
+ Ký và ban hành văn bản
Theo quy định của Pháp luật tại Nghị định 110/2004/NĐ – CP ngày
08/04/2004 của Chính phủ về công tác văn thư về công tác văn thư có điều

khoản nói về trình tự của việc xây dựng và ban hành văn bản nói chung gồm
Bước 1: Chuẩn bị soạn thảo
Giai đoạn này gồm các công việc sau:
-

Xác định mục đích và định hướng khi xây dựng văn bản
+ Xác định mục đich ban hành văn bản: Liên quan đến các mục đích như
để thông tin, để trao đổi công việc, để giao dịch hoặc báo cáo tình hình hay đặt

-

ra các quy tắc xử sự đối với đối tượng cụ thể…
Xác định thẩm quyền ban hành và tính pháp lý củavăn bản: Văn bản có thuộc
17


phạm vị chức năng quyền hạn của cơ quan không? Là văn bản có tính pháp lý
hay văn bản thông thường, quan hệ giữa cơ quan ban hành với các cơ quan
-

khác? Nội dung có đúng với các văn bản đã ban hành trước đó không?
Xác định hình thức, nội dung, mức độ khẩn mật của văn bản:
Khi xác định rõ mục đích soạn thảo, người soạn thảo sẽ dễ dàng xác định
được hình thức văn bản, từ đó xác định bố cục nội dung của văn bản và xem xét
tính chất của vấn đề soạn thảo để đề xuất với lãnh đạo quyết định mức độ khẩn

-

mật của văn bản.
Thu thập và xử lý thông tin: Để văn bản ban hành được chính xác, thuyết phục,

người soạn thảo phải thu thập các thông tin liên quan đến vấn đề được nói đến
trong văn bản. Nguồn của thông tin thu thập thường là:
+ Các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản chỉ đạo của cấp trên
+ Văn bản nội bộ cơ quan
+ Văn bản của cơ quan tổ chức liên quan bên ngoài cơ quan
Sau khi thu thập, thông tin này phải được xử lý, sắp xếp để phục vụ tốt
nhất cho mục đích ban hành văn bản, tránh trùng thừa, chồng chéo hoặc có nội

-

dung không sát với vấn đề được đề cập trong văn bản.
Bước 2: Soạn thảo văn bản
Lập đề cương: Đề cương là bản trình bày những điểm chính, cốt lõi dự kiến thể
hiện trong nội dung văn bản. Xây dựng đề cương giúp người soạn thảo chủ động

-

hơn, bố cục văn bản chặt chẽ hơn, tránh bỏ sót các ý quan trọng,
Viết bản thảo: Người soạn thảo dùng lời văn, câu chữ cụ thể hóa các điểm chính
đã được xác định trong đề cương. Bám sát để cương để chia bố cục hợp lý, linh
hoạt trong sử dụng câu từ, liên kết các đoạn, câu để văn bản thành một thể thống

-

nhất.
Kiểm tra văn bản. Sau khi viết bản thảo, kiểm tra bản thảo về nội dung đã phù
hợp với mục đích ban hành, thẩm quyền, vấn đề trọng tâm được trình bày nổi
bật. Về hình thữ, kiểm tra các thành phần thể thức đã trình này đúng với quy

-


định chưa? Ngôn ngữ sử dụng hợp lý, xúc tích chưa?
Lấy ý kiến cho dự thảo: Người soạn thảo gửi bản thảo đến các đơn vị bộ phận
liên quan để lấy ý kiến góp ý. Sau đó, người soạn thảo tổng hợp, nghiên cứu,
tiếp thu ý kiến và hoàn thiện dự thảo văn bản.
Bước 3: Duyệt và trình ký văn bản
Sau khi hoàn thiện dự thảo, người soạn thảo có trách nhiệm trình người
phân công soạn thảo để duyệt dự thảo. Thủ trưởng đơn vị hoặc cá nhân chủ trì
18


soạn thảo văn bản phải kiểm tra và chịu trách nhiệm về nội dung văn bản trước
lãnh đạo cơ quan và trước pháp luật.
Bộ phận hành chính( Văn phòng) có trách nhiệm kiểm tra mọi thông tin,
kỹ thuật trỉnh bày, thể thức và và có nhiệm vụ hoàn thiện thủ tục ban hành văn
bản.
Sau khi bộ phận hành chính duyệt, dự thảo văn bản được chuyển lên
người có thẩm quyền ký. Người ký văn bản sẽ duyệt lần cuối trước khi ký.
Bước 4 : Ban hành văn bản
Sau khi văn bản được ký ban hành, người chịu trách nhiệm soạn thảo
chuyển văn bản cho văn thư để hoàn thiện thủ tục ban hành gồm có các công
việc:
+ Ghi số, ngày tháng năm ban hành văn bản
+ Vào sổ văn bản đi, sổ lưu văn bản
+ Kiểm tra lần cuối về thể thức văn bản
+ Nhân bản văn bản đủ số lượng ban hành
+ Đóng dấu cơ quan
+ Phát hành văn bản
+ Lưu văn bản
+ Theo dõi văn bản phát hành.


19


1.3.6. Yêu cầu về ngôn ngữ hành chính.
Đặc trưng của ngôn ngữ hành chính trong văn bản thể hiện ở các yêu cầu
sau:
-

Tính chính xác, rõ ràng: Cách diễn đạt trong câu phải chính xác, dễ hiểu. Cách
dùng từ phải nhất quán và đơn nghĩa, câu phải mạch lạc, ngắn gọn và có sự liên

-

kết
Tính phổ thông đại chúng: Tránh dùng các từ ngữ trừu tượng, trong trường hợp
có sử dụng phải có sự giải nghĩa rõ ràng, không sử dụng tiếng lóng, tiếng địa

-

phương.
Tính khách quan: Văn bản phải thể hiện được được ý chí khách quan, hạn chế sử

-

dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, không có yếu tố cảm xúc cá nhân.
Tính khuôn mẫu: Văn bản phải trình bày đúng quy định của nhà nước về thể
thức, kỹ thuật trình bày. Tính khuôn mẫu cho phép văn bản sử dụng các cấu trúc,

-


thuật ngữ nhiều lần.
Tính trang trọng lịch sự: Sử dụng cách diễn đạt mang tính nghi thức, thể hiện sự
tôn trọng.
Tiểu kết
Chương 1 đề cập đến cơ sở khoa học của công tác soạn thảo và ban hành
văn bản, khái quát các khái niệm, chức năng của văn bản, các yêu cầu của công
tác soạn thảo văn bản. Từ đó nhận thức tầm quan trọng của công tác này, tính
thiết yếu phải nâng cao hiệu quả của soạn thảo và ban hành văn bản đồng thời
làm nền móng để phân tích và đưa ra những nhận xét về thực trạng thực hiện
công tác này tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.

Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC SOẠN THẢO VÀ BAN VĂN BẢN
TẠI VIỆN HÀN LÂM KHXH VIỆT NAM
2.1. Khái quát về Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
20


2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Viện hàn lâm
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam - tên giao dịch quốc tế là
Vietnam Academy of Social Sciences - có tiền thân từ Ban nghiên cứu Văn học,
Lịch sử và Địa lý (gọi tắt là Ban nghiên cứu Văn - Sử - Địa) được thành lập
ngày 02 tháng 12 năm 1953, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
Viện có lịch sử ra đời và bề dày hoạt động gắn liền với những bước thăng
trầm của lịch sử dân tộc, trải qua các thời kì phát triển với nhiều tên gọi khác
nhau:
Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam thuộc Ủy ban khoa học Nhà nước trực
thuộc Hội đồng Chính phủ (Sắc lệnh 01/52 ngày 04 tháng 3 năm 1959 của Chủ
tịch nước);
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (Quyết định số 165/TVQH ngày

11/10/1965 của Quốc hội);
Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (Quyết định số 47/TVQH ngày
19/6/1967 của Quốc hội);
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (Nghị quyết số 244/NQ-HĐNN ngày
31/3/1990 của Hội đồng Nhà nước);
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia (Quyết định số 23/CP
ngày 22/5/1993 của Thủ tướng Chính phủ);
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (Nghị định số 26/2004/NĐ-CP ngày
15/01/2004 của Chính phủ).
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam từ ngày 22 tháng 12 năm 2013.
Qua các thời kỳ, với nhiều tên gọi khác nhau, chức năng, nhiệm vụ của
Viện được bổ sung, chỉnh sửa nhiều lần nhằm đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ
của mỗi một giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng về cơ bản, chức năng, nhiệm vụ
chính của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam vẫn không thay đổi. Đó là
chức năng nghiên cứu về khoa học xã hội, cung cấp các luận cứ khoa học cho
việc hoạch định đường lối, chiến lược và chính sách phát triển nhanh, bền vững
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tổ chức, tư vấn chính sách và đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về khoa học xã hội; tham gia phát triển tiềm
21


lực khoa học xã hội trong cả nước.
2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ.
Hiện nay, chức năng, nhiệm vụ của Viện được quy định tại Nghị định số
109/2012/NĐ-CP ngày 26/12/2012 của Chính phủ, Viện Hàn lâm Khoa học Xã
hội Việt Nam có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản như sau:
-

Tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận và thực tiễn về khoa học xã hội
Việt Nam, lý luận kinh nghiệm phát triển của các quốc gia trên thế giới, dự báo

xu hướng phát triển chủ yếu trên thế giới và khu vực, đánh giá những tác động
nhiều mặt của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đến sự phát triển chung
của toàn cầu, khu vực và Việt Nam; nghiên cứu những khía cạnh khoa học xã hội
của sự phát triển khoa học và công nghệ và nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, phát triển xã hội dân sự và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam; nghiên cứu những vấn đề về kinh tế, dân tộc, tôn giáo, lịch sử, văn hóa...
nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Cụ thể là:
- Nghiên cứu sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, phát triển xã hội dân sự và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản và cấp bách về dân tộc, tôn giáo, lịch
sử, văn hoá.
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về sự phát triển toàn diện con người
Việt Nam.
- Nghiên cứu những vấn đề về đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị,
nâng cao năng lực cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; hiệu
lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; từng bước
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Những vấn đề cơ bản, toàn diện, có hệ
thống về lý thuyết phát triển của Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hoá và
hội nhập quốc tế.
- Nghiên cứu, điều tra cơ bản, liên ngành về khoa học xã hội, phân tích và
dự báo về kinh tế - xã hội.
22


- Tổ chức biên soạn những bộ sách lớn, tiêu biểu cho tinh hoa của trí tuệ
Việt Nam và thế giới.
- Tổ chức sưu tầm, khai quật, nghiên cứu, bảo tồn và bảo tàng.
- Kết hợp nghiên cứu với đào tạo trong lĩnh vực khoa học xã hội; tham gia

phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao về khoa học xã hội; tổ chức hợp tác
nghiên cứu và liên kết đào tạo về khoa học xã hội với các tổ chức quốc tế, các
Viện và trường đại học nước ngoài.
- Góp ý và phản biện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách,
chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng theo yêu cầu của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp.
- Xây dựng hệ thống quốc gia về thông tin khoa học xã hội, phổ biến tri
thức khoa học, góp phần nâng cao trình độ dân trí.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam là cơ quan hoạt động độc lập,
với chức năng, nhiệm vụ, địa vị pháp lý rõ ràng, là một bộ phận cấu thành của tổ
chức hệ thống chính trị. Bộ máy làm việc của Viện Hàn lâm được tổ chức chặt
chẽ. Cơ cấu tổ chức theo điều Nghị định số 109/2012/NĐ-CP ngày 26/12/2012
của Chính phủ bao gồm:
Lãnh đạo Viện gồm có Chủ tịch Viện và các Phó Chủ tịch Viện. Trong đó
Chủ tịch Viện là người đứng đầu và lãnh đạo Viện, chịu trách nhiệm trước Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ và trước pháp luật về toàn bộ các hoạt động của Viện
Khoa học xã hội Việt Nam. Các Phó Chủ tịch giúp Chủ tịch Viện chỉ đạo, điều
hành các công việc theo sự phân công của Chủ tịch Viện.
Tham mưu, giúp việc cho lãnh đạo Viện có 05 cơ quan chuyên môn: Văn
phòng; Ban Tổ chức cán bộ; Ban Kế hoạch – Tài chính; Ban Quản lý khoa học;
Ban Hợp tác quốc tế với chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan như sau:
- Văn phòng: Là cơ quan có tư cách pháp nhân, chức năng tham mưu giúp
việc Chủ tịch Viện thực hiện quản lý thống nhất trong toàn Viện về các mặt công
tác hành chính, tổng hợp, văn thư, lưu trữ, pháp chế, cơ sở vật chất (nhà đất, tài
sản), y tế, trật tự an toàn cơ quan; đảm bảo điều kiện làm việc và phối hợp đồng
23


bộ với các cơ quan giúp việc Chủ tịch Viện phối hợp công tác với Văn phòng các

Bộ, Ngành và địa phương; chủ tài khoản cấp 3 và chủ đầu tư do Chủ tịch Viện
quyết định.
- Ban Tổ chức cán bộ: Tham mưu giúp việc Chủ tịch Viện về công tác tổ
chức bộ máy, cán bộ, công chức, viên chức của Viện; xây dựng các văn bản quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các đơn vị trực thuộc;
xây dựng các đề án về công tác cán bộ, công chức của Viện; phân bổ và tổ chức
thực hiện kế hoạch biên chế, tiền lương hàng năm; xây dựng kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Viện; thực hiện công tác thi
đua, khen thưởng; thực hiện sơ kết tổng kết về công tác tổ chức cán bộ; phối hợp
đồng bộ với các cơ quan giúp việc Chủ tịch.
- Ban Kế hoạch-Tài chính: có nhiệm vụ xây dựng chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển dài hạn của Viện; xây dựng dự toán ngân sách, tổng hợp, cân
đối kế hoạch 5 năm và hàng năm của Viện; tổng hợp và cân đối ngân sách, dự
toán ngân sách hàng năm cho các lĩnh vực hoạt động của Viện; thẩm định dự toán
và trình duyệt kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ, các dự án đầu tư
xây dựng cơ bản, các dự án sử dụng nguồn ngân sách nhà nước; kiểm tra, đánh
giá việc thực hiện kế hoạch, chấp hành chính sách, chế độ tài chính kế toán, thẩm
định báo cáo quyết toán tài chính; quản lý thống nhất các nguồn vốn, kinh phí
trong và ngoài ngân sách, nguồn viện trợ nước ngoài; cân đối phân bổ vốn đầu tư
xây dựng cơ bản; quản lý và hướng dẫn thực hiện công tác tạp chí, xuất bản,
thông tin tư liệu thư viện; hướng dẫn, kiểm tra, chỉ đạo công tác thống kê lập báo
cáo kế hoạch tài chính; quản lý tài sản công tại các đơn vị trực thuộc.
- Ban Quản lý khoa học: Tham mưu, tư vấn cho Chủ tịch Viện về xây dựng
và thực hiện thống nhất chính sách, chế độ hiện hành về hoạt động khoa học; xây
dựng chiến lược dài hạn và kế hoạch nghiên cứu khoa học 5 năm, nghiên cứu
trọng điểm; xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học và dự toán ngân sách hàng
năm của các chương trình, đề tài, nhiệm vụ, dự án điều tra; tổ chức xét duyệt đề
cương, ký kết hợp đồng khoa học, đánh giá nghiệm thu, thanh lý hợp đồng các
chương trình, đề tài, dự án, nhiệm vụ nghiên cứu; hướng dẫn, kiểm tra đánh giá
24



tiến độ kế hoạch nghiên cứu khoa học; hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện
những quy định, quy chế quản lý hoạt động khoa học của Nhà nước và của Viện;
phối hợp với Ban Kế hoạch-Tài chính thẩm định dự toán kinh phí các chương
trình, đề tài, dự án, nhiệm vụ của Viện; phối hợp đồng bộ với cơ quan giúp việc
khác thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chủ
tịch Viện được kịp thời có hiệu quả.
- Ban Hợp tác quốc tế có nhiệm vụ xây dựng các kế hoạch, chương trình và
dự án hợp tác quốc tế do Viện thống nhất quản lý; tham mưu, tư vấn cho Chủ tịch
về xây dựng, thực hiện chính sách của Nhà nước và quy chế hoạt động hợp tác
quốc tế; giúp việc Chủ tịch Viện trong việc quản lý thống nhất các hoạt động hợp
tác quốc tế; phối hợp với các Ban chức năng thẩm định nội dung các kế hoạch
chương trình và dự án; hướng dẫn tư vấn và phối hợp đồng bộ với các đơn vị
thuộc Viện xây dựng và thực hiện các đề tài, dự án khoa học; hướng dẫn, đôn đốc,
kiểm tra việc thực hiện quy chế hợp tác quốc tế của Viện; thiết lập và mở rộng
quan hệ với các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ, các cơ quan hợp tác quốc tế của
các Bộ, Ngành, địa phương và các tổ chức khoa học trong cả nước.
06 đơn vị sự nghiệp: Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam; Tạp chí Khoa học xã
hội Việt Nam; Nhà xuất bản Khoa học xã hội; Nhà xuất bản Từ điển bách khoa;
Học viện Khoa học xã hội; Trung tâm Ứng dụng công nghệ thông tin.
32 đơn vị nghiên cứu chuyên ngành: Nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh
vực khoa học xã hội ( Phụ lục)
Ngoài ra còn có các tổ chức đoàn thể: Đảng ủy Viện Khoa học xã hội Việt
Nam; Công đoàn Viện Khoa học xã hội Việt Nam; Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh Viện Khoa học xã hội Việt Nam; Hội Cựu chiến binh Viện Khoa
học xã hội Việt Nam. Các tổ chức đoàn thể này hoạt động tuân theo điều lệ của
các đoàn thể.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Viện( kèm theo Phụ lục)
Như vậy, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam là cơ quan sự nghiệp trực thuộc

Chính phủ. Dựa vào quy định của Luật Tổ chức Chính phủ và các văn bản chỉ
đạo, hướng dẫn của Chính phủ, có chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức như đã
25


×