Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Quá trình mở rộng liên minh châu âu từ khi liên xô tan rã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.47 KB, 14 trang )

Quá trình mở rộng Liên minh Châu Âu từ khi
Liên Xô tan rã
1. Bối cảnh quốc tế Liên minh Châu Âu từ khi Liên Xô tan rã
1.1. EU chính thức được thành lập và Hiệp ước Maasstricht.
Tháng 5/1967, các nước thành viên của 3 Cộng đồng CECA (1952),
EURATOM và EEC (1957) đã ký Hiệp ước thống nhất 3 Cộng đồng nói trên
và đặt tên là “ Hiệp ước về Cộng đồng châu Âu”(EC). Từ đó toàn bộ 3 Cộng
đồng CECA, EURATOM và EEC được đặt dưới quyền kiểm soát và điều hành
của của hai cơ quan quyền lực cao nhất là Hội đồng Bộ trưởng và Ủy ban
châu Âu với mục tiêu là thành lập một thị trường thống nhất trong đóvốn,
hàng hóa, lao động được tự do di chuyển, xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi
thuế quan giữa các nước thành viên, thành lập một cơ sở thuế quan và chính
sách thương mại chung, thống nhất các chính sách trong hàng loạt các lĩnh
vực kinh tế nhằm tăng cường sức cạnh tranh với các khối kinh tế ngoài Cộng
đồng, tiến tới một liên minh chặt chẽ về chính trị.
Sau những biến động chính trị của Liên Xô và Đông Âu cuối những năm 80,
đầu những năm 90. Đó là thời kỳ hậu chiến tranh lạnh với sự sụp đổ của cực
Liên Xô khi liên bang Xô viết ngừng hoạt động vào tháng 12/1991. Như vậy,
trật tự hai cực Yanta với sự đối đầu của hai siêu cường là Liên Xô và Mỹ đã
không còn nữa.Tuy nhiên, một trật tự thế giới mới vẫn đang trong quá trình
hình thành . Trong cục diện chính trị quốc tế mới này, nước Nga với vô vàn
khó khăn chưa thể tiếp quản vai trò siêu cường của Liên Xô trước đây. Trong
khi đó,Mỹ muốn vươn lên thành bá chủ, lấp đầy khoảng trống quyền lực do
Liên Xô để lại. Nhìn chung, cục diện chính trị quốc tế mới đã khiến mọi chủ
1


thể trong quan hệ quốc tế phải điều chỉnh lại chiến lược phát triển của mình.
Cộng đồng Châu Âu - EC cũng không phải là ngoại lệ.
Trong bối cảnh đó, tháng 12 năm 1991, 12 nước EC đã họp tại Maasstricht
( Hà Lan) ký tắt hiệp ước thành lập Liên minh châu Âu (EU) và đến 1/11/1993


thì hiệp ước này được tất cả 12 nước thành viên phê chuẩn. EU được thành lập
để tạo ra một liên minh thống nhất về kinh tế, tiền tệ, chính trị, an ninh và quốc
phòng, xóa bỏ trên thực tế đường biên giới quốc gia giữa các nước thành viên,
thực hiện thống nhất các chính sách về xã hội. Theo đó, kể từ ngày 1/1/1993
bắt đầu xóa bỏ việc kiểm soát biên giới lãnh thổ quốc gia, biên giới hải quan,
tự do lưu thông hàng hóa, lao động, vốn, tự do đi lại, tự do cư trú trên toàn
lãnh thổ liên minh. 1
Đến năm 1995, EU kết nạp thêm ba nước thuộc hiệp hội buôn bán tự do châu
âu (EFTA) là Áo, Phần Lan, Thụy Điển, đưa số lượng thành viên lên 15 . Đi
lên từ một tổ chức kinh tế, EU đã phát triển thành một tổ chức kinh tế-chính trị
và an ninh rộng lớn bao gồm chủ yếu các nước Tây Âu, và hiện tại nó đang có
xu hướng tiến tới quy mô của một siêu quốc gia chính trị. 2
1.2. Bối cảnh EU thế kỷ XXI
Bước sang thế kỷ XXI, một cục diện chính trị quốc tế xuất hiện nhiều
yếu tố mới phức tạp. Tác động của cách mạng khoa học công nghệ, thông tin
trên mọi lĩnh vực, sự bùng nổ của internet, xu hướng toàn cầu hóa ngày càng
phát triển mạnh mẽ…đặt ra cho các quốc gia những cơ hội và thách thức mới.
Trong bối cảnh quốc tế diễn ra như vậy, EU đã họp tại Lisbon vào 3/2000 để
1 Những điều cần biết về thị trường EU, Trung tâm tư vấn và đào tạo kinh tế thương mại (ICTC), nxb nông
nghiệp, tr 10,11.
2 Những vấn đề xung quanh việc hợp nhất châu âu, trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia-viện thông
tin khoa học xã hội,Hà Nội 1997, tr7,8.

2


đưa ra một chiến lược tổng thể nhằm hiện đại hóa nền kinh tế của EU để nó có
thể cạnh tranh trên thị trường thế giới với các đối tác mạnh như Mỹ, Nhật, các
nước công nghiệp hóa mới phát triển, với tên gọi “Chiến lược Lisbon”. Mục
tiêu của chiến lược này là phát triển EU thành một nền kinh tế tri thức có tính

cạnh tranh và năng động nhất thế giới, có khả năng tăng trưởng kinh tế bền
vững, nâng cao số lượng và chất lượng việc làm và gắn kết xã hội chặt chẽ
hơn. Chiến lược này bao gồm cả việc mở cửa tất cả các lĩnh vực của nền kinh
tế để cạnh tranh, khuyến khích sự đổi mới và đầu tư của các doanh nghiệp
đồng thời hiện đại hóa hệ thống giáo dục của EU nhằm đáp ứng những yêu cầu
của một xã hội thông tin.
Quá trình mở rộng EU là chiến lược không thể thiếu trong sự phát triển và
vươn lên không ngừng của mình. Từ sáu quốc gia cơ bản ban đầu sáng lập lên
Liên Minh vào năm 1957, EU đã không ngừng mở rộng và kết nối với các quốc
gia mới. Giữa năm 1973 và 2013, EU đã chứng kiến bảy lần mở rộng, nâng tổng
số quốc gia thành viên EU lên tới con số 28.
Có thể nói, trong trật tự đa cực sau chiến tranh lạnh EU đã từng bước khẳng
định vị trí là một cực của mình với nền kinh tế, chính trị vững mạnh. Tuy nhiên
trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, các chủ thể chính trị
khác cũng đang cố vươn lên không ngừng buộc EU phải tự điều chỉnh và tìm
cho mình những bước đi phù hợp cho quá trình tiếp theo.
2. Quá trình mở rộng Liên minh EU từ khi Liên Xô tan rã
2.1. Điều kiện gia nhập.
Năm 1993, tại cuộc họp của Hội đồng châu Âu ở Copenhaghen, EU đã đặt ra
điều kiện cho các nước xin gia nhập gồm 3 tiêu chuẩn:

3


Thứ nhất là tiêu chuẩn về chính trị. Về mặt này các nước xin gia nhập
phải có những thể chế ổn định đảm bảo dân chủ, đảm bảo các nguyên tắc lập
pháp, nhân quyền và tôn trọng dân tộc thiểu số. Các tiêu chuẩn về chính trị
được đánh giá dựa vào các công ước của EU về nhân quyền và bảo vệ các dân
tộc thiểu số.
Thứ hai là tiêu chuẩn về kinh tế, các nước xin gia nhập phải chứng minh

mình có nền kinh tế thị trường đang vận hành,có khả năng chịu được những
sức ép cạnh tranh trong thị trường đơn nhất của Liên minh. Các tiêu chuẩn về
kinh tế được đánh giá thông qua các tiêu chí nhất định như trong nền kinh tế
thị trường thì giá cả, dịch vụ phải được tự do hóa và được quản lý bởi hệ thống
pháp luật có hiệu quả, mọi thành phần sở hữu phải được tôn trọng, sự ổn định
kinh tế vĩ mô và sự đồng thuận giữa các chính sách kinh tế.
Khi trung tâm nghiên cứu chính sách kinh tế ( CEPR) ra đời năm 1992 thì lại
càng thu hút các nước xin gia nhập EU vì việc gia nhập sẽ cho phép họ được
tham gia vào chương trình này và tránh được những tổn thất có thể xuất hiện
nếu họ không tham gia.
Thứ ba là tiêu chuẩn về pháp luật, theo đó các nước xin gia nhập phải
chấp nhận tất cả những quy định và luật lệ hiện có của EU ( Acquis
communautaire) 3, và đưa vào hệ thống pháp luật của mình.
Để đáp ứng được tiêu chuẩn này thì EU và các nước thành viên sẽ thực hiện
các vòng đàm phán song phương, Ủy ban châu Âu sẽ đóng vai trò giám sát
thường niên sự tiếp nhận và việc đưa vào áp dụng trong pháp luật của quốc gia
đồng thời cung cấp hỗ trợ tài chính trong suốt quá trình thực hiện mục tiêu này.
3 A c q u i s c om m u n a u t a i r e l à t oà n b ộ l u ậ t l ệ v à qu y đ ị n h củ a E U , g ồm 8 0. 0 0 0 t r a n g c h i a t h à n h 3 1
k h oả n m à c á c nư ớ c ứ n g v i ê n c h ấ p n h ậ n bà g ắ n k ế t v à o h ệ t h ốn g p h á p l u ậ t củ a m ìn h để t i ế n t ớ i sự
t h ốn g n h ấ t g i ữ a h ệ t h ốn g p h á p l u ậ t củ a c á c n ư ớ c ứ ng v i ê n v ớ i h ệ t h ốn g p h á p lu ậ t củ a E U .

4


Qua từng giai đoạn, EU có thể bổ sung thêm một số các chi tiết nhằm cụ thể
hóa quá trình đàm phán. Tại cuộc họp của Hội đồng châu Âu ở Mandrid vào
12/1995, EU đã yêu cầu các nước ứng viên phải điều chỉnh cơ cấu hành chính
của mình nhằm tạo điều kiện cho sự hội nhập từng bước vào hài hòa EU. Đến
hội nghị thượng đỉnh Helsinki năm 1999, EU yêu cầu các ứng viên phải chia sẻ
các giá trị và các mục tiêu của Liên minh như các Hiệp ước quy định và giải

quyết tranh chấp biên giới với các quốc gia ngoài EU cũng như chú trọng vào
an toàn hạt nhân. Một Ủy ban đã được thành lập để giám sát tiến độ của các
nước xin gia nhập trong việc thực hiện Tiêu chuẩn Copenhagen cũng như
nguồn tài chính hỗ trợ các nước Trung và Đông Âu(CEECs) thực hiện tiêu
chuẩn này của Liên minh.
2.2.

Tóm lược quá trình mở rộng EU 1995 - 2004

Mở rộng năm 1995: Thành viên mới: Áo, Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy. Ảnh
hưởng: Thêm 2 ngôn ngử chính thức tại EU: tiếng Thụy Điển và tiếng Phần Lan.
Các nước bắc âu có thêm tiếng nói tại EU về vấn đề môi trường và quyền con
người. Việc mở rộng này làm xuất hiện vấn đề về mặt cơ cấu của EU như số
thành viên của ủy ban điều hành.
Lần mở rộng thứ tư này, EU mở rộng theo chiều dọc kinh tuyến, đến các quốc
gia xa hơn ở phía bắc Thuỵ Điển, Phần Lan), và quốc gia ở Trung Âu (Áo) làm
cho không gian EU vươn tầm với đến tận nước Nga, Bắc Băng Dương và Địa
Trung Hải ở phía Nam. Do vậy, sức hấp dẫn của EU ngày càng gia tăng, đặc biệt
đối với những quốc gia Trung và Đông Âu (CEE) mới đang trong quá trình
chuyển đổi.
Mở rộng năm 2004: Thành viên mới: Đảo Síp, Séc, Estonia, Hungary, Latvia,
Lithuania, Malta, Phần Lan, Slovakia, Slovenia.
5


• Ảnh hưởng: sự gia nhập của các thành viên mới đã đặt thêm gánh nặng
cho ủy ban điều hành, điều kiện làm việc của các quan chức EU cũng bị
giảm sút do sự xuất hiện của các bộ luật mới.
Quá trình mở rộng EU 1995 - 2004
Từ năm 1994-1996, các nước CEE lần lượt nộp đơn xin gia nhập EU, đầu tiên là

Hungary (31-3-1994). Năm 1997, Ủy ban Châu Âu đưa ra Chương trình Nghị sự
2000, cụ thể hóa chiến lược mở rộng và đến năm 1998 thì bắt đầu quá trình đàm
phán với các nước ứng viên về việc mở rộng. Việc đàm phán này được kết thúc
vào năm 2002 với quyết định của Hội nghị thượng đỉnh tại Copenhagen, khẳng
định các nước này sẽ trở thành thành viên của EU vào ngày 01-5-2004.. Lần mở
rộng thứ 4 và thứ 5 đến các quốc gia Đông Âu gây ra nhiều tranh cãi giữa các
thành viên chủ chốt, chủ yếu vì lý do địa chính trị. Đặc biệt trong lần mở rộng
thứ 5 với các nước CEE, nội bộ EU đã phải trải qua nhiều thương lượng không
dễ dàng bởi khác biệt trong quan điểm lợi ích quốc gia.
• Về mặt địa lý và lịch sử, các quốc gia ủng hộ hay không ủng hộ tiến trình
mở rộng đều bởi những tính toán lợi ích địa chính trị của họ. Những quốc
gia có liên hệ gần gũi với các nước ứng cử viên, hoặc đã từng có lịch sử
gắn bó có xu hướng ủng hộ hơn những quốc gia ở xa, không có nhiều
quan hệ gắn bó với các nước ứng cử viên về địa lý, lịch sử, kinh tế. Hội
nghị cấp cao EU tháng 12/2001 đã tuyên bố 10 quốc gia là : Manta,
Slovakia, Séc, Estonia, Látvia, Lítva, Hungari, Ba Lan, Slovenia đã đạt
được những tiêu chuẩn cơ bản và đến năm 2004, các nước này sẽ trở thành
thành viên chính thức của tổ chức này. Ngày 13/12/2002 được coi là dấu
chấm hết sau 4 năm đàm phán về vấn đề kết nạp hội viên mới. Lễ kết nạp
đã được tổ chức vào ngày 1/5/2004, EU 15 nước đã trở thành “EU 25”.
6


Nhiều người dự đoán nền kinh tế EU sau khi mở rộng sẽ đi theo hướng: từ
Tây sang Đông. Các công ty Tây Âu sẽ chuyển sang Ba Lan, Hungary,
Czech và các quốc gia mới khác để tìm kiếm nguồn lao động rẻ và thị
trường mới. Ngày 01-05-2004, tại Dublin, Irland, sau 14 năm chuyển đổi
quyết liệt với sự trợ giúp của EU, 10 nước CEE (Malta, Sip, Ba Lan,
Hungary, CH Czech, Slovakia, Slovenia, Estonia, Latvia, and Lithuania)
đã gia nhập EU. EU-25 đã tăng đáng kể về nguồn lực cho sức mạnh tổng

hợp quốc gia của mình: Diện tích tăng thêm 739.000km2 (22,8%) lên
khoảng 4 triệu km2; Dân số tăng thêm 75 triệu người (19.8% so với EU
15) lên khoảng 456 triệu; GDP khoảng 9.200 tỷ Euro (Chỉ đứng sau
NAFTA - 12.000 tỷ USD). EU-25 đã đứng thứ hai thế giới về tổng giá trị
xuất nhập khẩu: kim ngạch bình quân hàng năm là 913 tỷ USD, chiếm
13% giá trị xuất nhập khẩu thế giới (Mỹ: 18%, Nhật: 5%), EU25 chiếm
19% thương mại toàn cầu, cung cấp 46% và tiếp nhận 24% FDI của thế
giới.
• Về kinh tế: Có sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển giữa các thành
viên cũ và mới. Thu nhập bình quân giữa nhóm nước mới gia nhập EU và
các thành viên mới là đáng kể. So với những nước láng giềng phương Tây,
các nước thành viên mới của EU thực chất là nghèo hơn. Ba Lan, nước lớn
nhất gia nhập EU với số dân 38 triệu người và GDP chiếm 50% của toàn
bộ các nước mới. Nhưng GDP của họ cũng chỉ chiếm 2% tổng GDP của
toàn bộ EU. Nước giàu thứ hai là Czech có GDP đầu người là 8.900 USD,
chưa bằng 1/3 mức của nước láng giềng. Như vậy, EU sẽ phải giành nhiều
nỗ lực về tài chính để vực dậy nền kinh tế ở các nước này thông qua các
chương trình thúc đẩy hội nhập để giảm dần khoảng cách về mức sống
giữa hai nhóm nước này.

7


• Về chính trị: Xảy ra bất đồng giữa các thành viên cũ và mới xung quanh
cuộc chiến tranh Iraq và quan hệ với Mỹ. Mặc dù Tây Âu là đồng minh
chiến lược truyền thống của Mỹ nhưng cuộc chiến tranh Iraq đã cho thấy
hình như các quốc gia một thời đứng ở phía bên kia tấm màn sắt mới là
những đồng minh nhiệt thành nhất của Mỹ. Nhưng nhiều người cũng lạc
quan cho rằng những bất đồng này sẽ được xóa bỏ khi Đông và Tây Âu
thực sự trở thành một.

• Về chiến lược phát triển, mở rộng sang phía Đông (với Nga): Sau khi mở
rộng về phía Đông, quan hệ chặt chẽ giữa Nga với các nước Trung - Đông
Âu sẽ biến nước Nga trở thành một bộ phận của châu Âu. Lần mở rộng
sang phía Đông này rõ ràng là lần mở rộng lớn nhất và có thể có tác động
sâu rộng nhất đối với Liên minh. Toàn bộ hơn 450 triệu người sẽ cùng có
những thể chế chung và (đối với phần lớn trong họ) đồng tiền chung.
=>Liên minh châu Âu mở rộng sang phía Đông hiện nay có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng trong việc thực hiện ý tưởng thống nhất châu Âu, với một liên
minh gồm 25 nước, sẽ làm tăng thêm vị trí và ảnh hưởng của EU trên toàn thế
giới, đồng thời cũng tạo ra nhiều thách thức đòi hỏi EU phải giải quyết. Tuy
vậy, sự mở rộng EU thông qua việc kết nạp các thành viên từ khối Đông Âu
cũ không chỉ có ý nghĩa là tăng đơn thuần số lượng thành viên mà còn làm
thay đổi căn bản sự phân chia lực lượng trong nội bộ EU.
2.3. Tóm lược quá trình mở rộng EU 2007- 2013
Mở rộng năm 2007: Với việc kết nạp thêm hai thành viên mới là Bungaria và
Romania. Hai nước này đã nộp đơn xin gia nhập cùng thời điểm với 10 thành
viên đã được kết nạp vào năm 2004. Tuy nhiên do bắt đầu tham gia cải cách kinh
tế và chính trị chậm hơn 8 nước trước đó , Bungaria và Romania chính thức bắt
đầu tham gia thương lượng và hoàn thành đàm phán muộn hơn vì vậy ba năm
8


sau họ mới trở thành thành viên chính thức của Liên minh. Việc Bungari và
Romania chính thức trở thành thành viên EU đã chứng tỏ nổ lực của hai nước
nhằm thỏa mãn tất cả các điều kiện hội nhập mà EU đã đặt ra.Thời hạn hội nhập
tuy có muộn hơn so với các nước Trung Âu và Đông Âu khác, nhưng hai nước
này đã hoàn thành khối lượng công việc khổng lồ trong khoảng thời gian bốn
năm để bù lại khoảng thời gian họ đã để mất trước đó. Hội nhập muộn hơn cũng
mang lại cho hai nước này những lợi thế là có thể học hỏi những kinh nghiệm
quý báu trong quá trình thỏa mãn những tiêu chí chung của cộng đồng EU đã đặt

ra đối với các nước thành viên mới.
• So sánh hai lần mở rộng 2004 và 2007:
Thứ nhất,lần mở rộng năm 2004 và 2007 có quy mô lớn nhất 12 thành viên
trong đó 10 nước đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nước hệ thống XHCN kiểu
Xô viết sang hệ thống dân chủ. Nhưng do ưu tiên mục đích địa chính trị, các nhà
lãnh đạo EU lại cho rằng tư cách thành viên EU sẽ là nền tảng cho quá trình
chuyển đổi dân chủ của các nước này nhưng trước đó EU đã làm với các nước
Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha. Mở rộng sang phía Đông sẽ giúp đảm bảo
ràng khu vực này sẽ phát triển cả về chính trị dân chủ và thị trường tự do, kỷ luật
và điều lệ đối với thành viên EU sẽ giúp ngăn chặn tái diễn các xung đột liên
quan đến biên giới lãnh thổ sắc tộc ở Trung Âu và Đông Âu do lịch sử để lại.
Những xung đột này nếu xảy ra sẽ làm cho Châu Âu bất ổn và gây ra làn sóng
người tị nạn chạy sang Tây Âu. Nó xóa bỏ được sự chia cắt đã kéo dài mấy chục
năm ở Châu Âu kể từ sau thế chiến II. Do vậy EU cần phải lôi kéo các nước
EEC vào các mối quan hệ chiến lược với mình. Đây là vấn đề then chốt giúp EU
củng cố an ninh quân sự, quyết định sự thành bại của mình.

9


Thứ hai, khoảng cách về phát triển giữa các nước thành viên cũ và mới là
quá lớn. GDP của các nước mới gia nhập chỉ đạt 40% mức trung bình của EU
15. Do đó EU phải hỗ trợ tài chính to lớn cho các nước ứng viên mới rong quá
trình chuyển đổi. Theo tính toán từ 2000 đến 2006 chi phí cần thiết để mở rộng
EU sang phía Đông là 80 tỷ Euro ngoài ra trong các năm tiếp đó ngân hang Châu
Âu còn phải cho các nước này vay hang chục tỷ Euro với lại suất thấp.
Mở rộng năm 2013: Croatia chính thức là thành viên thứ 28 của EU vào
ngày 1/7/2013
Bối cảnh: Tình hình kinh tế của EU giảm sút sau cuộc khủng hoảng nợ công, thất
nghiệp gia tăng …tuy vậy EU vẫn thu hút các nước xin gia nhập.

Croatia đã trở thành quốc gia thứ hai thuộc Liên bang Nam Tư gia nhập EU
sau khi Slovenia trở thành thành viên liên minh này vào năm 2004.
Croatia đã nộp đơn gia nhập EU năm 2003, thực hiện các cuộc đàm phán từ
2005 đến 2011. Ngày 9/12/2011 các nhà lãnh đạo EU và Croatia đã kí kết hiệp
ước gia nhập. Và ngày 1/7/2013 hiệp ước bắt đâu có hiệu lực
Để trở thành thành viên của EU, Croatia đã phải đáp ứng được tất cả các tiêu
chuẩn EU đề ra đúng thời hạn, thực hiện các yêu cầu của Ủy ban châu Âu về đẩy
mạnh cải cách cơ cấu nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tái phục hồi thị
trường lao động, kiểm soát tham nhũng, đấu tranh chống tội phạm có tổ chức và
hợp tác với Tòa án quốc tế xét xử tội phạm chiến tranh ở Nam Tư cũ. Bên cạnh
đó EU cũng đã hỗ trợ Croatia về kinh tế để giúp quốc gia này nhanh chóng đạt
được các tiêu chuẩn mà khối này đề ra.
Tuy nhiên việc gia nhập cũng là một thách thức đối với Croatia:

10


Croatia là một nước có nền kinh tế kém phát triển , với tỉ lệ thất nghiệp tới 20%
trong đó tỉ lệ thất nghiệp trong thanh niên đã vượt quá ngưỡng 50% nền kinh tế
Croatia được đánh giá là nền kinh tế nằm trong nhóm kém nhất trong liên minh
Châu Âu. Rõ ràng thực tế này đã các chuyên gia kinh tế châu Âu phải lo lắng về
tương lại của EU vốn chưa vượt qua được cơn khủng hoảng kinh tế trong nhiều
năm qua
Việc kết nạp thêm những nền kinh tế kém phát triển sẽ tạo gánh nặng cho EU.
Các khoản hỗ trợ cho các thành viên mới sẽ càng làm khó khăn cho ngân sách
chung vốn ngày càng hạn hẹp. Bên cạnh khả năng đoàn kết và quản lý nội bộ
trong khối còn nhiều bất đồng.
Cơ hội:
• Lợi ích chính trị của EU khi mở rộng thêm Croatia là một bước đi quan
trọng để Châu Âu góp phần vào ổn định chính trị vùng Balkan và toàn bộ

châu lục nói chung.
• Mở rộng thị trường nội bộ EU, tạo thêm các cơ hội cho khách hàng, doanh
nghiệp EU. Gia tăng sự đa văn hóa của EU và tiềm năng về nguồn nhân
lực, tạo điều kiện cho việc đi lại giữa các quốc gia, mở rộng các cơ hội cho
sinh viên và người lao động…
3. EU mở rộng – Cơ hội và thách thức
Trước hết, cần phải khẳng định rằng vấn đề mở rộng Liên minh về phía Đông
vẫn là một mục tiêu lâu dài của EU. Trong tương lai EU vẫn phải chú trọng tới
việc mở rộng sang phía Đông và phía Nam vì những lợi ích sau đây:
- Tăng sự ổn định cho châu lục và có thể sẽ ngăn chặn được những cuộc xung
đột như ở Nam Tư cũ.

11


- Tăng cường trao đổi trong thị trường nội khối, lượng người tiêu thụ sẽ tăng từ
374 lên đến 480 triệu người.
- Việc mở rộng sẽ làm tăng vị thế của châu Âu trên trường quốc tế nhất là trong
những đàm phán về thương mại.
3.1. Thành tựu
Sau hơn 60 năm tồn tại và phát triển cho thấy Liên minh châu Âu quả là một
hình mẫu về liên kết khu vực thành công nhất.
- EU đã trở thành một trong ba trung tâm kinh tế hàng đầu của thế giới và có ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển của kinh tế thế giới.
- Thiết lập được nền hòa bình và thịnh vượng chung cho toàn khu vực châu Âu.
- Dân chủ là một trong những giá trị chung của EU được phát huy mạnh mẽ tại
châu lục này.
- Đồng Euro ra đời là biểu tượng thành công cho tiến trình nhất thể hóa kinh tế
của EU.
- Sự phồn vinh đã đến với liên minh khi người dân ở đây được hưởng mức sống

với những tiêu chuẩn xã hội cao.
- EU đã thiết lập được một thị trường chung châu Âu từ 1993 đến nay.(giá trị
thương mại của Liên minh châu Âu chiếm tới 20% giá trị thương mại của thế
giới và GDP của EU chiếm tới 20% GDP của toàn thế giới).
- Với sự lớn mạnh về kinh tế và ổn định về chính trị, vị thế của EU trên trường
Quốc tế ngày càng nâng cao và vững chắc.
3.2. Thách thức
12


- EU phải bảo đảm vai trò chủ chốt trợ giúp các nước thành viên, thiết lập những
biện pháp đối phó có hiệu quả với sự biến đổi toàn cầu.
- Duy trì hòa bình và ổn định nội khối trong khu vực.
- Phải nâng cao hơn nửa sự dân chủ trong thể chế, chính sách và xã hội châu Âu.
- Về mặt xã hội, tỉ lệ thất nghiệp ở EU vẫn thuộc loại cao và phải đối mặt với
thực trạng già hóa dân số, tỷ lệ thất nghiệp của EU vẫn thuộc loại cao. Cao nhất
là Tây Ban Nha - 14,9%, thấp nhất là Luxembua - 2,2% và số người thất nghiệp
của EU đã lên tới con số 15 triệu người vào thời điểm hiện nay.
- Vấn đề di dân ồ ạc trong nội khối làm mất cân bằng và ổn định chung của toàn
xã hôi trong EU
- Việc đồng Euro liên tục bị mất giá đã làm cho nhiều nhà kinh tế châu Âu lo
ngại.
- EU phải đối mặt với tình trạng khủng hoảng nợ công trầm trọng, và tình trạng
di dân bất hợp pháp ngày càng diễn ra phức tạp.
- Xây dựng cơ chế an ninh cho toàn khu vực.
3.3. Hạn chế
- Các thể chế và thách thức làm việc của EU hiện nay đã không còn phù hợp với
tình hình hiện tại.
- Sự chênh lệch về mức sống giữa mặt bằng chung của EU với các nước mới kết
nạp.

- Việc kết nạp thêm quá nhiều quốc gia có nền văn hóa và chính trị khác nhau
ảnh hưởng đến việc thực hiện các chính sách chung của EU.
13


- Chưa thiết lập được cơ chế an ninh chung cho toàn khu vực.
Do mức sống quá chênh lệch, cộng với việc sử dụng đồng tiền chung Euro làm
cho tình trạng khủng hoảng nợ công thêm trầm trọng. Việc đồng Euro liên tục bị
mất giá trong thời gian qua đã làm nhiều nhà kinh tế châu Âu lo ngại.
Việc EU mở rộng sẽ làm gia tăng mức độ nguy hiểm của tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia đặc biệt là nạn khủng bố.
Một Châu Âu hợp nhất như vốn dĩ cái tên của nó: Liên minh Châu Âu đang dần
trở thành hiện thực. Một thị trường cực kỳ hấp dẫn nhưng cũng cực kỳ khó tính
cho các nước và các khu vực để thúc đẩy thương mại song phương. Một khối sẽ
làm ảnh hưởng rất lớn tới chính trường, quân sự đã và đang đi dần tới mục đích
của nó.

14



×