Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Mon xay dung dang ve to chuc nâng cao chất lượng công tác đảng viên nhất là trong các doanh nghiệp tư nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.62 KB, 24 trang )

I.

MỞ ĐẦU

Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Thực tiễn
hơn 80 năm hoạt động của Đảng cho thấy: việc tập trung xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên là nội dung rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự
sống còn của Đảng, sự thành bại của cách mạng nước ta. Đây là vấn đề đã được
Đại hội XI của Đảng đặc biệt quan tâm.
Trong những nămthực hiện đường lối đổi mới, Ban Chấp hành Trung ương,
BộChính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có nhiều chủ trương, nghị quyết,
chỉthị, quy định về xây dựng, phát triển đội ngũ đảng viên. Trên cơ sở đó, cấp uỷ,tổ
chức đảng các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng những kế hoạch,giải
pháp cụ thể, phù hợp với đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ cách mạng để thực
hiện,nhằm tăng cường xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức cơ sở đảng, xây dựng
hệ thống chính trị và nâng caochất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Do đó, đội
ngũ đảng viên đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng2; cơ cấu
đội ngũ đảngviên từng bước được chuyển biến, tuy nhiên bên cạnh những thành
tựu đã đạt được,trong thời gian qua, công tác xây dựng đội ngũ đảng viên còn
những hạn chế, yếu kém.
Để làm rõ vấn đề này hơn với tư cách là 1 sinh viên chuyên nghành Xây
Dựng Đảng và CQNN em xin chọn để tài “Nâng cao chất lượng công tác Đảng
Viên nhất là trong các doanh nghiệp tư nhân ” để góp phần làm rõ thêm về thực
trạng công tác đảng viên của Đảng ta hiện nay.


Trong quá trình nghiên cứu, do sự khó khăn về mặt ngoại ngữ và vốn hiểu
biết thực tế còn ít nên tác giả không thể tránh khỏi những sai lầm thiếu sót rất
mong được sự đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn.


II.NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC ĐẢNG VIÊN ĐÁP ỨNG
NHƯU CẦU NHIỆM VỤ CỦA THỜI KỲ MỚI.
1.Một số khái niệm
1.1 Khái niệm Đảng Viên
Để được gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam thì phải có các điều kiện như:
Động cơ vào Đảng đúng đắn, có giác ngộ chính trị, thừa nhận và tự nguyện thực
hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nhiệm vụ của đảng viên. Hoạt động trong
một tổ chức cơ sở đảng và phải là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm. Sau khi
được kết nạp, còn phải trải qua thời kỳ dự bị để tiếp tục rèn luyện thử thách trước
khi được công nhận là đảng viên chính thức.
Theo Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam thì Công dân Việt Nam từ mười
tám tuổi trở lên, có thừa nhận và tự nguyện thực hiện các Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ
sở đảng, qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có
thể được xét để kết nạp vào Đảng.
Người muốn vào Đảng phải có đơn tự nguyện xin vào Đảng, báo cáo lý lịch
với chi bộ và người này phải được hai đảng viên chính thức giới thiệu. Nơi có tổ


chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng trong độ tuổi
thanh niên phải là đoàn viên, được ban chấp hành đoàn cơ sở và một đảng viên
chính thức giới thiệu. Nơi không có tổ chức Đoàn thì người vào Đảng phải là đoàn
viên công đoàn, được ban chấp hành công đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức
giới thiệu.
Người giới thiệu phải là đảng viên chính thức và cùng công tác với người
muốn vào Đảng ít nhất một năm. Ngoài ra người giới thiệu phải báo cáo với chi bộ
về lý lịch, phẩm chất, năng lực của người vào Đảng và chịu trách nhiệm về sự giới
thiệu của mình. Có điều gì chưa rõ thì báo cáo để chi bộ và cấp trên xem xét.
Người được kết nạp phải trải qua thời kỳ dự bị mười hai tháng (tính từ
ngày chi bộ tổ chức lễ kết nạp). Trong thời kỳ dự bị, chi bộ tiếp tục giáo dục, rèn

luyện và phân công đảng viên chính thức giúp đảng viên đó tiến bộ. Khi hết thời
kỳ dự bị, chi bộ xét công nhận đảng viên chính thức và biểu quyết như khi xét kết
nạp. Nếu xét thấy không đủ tư cách đảng viên thì đề nghị lên cấp ủy có thẩm quyền
quyết định xóa tên trong danh sách đảng viên dự bị. Đảng viên đã được công nhận
chính thức thì tuổi đảng của đảng viên tính từ ngày ghi trong quyết định kết nạp.
Như vậy Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hay còn gọi là Đảng viên là
người gia nhập và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam và sinh hoạt tại tổ
chức này. Theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam thì đảng viên phải là công dân
Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên và người này phải thừa nhận và tự nguyện thực
hiện các Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên,
hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng (Chi bộ, Đảng bộ....) được nhân dân tín
nhiệm, sau đó được giới thiệu kết nạp, thử thách, sinh hoạt và công nhận chính
thức.
1.2 Công tác Đảng Viên


Công tác đảng viên là thực hiện việc phát triển đảng viên ở các tổ chức cơ sở
đảng, bố trí sắp sếp phân công nhiệm vụ đảng viên, quản lý tổ chức đảng viên thực
hiện theo điều lệ Đảng, thực hiện nhiệm vụ chính trị - kinh tế xã hội.
Công tác đảng viên quan trọng ở nhiệm vụ đáng giá chất lượng công tác
đảng viên, xây dựng nội dung đánh giá, phương pháp đánh giá, xếp loại đảng viên.
Theo cách hiểu thông thường, phát triển là biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ
Ưt đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp
Đảng Cộng sản là đội tiền phong của GCCN. Để làm tṛn trách nhiệm nặng
nề, khó khăn, lâu dài và xứng đáng với vai tṛ tiên phong, Đảng phải thường xuyên
tiến hành công tác phát triển đảng, kết nạp vào Đảng những người ưu tó trong quần
chúng, làm cho đội ngg̣ của Đảng không ngừng được bổ sung những lực lượng mới.
Về thực chất, quá tŕnh tiến hành công tác phát triển đảng viên là quá tŕnh
hh́nh thành và phát triển những phẩm chất nhân cách cộng sản trong bộ phận quần
chúng cách mạng tiên tiến nhất; là quá tŕnh đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn

lực con người của Đảng. Công tác phát triển đảng viên gắn liền với yêu cầu giữ
vững và tăng cường bản chất GCCN của Đảng, gắn chặt với công tác xây dựng,
củng cố tổ chức đảng và phong trào cách mạng của quần chóng.
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam và thực tiễn xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, có
thể thấy công tác phát triển đảng viên là toàn bộ các hoạt động tạo nguồn, lùa
chọn, bồi dưỡng, kết nạp những quần chúng ưu tó vào Đảng, nhằm tăng thêm lực
lượng mới cho Đảng, bảo đảm sự kế thừa và phát triển của Đảng, góp phần xây
dựng Đảng ngang tầm với yêu cầu của cách mạng.
Thực tiễn cho thấy, công tác phát triển đảng viên là một quá tŕnh có tính qui
tŕnh với những phương châm, nguyên tắc và qui định rất cụ thể, chặt chẽ, bao gồm


nhiều công đoạn có quan hệ mật thiết với nhau, từ tạo nguồn, lùa chọn, bồi dưỡng
đối tượng đến thẩm tra, xét duyệt, kết nạp và bồi dưỡng đảng viên dự bị.
Công tác phát triển đảng viên là nhiệm vụ thường xuyên của tổ chức đảng
các cấp, đồng thời, trong điều kiện Đảng cầm quyền, đó cg̣n là trách nhiệm của các
tổ chức trong hệ thống chính trị.
Đối tượng phát triển đảng viên là những người ưu tó trong đoàn viên thanh
niên, công nhân, nông dân, trí thức, lực lượng vũ trang, lao động thuộc các thành
phần kinh tế.
Phương châm chủ yếu của công tác phát triển đảng viên là phải coi trọng
chất lượng, không chạy theo số lượng, bảo đảm chặt chẽ về nguyên tắc nhưng
không định kiến hẹp ḥi; chú trọng phát triển đảng viên ở những cơ sở trọng yếu,
những nơi còn ít và chưa có đảng viên.
2. Thực trạng nâng cao chất lượng công tác đảng viên, nhiệm vụ và giải
pháp để đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ mới.

2.1 Thực trạng
Quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin,tư

tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, Đảng ta luôn chú trọng xây dựng đội ngũ
đảngviên; gắn xây dựng, củng cố tổ chức đảng với xây dựng, nâng cao chất lượng
độingũ đảng viên.
Trong những nămthực hiện đường lối đổi mới, Ban Chấp hành Trung ương,
BộChính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có nhiều chủ trương, nghị quyết,
chỉthị, quy định về xây dựng, phát triển đội ngũ đảng viên. Trên cơ sở đó, cấp uỷ,tổ
chức đảng các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng những kế hoạch,giải


pháp cụ thể, phù hợp với đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ cách mạng để thực
hiện,nhằm tăng cường xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức cơ sở đảng, xây dựng
hệ thống chính trị và nâng caochất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Do đó, đội
ngũ đảng viên đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng; cơ cấu đội
ngũ đảngviên từng bước được chuyển biến
theo hướng tích cực, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng;tỷ lệ đảng
viên ở lứa tuổi thanh niên, đảng viên nữ, đảng viên là người dân tộcthiểu số, đảng
viên trong các tôn giáo đều tăng lên qua các năm; tuổi đời bìnhquân của đội ngũ
đảng viên trong toàn Đảng có xu hướng giảm. Thực tiễn phongphú và những thành
tựu đạt được qua 25 năm đổi mới đã chứng minh rằng: sự pháttriển lớn mạnh của
đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đã góp phần quan trọng, có ý nghĩa quyết định
đối với sự nghiệpđổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được,trong thời gian qua, công tác xây
dựng đội ngũ đảng viên còn những hạn chế, yếukém. Do đó, chất lượng đội ngũ
đảng viên chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Đólà tình trạng một bộ phận cán bộ,
đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt ở các cấp, yếukém cả về phẩm chất và năng lực;
tính chiến đấu, tinh thần đấu tranh tự phêbình và phê bình yếu; một bộ phận chưa
thể hiện vai trò tiền phong gương mẫu,còn nói nhiều làm ít, hoặc nói nhưng không
làm, trung bình chủ nghĩa, thờ ơ, vôcảm và thiếu trách nhiệm trước những vụ việc
tiêu cực, muốn làm theo cách cũ,không chịu đổi mới; bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá
nhân có chiều hướng gia tăng, tìnhthương yêu đồng chí trong Đảng giảm sút; tình

trạng chạy chức, chạy quyền, chạyvị trí công tác, chạy tội, chạy bằng cấp... còn xảy
ra ở nhiều nơi; tệ quanliêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn,
đẩy lùi, làm suy giảmlòng tin của nhân dân đối với Đảng… Trong lúc đó, công tác
kiểm tra, giám sát đảngviên thiếu chặt chẽ; cấp uỷ, chi bộ chưa nắm chắc tình hình
tư tưởng và phẩm chấtđạo đức của đảng viên, nhất là những đảng viên hoạt động


phân tán, công tác ở nơixa... Nhiều đảng viên có khuyết điểm, vi phạm Điều lệ
Đảng, pháp luật của Nhà nướcnhưng tổ chức đảng không biết, hoặc phát hiện
chậm; việc giáo dục, xử lý đối vớiđảng viên vi phạm ở nhiều nơi thiếu kịp thời và
chưa nghiêm túc. Trong từng lĩnhvực hoạt động, đội ngũ đảng viên cũng có những
hạn chế, khuyết điểm như: ở xã,phường, thị trấn, trình độ năng lực của một bộ
phận không nhỏ đảng viên, nhấtlà đảng viên giữ chức vụ trong Đảng, chính quyền,
đoàn thể còn thấp; công tác đàotạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên gặp nhiều khó
khăn, chất lượng hạn chế; tư tưởngcục bộ địa phương, dòng họ còn nặng. Trong
các đơn vị sự nghiệp, nhiều đảngviên còn thờ ơ, chưa coi trọng việc học tập lý luận
chính trị. Nhiều đảng viêntrong các doanh nghiệp, nhất là ở các doanh nghiệp
ngoài khu vực nhà nước chỉquan tâm, chú ý đến sản xuất kinh doanh, lợi ích kinh
tế, chưa quan tâm đúng mứcđến công tác xây dựng Đảng, phát huy vai trò tiền
phong, gương mẫu của đảngviên…
Thực tiễn công tác xây dựng độingũ đảng viên trong thời gian qua, nhất là
trong 25 năm thực hiện đổi mới đã đểlại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm
quý báu. Để xây dựng được đội ngũ đảngviên vững mạnh, đáp ứng yêu cầu tình
hình mới, cần tăng cường hơn nữa sự quantâm chỉ đạo của Trung ương đối với cấp
uỷ các cấp, nhất là ở cơ sở trong xây dựngtổ chức đảng và đội ngũ đảng viên. Các
ban Đảng ở Trung ương và các ban tham mưucủa cấp uỷ cần phối hợp chặt chẽ
trong việc giúp cấp uỷ tổ chức thực hiện cácquy định, hướng dẫn của Trung ương
về công tác đảng viên và xây dựng đội ngũ đảngviên. Đồng thời, các cấp phải
thường xuyên coi trọng công tác giáo dục chính trị,tư tưởng, không ngừng nâng
cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cho độingũ đảng viên; kết hợp chặt

chẽ giữa công tác xây dựng Đảng với thực hiện nhiệmvụ chính trị và xây dựng,
củng cố các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sởvững mạnh. Cấp uỷ các cấp
cần phải bám sát chức năng, nhiệm vụ và xây dựng đượcquy chế hoạt động của tổ


chức đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị; tổchức tốt việc nghiên cứu, quán
triệt các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và sựchỉ đạo, hướng dẫn của cấp
uỷ cấp trên, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nângcao trình độ lý luận chính trị,
chuyênmôn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ,đảng viên. Ban Tổ chức các cấp cần thực
hiện tốt công tác tham mưu, đề xuất vớicấp uỷ chỉ đạo và tổ chức thực hiện có hiệu
quả các nhiệm vụ, hướng dẫn, chỉ đạocủa cấp uỷ cấp trên; thường xuyên bồi dưỡng
nghiệp vụ công tác đảng cho bí thưchi bộ và đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở; phối hợp
với các cơ quan tuyên giáo, kiểmtra để thực hiện tốt các mặt công tác đảng viên.
Cấp uỷ các cấp cần coi trọngviệc lãnh đạo và tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở, mở rộng dân chủtrong Đảng và trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của
Mặt trận Tổ quốc vàcác đoàn thể quần chúng đối với cán bộ, đảng viên; huy động
trí tuệ tập thể, sứcmạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong việc xây dựng
Đảng, xây dựng độingũ đảng viên. Cùng với đó, các cấp cần chú trọng phát huy
dân chủ, dựa vàonhân dân để nắm bắt thông tin, quản lý, giám sát đảng viên; lấy ý
kiến nhân dânđóng góp đối với tổ chức đảng và đảng viên; qua đó, tạo mọi điều
kiện thuận lợiđể quần chúng nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
Hiện nay, đấtnước ta đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh,dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ
đảng viên thực sựtrong sạch vững mạnh vừa là đòi hỏi tất yếu, vừa là yêu cầu cấp
bách củatoàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành
Trung ươngkhoá X trình Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Đổi mới, tăng cường
công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chấtlượng đảng viên theo yêu cầu
của Điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụthể về tư tưởng chính trị, trình
độ năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảngviên đáp ứng yêu cầu giai đoạn
cách mạng mới;phát huy tính tiền phong gương mẫu, chủ động, sáng tạo của đội



ngũ đảng viêntrong thực hiện nhiệm vụ được giao. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng
những ngườikhông đủ tư cách đảng viên”.
2.2 Nhiệm vụ.
Để thực hiện có hiệu quả những nội dung, yêu cầu trên, cấp uỷ và tổ chức
đảng các cấp cần chú trọng quán triệt và thực hiện tốt những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục đổi mới tư duy và nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, ý
nghĩa của đảng viên và xây dựng đội ngũ đảng viên trong công tác xây dựng Đảng.
Tập trung sức để xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự trong sạch vững mạnh; nêu
cao vai trò tiền phong, gương mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ
chức kỷ luật và năng lực hoàn thành các nhiệm vụ được giao; kiên định lập trường
giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng; phát huy tinh thần
chủ động, sáng tạo và tính tự nguyện, tự giác của người đảng viên, để mọi đảng
viên vững vàng trước những khó khăn, thử thách của cách mạng.
Hai là, không ngừng nâng cao chất lượng đảng viên, làm cơ sở để nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên phải gắn liền với nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng và
các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Thực tế cho thấy, trình độ trí tuệ và
năng lực tổ chức thực hiện của đội ngũ đảng viên là yếu tố có ý nghĩa quyết định
trực tiếp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững
mạnh, xứng đáng là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ
mới, phải thật sự mở rộng và phát huy dân chủ trong Đảng, làm cơ sở để mở rộng
và phát huy dân chủ trong xã hội; phải dựa vào dân và phát huy sức mạnh của nhân
dân để xây dựng Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Chất lượng đội
ngũ đảng viên càng cao sẽ làm cho quần chúng nhân dân gắn bó với Đảng và tin


tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Chất lượng đội ngũ đảng viên được nâng cao

chính là nguồn cung cấp những cán bộ tốt cho Đảng, Nhà nước và các tổ chức
chính trị-xã hội ở các cấp.
Ba là, trong xây dựng, phát triển đội ngũ đảng viên, phải chú ý kết hợp chặt
chẽ giữa hai mặt của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Một mặt, vừa đẩy
mạnh kết nạp vào Đảng những quần chúng thật sự ưu tú, tiêu biểu và có đủ tiêu
chuẩn, với kịp thời đưa ra khỏi Đảng những người không còn đủ tư cách đảng viên.
Đây là hai mặt có quan hệ biện chứng của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Trong công tác phát triển đảng viên, cần bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách đối với
quần chúng ưu tú để thấy rõ động cơ, mục đích vào Đảng trước khi xem xét kết
nạp vào Đảng; chú trọng trẻ hoá và nâng cao trình độ, kiến thức các mặt của đội
ngũ đảng viên; khắc phục tình trạng chạy theo số lượng và không giao chỉ tiêu kết
nạp đảng viên, không đặt số lượng đảng viên được kết nạp trong năm làm tiêu chí
đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng. Cùng với đó, phải làm tốt việc sàng lọc
đội ngũ đảng viên, kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh những đảng viên thoái
hoá về chính trị, tư tưởng, vi phạm đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, cố tình vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nội dung nhằm nâng cao chất
lượng đảng viên; trong đó, chú ý các vấn đề, như: đổi mới nội dung, phương pháp
giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cho đảng viên về tư tưởng chính trị; về trình độ kiến
thức và năng lực công tác thực tiễn; về phẩm chất, đạo đức cách mạng và lối sống
trong sạch, lành mạnh. Việc phân công công tác cho đảng viên cần phù hợp, gắn
với việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và đánh giá chất lượng đảng viên
hằng năm. Cùng với đó, làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, khen thưởng và kỷ
luật đảng viên theo đúng quy định của Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước.


Năm là, nâng cao chất lượng quản lý đảng viên, đưa công tác quản lý đảng
viên vào nền nếp. Cấp uỷ các cấp cần thực hiện đúng các quy định, nguyên tắc, thủ
tục, quy trình về công tác quản lý hồ sơ đảng viên; giới thiệu sinh hoạt đảng, giới
thiệu đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với đảng uỷ, chi uỷ cơ

sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú; thực hiện nghiêm túc
việc chuyển sinh hoạt đảng đối với những đảng viên nghỉ hưu về sinh hoạt với tổ
chức đảng nơi cư trú; nghiên cứu hướng dẫn việc sinh hoạt đảng đối với những
đảng viên chưa có chỗ làm việc ổn định, đảng viên đi làm việc lưu động ở xa nơi
cư trú; đồng thời, tích cực sử dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý cơ sở dữ
liệu về đảng viên và các nội dung khác của công tác quản lý đảng viên.
Sáu là, tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra của cấp uỷ cấp trên đối với cơ sở.
Cấp uỷ cấp trên, nhất là cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng phải hướng về cơ
sở và đi sâu, đi sát cơ sở; thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực
hiện công tác đảng viên ở cơ sở; phân công uỷ viên thường vụ, cấp uỷ viên trực
tiếp phụ trách cơ sở; có kế hoạch, quy định thời gian làm việc với cấp uỷ, chính
quyền, đoàn thể chính trị ở cơ sở để nắm chắc tình hình, cùng cơ sở tháo gỡ khó
khăn; tăng cường đầu tư kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm điều kiện
làm việc và trang thiết bị cần thiết phục vụ công tác ở cơ sở. Cùng với đó, cần định
kỳ sơ kết, tổng kết công tác đảng viên, qua đó chấn chỉnh và đưa công tác đảng
viên vào nền nếp; thực hiện việc giao cấp uỷ cơ sở tự kiểm tra, rà soát các mặt
công tác đảng viên và báo cáo kết quả với cấp uỷ cấp trên.
Thực hiện tốt những vấn đề cơ bản trên là chúng ta đã thiết thực quán triệt
và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XI của Đảng ngay từ những tháng
đầu, năm đầu của nhiệm kỳ Đại hội.


Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh, làm cơ sở, nền
tảng xây dựng Đảng ta xứng đáng với trọng trách là đảng duy nhất cầm quyền,
lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta, trước hết là của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp.

2.3 Giải pháp để nâng cao chất lượng công tác đảng viên


Để nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên, các cấp ủy, tổ chức
đảng tiếp tục thực hiện một số giải pháp sau:
Các cấp uỷ đảng cần thống nhất nhận thức, xác định công tác phát triển đảng
viên là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của các tổ chức đảng, từ đó xây dựng
chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện, làm tốt công tác tạo nguồn, xác định rõ
trách nhiệm từng khâu, có sự phân công và quy định thời gian cụ thể. Thường
xuyên kiểm tra, chỉ đạo tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, uốn nắn kịp thời
những sai sót thực hiện tốt công tác phát triển đảng viên.
Các chi bộ, đảng bộ thực hiện việc phân công đảng viên, theo dõi, đôn đốc
thực hiện các phong trào ở địa phương, cơ quan, đơn vị, từ đó phát hiện những
quần chúng ưu tú, bồi dưỡng, giao việc để thử thách và giới thiệu cho chi bộ xem
xét. Tiếp tục rà soát nguồn hiện có, nhất là những cán bộ, sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng, công chức, viên chức ở các cơ quan
hành chính, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp, nông dân sản xuất - kinh doanh giỏi,
các trường học, ngành y tế để tiếp tục bồi dưỡng nhận thức về Đảng.


Các cấp uỷ lãnh đạo các tổ chức đoàn thể đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động, tập hợp quần chúng, tăng cường giáo dục hiểu biết về Đảng.Quan tâm
bồi dưỡng cán bộ trẻ, nữ, nâng dần tỷ lệ đảng viên trẻ, nữ, có trình độ khoa học kỹ thuật, đại học, sau đại học.
Lãnh đạo kiện toàn, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức
đảng và các tổ chức đoàn thể trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước; tuyên truyền
vận động thành lập tổ chức đảng ở những doanh nghiệp có đảng viên nhưng chưa
có tổ chức đảng; xây dựng tổ chứcđoàn thể trong doanh nghiệp ngoài nhà nước
hoạt động ổn định để tập hợp đông đảo người lao động vào tổ chức, giáo dục nâng
cao nhận thức về chính trị, lý tưởng cách mạng, xây dựng kế hoạch tạo nguồn giới
thiệu những người ưu tú cho tổ chức đảng xem xét kết nạp, chú ý chủ doanh
nghiệp, công nhân trực tiếp lao động, sản xuất giỏi.
Kịp thời xác minh lý lịch, làm rõ lịch sử chính trị, chính trị hiện nay của
người xin vào Đảng; thực hiện đồng bộ, đầy đủ các khâu trong quy trình công tác

kết nạp đảng viên.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, nâng cao nhận thức và trách
nhiệm của cán bộ, đảng viên, trước hết là bí thư cấp ủy, người đứng đầu cơ quan,
đơn vị. Công tác chính trị tư tưởng phải được đưa vào chương trình, kế hoạch công
tác, có kiểm tra, giám sát, đánh giá định kỳ; gắn với thực hiện nội quy, quy định
của cơ quan và quy chế dân chủ ở cơ sở. Định kỳ 6 tháng một lần, bí thư cấp ủy,
thủ trưởng cơ quan, đơn vị phải tổ chức đối thoại với cán bộ, đảng viên và quần
chúng, tập trung giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cơ quan, đơn vị. Biểu
dương kịp thời gương người tốt, việc tốt và xử lý nghiêm minh những biểu hiện
tiêu cực trong cơ quan, đơn vị.


Đổi mới nội dung, phương thức công tác chính trị, tư tưởng. Lấy công tác
chính trị tư tưởng là nội dung hàng đầu trong sinh hoạt chi bộ. Mở rộng dân chủ,
chống gia trưởng, nhũng nhiễu, chạy chức, chạy quyền, kiên quyết chống lợi ích
nhóm.. Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
thành việc làm thường xuyên của mỗi tổ chức đảng, đảng viên và quần chúng. Đổi
mới việc tổ chức học tập, quán triệt các nghị quyết của Đảng và cách thức nắm tư
tưởng và dư luận xã hội, tăng cường giáo dục truyền thống; có biện pháp hữu hiệu
chống chiến lược “diễn biến hòa bình"; Giải quyết kịp thời, nghiêm minh đơn thư
khiếu nại, tố cáo trong cơ quan, đơn vị.
Công tác chính trị tư tưởng phải tiến hành đồng thời với công tác tổ chức và
cán bộ. Trước mỗi kỳ đại hội, các cấp ủy cần chủ động phối hợp với lãnh đạo cơ
quan, đơn vị giải quyết thấu tình, đạt lý những vấn đề bức xúc, băn khoăn, lo lắng
của cán bộ, đảng viên và quần chúng. Định kỳ bồi dưỡng, cập nhật thông tin và
kiến thức cho cán bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XI) về xây dựng Đảng, nhất là việc tự phê bình và phê bình của cán bộ lãnh
đạo các cấp và đảng viên.

Cử quần chúng tích cực đi dự các lớp bồi dưỡng đối tượng kết nạp Đảng để họ có

những hiểu biết nhất định về Đảng, về quyền và nghĩa vụ đảng viên, xác định động
cơ, nguyện vọng phấn đấu vào đảng một cách đúng đắn.
Phân công đảng viên bồi dưỡng, giúp đỡ, theo dõi quá trình rèn luyện, phấn
đấu, trưởng thành của quần chúng tích cực. Hàng tháng, hàng quý đảng viên được
phân công phải báo cáo kết quả phấn đấu của quần chúng, đảm bảo đủ tiêu chuẩn
Lễ kết nạp đảng viên phải được tổ chức trang nghiêm theo quy định. Trong thời


gian dự bị, Chi bộ tiếp tục giáo dục, thử thách, rèn luyện, phân công đảng viên
chính thức trực tiếp giúp đỡ đảng viên dự bị để họ phấn đấu trở thành đảng viên
chính thức đúng thời hạn theo quy định của điều lệ Đảng.
III. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC ĐẢNG VIÊN TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.
3.1

Thực trạng công tác Đảng Viên trong các doanh nghiệp tư nhân.
Sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị 07-CT/TW ngày 23/11/1996 của Bộ
Chính trị (khóa VIII) về “Tăng cường công tác xây dựng đảng, các đoàn thể nhân
dân trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần
tư nhân (gọi tắt là doanh nghiệp tư nhân) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài”, công tác xây dựng Đảng, các đoàn thể nhân dân trong các loại hình doanh
nghiệp trên đã đạt được một số kết quả bước đầu.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề ra, Đảng và Nhà
nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã chủ nghĩa.
Những năm qua, nhất là trong 10 năm gần đây, các doanh nghiệp tư nhân và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta phát triển nhanh, đa dạng về quy mô,
hình thức tổ chức, lĩnh vực sản xuất kinh doanh và chế độ sở hữu. Sự phát triển của
các doanh nghiệp tư nhân (DNTN), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(DNCVĐTNN) đã khai thác và phát huy tiềm năng của đất nước, giải quyết việc
làm cho hàng triệu lao động, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và đẩy

mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, nhiều cấp ủy chưa quán triệt sâu sắc yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng
tổ chức đảng, các đoàn thể trong các DNTN và DNCVĐTNN; chưa thực sự coi đó
là nhiệm vụ thường xuyên của công tác xây dựng Đảng nên thiếu tập trung chỉ đạo


và chưa có những biện pháp cụ thể để thực hiện. Số tổ chức đảng, các đoàn thể
nhân dân và số đảng viên, đoàn viên, hội viên trong các DNTN, DNCVĐTNN còn
chiếm tỷ lệ rất thấp. Công tác kết nạp đảng viên, đoàn viên và phát triển tổ chức
đảng, các đoàn thể còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công
tác xây dựng Đảng trong tình hình mới. Công tác tuyên tuyền, vận động, thuyết
phục đối với chủ doanh nghiệp chưa được tiến hành thường xuyên, nên nhiều chủ
doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài chưa hiểu rõ về vai trò, vị trí của tổ chức
đảng và các đoàn thể trong doanh nghiệp nên không ủng hộ việc thành lập tổ chức
đảng, các đoàn thể trong doanh nghiệp. Công tác quản lý nhà nước còn thiếu chặt
chẽ, chưa kịp thời kiểm tra, phát hiện, xử lý các sai phạm trong việc chấp hành các
quy định của pháp luật, nhất là việc thực hiện Bộ Luật Lao động, Luật Công đoàn,
Luật Bảo hiểm xã hội. Nhiều tổ chức đảng còn lúng túng về nội dung và phương
thức hoạt động; chưa thể hiện rõ vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở, chất lượng và
hiệu quả hoạt động thấp. Nhiều chi bộ sinh hoạt đảng không đều, nội dung nghèo
nàn, tự phê bình và phê bình yếu. Công tác quản lý đảng viên còn lỏng lẻo, việc
phân công nhiệm vụ cho đảng viên gặp không ít khó khăn. Tính tiền phong, gương
mẫu của nhiều đảng viên còn hạn chế, một số đảng viên không muốn chuyển sinh
hoạt đảng về nơi làm việc hoặc không muốn nhận mình là đảng viên. Đa số công
nhân, người lao động trong các doanh nghiệp chưa chịu khó học tập để nâng cao
trình độ về mọi mặt; một số cho mình là người lao động làm thuê nên thờ ơ với các
hoạt động chính trị - xã hội, không thiết tha phấn đấu vào Đảng, vào Đoàn.
3.2 Những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng công tác đảng viên
trong các doanh nghiệp tư nhân.
Công tác xây dựng Đảng, các đoàn thể nhân dân trong các DNTN và

DNCVĐTNN là vấn đề mới và khó. Các DNTN và DNCVĐTNN đa số mới được
thành lập và chủ yếu là những doanh nghiệp nhỏ, nhiều doanh nghiệp chưa đủ điều


kiện thành lập tổ chức đảng, các đoàn thể. Nhiều chủ doanh nghiệp không muốn có
tổ chức đảng, các đoàn thể trong doanh nghiệp của mình, cản trở việc thành lập
hoặc không tạo điều kiện cho tổ chức đảng, các đoàn thể hoạt động.
Trong điều kiện mới, thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết,
nhưng việc nhận thức và cụ thể hóa thành các chủ trương, chính sách để thực hiện
còn chậm và thiếu đồng bộ. Một số cấp ủy chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc yêu cầu,
nội dung Chỉ thị của Bộ Chính trị nên việc tuyên truyền, vận động chưa sâu rộng,
thiếu thuyết phục. Sự chỉ đạo của các cấp ủy cấp trên, nhất là cấp trên trực tiếp của
cơ sở thiếu kiên quyết; việc tổng kết rút kinh nghiệm chưa được quan tâm đúng
mức. Cấp ủy và cán bộ làm công tác đảng, đoàn thể đều kiêm nhiệm. Điều kiện,
phương tiện làm việc phục vụ cho hoạt động của tổ chức đảng, các đoàn thể còn
nhiều khó khăn; nhiều nơi không có địa điểm để sinh hoạt và kinh phí để hoạt
động...
phải làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt quan điểm, chủ
trương của Đảng về vai trò và sự cần thiết phải thành lập tổ chức đảng, các đoàn
thể nhân dân trong các DNTN và DNCVĐTNN, tạo sự thống nhất nhận thức trong
các cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên và người lao động. Đặc biệt, làm cho chủ doanh
nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài hiểu đúng về vai trò, vị trí và tác dụng của tổ chức
đảng, các đoàn thể trong doanh nghiệp ; hoạt động của tổ chức đảng, các đoàn thể
là có lợi, góp phần làm cho doanh nghiệp phát triển vững chắc, đúng pháp luật.
cần có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ của các thành viên trong hệ thống
chính trị (cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể) trong việc xây dựng những cơ
chế, chính sách cụ thể, phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho DNTN và
DNCVĐTNN phát triển, làm cơ sở để thành lập tổ chức đảng, các đoàn thể nhân
dân trong doanh nghiệp. Cấp ủy và các đoàn thể cấp trên phải có cán bộ chuyên



trách để theo dõi, giúp đỡ, giải quyết những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở; định kỳ
sơ kết rút kinh nghiệm, kịp thời biểu dương những tổ chức, cá nhân tiêu biểu để
nhân rộng.
phải tiến hành khảo sát, phân loại doanh nghiệp theo đặc điểm, quy mô, hiệu
quả hoạt động để xây dựng kế hoạch cụ thể về việc thành lập tổ chức đảng, các
đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền,
đoàn thể phải quan tâm chỉ đạo, trực tiếp gặp gỡ, làm việc với chủ doanh nghiệp và
phân công trách nhiệm cụ thể cho các cấp, các ngành và có bước đi thích hợp.
bản thân tổ chức đảng, các đoàn thể trong doanh nghiệp phải thường xuyên
đổi mới nội dung, hình thức hoạt động cho phù hợp với đặc điểm tính chất của
từng doanh nghiệp; coi trọng xây dựng và thực hiện quy chế làm việc, làm rõ mối
quan hệ giữa cấp ủy với hội đồng quản trị, giám đốc và các đoàn thể. Những hoạt
động và việc làm cụ thể của tổ chức đảng, các đoàn thể phải gắn với lợi ích và sự
ổn định, phát triển của doanh nghiệp, bảo đảm lợi ích chính đáng, hợp pháp của
chủ doanh nghiệp.
tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra của cấp ủy cấp trên; kịp
thời giúp đỡ cơ sở tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Cùng với việc chỉ đạo xây dựng
tổ chức đảng, các cấp ủy cần tăng cường chỉ đạo việc thành lập tổ chức Công đoàn
theo luật định và các tổ chức đoàn thể khác trong doanh nghiệp; nếu tổ chức nào có
đủ điều kiện thì tiến hành thành lập trước, không nhất thiết phải thành lập đồng
thời các tổ chức.
Các cấp ủy đảng, chính quyền và đoanbf thể các cấp tăng cường công tác
tuyên truyền, vận động, thuyết phục đối với chủ doanh nghiệp và nhà đầu tư nước
ngoài, làm cho các chủ doanh nghiệp hiểu rõ, hiểu đúng về vai trò, vị trí, tác dụng


của tổ chức đảng, các đoàn thể trong nghiệp. Việc thành lập tổ chức đảng, các đoàn
thể nhân dân trong doanh nghiệp là làm cho doanh nghiệp phát triển lành mạnh,
đúng hướng, có hiệu quả; đảm bảo lợi ích chính đáng của chủ doanh nghiệp, quyền

và lợi ích hợp pháp của người lao động.
Cần thành lập các Ban Chỉ đạo công tác xây dựng đảng, các đoàn thể nhân
dân trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh từ cấp tỉnh đến cấp huyện do đồng
chí bí thư hoặc phó bí thư thường trực làm trưởng ban. Ban chỉ đạo có trách nhiệm
xây dựng chương trình, kế hoạch 5 năm và hàng năm để chỉ đạo thực hiện. Xác
định rõ trách nhiệm củng cố, xây dựng, phát triển tổ chức đảng và các đoàn thể
nhân dân trong doanh nghiệp trước hết thuộc về các quận ủy, huyện ủy, đảng ủy
khối doanh nghiệp, đảng ủy khu công nghiệp, khu chế xuất trực thuộc tỉnh, thành
ủy. Cấp ủy cấp trên cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với tổ chức
đảng và đảng viên trong việc chấp hành Điều lệ Đảng; các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng và các nhiệm vụ được chi bộ phân công. Hàng năm, cấp ủy, chính quyền các
cấp tổ chức gặp mặt, động viên, khuyến khích, tôn vinh các chủ doanh nghiệp tâm
huyết với công tác đảng, đoàn thể, có đóng góp tích cực cho ngành, địa phương,
đơn vị; biểu dương khen thưởng các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh tiêu biểu.
Các tỉnh, thành ủy căn cứ số lượng doanh nghiệp, số tổ chức đảng và số
lượng đảng viên trong các doanh nghiệp để quyết định thành lập đảng bộ cơ sở
khối doanh nghiệp trực thuộc quận, huyện ủy hoặc trực thuộc đảng ủy khối doanh
nghiệp tỉnh, thành phố cho phù hợp. Những tỉnh, thành phố có các khu công
nghiệp, khu chế xuất tập trung và trong khu công nghiệp, khu chế xuất có nhiều
doanh nghiệp đã có các tổ chức cơ sở ảng thì thành lập đảng bộ khu công nghiệp,
khu chế xuất trực thuộc tỉnh, thành ủy. Những tỉnh, thành phố có ít doanh nghiệp
thì tổ chức đảng của các doanh nghiệp này trực thuộc đảng bộ cơ sở khối doanh
nghiệp ngoài quốc doanh của các quận, huyện ủy.


Đối với những nơi đã có tổ chức đảng: Các cấp ủy tiến hành rà soát, nắm
chắc số lượng, tình hình tổ chức và hoạt động của tổ chức đảng trong các loại hình
doanh nghiệp ở địa phương, xây dựng kế hoạch cụ thể, thiết thực để củng cố, kiện
toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng đã có trong doanh
nghiệp. Cấp ủy đảng trong các doanh nghiệp căn cứ vào quy định của Ban Bí thư

về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng để xây dựng quy chế hoạt động
cho phù hợp với đặc điểm, tình hình của doanh nghiệp; xây dựng mối quan hệ giữa
tổ chức đảng với hội đồng quản trị, giám đốc. Rà soát và chuyển sinh hoạt đảng
những đảng viên đang làm việc dài hạn (từ một năm trở lên) trong các doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhưng vẫn sinh hoạt đảng
ở nơi cư trú.
Đối với những nơi chưa có tổ chức đảng: Các cấp ủy đảng tổ chức khảo sát,
nắm tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng để
đề ra các giải pháp phù hợp và tích cực chuẩn bị thành lập tổ chức đảng, trước hết
là những doanh nghiệp có nhiều lao động và có vị trí quan trọng đến sự phát triển
kinh tế, xã hội của địa phương. Những doanh nghiệp có đủ 3 đảng viên chính thức
trở lên, sản xuất kinh doanh ổn định thì cấp ủy cấp trên thành lập chi bộ và tuyên
truyền, vận động, thuyết phục chủ doanh nghiệp để chủ doanh nghiệp đồng tình,
ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức đảng hoạt động. Đối với các dự án liên
doanh với nước ngoài, trong quá trình chuẩn bị dự án, các cơ quan có thẩm quyền
cần phân công những đảng viên có đủ trình độ, năng lực, điều kiện vào làm việc tại
liên doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập tổ chức đảng khi doanh
nghiệp đi vào hoạt động. Căn cứ quy mô, tính chất hoạt động và số lượng đảng
viên của từng doanh nghiệp mà cấp ủy cấp trên quyết định việc thành lập tổ chức
đảng và trực thuộc cấp ủy cấp trên cho phù hợp. Những doanh nghiệp chưa có
đảng viên, cấp ủy cấp trên nơi doanh nghiệp đóng, có kế hoạch cụ thể để phân


công cấp ủy viên, đảng viên có kinh nghiệm, phối hợp với các đoàn thể trong
doanh nghiệp phát hiện, bồi dưỡng, tạo nguồn kết nạp đảng viên.
Đối với những nơi đã có các đoàn thể, cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động của tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên phù hợp với điều kiện của
từng loại hình doanh nghiệp. Các cấp ủy cần tăng cường chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc
việc xây dựng, phát triển các tổ chức đoàn thể để nắm tình hình, có biện pháp giải
quyết những vấn đề phát sinh; kịp thời biểu dương khen thưởng các doanh nghiệp

thực hiện tốt việc phát triển các tổ chức đoàn thể và xây dựng đoàn thể vững mạnh.
Ban chấp hành các đoàn thể tích cực tuyên truyền, vận động công nhân lao động
vào tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên; tăng cường công tác bồi dưỡng, hướng
dẫn, kiểm tra hoạt động của các đoàn thể trong doanh nghiệp, chăm lo bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động.
Đối với những doanh nghiệp chưa có các tổ chức đoàn thể, thì công đoàn,
đoàn thanh niên, hội phụ nữ cấp trên tập trung chỉ đạo để sớm thành lập tổ chức
công đoàn, đoàn thanh niên hoặc hội liên hiệp thanh niên, trước mắt tập trung vào
những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động. Chuyển sinh hoạt công đoàn, đoàn
thanh niên cho những đoàn viên đang làm việc ở doanh nghiệp nhưng sinh hoạt
công đoàn, đoàn thanh niên ở nơi khác về tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên
thuận lợi nhất để làm nòng cốt xây dựng tổ chức công đoàn, đoàn, hội của doanh
nghiệp.


KẾT LUẬN
Trong những năm qua cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội nhờ chính
sách mở cửa, cơ chế đổi mới, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các
doanh nghiệp tư nhân ngày càng phát triển và có nhiều loại hình hoạt động.
Để tiếp thục duy trì và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta cũng phải có
những chuyển biến kịp thời nhằm đáp ứng sứ mệnh chèo lái, lãnh đạo đất nước ta
đi đến thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để hoàn
thành sứ mệnh ấy, Đảng phải luôn tự đổi mới, hoàn thiện hơn và phải kết nạp thêm
những quần chúng ưu tú vào hàng ngũ của Đảng để bổ sung thêm sức mạnh và trí
tuệ cho Đảng.
Công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp những năm vừa qua
bước đầu cũng đạt được những thành tựu nhất định góp phần củng cố sự lãnh đạo
của Đảng, phát triển thêm sức mạnh cho Đảng, tuy nhiên cũng không tránh khỏi
những hạn chế bước đầu mà trong phạm vi đề tài đã đề cập đến.
Trong những năm tới công tác phát triển đảng viên sẽ chú trọng phát triển

nhiều hơn về số lượng và chất lượng trong các doanh nghiệp nhằm đáp ứng hơn
nữa yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
các doanh nghiêp tư nhân
Với hy vọng rằng những ý tưởng nghiên cứu đưa ra về thực trạng, nhiệm vụ
và giải pháp đối với công tác phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp tư nhân


được nêu trong tiểu luận sẽ góp phần tổng kết thực tiến, đúc rút lý luận và góp
phần vào công tác phát triển đảng trong các doanh nghiệp tư nhân.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh – toàn tập, tập 7, Nxb CTQG HN 2000, Tr 235 – 236
2 .Hồ Chí Minh – toàn tập, tập 6, Nxb CTQG HN 2000, Tr 425 – 546
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
5. PGS.TS. Trương Ngọc Nam, Giáo trình xây dựng Đảng về tổ chức, Hà
Nội, 2011.




×