Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

Quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 165 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒ THỊ NGA

QUYỀN HƢỞNG THỤ VÀ TIẾP CẬN
CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 62.38.01.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. Võ Khánh Vinh

Hà Nội, 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................... 8
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .......................................................... 8
1.2. Nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ...................................... 20
1.3. Những vấn đề đặt ra liên quan đến chủ đề luận án ............................................ 24
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN HƢỞNG THỤ VÀ TIẾP
CẬN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA ............................................................................ 28
2.1. Khái niệm quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa .............................. 28
2.2. Vị trí, vai trò của quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa trong tổng thể
quyền văn hóa .......................................................................................................... 36
2.3. Đặc điểm, nội dung của quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ............. 46


2.4. Các bảo đảm thực hiện quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ................ 54
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG QUYỀN HƢỞNG THỤ VÀ TIẾP CẬN CÁC GIÁ
TRỊ VĂN HÓA Ở VIỆT NAM .............................................................................. 60
3.1. Thực trạng pháp luật về quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa .............. 60
3.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn
hóa ............................................................................................................................. 90
Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG QUYỀN
HƢỞNG THỤ VÀ TIẾP CẬN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA Ở VIỆT NAM ..... 122
4.1. Quan điểm tăng cường quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ............. 122
4.2. Giải pháp tăng cường quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ở Việt
Nam ......................................................................................................................... 129
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ ........................................................... 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 152


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1: Di sản văn hóa ................................................................................ 97
Bảng 3.2: Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm ................................................. 103
Bảng 3.3: Văn hóa dân tộc............................................................................ 105
Bảng 3.4: Thư viện ....................................................................................... 112
Bảng 3.5: Văn hóa cơ sở ............................................................................... 115


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Trong các quyền con người, hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá là một
trong những quyền cơ bản và đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển
và hoàn thiện nhân cách cá nhân của mỗi người, cũng như trong việc xác lập và

sáng tạo giá trị văn hóa của cộng đồng người, của các dân tộc, quốc gia. Việt Nam
là một quốc gia đa dân tộc, nền văn hoá Việt Nam là sự kết tinh và tổng hoà của sự
đa dạng văn hoá gữa các dân tộc anh em trải qua hàng ngàn năm hấp thụ và tiếp
biến các giá trị văn hoá nội sinh và ngoại sinh. Quá trình đổi mới và phát triển trong
suốt ba thập kỷ qua đã góp phần to lớn vào việc hiện thực hoá các quyền con người
nói chung và quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa nói riêng.
Tuy nhiên, quá trình phát triển của xã hội và xu thế toàn cầu hóa về văn hóa
cũng tác động tiêu cực đến các nền văn hoá, thách thức đến sự sống còn của bản sắc
văn hoá và giá trị truyền thống. Ngoài ra, những rào cản khác như những hạn chế
trong chính sách, pháp luật về văn hóa, hoặc những yếu kém trong tổ chức thực hiện
đã làm gia tăng việc hạn chế khả năng hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá của
các cá nhân, những nhóm và cộng đồng nhất định vốn luôn được xem là đối tượng
dễ bị tổn thương của quá trình phát triển như người nghèo, người dân tộc thiểu số,
phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật… Đặc biệt, khả năng về tài chính và nhận thức của
mỗi người, mỗi cộng đồng cũng tác động đến việc hiện thực hóa quyền hưởng thụ
và tiếp cận các giá trị văn hóa. Tuy nhiên, so với các quyền kinh tế, dân sự thì các
quyền văn hóa của con người vẫn chưa thực sự được chú trọng.
Về mặt pháp luật, quyền văn hóa là một quyền con người cơ bản được quy
định trong hệ thống pháp luật quốc tế và quốc gia. Vấn đề quyền con người nói
chung, cũng như quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa nói riêng, đã từ lâu
được nghiên cứu trên phạm vi quốc tế, đặc biệt là từ khi ra đời của Tuyên ngôn Thế
giới về quyền con người và hàng loạt các Công ước quốc tế về quyền con người
trong những năm 60 và 70 của thế kỷ XX. Quyền hưởng thụ và tiếp cận văn hoá trở
thành đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học chuyên ngành như triết học, luật

1


học, xã hội học, văn hoá và khoa học phát triển,… Công ước quốc tế về Quyền
Kinh tế Xã hội và văn hóa (ICESCR) năm 1996 (Việt Nam gia nhập năm 1982) có

những quy định về quyền văn hóa và đã được nội luật hóa vào trong hệ thống pháp
luật Việt Nam, đặc biệt là trong Hiến pháp 2013. Lần đầu tiên Hiến pháp quy định:
“Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời
sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”. Ngoài ra, các quy định có liên quan đến
quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa cũng được thể hiện trong Luật Di
sản Văn hoá (2001), Luật Điện ảnh (2006), Luật Xuất bản (2012), Luật Báo chí
(2016)... Mặc dù thực tế triển khai và thực thi chính sách, pháp luật có liên quan
cũng như việc hiện thực hoá các quyền về văn hoá trong những năm qua đã đạt
được những thành tựu đáng kể, tuy nhiên vẫn còn có những bật cập đòi hỏi cần có
sự điều chỉnh, hoàn thiện.
Về tình hình nghiên cứu, cho đến nay ở Việt Nam, vấn đề quyền hưởng thụ và
tiếp cận văn hoá là gì và vai trò, ý nghĩa của nó như thế nào chưa thực sự được
nghiên cứu sâu rộng từ nhiều giác độ khoa học cũng như chưa được tiếp cận từ góc
độ liên ngành và đa ngành. Việc hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa bị tác
động và ảnh hưởng bởi các điều kiện bảo đảm và cơ chế thực thi của nhà nước. Bên
cạnh đó, hiệu quả hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa lại phụ thuộc vào nhu
cầu, trình độ của chủ thể quyền được cá thể hóa trong các cộng đồng văn hóa xã hội
khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu về quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa
không đơn giản, các công trình nghiên cứu đã công bố chưa bao quát toàn bộ nội
dung cũng như thực trạng thực hiện quyền này nên chưa có được các phương án đầy
đủ kiến giải cho việc tăng cường hiệu quả thực hiện quyền.Vì vậy, đây là những vấn
đề lý luận cần được làm sáng tỏ. Chính vì những lý do trên, nghiên cứu sinh đã lựa
chọn đề tài “Quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ở Việt Nam” để
triển khai nghiên cứu trong quy mô luận án tiến sĩ luật học với mong muốn góp
phần giải mã một cách toàn diện và có hệ thống các nội dung liên quan đến chủ đề
được lựa chọn.

2



2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích tổng quát của luận án là nhằm xây dựng các luận cứ khoa học cho
việc đề xuất một hệ thống giải pháp nhằm bảo đảm quyền hưởng thụ và tiếp cận các
giá trị văn hóa ở Việt Nam một cách hợp lý và hiệu quả.
2.2. Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục tiêu này, luận án tập trung vào giải quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, hệ thống hóa nhận thức lý luận về quyền hưởng thụ và tiếp cận các
giá trị văn hóa. Trên cơ sở đó làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về quyền
hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa và chỉ ra những đặc thù của quyền hưởng
thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa.
Thứ hai, tìm hiểu, đưa ra những ý kiến đánh giá thực trạng pháp luật và thực
tiễn thực hiện quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa. Xác định rõ những
ưu điểm, hạn chế của thực trạng quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa
trong quá trình phát triển ở Việt Nam, cũng như những nguyên nhân của những ưu
điểm và hạn chế đó.
Thứ ba, đề xuất hệ thống các quan điểm, giải pháp cho việc xây dựng và thực
thi pháp luật về quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ở nước ta.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền hưởng thụ và tiếp
cận các giá trị văn hóa, các quy định của pháp luật ở Việt Nam về quyền hưởng thụ
và tiếp cận các giá trị văn hóa và thực tiễn thực hiện quyền hưởng thụ và tiếp cận
các giá trị văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Trong khuôn khổ quy mô của luận án tiến sĩ luật học, luận
án tập trung làm sáng tỏ các khía cạnh lý luận, pháp lý về của quyền hưởng thụ và
tiếp cận các giá trị văn hóa và thực trạng quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn

3



hóa ở Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp để bảo đảm thực hiện quyền hưởng thụ
và tiếp cận các giá trị văn hóa.
- Phạm vi không gian: Luận án triển khai trên phạm vi toàn quốc, chú trọng
vào các khu vực còn có nhiều khó khăn trong việc thực hiện quyền hưởng thụ và
tiếp cận các giá trị văn hóa như vùng dân tộc thiếu số, vùng nông thôn. Đề tài có
triển khai nghiên cứu so sánh với một số quốc gia khác trong các vấn đề có liên
quan đến chủ đề nghiên cứu.
- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu quá trình lịch sử của quyền hưởng thụ
và tiếp cận các giá trị văn hóa từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay (2017), trọng
tâm là giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cách tiếp cận và phương pháp luận
Để bảo đảm tính khoa học và tính chính trị của kết quả nghiên cứu, luận án
dựa trên cơ sở lý luận sau:
- Các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về văn hóa, về quyền con người.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và về quyền văn hóa, đặc biệt là các quan
điểm của Người trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền văn hóa.
- Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện cách
nhìn nhận các vấn đề liên quan đến văn hóa, các quan điểm chỉ đạo xây dựng và
phát triển văn hóa Việt Nam, quyền con người và quyền công dân, quyền hưởng thụ
và tiếp cận các giá trị văn hóa.
- Nguyên lý chủ quyền nhân dân, quyền con người trong một số học thuyết
hiện đại đang được áp dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay như lý
thuyết về quyền con người, lý luận về quyền con người tiếp cận đa ngành và liên
ngành luật học.
- Lý thuyết xã hội học pháp luật và Luật học so sánh.
4.2. Phương pháp nghiên cứu.
Luận án áp dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể nhằm làm

sáng tỏ các luận điểm nghiên cứu:

4


- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng bao quát trong tất cả các
chương, mục của luận án để phát hiện, luận giải thuyết phục về các nội dung liên
quan đến chủ đề luận án.
- Phương pháp thống kê: được sử dụng trong chương 1 và 3 của luận án nhằm
tập hợp, đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và thực trạng quyền
hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu gián tiếp thông qua việc tổng hợp, phân tích các tư
liệu, báo cáo khoa học (văn bản pháp luật, các báo cáo khoa học, công trình nghiên
cứu…) làm cơ sở thực tiễn cho việc đánh giá thực trạng pháp luật về quyền hưởng thụ
và tiếp cận các giá trị văn hóa ở Việt Nam hiện nay. Phương pháp này được sử dụng
trong toàn bộ luận án để tổng hợp, phân tích, đánh giá các công trình nghiên cứu khoa
học trong và ngoài nước về những vấn đề liên quan đến luận án. Phân tích các số liệu
tổng hợp thực tế từ việc thu thập qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Phương pháp nghiên cứu trực tiếp thông qua việc khảo sát nhận thức về
quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa; trao đổi trực tiếp với các nhà
nghiên cứu về pháp luật, đặc biệt là nghiên cứu pháp luật về quyền con người nhằm
xây dựng cơ sở lý luận của các quy định về quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị
văn hóa. Phương pháp này được sử dụng trong toàn bộ luận án để phát hiện, luận
giải thuyết phục về các nội dung liên quan đến chủ đề luận án.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống, đa ngành và liên ngành khoa học xã hội nhân
văn như lịch sử, kinh tế, luật học nhằm làm rõ bản chất kinh tế, xã hội, pháp lý của
quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, đánh giá mức độ phù hợp hay
không phù hợp và nhất là tính khả thi của các quy định này. (Phương pháp này được
sử dụng trong chương 2, chương 3, chương 4).
- Phương pháp so sánh luật học được sử dụng nhằm đối chiếu quy định pháp

luật qua các thời kỳ, với pháp luật các quốc gia để tìm ra những điểm hợp lý trong
các quy định pháp luật về quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, học hỏi
kinh nghiệm xây dựng pháp luật để hoàn hiện quy định về quyền hưởng thụ và tiếp

5


cận các giá trị văn hóa ở Việt Nam hiện nay. (Phương pháp này được sử dụng trong
chương 2, chương 3).
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án hệ thống hóa các quan điểm khoa học về quyền văn hóa nói
chung và quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa nói riêng. Trên cơ sở đó,
luận án xác định khái niệm, đặc điểm, nội dung và các bảo đảm thực hiện quyền
hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ở Việt Nam.
Thứ hai, luận án đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện quyền
hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ở Việt Nam. Từ đó, xác định nhu cầu cần thiết
phải bảo đảm quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, luận án xác định các quan điểm định hướng và đề xuất hệ thống các
giải pháp có tính toàn diện và khả thi nhằm bảo đảm các quyền hưởng thụ và tiếp
cận các giá trị văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về nhận thức lý luận: luận án hình thành tư duy đầy đủ về quyền hưởng thụ và
tiếp cận các giá trị văn hóa, thực hiện quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn
hóa ở Việt Nam hiện nay.
Về hoàn thiện thể chế, chính sách: luận án xác lập cơ sở khoa học cho việc
triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, hoàn thiện cơ sở pháp lý của hưởng thụ và
tiếp cận các giá trị văn hóa, thiết kế chính sách hợp lý để bảo đảm quyền hưởng thụ
và tiếp cận các giá trị văn hóa ở Việt Nam.
Về thực tiễn: đề tài cung cấp những khuyến nghị cụ thể để bảo đảm quyền
hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ở Việt Nam hiện nay.

Trên cơ sở những đóng góp nêu trên, thành công của luận án có ý nghĩa thiết
thực đối với nhiệm vụ phát huy quyền con người, đẩy mạnh xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay.
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với các nhà hoạch
định chính sách, các nhà lập pháp, các nhà quản lý và các nhà hoạt động xã hội.

6


Luận án cũng có thể được tham khảo trong hoạt động nghiên cứu và đào tạo lĩnh
vực khoa học chính trị và khoa học pháp lý.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án
được kết cấu thành bốn chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lý luận về quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị
văn hóa
Chương 3: Thực trạng quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ở
Việt Nam
Chương 4: Quan điểm và giải pháp tăng cường quyền hưởng thụ và tiếp cận
các giá trị văn hóa ở Việt Nam

7


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu chủ đề đã lựa chọn, luận án chỉ dừng ở

việc tập hợp và nhận xét tổng quan những quan điểm nghiên cứu chính của một số
công trình tiêu biểu có liên quan trực tiếp tới các nội dung thuộc phạm vi bàn luận
của luận án. Bao gồm:
Nhóm công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về quyền hưởng thụ và tiếp
cận các giá trị văn hóa
Văn hóa là một phạm trù rộng lớn, có hàng trăm định nghĩa khác nhau và cộng
đồng quốc tế vẫn chưa có một cách hiểu chung về văn hóa. Vì vậy khái niệm quyền
văn hóa hay quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa cũng còn nhiều cách
hiểu khác nhau. Qua khảo sát tình hình nghiên cứu trong nước, tác giả nhận thấy đã
có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến khái niệm quyền hưởng thụ và
tiếp cận các giá trị văn hóa như đề tài khoa học cấp bộ: “Quyền kinh tế xã hội và
văn hóa và cơ chế bảo đảm các quyền này trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường ở nước ta” do GS.TS Hoàng Văn Hảo làm chủ nhiệm, thực hiện giai
đoạn 1995-1996; Đề tài khoa học cấp Bộ “Sự phát triển các quyền kinh tế, xã hội,
văn hóa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam” do viện nghiên cứu quyền con người
thực hiện trong giai đoạn 2001-2003 và một số công trình nghiên cứu được đăng tải
trên các tạp chí khoa học chuyên ngành liên quan đến các quyền văn hóa. Khi bàn
về quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, các công trình nghiên cứu chủ
yếu tập trung vào những vấn đề lý luận như bàn về các khái niệm quyền văn hóa,
quyền tiếp cận các giá trị văn hóa, quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa; mối quan hệ
giữa quyền văn hóa và phát triển bền vững.
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Quyền tiếp cận văn hóa trong quá trình phát triển ở
nước ta hiện nay” do Tiến sĩ Hoàng Văn Nghĩa làm chủ nhiệm và Viện nghiên cứu

8


quyền con người thuộc học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh là cơ
quan chủ trì (2010). Tác giả cho rằng, so với phạm trù quyền văn hóa, quyền tiếp
cận văn hóa có nội hàm hẹp hơn và hàm nghĩa nhấn mạnh đặc biệt đến mối quan hệ

của chủ thể quyền với chủ thể nghĩa vụ phải đáp ứng quyền đó trong lĩnh vực văn
hóa. Khi nói đến quyền tiếp cận văn hóa là muốn nói đến đòi hỏi áp dụng phương
pháp tiếp cận dựa trên quyền trong hoạch định và thực thi chính sách về văn hóa.
Theo nghĩa rộng nhất, quyền tiếp cận văn hoá bao gồm các quyền được tôn trọng,
được thụ hưởng và được tham gia vào quá trình sáng tạo ra các giá trị văn hoá. Theo
nghĩa hẹp, quyền tiếp cận văn hóa là quyền thụ hưởng các giá trị văn hoá, là quyền
được tham gia vào đời sống văn hóa. Tuy nhiên, con người tham gia vào đời sống
văn hóa với tính cách là những chủ thể tích cực, sáng tạo và trong mối liên hệ mật
thiết với cộng đồng, xã hội và với toàn bộ quá trình khẳng định và hoàn thiện nhân
cách văn hóa và nhân tính tự do của chính mình. Vì vậy, quyền tiếp cận văn hóa,
theo nghĩa rộng nhất của từ, chính là quyền văn hóa. Trong phạm vi đề tài này,
quyền tiếp cận văn hóa và quyền văn hóa là hai khái niệm được sử dụng thay thế lẫn
nhau và mang ý nghĩa đồng nhất.
- Sách chuyên khảo, Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, do GS Ngô Đức Thịnh chủ biên (2010),
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, đúc kết: “Giá trị văn hóa là yếu tố cốt lõi của văn
hóa, nó được sáng tạo và kết tinh trong quá trình lịch sử của mỗi cộng đồng, tương
ứng với môi trường tự nhiên và xã hội nhất định. Giá trị văn hóa hướng đến thỏa
mãn những nhu cầu và khát vọng của cộng đồng về những điều tốt đẹp (chân, thiện,
mỹ), từ đó bồi đắp và nâng cao bản chất người”. Với định nghĩa này, qua giá trị
văn hóa, chúng ta càng thấy rõ vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội.
Hưởng thụ các giá trị văn hóa làm cho con người thỏa mãn khát vọng hướng tới
những điều tốt đẹp (chân, thiện, mỹ), từ đó nâng cao bản chất Người, cũng có nghĩa
là nâng cao khả năng sáng tạo, xây dựng và phát triển xã hội của con người.
- TS Bùi Hoài Sơn (2010), “Bàn về khái niệm văn hóa”, đăng trên website của
Hội di sản văn hóa Việt Nam, đã khái quát ba nội dung của quyền văn hóa:

9



Thứ nhất, quyền văn hóa bao gồm quyền được hưởng thụ văn hóa hay nói một
cách ngắn gọn, người dân và cộng đồng có quyền đòi hỏi được hưởng thụ các sinh
hoạt văn hóa. Thứ hai, quyền văn hóa là quyền được thể hiện và thực hành văn hóa,
hay nói cách khác, các cá nhân và cộng đồng có quyền được bày tỏ, thể hiện những
sáng tạo mang tính riêng, cá nhân của mình. Thứ ba, quyền văn hóa là quyền được
tôn trọng và thừa nhận các phong tục, tập quán, lịch sử, hay những sự khác biệt về
văn hóa.
- Tiến sĩ Đỗ Lan Phương (2011), Quyền được hưởng thụ các giá trị văn hóa,
bài viết đăng trong sách chuyên khảo: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm
quyền kinh tế, văn hóa và xã hội – GS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên, đồng quan
điểm với tiến sĩ Bùi Hoài Sơn khi đặt vấn đề quyền văn hóa một cách khái quát.
Tuy nhiên, bài viết đã làm rõ hơn khái niệm quyền văn hóa. Quyền văn hóa chính là
nói về quyền thụ hưởng các giá trị văn hóa. Sự thụ hưởng ở đây bao hàm cả sự sáng
tạo, sự tham gia văn hóa của các cá nhân hay mỗi cộng đồng. Thụ hưởng các giá trị
văn hóa cũng chính là thụ hưởng những thành quả sáng tạo của các chủ thể, là sự
thủ hưởng những tinh hoa của các sáng tạo văn hóa – những cái đẹp, chúng góp
phần điều chỉnh xã hội theo hướng tốt hơn để từ đó xã hội phát triển. Quyền văn
hóa ở Việt Nam trong các hoạt động thực tiễn được xem xét ở các biểu hiện cụ thể
của đời sống văn hóa Việt Nam như tự do tiến hành các sinh hoạt văn hóa – tín
ngưỡng, tôn giáo; tự do tham gia các hoạt động văn hóa và thụ hưởng các giá trị văn
hóa: tiếp cận với văn hóa truyền thông, tiếp cận văn học nghệ thuật…
- PGS.TS Lê Hồng Lý (2011), Quyền bình đẳng văn hóa giữa các dân tộc, bài
viết đăng trong sách chuyên khảo: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm
quyền kinh tế, văn hóa và xã hội - GS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên. Tác giả đề cập
đến quyền văn hóa dưới khía cạnh tính bình đẳng. Quyền bình đẳng về văn hóa giữa
các dân tộc cần được: Mọi nền văn hóa và giá trị văn hóa dân tộc đều được tôn
trọng như nhau; tôn trọng tính độc đáo và đa dạng của các nền văn hóa trong quốc
gia; không có sự kỳ thị hiện tượng này hay hiện tượng khác trong văn hóa của các
dân tộc; giao lưu văn hóa là sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc; bình đẳng trong


10


cơ hội thể hiện và phổ biến các giá trị văn hóa của mỗi dân tộc, tự do biểu đạt các
giá trị văn hóa của mình; tạo ra môi trường cho sự tương tác giữa các nền văn hóa
để nó có thể sáng tạo và phát triển; coi văn hóa là một bộ phận quan trọng trong
việc hoạch định các chính sách quốc gia và địa phương. Tác giả kết luận bình đẳng
văn hóa giữa các dân tộc là điều kiện để thực hiện quyền tiếp cận và hưởng thụ các
giá trị văn hóa của mọi công dân.
- TS Nguyễn Đức Thùy, TS Hoàng Văn Nghĩa trong bài viết Một số vấn đề lý
luận về văn hóa, phát triển, quyền con người và quyền tiếp cận văn hóa, chuyên đề
được công bố trong kỷ yếu đề tài cấp Bộ: “Quyền tiếp cận văn hóa ở nước ta hiện
nay” (2010), Hà Nội đã đưa ra quan điểm về quyền tiếp cận văn hóa. Quyền tiếp
cận văn hóa về bản chất chính là quyền văn hóa. Theo nghĩa rộng nhất của từ,
quyền tiếp cận văn hoá bao gồm các quyền được tôn trọng, được thụ hưởng và được
tham gia vào quá trình sáng tạo ra các giá trị văn hóa. Theo nghĩa hẹp, quyền tiếp
cận văn hóa là quyền thụ hưởng các giá trị văn hóa. Quyền tiếp cận văn hóa là
quyền được tham gia vào quá trình sản xuất ra các giá trị văn hóa, được thụ hưởng,
được thể hiện và thực hành những giá trị văn hóa ấy. Quyền tiếp cận văn hóa là
quyền của mỗi cá nhân hay cộng đồng được thụ hưởng, bày tỏ, thể hiện những sáng
tạo văn hóa một cách tự do, công bằng và bình đẳng. Quyền thụ hưởng, quyền thể
hiện và thực hành văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tạo ra các giá trị
văn hóa của cá nhân và cộng đồng. Cá nhân sẽ không thể tham gia vào quá trình
sáng tạo giá trị văn hóa nếu không được tiếp cận, được thực hành và hưởng thụ các
giá trị do người khác hay cộng đồng sáng tạo ra.
-TS Đặng Dũng Chí (2010), Tiếp cận văn hóa với tính cách là một quyền cơ
bản của con người, bài viết trong trong kỷ yếu đề tài cấp Bộ: Quyền tiếp cận văn
hóa ở nước ta hiện nay, Hà Nội, cho rằng quyền văn hóa bao gồm quyền hưởng thụ
và phát triển đời sống văn hóa riêng của mình, quyền được duy trì và gìn giữ bản
sắc văn hóa và quyền về tiếp cận với quá trình sáng tạo giá trị văn hóa. Quyền về

văn hóa nhấn mạnh đến yêu sách về sự tôn trọng và bảo đảm các quyền nhằm bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa của mỗi người với tư cách là cá nhân và với tư

11


cách là thành viên của một cộng đồng nhất định; nó cũng chỉ ra yêu sách về sự tôn
trọng giá trị nền tảng của con người trong một trật tự xã hội nhân văn đó là sự tự do,
tự quyết và sáng tạo. Quyền văn hóa rất cần thiết cho việc tôn vinh và bảo vệ sự
sáng tạo, cũng như truyền thống của con người.
Tác giả khái quát rằng “Quyền văn hoá là quyền được bảo vệ, tiếp cận và tự
do tham gia vào các hoạt động văn hoá lành mạnh có lợi cho sự phát triển của mỗi
con người, mỗi cộng đồng, dân tộc và mỗi quốc gia”. Như vậy, có thể hiểu: Quyền
tiếp cận văn hóa có nghĩa là mỗi cá nhân và cộng đồng có quyền được đỏi hỏi và
được hưởng thụ các sinh hoạt văn hoá, có quyền được thể hiện những sáng tạo văn
hóa mang tính riêng, cá nhân của mình, có quyền được tôn trọng và thừa nhận các
phong tục, tập quán, lịch sử, hay những sự khác biệt về văn hoá.
Nhóm công trình nghiên cứu các vấn đề về thực trạng quyền hưởng thụ và
tiếp cận các giá trị văn hóa
Năm 2013, lần đầu tiên quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa được
ghi nhận trong văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất – Hiến pháp 2013.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để nhà nước tiếp tục ban hành các văn bản Luật cụ
thể hơn để bảo đảm thực hiện quyền này. Thực tế, trước khi Hiến pháp 2013 ra đời,
pháp luật Việt Nam chưa có quy định nào trực tiếp nhắc đến quyền hưởng thụ và
tiếp cận các giá trị văn hóa. Vì vậy, có không nhiều các công trình nghiên cứu về
thực trạng quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa.
- TS Hoàng Văn Nghĩa (2010), “Quyền tiếp cận văn hóa trong quá trình phát
triển ở nước ta hiện nay”, Đề tài khoa học cấp Bộ. Khi nghiên cứu về thực trạng
pháp luật liên quan đến quyền văn hóa ở Việt Nam, tác giả đưa ra nhận xét: vẫn
còn nhận thấy những điểm còn hạn chế, bất cập liên quan đến khung khổ pháp luật

về quyền tiếp cận văn hóa. Đó là, Thứ nhất: hệ thống pháp luật của chúng ta còn
thiếu đồng bộ, nhiều quy phạm pháp luật chưa có tính khả thi cao, chưa sát với thực
tiễn, vẫn còn mang nặng tính bao cấp, như việc ban hành các đạo luật cơ bản để
điều chỉnh trên lĩnh vực văn hoá còn chậm như Luật biểu diễn, đặc biệt trong thời
kỳ hội nhập quốc tế thì sự điều chỉnh của pháp luật vẫn chưa theo kịp sự đòi hỏi

12


ngày càng cao của quản lý xã hội bằng pháp luật, đổi mới tư duy pháp lý còn chậm
và cơ chế điều chỉnh pháp luật của bộ máy nhà nước vẫn còn nhiều bất cập.
Thứ hai: Việc thực thi pháp luật trong lĩnh vực văn hoá cũng còn nhiều vấn đề
quan tâm như, bên cạnh những người lợi dụng những sơ hở của pháp luật để vi
phạm, còn không ít người vô tình vi phạm pháp luật do thờ ơ, không quan tâm đến
những thay đổi của qui phạm pháp luật chỉ sống theo những thói quen đã lỗi thời
trong thực tiễn cuộc sống. Các cơ quan thực thi pháp luật còn rất yếu về chất lượng
chưa đáp ứng được tiến trình hội nhập hiện nay.
- Đề tài khoa học cấp bộ: “Thực trạng hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn
hóa - tinh thần các dân tộc thiểu số Tây Nguyên” do PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa
chủ nhiệm, học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, năm 2008.
Đề tài đã khái quát được về văn hóa và đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc
thiểu số ở Tây Nguyên. Qua đó phân tích thực trạng hưởng thụ và sáng tạo các giá
trị văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số ở tây Nguyên trên các mặt: Hoạt động
của các loại hình văn hóa mới nhằm đưa những thành tựu, những giá trị của văn hóa
hiện đại vào phục vụ đồng bào các dân tộc thiểu số và hoạt động sáng tạo và hưởng
thụ các giá trị văn hóa tinh thần cổ truyền của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Nhóm công trình nghiên cứu về phương hướng, quan điểm và kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa
- TS Hoàng Văn Nghĩa (2010), “Quyền tiếp cận văn hóa trong quá trình phát
triển ở nước ta hiện nay”, Đề tài khoa học cấp Bộ, đã đưa ra một số kiến nghị, giải

pháp góp phần vào việc xây dựng, hoàn thiện và thực thi các chính sách, pháp luật
về văn hóa, phát triển bền vững và quyền tiếp cận văn hóa hiệu quả cho tất cả mọi
cá nhân và nhóm xã hội: nhóm giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời
sống vật chất cho nhân dân; nhóm giải pháp về hoàn thiện hệ thống chính sách văn
hóa và quyền tiếp cận văn hóa; nhóm giải pháp hoàn thiện khung khổ pháp luật về
quyền tiếp cận văn hoá trong phát triển; nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế, năng lực
và phương thức thực thi chính sách và pháp luật về văn hóa và quyền tiếp cận văn
hóa; nhóm giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng và ứng dụng khoa học, công nghệ vào

13


nâng cao tính hiệu quả của bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa; nhóm giải pháp
tăng cường xã hội hóa công tác quản lý di sản văn hóa và phát triển đời sống văn
hóa; nhóm giải pháp tăng cường giáo dục, phổ biến và tuyên truyền về quyền con
người và quyền tiếp cận văn hóa; nhóm giải pháp bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hóa trong sự tôn trọng tính đa dạng của nền văn hóa Việt Nam.
- Đề tài khoa học cấp bộ: “Thực trạng hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn
hóa - tinh thần các dân tộc thiểu số Tây Nguyên” do PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa
chủ nhiệm, học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, năm 2008.
Đề tài đưa ra các giải pháp mang tính thực tiễn, đặc thù, phù hợp với đặc điểm của
các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo các giá trị
văn hóa tinh thần của đồng bào ở đây. Đó là các giải pháp như: xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở; xây dựng, nắm bắt nhu cầu, thị hiếu văn hoá; nâng cao chất lượng
các sản phẩm văn hoá; phát huy dân chủ trong quá trình hưởng thụ và sáng tạo các
giá trị văn hoá; phát huy vai trò của các thiết chế văn hoá; bảo tồn, phát huy các lễ
hội truyền thống. Với hệ thống giải pháp khá toàn diện, đề tài đã góp phần quan
trọng vào việc định hướng cho các chính sách của nhà nước về bảo đảm quyền
hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc Tây Nguyên.
- ThS Hoàng Hùng Hải (2010), “Chính sách pháp luật với bảo đảm quyền con

người trên lĩnh vực kinh tế xã hội và văn hóa”, bài đăng trong sách chuyên khảo:
Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học tập II – GS. TS Võ
Khánh Vinh chủ biên, đã nêu ra được một số kết quả về bảo đảm bằng pháp luật
quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam. Tác giả nhấn mạnh việc phát triển kinh
tế và xã hội phải đi đôi với mục đích vì con người. Để bảo đảm công bằng xã hội,
chúng ta phải đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về đại đoàn kết dân
tộc, chủ động khắc phục sự phân hóa giàu nghèo. Nhiều chính sách và biện pháp về
chế độ bảo trợ xã hội được mở rộng và có tác động thiết thực hơn. Y tế, giáo dục có
bước phát triển đang kể, tinh thần làm chủ của nhân dân được mở rộng.
- ThS Nguyễn Linh Giang (2011), Nghĩa vụ pháp lý của quốc gia đối với các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, tạp chí nhà nước và pháp luật số 2/2011 đã đưa ra

14


một số lưu ý để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ quốc gia trong lĩnh vực quyền kinh tế
xã hội văn hóa:
+ Cần có các kế hoạch giám sát việc thực hiện các chương trình hành động,
các chiến lược kinh tế xã hội và văn hóa.
+ Các chương trình hành động, các chiến lược hành động phải luôn gắn với
mục tiêu vì quyền con người.
+ Các chương trình phát triển kinh tế xã hội cần phải tính đến quyền lợi của
các đối tượng dễ bị tổn thương.
+ Cần tham khảo các khuyến nghị, bình luận của ủy ban về các quyền kinh tế
xã hội và văn hóa cũng như của các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc.
+ Cần thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia.
- TS Hoàng Văn Nghĩa (2011), “Tiếp cận văn hóa với tính cách là một quyền
cơ bản của con người”, Tạp chí lý luận chính trị, số 6/2011. Tác giả cho rằng: Bảo
đảm quyền tiếp cận văn hoá liên hệ mật thiết với việc bảo đảm các quyền tự do cơ
bản khác, đặc biệt là quyền tiếp cận thông tin, quyền được giáo dục và quyền tự do

biểu đạt. Trọng tâm của quyền con người nói chung và của quyền tiếp cận văn hoá
nói riêng, đó là nguyên tắc bình đẳng. Bình đẳng không chỉ đơn thuần là sự đối xử
một cách như nhau, mà điều quan trọng hơn là tôn trọng và thừa nhận sự khác biệt
và đa dạng. Thực tiễn cho thấy điều này không dễ dàng trong quá trình phát triển xã
hội dựa trên sự thống nhất chung của đa dạng các giá trị và nền văn hoá khác biệt.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trong nước, một mặt chuyển hoá quan
điểm phát triển bền vững của Uỷ ban Brundtland vào thực tiễn Việt Nam; mặt khác
cũng đã phát triển nội hàm của tiếp cận văn hoá với tính cách là tiếp cận tổng hợp
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và môi trường, đồng thời cũng là cách tiếp cận
nhằm vào giá trị phát triển của con người và cộng đồng. Tuy nhiên các công trình
nghiên cứu này chưa đề cập sâu rộng đến vấn đề văn hoá dưới góc độ quyền con
người, cũng như thực trạng quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa. Vì vậy,
đề tài “Quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ở Việt Nam” nhằm luận
giải về khái niệm, bản chất và nội dung của quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị

15


văn hóa, cũng như việc bảo đảm và hiện thực hóa quyền này trong quá trình phát
triển ở nước ta. Trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu trước đó về quyền
con người, văn hoá, đề tài sẽ đưa ra những sự khái quát hoá, phân tích và tổng hợp
về vai trò của quyền tiếp cận văn hoá đối với sự phát triển của xã hội nói chung và
của văn hoá cũng như của mỗi cá nhân nói riêng.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Trong các công trình nghiên cứu quốc tế, quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá
trị văn hóa không thể chỉ được nhìn nhận từ giác độ con người là đối tượng thụ
hưởng sự phát triển, mà còn từ giác độ là chủ thể của quyền. Trong thời đại ngày
nay, phát triển phải luôn xuất phát từ con người và hướng đích vào việc hiện thực
hoá các quyền cơ bản của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng; phát triển phải dựa trên
nguyên tắc nền tảng trao cơ hội bình đẳng cho tất cả các cá nhân và nhóm người,

đặc biệt là những nhóm yếu thế, được tiếp cận và thụ hưởng các giá trị và thành tựu
của quá trình ấy. Sau đây là một số công trình nghiên cứu có liên quan đến quyền
hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa:
- An-Naim, Abdullahi Ahmed, “Human Right in Cross-Cultural Perspectives:
A Quest for Consensus” [Quyền con người theo quan điểm đa văn hóa: Đi tìm sự
nhất trí], Philadelphia: Nxb Viện Đại học Pennsylvania, 1991. Cuốn sách ra đời
trong bối cảnh ngày càng nhiều tranh luận về tác động của đa dạng văn hóa với thực
thi và bảo vệ quyền con người, thảo luận về các vấn đề như tính chính đáng liên văn
hóa của quyền con người, những xung đột về tính phổ quát của quyền con người và
thực tế đa dạng văn hóa, vai trò của quyền con người và văn hóa trong đấu tranh của
người bản địa, văn hóa với tư cách là một nguyên tắc của vi phạm quyền con người,
sự cần thiết về một đồng thuận quốc tế thông qua các biện pháp xây dự tính chính
đáng của quyền con người trong bối cảnh văn hóa khác nhau.
- Donders Yvonne, “Human right in education, science and culture: Legal
development and Challeghes” [Quyền con người trong giáo dục, khoa học và văn
hóa: sự phát triển pháp lý và những thách thức], Ashgate, 2000. Cuốn sách phân
tích về các quyền kinh tế xã hội và văn hóa trong thẩm quyền của UNESCO, trong

16


đó có quyền giáo dục, quyền hưởng lợi từ tiến bộ của khoa học và quyền tham gia
đời sống văn hóa. Tác giả cũng đi sâu phân tích về nội dung, phạm vi áp dụng và
trách nhiệm tương ứng của nhà nước trong việc bảo đảm các quyền này dựa trên
khuôn khổ luật quốc tế về quyền con người, trong đó có việc thực thi trách nhiệm
đó. Đây là một vấn đề còn ít được đề cập một cách hệ thống trong các nghiên cứu
về quyền con người, và do đó, cuốn sách là một bổ sung hữu ích cho việc nghiên
cứu các quyền con người về văn hóa.
- Eide, Asbjorn, Catarina Krause, Allan Rosas “Economic, Social and
Cultural Right”[Quyền kinh tế xã hội và văn hóa]. Dordrecht: Nxb Martinus

Nijhoff, 1995. Phiên bản 2 có chỉnh sửa năm 2001. Đây là một tập hợp các bài phân
tích về một lĩnh vực quyền con người thường ít được coi trọng trong pháp luật quốc
tế về quyền con người nói chung. Cuốn sách gồm 4 phần, trong đó phần I nêu lên
những cơ sở lý luận bác bỏ quan điểm cho rằng quyền con người về kinh tế, xã hội,
văn hóa không có tính chất và địa vị pháp lý như các quyền dân sự và chính trị mà
đúng hơn, các quyền này cần được bảo đảm và phát huy một cách công bằng, đầy
đủ. Phần II phân tích từng quyền chính trong hệ thống quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa. Phần III xem xét các nhóm xã hội và các hoàn cảnh trong đó việc thực thi các
quyền kinh tế, văn hóa, xã hội là quan trọng. Tại phần IV, các tác giả thảo luận về
vấn đề làm thế nào để triển khai và thực thi các quyền trên thực tế.
Bên cạnh đó, để làm rõ quyền văn hóa đã được ghi nhận trong các văn bản của
Liên Hợp quốc, trong phiên họp thứ 40 của Ủy ban về các quyền Kinh tế, Xã hội và
Văn hoá, ngày thảo luận chung về "Quyền tham gia vào đời sống văn hoá" (ngày 9
tháng 5 năm 2008) tại Geneva, có nhiều bài viết thể hiện các quan điểm của các tác
giả. Các quan điểm được trình bày không nhất thiết phản ánh những quan điểm của
Liên hợp quốc. Điển hình là một số bài viết sau:
- Christian Groni (2008), “The right to take part in cultural life” [Quyền tham
gia vào đời sống văn hóa], cho rằng: Quyền tham gia vào đời sống văn hoá bao
gồm ba chiều chồng chéo: văn hoá như một lối sống, văn hoá như là tự do sáng tạo
và văn hoá như một quyền tiếp cận.

17


Thứ nhất, văn hoá là lối sống. Đó là khả năng tự thực hiện văn hoá: Văn hoá
như một cách sống bao gồm khả năng của một cá nhân để phù hợp với hành vi và
cuộc sống cá nhân của mình theo một hoặc nhiều nền văn hoá. Quyền tham gia vào
cuộc sống văn hoá không chỉ bao gồm tự thực hiện trong một nền văn hoá nhất định
mà còn gồm quyền lựa chọn cuộc sống văn hoá hoặc quyền thoát khỏi văn hoá đó.
Thứ hai là sự tự do sáng tạo. Đó là khả năng diễn đạt sáng tạo: Quyền tham

gia vào đời sống văn hoá bao gồm tự do không thể thiếu cho hoạt động sáng tạo.
Điều này có nghĩa là mỗi cá nhân có thể tham gia vào bất kỳ hoạt động nghệ thuật
và sáng tạo nào. Khía cạnh quyền được tham gia vào đời sống văn hoá không chỉ
giới hạn trong bản thân sáng tạo, mà còn mở rộng đến việc phổ biến, trình bày và
thực hiện bất kỳ tác phẩm nghệ thuật hay sản xuất sáng tạo hoặc nghệ thuật nào.
Thứ ba là thưởng thức văn hoá. Đó là tính sẵn có: Quyền tham gia vào đời
sống văn hoá như là một quyền tiếp cận văn hoá đòi hỏi sự có sẵn của một cơ sở hạ
tầng văn hóa, bao gồm, ngoài các trung tâm văn hoá, viện bảo tàng, thư viện, nhà
hát, rạp chiếu phim, các sản phẩm văn hoá như sách, báo, tạp chí, sản phẩm nghe
nhìn, chương trình phát thanh và truyền hình. Hơn nữa, nó cũng bao gồm việc có
sẵn một hệ thống bảo vệ di sản văn hóa, có thể là di sản của các nhóm dân tộc thiểu
số, dân tộc thiểu số hoặc người bản địa trong nước, với điều kiện bảo vệ di sản văn
hóa này phù hợp với khái niệm nhân chủng học của ICESCR.
- Ephraim Nimni - độc giả về chủ nghĩa dân tộc và giải quyết xung đột sắc tộc
tại Đại học Queen'sBelfast (2008), “Collective Dimensions of the Right to take Part
in Cultural Life”[Các mô hình tập thể của quyền tham gia vào đời sống văn hoá],
đưa ra kết luận: quyền tập thể tham gia vào đời sống văn hoá là một thành tố quan
trọng trong việc lưu giữ văn hoá dân tộc thiểu số vì những lý do sau: 1) Các nền văn
hoá năng động và đa dạng; chúng thay đổi theo thời gian và là những đấu trường
cho các cuộc thi tư tưởng. Hệ tư tưởng của Nhân quyền phải trở thành và đối thủ
cạnh tranh chính và chúng ta phải tạo điều kiện cho sự thành công của nó. 2) Trong
một thế giới các quốc gia dân tộc, văn hoá dân tộc thiểu số gặp bất lợi. Các nước có
đạo luật có các quốc gia để bảo vệ sự toàn vẹn của họ. Các nền văn hoá phi quốc gia

18


thì không. Để bù đắp cho những bất lợi này, các văn hoá dân tộc nên được hưởng
các hình thức tập thể được thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực công cộng. 3) Các nền
văn hoá có khuynh hướng gần gũi khi bị đe doạ bên ngoài và mở ra cuộc tranh luận

nội bộ khi họ rơi vào an toàn. Cộng đồng quốc tế phải luôn luôn tạo điều kiện cho
cuộc tranh luận dân chủ nội bộ phát triển, vì điều này tạo ra cơ hội tốt nhất để Nhân
quyền thành công. 4) Sự công nhận tập thể các quyền văn hoá dân tộc thiểu số trong
lãnh vực công cộng tạo ra những điều kiện tốt nhất cho an ninh văn hoá. 5) Điều lệ
hoặc hiệp ước công nhận cá nhân tập thể của các nền văn hoá dân tộc vô gia cư và
mang lại cho họ an ninh quốc tế là điều kiện không có tính ổn định quốc tế.
- Tiến sỹ Yvonne Donder - Phó Giám đốc Trung tâm Luật quốc tế Amsterdam
tại Khoa Luật của Đại học Amsterdam (2008), “Cultural Life in the context of
Human Rights” [Cuộc sống văn hoá trong bối cảnh nhân quyền]. Tác giả thừa nhận
quan điểm của một học giả về quyền văn hoá: "... bất kỳ nỗ lực nào để nói về các
vấn đề văn hoá về các quyền có thể là trơn trượt và khó khăn." Lý do chính là các
quyền văn hoá "trơn và khó" là nội dung và phạm vi của nó không rõ ràng. Sự tối
tăm này chủ yếu là do thuật ngữ văn hoá rất rộng và mơ hồ. Văn hoá có thể đề cập
đến nhiều thứ, thay đổi từ các sản phẩm văn hoá, như nghệ thuật và văn học, đến
quá trình văn hoá hoặc văn hoá như một lối sống.
Theo đó, quyền tham gia vào đời sống văn hoá liên quan đến quyền của người
sáng tạo và người truyền tải văn hoá, quyền của các cá nhân đóng góp và tiếp cận
đời sống văn hoá cũng như các quyền liên quan đến việc thúc đẩy và bảo tồn đời
sống văn hoá, bao gồm giáo dục, ngôn ngữ và tôn giáo. Nó cũng liên quan đến việc
bảo vệ di sản văn hóa và thiết lập và củng cố các thể chế văn hoá. Những vấn đề
này liên quan chặt chẽ đến các quyền con người khác, bao gồm quyền giáo dục
được quy định trong ICESCR, cũng như các quyền tự do tư tưởng, tôn giáo, biểu
hiện và hội họp, như được quy định trong ICCPR.
- Elissavet Stamatopoulou - Trưởng Ban Thư ký Diễn đàn Thường trực về các
vấn đề Bản địa, Phòng Chính sách Xã hội và Phát triển, Vụ Kinh tế và Xã hội Liên
hợp quốc (2008), “The right to take part in cultural life” [Quyền được tham gia vào

19



đời sống văn hoá]. Các nội dung được nhấn mạnh làm rõ trong bài viết thứ nhất là
vạch ra nội dung của các quyền văn hoá, chúng là gì, các yếu tố quy phạm của
chúng là gì, giải thích tại sao các quyền văn hoá đặc biệt quan trọng đối với sự sống
còn của người dân bản địa và người thiểu số. Phân tích 7 đặc điểm đặc biệt của
quyền văn hoá liên quan đến các dân tộc thiểu số và người bản địa. Thứ hai, đưa ra
6 lý do giải thích cho việc bỏ bê các quyền văn hoá trong nhiều thập kỷ. Thứ ba,
đưa ra cái nhìn tổng quan về bối cảnh chính trị và những phát triển gần đây có liên
quan đặc biệt đến các quyền văn hoá.
Như vậy, trong các tranh luận quốc tế, quyền văn hóa chủ yếu được đề cập đến
ở khía cạnh quyền tham gia vào đời sống văn hóa. Các quan điểm được đưa ra từ
nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên về cơ bản đều cho rằng nội hàm của quyền tham
gia vào đời sống văn hóa bao gồm cả quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn
hóa và một số nội dung khác.
1.2. Nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.2.1. Nhận xét tổng quát
Số lượng các công trình nghiên cứu gắn với chủ đề luận án khá lớn và đa
dạng, được tiếp cận từ nhiều hướng với các mức độ liên quan khác nhau. Đây là
một thuận lợi đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với việc triển khai nghiên
cứu đề tài luận án.
Kết quả của các công trình nghiên cứu đã cung cấp một lượng kiến thức quan
trọng về khái niệm, đặc điểm quyền văn hóa, khái niệm quyền hưởng thụ các giá trị
văn hóa, quyền tiếp cận văn hóa; thực trạng pháp luật về quyền tiếp cận văn hóa;
thực trạng hưởng thụ các giá trị văn hóa ở một số vùng đặc thù; những giải pháp
bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa ở một số địa phương cụ
thể... Đây là nguồn tư liệu vật chất cần thiết, rất quan trọng để tiếp tục triển khai
nghiên cứu sâu về những nội dung trọng yếu của đề tài luận án.
Tuy nhiên, các quan điểm nghiên cứu về quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá
trị văn hóa đang có nhiều khoảng trống, nhiều sự khác biệt, đặt ra trách nhiệm nặng
nề cho công việc nghiên cứu đề tài.


20


Nhìn một cách tổng thể, có thể thấy, mặc dù số lượng các công trình nghiên
cứu liên quan tới đề tài luận án khá nhiều nhưng hiện tại chưa có một công trình
nghiên cứu nào tổ chức nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ, toàn diện và trực
tiếp về quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa để từ đó đề xuất những
phương hướng, giải pháp bảo đảm quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ở
Việt Nam. Trên thực tế, việc nghiên cứu về lý luận, đánh giá về thực trạng quyền
hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ở Việt Nam chưa được nhận diện một cách
thấu đáo dẫn đến tình trạng thiếu các giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những
khoảng trống pháp lý và hiện thực hóa quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn
hóa ở Việt Nam hiện nay.
1.2.2. Những ưu điểm, những nội dung nghiên cứu đã sáng tỏ và được luận
án kế thừa, phát triển trong nghiên cứu đề tài
Căn cứ tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến chủ đề luận án,
có thể nhận thấy một số nội dung liên quan đến đề tài luận án đã được giải quyết,
đạt được sự thống nhất cao và đề tài có thể tiếp thu mà không cần trở lại để phân
tích, làm sáng tỏ thêm.
Trên phương diện lý luận, nhận thức chung về quyền con người đã sáng tỏ.
Đặt trong sự nhận thức đó, vấn đề về vị trí, vai trò, khái niệm, đặc điểm của quyền
con người không còn là vấn đề gây tranh luận.
Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến khái niệm quyền văn hóa, quyền tiếp
cận văn hóa, quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa dưới góc độ quyền con người.
Một số tác giả đã phân tích các nội dung của quyền tiếp cận văn hóa theo tinh thần
của các công ước quốc tế liên quan đến quyền văn hóa của con người; những yếu tố
tác động đến quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, những đặc điểm của
quyền tiếp cận văn hóa trong xã hội hiện đại với sự hỗ trợ của Internet, tự do thông
tin và không gian mở.
Kết quả nghiên cứu của các công trình có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở lý luận

mang tính tiễn đề để tác giả luận án tiếp tục đi sâu phân tích cơ sở lý luận pháp luật
quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ở nước ta hiện nay.

21


Trên phương diện thực tiễn, về thực tiễn pháp luật, quyền hưởng thụ và tiếp
cận các giá trị văn hóa lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, vì
vậy hiện nay đã có một số nghiên cứu về thực trạng quy định của pháp luật về vấn
đề này. Các nghiên cứu chủ yếu bàn về sự cần thiết của việc quy định về quyền văn
hóa trong Hiến pháp. Một số công trình nghiên cứu chung về các quy định của pháp
luật về nhóm quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Đặc biệt, đã có đề tài liệt kê một cách
khá đầy đủ các văn bản pháp luật hiện hành liên quan đến quyền hưởng thụ và tiếp
cận các giá trị văn hóa. Về thực tiễn thực hiện quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá
trị văn hóa, đã có một số công trình nghiên cứu khá toàn diện ở các địa bàn khác
nhau ở Việt Nam, điển hình là khu vực Tây Nguyên.
Trên phương diện đề xuất, kiến nghị, các nghiên cứu đã đề ra được các nhóm
biện pháp góp phần vào việc xây dựng, hoàn thiện và thực thi các chính sách, pháp
luật về văn hóa, phát triển, phát triển bền vững và quyền tiếp cận văn hóa hiệu quả
cho tất cả mọi cá nhân và nhóm xã hội. Một số bài viết trên các tạp chí đã nêu ra
một số giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận văn hóa dưới các góc độ khác nhau như
bảo đảm quyền bình đẳng, đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về đại
đoàn kết dân tộc, chủ động khắc phục sự phân hóa giàu nghèo hoặc nêu ra các giải
pháp chung để bảo đảm thực hiện nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Một số đề
tài đã chỉ ra được các giả pháp cụ thể và toàn diện để bảo đảm quyền hưởng thụ các
giá trị văn hóa ở một số địa bàn đặc thù của Việt Nam.
Những kết quả nghiên cứu của các công trình này sẽ được nghiên cứu sinh
nghiên cứu để nhìn nhận vấn đề dưới nhiều khía cạnh khác nhau và đưa ra quan
điểm riêng của mình.
1.2.3. Những vấn đề liên quan đến chủ đề luận án nhưng chưa được giải

quyết thấu đáo hoặc chưa được đặt ra nghiên cứu
Về lý luận
- Khái niệm quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, quyền tiếp cận các giá trị
văn hóa đã được đề cập trong một số các công trình nghiên cứu liên quan đến chủ
đề luận án. Tuy nhiên, những khái niệm đặt ra chưa có sự thống nhất, chưa làm rõ

22


×