Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Khảo sát kiến thức thực hành vệ sinh an toàn thực phẩm của người dân tại thành phố hà giang, tỉnh hà giang năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 73 trang )

BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI

PHAN THỊ NGA

KHẢO SÁT KIẾN THỨC-THỰC HÀNH VỆ SINH
AN TOÀN THỰC PHẨM CỦA NGƯỜI DÂN
TẠI THÀNH PHỐ HÀ GIANG,
TỈNH HÀ GIANG NĂM 2017

LUẬN VĂN DƢỢC SĨ CHUYÊN KHOA CẤP I

HÀ NỘI - 2017


BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI

PHAN THỊ NGA

KHẢO SÁT KIẾN THỨC-THỰC HÀNH VỆ SINH
AN TOÀN THỰC PHẨM CỦA NGƢỜI DÂN
TẠI THÀNH PHỐ HÀ GIANG,
TỈNH HÀ GIANG NĂM 2017

LUẬN VĂN DƢỢC SĨ CHUYÊN KHOA CẤP I
CHUYÊN NGÀNH: Tổ chức quản lý dược
MÃ SỐ: CK 60 72 04 12

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Hƣơng
Thời gian thực hiện: Từ 5-9/2017



HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành bài luận văn “ Khảo sát kiến thức - thực hành vệ sinh an
toàn thực phẩm của người dân tại thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang năm
2017”.
Em xin trân trọng cảm ơn Cô giáo Phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Thị
Thanh Hương, phó trưởng bộ môn Quản lý & Kinh tế dược trường Đại học
Dược Hà Nội. Đã trực tiếp tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em. Nhờ những sự chỉ
bảo hướng dẫn quý giá đó mà trong suốt quá trình triển khai, nghiên cứu và
hoàn thành bài luận văn được giao một cách tốt nhất.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến các Thầy, Cô giáo trường Đại
học Dược Hà Nội đã trực tiếp giảng dạy truyền đạt những kiến thức khoa học
chuyên ngành bổ ích cho bản thân em trong những năm học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn trân thành đến tới: Ban giám đốc Trung tâm y tế
dự phòng tỉnh Hà Giang; Ban giám đốc Chi cục ATTP tỉnh Hà Giang; Ban
giám đốc Trung tâm y tế, trạm y tế các xã, phường thành phố Hà Giang, tỉnh
Hà Giang. Đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp em trong quá trình thu thập số
liệu, tài liệu nghiên cứu cần thiết liên quan tới bài luận văn tốt nghiệp một
cách dễ dàng và thuận tiện nhất.
Một lần nữa, em xin trân trọng cảm ơn.

Hà Giang, ngày 20 tháng 9 năm 2017

DS. Phan Thị Nga



MỤC LỤC

DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ
ĐẶT VẤN ĐỀ

1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN

3

1.1. Khái niệm về thực phẩm, an toàn thực phẩm, bệnh truyền qua thực

3

phẩm, người nội trợ
1.2. Mười nguyên tắc vàng chế biến, bảo quản thực phẩm: (Theo WHO)
và chìa khóa vàng để có thực phẩm an toàn

..
5
..

1.3. Tình hình vệ sinh ATTP

8

1.4. Thực trạng kiến thức, thực hành của NNT trong ATTP tại một số


11

tỉnh ở Việt Nam

..

1.5. Giới thiệu về thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang

13

1.6. Tình hình ATTP tại tỉnh Hà Giang

16

Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

18

2.1.Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu

18

2.2. Phương pháp nghiên cứu

18

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu

18


2.2.2. Biến số nghiên cứu

19

2.2.3. Phương pháp chọn mẫu

21

2.2.4. Phương pháp thu thập số liệu

22

2.2.5. Tiêu chuẩn đánh giá kiến thức và thực hành của người nội trợ

23

2.2.6. Xử lý và phân tích số liệu
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

27

3.1. Mô tả kiến thức về an toàn thực phẩm của người dân (người nội trợ)

28
.


trong lựa chọn, chế biến thực phẩm tại thành phố Hà Giang, tỉnh Hà


28

Giang năm 2017
3.1.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu

28

3.1.2. Kiến thức về an toàn thực phẩm của người nội trợ tại hộ gia đình

30

3.1.3. Nhu cầu về thông tin của người nội trợ liên quan đến kiến thức

36

an toàn thực phẩm

38

3.2. Mô tả thực hành lựa chọn, chế biến thực phẩm trong hộ gia đình tại
thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang năm 2017

38

3.2.1. Thực hành về ATTP của người nội trợ tại hộ gia đình

38

3.2.2. Một số yếu tố liên quan đến thực hành ATTP của người nội trợ tại


43

thành phố Hà Giang
Chƣơng 4: BÀN LUẬN
4.1. Thông tin chung, điều kiện kinh tế, thời điểm mua và thời gian mua

45
45

thực phẩm của người nội trợ
4.2. Kiến thức của người nội trợ trong lựa chọn, chế biến thực phẩm

46

4.2.1. Kiến thức của người nội trợ trong lựa chọn, chế biến thực phẩm

46

4.2.2. Kiến thức chung về ATTP của người nội trợ

51

4.3. Thực hành của người nội trợ trong lựa chọn, chế biến thực phẩm

54

4.3.1. Thực hành của người nội trợ trong lựa chọn, chế biến thực phẩm

54


4.3.2. Thực hành chung về ATTP của người nội trợ

57

KẾT LUẬN

60

KIẾN NGHỊ

61

TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC VIẾT TẮT

ATTP

An toàn thực phẩm

FDA

Cơ quan quản lý thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ

KAP

Kiến thức, thái độ, thực hành

ĐTNC


Đối tượng nghiên cứu

NNT

Người nội trợ

NĐTP

Ngộ độc thực phẩm

THPT (TC, CĐ, ĐH, SĐH) Trung học phổ thông ( trung cấp, cao đẳng, đại
học, sau đại học)
CDC

Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ

FAO

Tổ chức Nông lương Thế giới

WHO

Tổ chức Y tế Thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG
TT

Tên bảng


Trang

2.1

Các biến số cần thu thập

19

2.2

Đặc điểm mẫu

22

2.3

Cách chấm điểm đánh giá kiến thức của NNT trong lựa
chọn, chế biến thực phẩm

24

2.4

Cách chấm điểm đánh giá thực hành của NNT trong lựa
chọn, chế biến thực phẩm

26

3.5


Đặc điểm về tuổi, giới tính và dân tộc

28

3.6

Trình độ học vấn, nghề nghiệp và thời gian làm nội trợ

29

3.7

Đặc điểm về thời điểm và thời gian mua thực phẩm

30

3.8

Kiến thức lựa chọn thịt (thịt lợn) tươi bằng mắt thường

30

3.9

Kiến thức lựa chọn cá tươi bằng mắt thường

31

3.10 Kiến thức lựa chọn rau tươi bằng mắt thường


31

3.11 Kiến thức lựa chọn trứng tươi bằng mắt thường

32

3.12 Kiến thức về nơi bán thực phẩm chín, ăn ngay hợp vệ sinh

32

3.13

Kiến thức về nguy cơ gây ô nhiễm thực phẩm trong khâu chế
biến

33

3.14 Nguyên nhân gây ô nhiễm thực phẩm trong khâu chế biến

34

3.15 Kiến thức chung về ATTP của người nội trợ

35

3.16 Kênh nhận thông tin về ATTP của NNT

36


3.17 Nhóm thông tin cần tăng cường tuyên truyền

37

3.18 Kênh nhận thông tin về ATTP được yêu thích

38

3.19

Thực hành về quan sát những thông tin ghi trên nhãn thực
phẩm bao gói sẵn

38

3.20 Thực hành về cách rửa tay trước khi chế biến thực phẩm

41

3.21 Đánh giá thực hành chung về ATTP của người nội trợ

42

3.22

Bảng kiểm về điều kiện vệ sinh nơi chế biến thức ăn tại hộ
gia đình

43



DANH MỤC C C HÌNH

TT

Tên hình

Trang

3.1

Lợi ích của thông tin truyền thông về ATTP

37

3.2

Thực hành về số lần rửa rau trước khi ăn hoặc nấu

39

3.3

Thực hành về số lần rửa rau, quả

40

3.4

Thực hành về cách ngâm rau, quả


40

3.5

Thực hành về cách dùng thớt trong chế biến thực phẩm

41


ĐẶT VẤN ĐỀ
Thực phẩm là nhu cầu cần thiết cho sự sống con người, để giúp cho cơ
thể con người khỏe mạnh và phát triển. An toàn thực phẩm không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp, thường xuyên đến sức khỏe mà còn liên quan chặt chẽ đến
năng xuất, hiệu quả phát triển kinh tế thương mại, du lịch và an sinh xã hội.
Ngộ độc thực phẩm và các bệnh lây truyền qua thực phẩm gây ra không chỉ
ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe và cuộc sống của con người, mà còn gây
thiệt hại lớn về kinh tế, là gánh nặng lớn cho chi phí chăm sóc sức khỏe và
giảm đáng kể sức lao động [15]. Thực trạng an toàn thực phẩm đang ở mức
báo động. Theo báo cáo của Bộ Y tế tại buổi làm việc, hậu quả của việc
không bảo đảm an toàn thực phẩm có thể dẫn đến ngộ độc thực phẩm, ảnh
hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng, ảnh hưởng tới phát triển kinh tế và an
sinh xã hội. Kết quả giám sát liên tục từ năm 2011 đến tháng 10/2016 cho
thấy, ngộ độc thực phẩm vẫn đang là thách thức lớn trong công tác phòng
chống ngộ độc thực phẩm, đảm bảo an sinh và an toàn xã hội. Toàn quốc đã
ghi nhận 1.007 vụ với 30.395 người mắc, 25.617 người đi viện và 164 người
chết. Trung bình mỗi năm có 167,8 vụ với 5.065,8 người mắc và 27,3 người
chết do ngộ độc thực phẩm. Trong giai đoạn 2011 - 2016 nguyên nhân gây
ngộ độc thực phẩm chủ yếu do vi sinh vật (chiếm 40,2%), nguyên nhân do
độc tố tự nhiên chiếm 27,9%, do hoá chất chiếm 4,3% và còn 268 vụ không

xác định được nguyên nhân gây ngộ độc [34]
Vấn đề ATTP hiện nay đang diễn biến hết sức phức tạp và nóng bỏng,
thu hút vào cuộc và chỉ đạo của Chính phủ, ngành Y tế và các ban ngành hữu
quan, cùng với sự quan tâm lo lắng của NTT trong việc lựa chọn, chế biến
thực phẩm cho bữa ăn hợp lý an toàn của gia đình mình. Tuy nhiên cho đến
nay ở địa phương chưa có nghiên cứu nào khảo sát đánh giá kiến thức, thực
hành của người dân (người nội trợ) về an toàn thực phẩm trên địa bàn thành

1


phố Hà Giang. Để cho ngành Y tế địa phương có cơ sở xây dựng chương trình
truyền thông, can thiệp về phòng ngừa các bệnh lây truyền qua thực phẩm có
hiệu quả và phù hợp tình hình thực tế. Tôi tiến hành thực hiện đề tài nghiên
cứu: “ Khảo sát kiến thức - thực hành vệ sinh an toàn thực phẩm của
ngƣời dân tại thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang năm 2017” với 2 mục
tiêu sau:
1. Mô tả kiến thức và nhu cầu về thông tin liên quan đến an toàn thực phẩm
của người dân (người nội trợ) trong lựa chọn, chế biến thực phẩm tại thành
phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang năm 2017.
2. Mô tả thực hành và một số yếu tố liên quan đến lựa chọn, chế biến thực
phẩm trong hộ gia đình tại thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang năm 2017
Từ đó đề xuất các khuyến cáo cho người dân biết vấn đề vệ sinh ATTP
hiện nay và khuyến nghị phù hợp giúp cho chính quyền địa phương, các cơ
quan quản lý về vệ sinh ATTP có những hoạt động tuyên truyền, quản lý hợp
lý nhằm hạn chế các vụ ngộ độc thực phẩm, các bệnh lây truyền qua thực
phẩm.

2



Chƣơng 1: TỔNG QUAN

1.1. Khái niệm về thực phẩm, an toàn thực phẩm, bệnh truyền qua thực
phẩm, ngƣời nội trợ
1.1.1. Thực phẩm:
Thực phẩm là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dưới dạng tươi sống
hoặc đã qua sơ chế, bảo quản. Thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá
và các chất sở dụng như dược phẩm. Những thành phần chính của thực phẩm
mà con người mong muốn thu nhận được chủ yếu bao gồm 6 nhóm chất cơ
bản: Đạm, đường, mỡ, các vitamin, muối khoáng và nước [24].
1.1.2. An toàn thực phẩm:
An toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến
sức khỏe, tình trạng con người [24]. Thực phẩm không an toàn là mối đe
dọa cho sức khỏe toàn cầu, gây nguy hiểm cho tất cả mọi người. Trẻ sơ
sinh, trẻ nhỏ, phụ nữ mang thai, người già là những đối tượng bị ảnh hưởng
nhiều nhất.
1.1.3. Ngộ độc thực phẩm:
Ngộ độc thực phẩm là tình trạng bệnh lý do hấp thụ thực phẩm bị ô
nhiễm hoặc có chứa chất độc [24].
Có 2 loại ngộ độc thực phẩm: Ngộ độc thực phẩm cấp tính và ngộ độc
thực phẩm mãn tính
Ngộ độc thực phẩm cấp tính: Là hội chứng bệnh lý cấp tinh do ăn uống
phải thực phẩm có chất độc, biểu hiện bằng những triệu chứng dạ dày, ruột
(buồn nôn, nôn, đau bụng, ỉa chảy…) và những triệu chứng khác tùy theo
mức độ tác nhân gây ra ngộ độc với những biểu hiện đặc trưng của từng loại
ngộ độc (tê liệt thần kinh, co giật, rối loạn hô hấp, rối loạn tuần hoàn, rối loạn
vận động…). Tác nhân gây ngộ độc thực phẩm có thể là chất độc hóa học

3



( Hóa chất bảo vệ thực vật, kim loại nặng…), chất độc tự nhiện có sẵn trong
thực phẩm (Axít cyanhydric, Saponin, Alcaloid…) do độc tố vi sinh vật (Vi
khuẩn, Vi rút, Ký sinh trùng…), hoặc do chất độc sinh ra do thực ăn bị biến
chất [23].
Ngộ độc thực phẩm mạn tính: Là hội chứng rối loạn cấu trúc và chức
năng của tế bào, tổ chức dẫn tới những hội chứng bệnh lý mạn tính hoặc bệnh
mạn tính do sự tích lũy dần các chất độc bởi ăn uống [23].
Các nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm:
Hiện nay các nhà khoa học thường chia ngộ độc thực phẩm theo 4
nhóm nguyên nhân:
- Ngộ độc thực phẩm do ô nhiễm vi sinh vật
- Ngộ độc do thực phẩm bị ô nhiễm hóa chất.
- Ngộ độc do bản thân thực phẩm có chứa độc chất tự nhiên.
- Ngộ độc do thức ăn bị biến chất [23].
1.1.4. Mối nguy về an toàn thực phẩm:
Mối nguy về ATTP là tác nhân sinh học, hóa học hay vật lý có trong
thực phẩm hoặc môi trường chế biến thực phẩm có khả năng gây tác hại đến
sức khỏe người tiêu dùng [24].
Các mối nguy về ATTP có thể gặp do thực phẩm bị nhiễm vi sinh vật,
hóa học ( tồn dư hóa chất bảo vệ thực vật, sử dụng phụ gia ngoài danh mục
cho phép của Bộ Y tế, kim loại nặng, hóa chất khác…), thực phẩm có chứa
độc tố tự nhiên và thực phẩm bị biến chất [24].
1.1.5. Bệnh truyền qua thực phẩm:
Bệnh truyền qua thực phẩm là khái niệm bao gồm cả ngộ độc thực
phẩm và nhiễm trùng thực phẩm, do ăn phải thức ăn bị ô nhiễm tác nhân gây
ngộ độc thực phẩm, ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của con người. Hiện
tượng dị ứng do mẫn cảm của cá thể với một loại thức ăn được xác định nào
đó không được coi là bệnh truyền qua thực phẩm [24].


4


1.1.6. Chế biến thực phẩm:
Chế biến thực phẩm là quá trình xử lý thực phẩm đã qua sơ chế hoặc
thực phẩm tươi sống theo phương pháp công nghiệp hoặc thủ công để tạo
thành nguyên liệu thực phẩm hoặc sản phẩm thực phẩm [24].
1.1.7. Người nội trợ:
Người nội trợ là người lo liệu mọi việc ăn uống hàng ngày trong gia
đình như đi chợ mua thực phẩm và về chế biến thức ăn cho gia đình.
1.2.

Mƣời nguyên tắc vàng chế biến, bảo quản thực phẩm: (Theo
WHO) và 5 chìa khóa vàng để có thực phẩm an toàn

Nguyên tắc 1: Chọn thực phẩm tươi an toàn.
Rau, quả ăn sống phải được ngâm và rửa kỹ bằng nước sạch. Quả nên gọt vỏ
trước khi ăn. Thực phẩm đông lạnh để tan đá, rồi làm đông đá lại là kém an
toàn.
Nguyên tắc 2: Nấu chín kĩ trước khi ăn.
Nấu chín kĩ hoàn toàn thức ăn, bảo đảm nhiệt độ trung tâm thực phẩm phải
đạt tới 70oC.
Nguyên tắc 3: Ăn ngay sau khi nấu.
Hãy ăn ngay sau khi vừa nấu xong, vì thức ăn càng để lâu càng nguy hiểm.
Nguyên tắc 4:Bảo quản cẩn thận các thức ăn đã nấu chín.
Muốn giữ thức ăn quá 5 tiếng đồng hồ, cần phải giữ liên tục nóng trên
60oc hoặc lạnh dưới 10oC. Thức ăn cho trẻ nhỏ không nên dùng lại.
Nguyên tắc 5: Nấu lại thức ăn thật kĩ.
Các thức ăn chín dùng lại sau 5 tiếng, nhất thiết phải được đun kĩ lại.

Nguyên tắc 6: Tránh ô nhiễm chéo giữa thức ăn chín và sống với bề mặt
bẩn.
Thức ăn đã được nấu chín có thể bị nhiễm nầm bệnh do tiếp xúc trực
tiếp với thức ăn sống hoặc gián tiếp với các bề mặt bẩn (như dùng dao, thớt
để chế biến thực phẩm chín và sống).

5


Nguyên tắc 7: Rửa tay sạch trước khi chế biến thức ăn và sau mỗi lần gián
đoạn để làm việc khác.
Nếu bạn bị nhiễm trùng bàn tay, hãy băng kĩ và kín vết thương trước
khi chế biến thức ăn.
Nguyên tắc 8: Giữ sạch các bề mặt chế biến thức ăn.
Do thức ăn dễ bị nhiễm khuẩn, bất kỳ bề mặt nào dùng để chế biến thức
ăn cũng phải được giữ sạch. Khăn lau bát đĩa cần phải được luộc nước sôi và
thay thường xuyên trước khi sử dụng lại.
Nguyên tắc 9: Che đậy thực phẩm để tránh côn trùng và các động vật khác.
Giữ thực phẩm trong hộp kín, chặn, tủ kính, lòng bàn. Đó là cách bảo
vệ tốt nhất. khăn đã dùng che đậy thức ăn chín phải được giặt sạch trước khi
dùng lại lần nữa.
Nguyên tắc 10: Sử dụng nguồn nước sạch an toàn.
Nước sạch là nước không màu, không mùi, vị lạ và không chứa mầm
bệnh. Hãy đun sôi nước trước khi làm đá lạnh để uống. Đặc biệt cẩn thận với
nguồn nước dùng nấu ăn cho trẻ.
 5 chìa khóa vàng để có thực phẩm an toàn
Chìa khóa 1: Giữ sạch sẽ (đề phòng các vi khuẩn virut phát triển và lan
truyền)
- Rửa tay bằng xà phòng, dung dịch nước tro, thuốc tẩy pha loãng trước
khi chế biến thức ăn, trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh.

- Lau sạch mặt bàn, rửa sạch nồi niêu bát đĩa và các dụng cụ chế biến
thức ăn bằng nước sạch.
- Không để côn trùng (ruồi, kiến, gián) và chuột vào nơi để và nấu
nướng thực phẩm.
-Bếp, nơi nấu nướng xa khu vệ sinh.
- Không ăn các rau sống và quả mà không gọt vỏ.

6


Chìa khóa 2: Để riêng thực phẩm sống và đã nấu chín (đề phòng sự lây lan
vi sinh vật)
- Để ngăn cách các thực phẩm sống và đã nấu.
- Ngăn cách súc vật sẽ giết thịt với nơi nấu ăn.
- Rửa nồi niêu đựng thực phẩm sống vài lần trước khi sử dụng.
- Bảo đảm nước dùng để nấu thức ăn là nước sạch.
- Gọt hoa quả trước khi ăn.
Chìa khóa 3: Nấu nướng thật kỹ (giết chết các vi sinh vật nguy hiểm)
- Nấu thật kỹ nhất là thịt, cá, trứng và hải sản.
- Nếu thức ăn đã để lâu trước khi ăn phải nấu lại.
Chìa khóa 4: Giữ thực phẩm ở nhiệt độ an toàn (để ngăn ngừa sự phát triển
vi sinh vật)
- Nấu chín nên ăn ngay. Không để thức ăn đã nấu chín quá 2 giờ ở
nhiệt độ thường.
- Hâm nóng thức ăn để lâu lên 60 độ trước khi ăn.
- Những thức ăn đã nấu chín và dễ hỏng nếu để lâu mà không bảo quản
trong tủ lạnh (dưới 5 độ) phải bỏ không tiếc.
Chìa khóa 5: Dùng nước và thực phẩm ban đầu sạch an toàn
- Dùng nước sạch hoặc làm sạch trước khi dùng (đun sôi hoặc xử lý
bằng viên tẩy thường gọi là viên clo).

- Rửa sạch rau trước khi nấu. Ăn quả đã gọt vỏ.
- Dụng cụ chứa nước phải được sát trùng bằng viên thuốc tẩy trước khi
dùng để đựng nước.
- Chọn thực phẩm tươi. Cương quyết không dùng những thứ đã ôi thiu.
- Trẻ em dưới 6 tháng chỉ bú sữa mẹ

7


1.3. Tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm.
1.3.1. Tình hình ngộ độc và các bệnh truyền qua thực phẩm trên thế giới.
Tình hình vệ sinh ATTP diễn ra rất phức tạp, hàng ngày, hàng giờ, ở
mỗi quốc gia và các khu vực trên thế giới. Hậu quả cuối cùng của việc không
đảm bảo vệ sinh ATTP là xảy ra ngộ độc thực phẩm cấp tính, nhiễm độc tích
lũy, mắc bệnh truyền qua thực phẩm cho người tiêu dùng thực phẩm. Ở các
nước phát triển có tới 10% dân số bị ngộ độc thực phẩm và mắc bệnh truyền
qua thực phẩm mỗi năm, với các nước kém phát triển tỷ lệ này cao hơn nhiều.
NĐTP ở Mỹ chiếm 5% dân số trên năm (hơn 10 triệu người/năm) trung bình
175ca/100 nghìn dân, mỗi năm chết khoảng 5000 người; ở Anh 190
ca/100.000 dân; ở Nhật 20-40ca/100.000 dân; ở Úc là 4,2 triệu ca/năm [7].
Theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới (2000) hơn 1/3 dân số các nước phát
triển bị ảnh hưởng của các bệnh do thực phẩm gây ra mỗi năm. Đối với các
nước đang phát triển, tình trạng lại càng trầm trọng hơn rất nhiều. Các bệnh
tiêu chảy do thực phẩm và nước gây ra là nguyên nhân dẫn đến bệnh và tử
vong ít hơn ở các nước phát triển , vậy mà hàng năm gây tử vong hơn 2,2
triệu người, trong đó hầu hết là trẻ em. Các vụ ngộ độc thực phẩm có xu
hướng ngày càng tăng. Năm 1998 khoảng 1,8 triệu trẻ em ở các nước đang
phát triển (kể cả Trung Quốc) bị tử vong do bị tiêu chảy, nguyên nhân chủ
yếu do các yếu tố vi sinh vật có trong thực phẩm và nước [16]
Trong những trường hợp ngộ độc trên có 85% là do nhiễm trùng thức

ăn. Tháng 01 năm 2000 tại Pháp xảy ra vụ ngộ độc thịt hộp do Listeria ở 19
tỉnh làm 14700 người mắc do sữa tươi đóng hộp loại béo của hãng Snow xảy
ra tại nhiều nước ở châu Âu [17]. Một nghiên cứu ở thành phố Calcuta- Ấn
Độ, cho thấy 55% các mẫu thực phẩm được kiểm tra có E.Coli, 47 mẫu nước
sinh hoạt đã phát hiện nhiễm Coliforms và Fecal coliforms [17],[8]. Năm
2013, Europol bắt đầu điều tra vụ việc liên quan những chiếc bánh mỳ kẹp
thịt đông lạnh được cung cấp cho các siêu thị ở Anh bị phát hiện có chứa

8


ADN ngựa [37]. Ngày 10/8/2017, vụ bê bối trứng "bẩn" bắt nguồn từ Hà Lan
tiếp tục lan rộng tại châu Âu khi các nước Đan Mạch, Romania và Slovakia
đều thông báo phát hiện số lượng lớn trứng nghi ngờ nhiễm thuốc trừ sâu độc
hại fiprolin [33].
1.3.2. Tình hình ngộ độc thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm tại Việt
Nam.
Tình hình ngộ độc thực phẩm ở Việt Nam hiện nay: Ngộ độc thực
phẩm (NĐTP) là một loại bệnh thường gặp ở cộng đồng, có thể mắc hàng loạt
hoặc chỉ gặp lẻ tẻ. NĐTP do 2 nguyên nhân chính: ngộ độc do thực phẩm bị
nhiễm hóa chất và NĐTP do nhiễm vi sinh vật hoặc do độc tố vi sinh vật.
Bệnh thường xảy ra do thiếu sót trong vệ sinh thực phẩm, các nguyên liệu
dùng trong chế biến thực phẩm, do sơ suất trong vệ sinh và kỹ thuật nấu
nướng, vệ sinh dịch vụ ăn uống và kiểm tra chất lượng thành phẩm... Như
chúng ta đã biết xu hướng sử dụng các loại thực phẩm chế biến sẵn của thị
trường đang gia tăng. Có lẽ chính vì thế mà vấn đề ngộ độc thực phẩm đang
trở thành một trong những vấn đề bức xúc nhất của toàn xã hội. Chúng ta
không khỏi giật mình khi mà tổ chức y tế thế giới WHO đã đưa ra số liệu
thống kê mỗi năm Việt Nam có khoảng 8 triệu người - chiếm khoảng 1/10
tổng dân số bị ngộ độc thực phẩm hoặc ngộ độc do liên quan đến thực phẩm.

Càng buồn hơn khi mà Phó tổng thư ký, trưởng ban pháp chế phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết thực trạng ATTP ở Việt Nam
đang ở mức báo động. Nhiều người dân tỏ ra nghi ngờ và khó chọn lựa thực
phẩm an toàn, kể cả những thực phẩm thiết yếu.
Ở Việt Nam ngộ độc thực phẩm do vi sinh vật thường chiếm tỷ lệ cao
hơn, khoảng 50% các vụ ngộ độc thực phẩm, 25% là do hóa chất, 15% do
thức ăn có ăn sẵn chất độc và 10% do thức ăn bị biến chất. Tuy tỷ lệ ngộ độc
thực phẩm do vi sinh vật chiếm tỷ lệ cao nhưng tỷ lệ tử vong rất thấp, ngược

9


lại với ngộ độc thực phẩm không phải vi sinh vật tuy tỷ lệ mắc thấp hơn
nhưng tỷ lệ tử vong lại rất cao [23].
Theo báo cáo của đoàn giám sát “ Việc thực hiện chính sách pháp luật
về ATTP giai đoạn 2011-2015” họp phiên toàn thể lần thứ 3 ngày 30/3/2017.
Từ 2011 đến tháng 10/2016, cả nước đã ghi nhận 1.007 vụ ngộ độc thực phẩm
với 30.395 người mắc, 25.617 người đi viện và 164 người chết. Nguyên nhân
gây ngộ độc thực phẩm chủ yếu do vi sinh vật, do độc tố tự nhiên, do hóa chất
và có đến 268 vụ không xác định được nguyên nhân gây ngộ độc [34].
Theo báo cáo của Cục ATTP từ năm 2007-2013 cả nước xảy ra 1262
vụ ngộ độc thực phẩm làm 41.832 người mắc và 291 người tử vong, trung
bình mỗi năm có 180,3 vụ ngộ độc thực phẩm làm 5796 người mắc và 41,6
người tử vong. Về địa điểm xảy ra ngộ độc thực phẩm thì tại bếp ăn gia đình
chiếm 48,6-60,6% số vụ/năm, bếp ăn tập thể chiếm 13,1-20,6% số vụ/năm;
các loại cơ sở nguyên nhân khác đều xảy ra các vụ ngộ độc thực phẩm nhưng
chiếm tỷ lệ ít hơn là thức ăn đường phố, nhà hàng, khách sạn, bữa tiệc đông
người. [9],10].
Ngày 16/6/2014 trên địa bàn tỉnh Hậu Giang đã xảy ra vụ ngộ độc do
sử dụng Cá Nóc tại xã Tân Phú, huyện Long Mỹ làm 02 người mắc, trong đó

có 01 người tử vong [35] .
Ngày 27/9/2015 đã xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm tại gia đình bà Trần
Thị Cường, địa chỉ tại Đội 5, thôn Nhân Lý, xã Ninh Mỹ, huyện Hoa Lư, tỉnh
Ninh Bình, làm 10 người mắc trong đó có 7 người phải nhập viện điều trị do
ăn thịt vịt quay [11].
Ngày 15/11/2016, Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Nông đã tiếp nhận và
cấp cứu 02 cháu bé nghi bị ngộ độc thực phẩm địa chỉ tại thôn 2, xã Đức An,
huyện Đắk Song, Đắk Nông (khi đến nơi 01 cháu đã tử vong) [36].
Bộ Y tế ghi nhận trong 3 tháng đầu năm 2017 có 10 người tử vong do
ngộ độc rượu methanol, tăng vọt so vài năm qua và chưa tính các ca ngộ độc

10


lẻ tẻ.Thống kê của Cục An toàn Thực phẩm, 3 tháng đầu năm cả nước ghi
nhận 3 vụ ngộ độc do rượu methanol, với 78 người gặp nạn và 10 người tử
vong. Riêng vụ ngộ độc rượu tập thể tại Lai Châu vào tháng 2 đã có đến 10
người thiệt mạng, 68 người bị ngộ độc. Trong khi đó năm 2016 không ghi
nhận ca ngộ độc methanol nào. Năm 2015 có 2 vụ ngộ độc rượu methanol, 5
người gặp nạn và một tử vong. Hầu hết các loại rượu nạn nhân uống đều
không rõ nguồn gốc, kinh doanh nhỏ lẻ, bán rong…Trung tâm Chống độc
Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) từ đầu năm đến nay đã tiếp nhận 33 bệnh nhân
cấp cứu vì ngộ độc rượu Methanol, trong đó 9 người tử vong. Ngày nào
Trung tâm cũng có ít nhất 2-3 bệnh nhân ngộ độc rượu nhập viện; có đợt cùng
lúc 7 sinh viên. Nhiều trường hợp may mắn thoát chết thì cũng để lại di chứng
nặng nề [39].
Bệnh truyền qua thực phẩm là nguy cơ lớn đối với sức khỏe con người
và giống nòi do sử dụng lâu dài thực phẩm không đảm bảo vệ sinh ATTP.
Hiện nay, Bộ y tế đã xác định được tỷ lệ ca bệnh truyền qua thực phẩm trên
100 nghìn dân là 7-22ca/100 nghìn dân. Cơ cấu bệnh truyền qua thực phẩm

chủ yếu được ghi nhận: tiêu chảy (75-89,7%), lỵ trực khuẩn (2,2-4,6% ),
thương hàn (0,5-1,2%), viêm gan virut A (0,2-0,86%) [22] Có rất nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng ngộ độc thực phẩm cũng như các bệnh lây
truyền qua thực phẩm. Một trong những nguyên nhân là do kiến thức, thực
hành về ATTP của người trực tiếp chế biến không tốt nên dẫn đến các vụ ngộ
độc thực phẩm mà tại bếp ăn gia đình chiếm tỷ lệ cao nhất so với những cơ sở
khác và các bệnh lây truyền qua thực phẩm làm ảnh hưởng đến sức khỏe của
mọi người.
1.4. Thực trạng kiến thức, thực hành của ngƣời nội trợ trong ATTP tại
một số tỉnh

Việt Nam.

Các nghiên cứu gần đây về kiến thức, thực hành ATTP của người nội
trợ tại Việt Nam còn thấp, theo kết quả nghiên cứu Đinh Mai Vân về kiến

11


thức và thực hành về an toàn vệ sinh thực phẩm của người nữ nội trợ gia đình
và một số yếu tố ảnh hưởng tại thị trấn Chờ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh
năm 2004 cho thấy: Trong tổng số 206 người nội trợ thì có 83,0% người nội
trợ không đạt yêu cầu về kiến thức chung trong lựa chọn, chế biến thực phẩm.
Về kiến thức người nội trợ nhìn thịt có màu đỏ, sáng là 89,8%; có 96,6%
người nội trợ chọn cá còn sống; có 21,4% người nội trợ không biết cách lựa
chọn trứng tươi, 26,7% người nội trợ không biết điều kiện nơi chế biến thức
ăn chín hợp vệ sinh; có tới 56,3% số người cho rằng không có nguy cơ ô
nhiễm thực phẩm từ khâu chế biến. Về thực hành có 54,4% người nội trợ rửa
rau ít hơn hoặc bằng 3 lần; có 29,6% người nội trợ không thực hiện việc ngâm
rau, có 46,6% người nội trợ rửa rau, quả không có vòi nước chảy; có 14,4%

không xem nhãn mác của thực phẩm đóng hộp, đóng gói sẵn trước khi mua
và 69,4% số người nội trợ dùng chung 1 thớt sau khi rửa thớt trong chế biến
thực phẩm [31]. Theo nghiên cứu KAP vệ sinh an toàn trong lựa chọn, chế
biến thực phẩm quận Cầu Giấy, Hà Nội năm 2006 của Khuất Văn Sơn cho
thấy: trong tổng số 306 hộ gia đình thì có 37,5% người nội trợ không đạt yêu
cầu về kiến thức chung,; 43,6% không đạt yêu cầu về thực hành chung trong
việc lựa chọn chế biến thực phẩm. Về kiến thức có 83,4% người nội trợ khi
mua thịt thì nhìn thịt màu đỏ tươi, sáng; có 42,0% người nội trợ không biết
điều kiện nơi chế biến thức ăn chín hợp vệ sinh. Về thực hành có 4,6% người
nội trợ không xem nhãn mác trước khi mua thực phẩm đóng hộp, đóng gói; có
tới 39,7% người nội trợ không thực hiện rửa tay trước khi chế biến thực phẩm
[27]. Theo nghiên cứu của Tô Văn Lành về kiến thức thực hành của người nội
trợ về vệ sinh an toàn thực phẩm huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau năm 2010 cho
thấy: trong tổng só 270 người nộ trợ có 18,52% không đạt yêu cầu về kiến
thức chung; 37,78%không đạt về thực hành chung trong lựa chọn, chế biến
thực phẩm. Về kiến thức có 74,8^% người nội trợ có nhận thức đúng về cách
lựa chọn thực phẩm tươi sống hợp vệ sinh, có 74.4% người nội trợ có nhận

12


thức đúng về nơi bán thức ăn chính hợp vệ sinh. Về thực hành có 37,0%
người nội trợ quan sát kĩ các thông tin trên nhãn mác thực phẩm bao gói sẵn
trước khi mua, có 72,6% người nội trợ sửa dụng riêng dao, thớt dùng cho chế
biến thực phẩm sống và chín [22] . Theo kết quả nghiên cứu Hồ Văn Sơn,
Phạm Văn Lực về kiến thức và một số yếu tố liên quan đến kiến thức về vệ
sinh an toàn thực phẩm của người nội trợ chính ở xã Tân Thạnh, huyện Tân
Phú Đông, tỉnh Tiền Giang năm 2011 cho thấy: Trong tổng số 382 người nội
trợ thì chỉ có 67,02% không đạt yêu cầu về kiến thức chung trong lựa chọn,
chế biến thực phẩm; có 30,07% người nội trợ không biết cách lựa chọn trứng

tươi; có 8,38% người nội trợ không biết cách lựa chọn thịt tươi; có 38,74% số
người nội trợ không đạt về vệ sinh trong chế biến thực phẩm [26]. Theo kết
quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Lành về khảo sát kiến thức về vệ sinh ATTP
của người trực tiếp chế biến thức ăn trong gia đình tại thị trấn Cái Tắc và xã
Tân Hòa , huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang năm 2014 cho thấy: Trong
tổng số 650 người trực tiếp chế biến có 96,77% đối tượng biết cách lựa chọn
cá đúng, 96% đối tượng chọn rau non tươi, 91,69% đối tượng biết cách chọn
thịt có màu đỏ, tươi; có 64% đối tượng biết cách lựa chọn trứng tươi và
51,15% đối tượng biết nguyên nhân gây ô nhiễm thực phẩm trong khâu chế
biến [21]. Theo nghiên cứu kết quả nghiên cứu của nhóm (Võ hoàng Hậu, Võ
Thị Thủy Lan, Nguyễn Thị Thúy Liễu, Lê Huy Hoàng) về Kiến thức, thái độ
thực hành và các yếu tố liên quan về ATTP tại hộ gia đình xã Thuận Hưng
huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang năm 2015 có 85,9% người biết cách chọn
thịt màu hồng đỏ sáng; 85,6% chọn mua cá còn sống; 88,3% chọn mua rau
tươi non [18]. Theo nghiên cứu kết quả nghiên cứu của Phạm Nghĩa Bình về
kiến thức, thực hành về ATTP và một số yếu tố liên quan của người nội trợ
gia đình tại thị trấn Huỳnh Nghĩa, huyện Tú Mỹ, tỉnh Sóc Trăng năm 2016
cho thấy: Trong tổng số 274 người trực tiếp chế biến có 99,3% đối tượng biết
cách lựa chọn cá đúng, 85,0% đối tượng chọn rau non tươi, 98,9% đối tượng

13


biết cách chọn thịt có màu đỏ tươi, sáng; có 68,2% đối tượng biết cách lựa
chọn trứng có vỏ sạch, còn phấn và 27,7% đối tượng biết nguy cơ gây ô
nhiễm thực phẩm trong khâu chế biến [1].
Kết quả của những nghiên cứu trên cho thấy, người nội trợ ở các địa
phương có kiến thức, thực hành về ATTP trong lựa chọn, chế biến thực phẩm
khác nhau là do vùng miền hay khu vực nông thôn, thành thị, phong tục tập
quán riêng và kiến thức chung trong lựa chọn, chế biến thực phẩm đạt thấp,

đây là vấn đề hết sức quan trọng trong việc đảm bảo an toàn thực phẩm, nâng
cao kiến thức, thực hành của người nội trợ. Đảm bảo an toàn thực phẩm sẽ
hạn chế đến mức thấp nhất các vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra hay các bệnh lây
truyền qua đường thực phẩm tại hộ gia đình nhằm góp phần nâng cao công
tác chăm sóc sức khỏe của người dân.
1.5. Giới thiệu về thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang
1.5.1. Vị trí địa lý:
Thành phố Hà Giang là thành phố trực thuộc tỉnh Hà Giang được thành
lập ngày 27/9/2010 gồm 5 phường (Phường Minh Khai, phường Nguyễn Trãi,
phường Ngọc Hà, phường Quang Trung, Phường Trần Phú), 03 xã (xã
Phương Thiện, Xã Phương Độ, Xã Ngọc Đường). Về vị trí địa lý thành phố
Hà Giang nằm giữa 2 dãy núi Cấm và núi Mỏ Neo, cách Hà Nội 318km về
phía Bắc theo quốc lộ 2. Phía Đông thành phố Hà Giang giáp huyện Bắc Mê;
ba mặt Tây, Nam, Bắc đều giáp huyện Vị Xuyên. Là vùng đồi núi thấp, thung
lũng sông Lô càng xuống phía Nam càng được mở rộng. Độ cao trung bình từ
50 – 100m. Địa hình chủ yếu là các dạng đồi thấp, rừng già xen kẽ các cánh
đồng lúa, soi bãi chạy dọc đôi bờ sông, suối. Đây là vùng đất đai phì nhiêu
thích ứng với nhiều loại cây trồng, trên địa bàn thành phố Hà Giang có sông
Lô, sông Miện chảy qua [38].

14


1.5.2. Dân số-kinh tế-văn hóa-xã hội:
- Dân số thành phố Hà Giang 55.360 người, có 19 dân tộc anh em (dân
tộc H. Mông; Tày; Dao; Kinh; Nùng; Giấy; La chí; Hoa hán; Pà thẻn; Cờ lao;
Lô lô; Bố Y; Phù lá; Pu péo; Mường; Sán chay, Thái; Sán dìu và các dân tộc
còn lại) [12].
- Thành phố Hà Giang là trung tâm Chính trị - Kinh tế - Văn hoá xã hội
của Tỉnh, diện tích tự nhiên là 13.345.9 ha, trong đó diện tích đất sản xuất

nông nghiệp 1.748,83ha (13,1%); đất lâm nghiệp 8.976,54 ha (67,2%), còn lại
là diện tích thủy sản và các diện tích khác. Thành phố có tiềm năng thế mạnh
về lĩnh vực phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại dịch
vụ. Tỷ lệ hộ nghèo 0,26% [12].
- Về giao thông Thành phố Hà Giang là địa phương có vị trí thuận lợi
vì là điểm nối của nhiều tuyến giao thông đi qua như: quốc lộ 2 từ Hà Nội qua
thành phố tới cửa khẩu quốc gia Thanh Thuỷ, quốc lộ 34 tới Cao Bằng, quốc
lộ 279 tới Lào Cai, quốc lộ 4C…[38]
- Thành phố có 04 Bệnh viện và 08 trạm Y tế xã, phường với đội ngũ
viên chức Y, Bác sỹ, Kỹ thuật viên, Điều dưỡng và Dược sỹ đáp ứng được
yêu cầu khám, chữa bệnh và phòng chống dịch bệnh cho người dân trên địa
bàn thành phố và các xã lân cận [12]
- Trên địa bàn thành phố có 15 trường Mầm non; 11 trường tiểu học; 08
trường trung học cơ sở; 04 trường trung học phổ thông; 02 trường trung cấp
chuyên nghiệp [38]
Với mặt bằng dân trí khá cao và tương đối đồng đều; đời sống kinh tế,
văn hóa, sức khỏe phát triển, ổn định... Tuy nhiên một số thôn bản thuộc 3 xã
ngoại thành đường đi lại khó khăn, ý thức tự giác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe
chưa cao, còn một số hủ tục lạc hậu trong sinh hoạt ăn uống, chữa trị bệnh tật
ít nhiều ảnh hưởng tới chất lượng sức khỏe cộng đồng.

15


1.6. Tình hình ATTP tại tỉnh Hà Giang
Trên địa bàn tỉnh Hà Giang, năm 2015 trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra
08 vụ ngộ độc thực phẩm có 85 người mắc; 03 người chết. Trong năm 2016
xảy ra 11 vụ ngộ độc thực phẩm với 138 người mắc, 02 người tử vong (tỷ lệ
chết/mắc chiếm 1,44%). Trong đó: Tại huyện Mèo Vạc xảy ra 02 vụ ngộ độc
thực phẩm tại xã Niêm Sơn với 50 người mắc, không có tử vong (01 vụ tại

bếp ăn tập thể trường học số người mắc 47; 01 vụ ngộ độc nấm, số người mắc
03); Tại huyện Đồng Văn xảy ra 02 vụ ngộ độc thực phẩm do ăn nấm rừng tại
xã Lũng Cú, xã Sính Lủng, số người mắc 06, số người tử vong 01(01 vụ mắc
04 người, tử vong 01 người; 01 vụ mắc 02 người, không có tử vong). Tại
huyện Yên Minh xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm do ăn quả rừng tại xã Lũng
Hồ, số người mắc 02, tử vong 01 người. Tại huyện Xín Mần xảy ra 02 vụ ngộ
độc thực phẩm chưa rõ nguyên nhân tại xã Khuôn Lùng và xã Thèn Phàng với
26 người mắc, không có tử vong. Tại huyện Hoàng Su Phì xảy ra 01 vụ ngộ
độc thực phẩm do ăn nấm rừng tại xã Nam Sơn, số người mắc 03, không có tử
vong. Tại huyện Quang Bình xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm chưa rõ nguyên
nhân ở xã Tân Nam, số người mắc 30, không có tử vong. Tại huyện Bắc
Quang xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm tại bếp ăn tập thể Trường mầm non
Tân Thành, xã Tân Thành do Tụ cầu (Staphylococus aureus ) có trong cơm tẻ,
bánh dày, bí đỏ, số người mắc 19, không có tử vong. Tại huyện Vị Xuyên xảy
ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm do ăn quả rừng ở xã Bạch Ngọc, số người mắc
02, không có tử vong [3]. Trong 6 tháng đầu năm 2017, trên địa bàn tỉnh Hà
Giang đã xảy ra 02 vụ ngộ độc thực phẩm 01 vụ tại thôn Khuổi Mạ, huyện
Bắc Mê số người mắc 03, số người tử vong 02 do ăn phải nấm độc; 01 vụ tại
xã Đản Ván, huyện Hoàng Su Phì tại 01 gia đình tổ chức đám cưới số người
mắc 100 ca, không có người tử vong do ăn thức ăn bị nhiễm Salmonella. Tại
thành phố Hà Giang trong những năm gần đây không có vụ ngộ độc thực
phẩm nào xảy ra [4]. Tuy nhiên tỷ lệ mắc các bệnh lây truyền qua đường thực

16


phẩm do ăn uống trên địa bàn toàn tỉnh vẫn cao: Năm 2015 bệnh tiêu chảy
8977 ca; hội chứng lỵ 300 ca (Lỵ trực trùng 237 ca; lỵ amip 63 ca); viêm gan
vi rút 53 ca [28]. Năm 2016 bệnh tiêu chảy 8256 ca, giảm 721 ca (8,03%);
hội chứng lỵ 200 ca (lỵ trực trùng 111 ca; lỵ amip 89 ca), giảm 100 ca

(33,33%) [29]. Trong 6 tháng năm 2017 trên địa bàn tỉnh Hà Giang hội chứng
lỵ 43 ca, tiêu chảy 3376 ca, viêm gan vi rút 49 ca [30]. Riêng thành phố Hà
Giang , theo số liệu báo cáo của Trung tâm y tế dự phòng tỉnh Hà Giang thì
một số bệnh lây truyền qua thực phẩm đã giảm hơn so với các năm trước đây;
Trong năm 2015 trên đại bàn thành phố đã xảy ra 98 ca tiêu chảy [26]; năm
2016 bệnh tiêu chảy 87 ca, so với năm trước giảm 11 ca (11,22%) [29]; viêm
gan vi rút 83 ca. 6 tháng đầu năm 2017 bệnh tiêu chảy 55 ca [30]; không bị
mắc các hội chứng lỵ. Tuy nhiên đây là số liệu thống kê từ các cơ quan quản
lý Y tế về lĩnh vực ATTP, còn một số trường hợp mắc không đến điều trị tại
các cơ sở Y tế mà điều trị tại nhà không thống kê được.

17


×