Tải bản đầy đủ (.pdf) (199 trang)

Hoạt động đối ngoại của các chính quyền địa phương Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 199 trang )

33
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NGOẠI GIAO

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

ĐỖ NGỌC THỦY

HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA CHÍNH QUYỀN
ĐỊA PHƢƠNG VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 62 31 02 06

Hà Nội - 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG ĐỐI
NGOẠI CỦA ĐỊA PHƢƠNG VIỆT NAM.......................................................19
1.1. Cơ sở lý luận:............................................................................................19
1.1.1. Khái niệm “chính quyền địa phƣơng” và chức năng đối ngoại ....19
1.1.2. Sự hình thành hoạt động đối ngoại địa phƣơng trên thế giới. ......25
1.1.3. Hai cách tiếp cận chính về đối ngoại địa phƣơng ...........................29
1.1.3.1. Các thuật ngữ về “đối ngoại địa phương” ...................................29
1.1.3.2. Phân tích sự hình thành các quyết định đối ngoại địa phương ....36
1.2. Cơ sở thực tiễn .........................................................................................42
1.2.1. Đặc điểm hệ thống chính trị Việt Nam ............................................42


1.2.2. Quan điểm chính sách của Việt Nam ...............................................45
1.2.2.1. Đối ngoại địa phương là một bộ phận quan trọng trong nền ngoại
giao hiện đại Việt Nam. ..............................................................................45
1.2.2.2. Phân công, phân nhiệm giữa trung ương và địa phương trong
triển khai hoạt động đối ngoại địa phương................................................51
1.2.3. Khái quát thực tiễn đối ngoại địa phƣơng Việt Nam .....................56
1.2.3.1. Giai đoạn 1954 – 1977: ................................................................56
1.2.3.2. Giai đoạn 1977 - 2004 ..................................................................58
1.2.3.3. Giai đoạn 2004 – nay ....................................................................60
Tiểu kết ................................................................................................................63
CHƢƠNG 2: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI ĐỊA PHƢƠNG VIỆT NAM ....65
2.1. Phân tích nội dung chính sách đối ngoại địa phƣơng ..........................65
2.1.1. Chính sách đối ngoại địa phƣơng phục vụ hội nhập quốc tế ........65
2.1.2. Cơ chế phối hợp trong công tác đối ngoại địa phƣơng ..................70
2.1.2.1. Đối với các hoạt động đối ngoại chung của Đảng và Nhà nước: 70
2.1.2.2. Đối với các hoạt động đối ngoại của chính quyền địa phương ....72


2.2. Phân tích về thực hiện chính sách đối ngoại địa phƣơng .....................79
2.2.1. Hoạt động đối ngoại địa phƣơng vì mục tiêu an ninh biên giới ...80
2.2.2. Hoạt động đối ngoại địa phƣơng vì mục tiêu kinh tế .....................84
2.2.3. Hoạt động đối ngoại địa phƣơng vì mục tiêu hữu nghị..................89
2.2.4. Hoạt động đối ngoại địa phƣơng vì mục tiêu hội nhập tiểu vùng .93
Tiểu kết ................................................................................................................98
CHƢƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI ĐỊA PHƢƠNG.........100
3.1. Đánh giá hoạt động đối ngoại địa phƣơng thời kỳ hội nhập .............100
3.1.1. Đóng góp của đối ngoại địa phƣơng trong công tác đối ngoại
chung ...........................................................................................................100
3.1.2. Hạn chế của hoạt động đối ngoại địa phƣơng và nguyên nhân ..104

3.1.2.1. Hạn chế của hoạt động đối ngoại địa phương ............................104
3.1.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế ................................................108
3.2. Khuyến nghị chính sách cho hoạt động đối ngoại địa phƣơng .......... 112
3.2.1. Đổi mới phƣơng pháp xác định lợi ích của địa phƣơng............... 112
3.2.1.1.Những khác biệt giữa “lợi ích địa phương” và “lợi ích quốc gia” 113
3.2.1.2. Tiếp cận lợi ích địa phương theo hướng “động” ........................ 114
3.2.1.3. Mở rộng vùng lợi ích chung với đối tác ...................................... 116
3.2.2. Đổi mới đánh giá hiệu quả hoạt động đối ngoại địa phƣơng ...... 119
3.2.2.1. Định lượng hóa hiệu quả hoạt động đối ngoại địa phương: ...... 119
3.2.2.2. Đề xuất xây dựng Chỉ số hoạt động đối ngoại địa phương ........120
3.2.3. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa trung ƣơng và địa phƣơng trong
quản lý đối ngoại địa phƣơng ...................................................................126
3.2.3.1. Về quản lý Kiểm soát biên giới ...................................................127
3.2.3.2. Hợp tác hỗ trợ địa phương các nước láng giềng ........................128
3.2.3.3. Quản lý thu hút đầu tư, thực hiện cam kết hội nhập kinh tế quốc tế.129
3.2.3.4. Quản lý thương mại biên giới: ....................................................131


3.2.3.5. Tổ chức bộ máy, nhân sự đối ngoại địa phương .........................132
3.2.3.6. Phân cấp một số dịch vụ công của công tác lãnh sự: .................133
3.3. Triển vọng và xu hƣớng phát triển của đối ngoại địa phƣơng đáp ứng
yêu cầu của hội nhập quốc tế .......................................................................135
3.3.1. Triển vọng của đối ngoại địa phƣơng: ...........................................135
3.3.2. Các xu hƣớng phát triển chính của đối ngoại địa phƣơng ..........138
Tiểu kết ..............................................................................................................142
KẾT LUẬN .......................................................................................................145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ ...........151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................152
PHỤ LỤC ..........................................................................................................168


mục

Đỗ Ngọc Thủy


DANH MỤC VIẾT TẮT

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

ASEAN + 3

Hiệp hội các quốc gia Đông Á và ba nƣớc đối tác

ASEAN + 1

Hiệp hội các quốc gia Đông Á và một nƣớc đối tác

ADB

Ngân hàng phát triển châu Á

ASEM

Diễn đàn các nƣớc Á - Âu

APEC

Diễn đàn các nền kinh tế châu Á Thái Bình Dƣơng


AIA

Khu vực đầu tƣ ASEAN

EU

Liên minh châu Âu

EWEC

Hành lang kinh tế Đông Tây

FTA

Hiệp định thƣơng mại

FDI

Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

IGA

Hiệp định bảo lãnh đầu tƣ ASEAN

MDG


Chƣơng trình mục tiêu thiên niên kỷ

NGO

Tổ chức phi chính phủ

ODA

Viện trợ phát triển chính thức

PFAI

Chỉ số đối ngoại địa phƣơng

RCEP

Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực

SCI

Tổ chức các thành phố kết nghĩa quốc tế

SDGs
UNESCO

Chƣơng trình các mục tiêu phát triển bền vững
Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên Hiệp Quốc

VSIP


Khu công nghiệp Việt Nam - Singapore

WTO

Tổ chức thƣơng mại thế giới


DANH MỤC CÁC HÌNH

1

Tên các hình

Nguồn

HÌNH SỐ 1. Ma trận phản ánh cuộc

Tác giả tự xây dựng từ

tƣơng tác hai tầng giữa bốn chủ thể

trình

với ba thuộc tính Lợi ích, Thể chế,

Milner

bày


của

Helen

Thông tin.
2

HÌNH SỐ 2. Biểu đồ hình “xƣơng

Tác giả tự xây dựng từ

cá” thể hiện các nhân tố tác động tới

trình

quá trình hình thành

Milner

một quyết

bày

của

Helen

định đối ngoại địa phƣơng
3


HÌNH SỐ 3. Sơ đồ minh họa quan

Tác giả luận án tự xây

hệ giữa các cơ quan tham gia quy

dựng

trình ra quyết định hoạt động đối
ngoại địa phƣơng theo Quy chế
quản lý thống nhất hoạt động đối
ngoại.
4

5

HÌNH SỐ 4. Quá trình làm rộng

Tác giả luận án tự xây

vùng lợi ích chung

dựng

HÌNH SỐ 5. Hình minh họa điểm

Tác giả luận án tự xây

PIFAI trung bình của một địa


dựng

phƣơng với các điểm thành phần.
6

HÌNH SỐ 6. Hình minh họa một

Tác giả luận án tự xây

góc bảng điểm PIFAI của một nhóm

dựng

địa phƣơng


DANH MỤC TÀI LIỆU PHỤ LỤC
1. Quyết định số 67/2011/QĐ-TTg ngày 12/12/2011 của Thủ tƣớng Chính
phủ về việc ban hành quy chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại
của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng
2. Thông tƣ liên tịch số 02/2015/TTLT-BNG-BNV ngày 28/62015 hƣớng
dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Ngoại vụ
thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng.


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong lý thuyết cũng nhƣ thực tiễn quan hệ quốc tế, các quốc gia - dân tộc

mà nhà nƣớc là ngƣời đại diện luôn là các chủ thể chính. Tuy nhiên, từ sau khi
Chiến tranh thế giới lần thứ Hai kết thúc, các chủ thể “phi nhà nƣớc” đã bƣớc
vào môi trƣờng quan hệ quốc tế đồng nghĩa với việc các quốc gia - dân tộc
không còn là những chủ thể duy nhất triển khai quan hệ quốc tế và thực hiện
chính sách đối ngoại. Xu hƣớng các chính quyền địa phƣơng, bao gồm cả chính
quyền vùng, chính quyền cấp tỉnh các quốc gia thuộc nhiều chế độ chính trị khác
nhau có các hoạt động quốc tế, xây dựng kế hoạch đối ngoại, vận động gâyảnh
hƣởng tới chính sách đối ngoại quốc gia, phát triển năng lực hoạt động quốc tế…
ngày càng tăng lên và đƣợc gọi chung là hoạt động “đối ngoại địa phƣơng” [39].
Trong những thập kỷ gần đây, các hoạt động này đã nổi lên nhƣ một hiện tƣợng
của đời sống quốc tế.
Đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nƣớc luôn coi đối ngoại địa phƣơng là
một bộ phận quan trọng trong công tác đối ngoại chung của đất nƣớc. Tƣ tƣởng
chủ đạo về vai trò của địa phƣơng trong hoạt động đối ngoại thể hiện ở quan
điểm của Đảng và Nhà nƣớc về “phát huy sức mạnh của mọi lực lƣợng làm đối
ngoại”, về tính toàn diện của nền ngoại giao Việt Nam. Qua các kỳ Đại hội Đảng
lần thứ IX, X, XI, XII quan điểm của Đảng về nền ngoại giao toàn diện Việt
Nam đã ngày càng hoàn thiện - đó là “nền ngoại giao thống nhất dƣới sự lãnh
đạo của Đảng” nhằm huy động mọi lực lƣợng, binh chủng, kênh đối ngoại, trong
đó có các chính quyền địa phƣơng. Đặc biệt, với định hƣớng của Đại hội Đảng
lần thứ XII về “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng”, việc địa phƣơng
tham gia hội nhập quốc tế là một yêu cầu khách quan, là một kênh quan trọng
giúp triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kỳ mới. Vai trò của đối
ngoại địa phƣơng trong thời kỳ hội nhập quốc tế đang thực sự trở thành một chủ
đề chính trị - kinh tế - đối ngoại đáng quan tâm ở Việt Nam hiện nay.


2

Tuy có cơ sở lý luận vững chắc, bề dày phát triển cùng những đóng góp

nhất định vào thành tựu đối ngoại chung của đất nƣớc, so với nhiều ngành kinh
tế xã hội khác, đối ngoại địa phƣơng vẫn là lĩnh vực đặc thù trong hoạt động
thực tiễn, chƣa đƣợc tạo điều kiện phát triển đúng mức. Vấn đề này có những
nguyên nhân khách quan, đó là tính chất nhạy cảm, phức tạp vốn thuộc về bản
chất của các vấn đề đối ngoại, nhƣng cũng có nguyên nhân chủ quan, đó là sự
chậm trễ trong tổng kết thực tiễn, ban hành chính sách phù hợp, sát với yêu cầu
phát triển của công tác đối ngoại địa phƣơng. Ở nhiều địa phƣơng, nhận thức về
vai trò của công tác đối ngoại còn nhiều hạn chế, hoạt động đối ngoại cũng chƣa
đủ độ sâu và thực chất đủ để mang lại những giá trị mới cho sự phát triển của địa
phƣơng, đáp ứng đòi hỏi của quá trình hội nhập. Ở cấp trung ƣơng, các bộ ngành
liên quan còn thiếu những định hƣớng dài hơi cho sự phát triển của đối ngoại địa
phƣơng, chƣa có những giải pháp chiến lƣợc tạo động lực khuyến khích sự năng
động, sáng tạo, tự chủ của chính quyền địa phƣơng trong hoạt động quốc tế, đảm
bảo cho địa phƣơng thực hiện thành công và đạt đƣợc nhiều lợi ích từ quá trình
hội nhập của đất nƣớc.
Để làm rõ bản chất của hoạt động đối ngoại địa phƣơng Việt Nam, vai trò
của đối ngoại địa phƣơng trong nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, triển vọng và
xu hƣớng phát triển của đối ngoại địa phƣơng đáp ứng nhu cầu của hội nhập
quốc tế, tác giả chọn đề tài “Hoạt động đối ngoại của các chính quyền địa
phƣơng Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế” làm luận án tốt nghiệp tiến sĩ
chuyên ngành Quan hệ Quốc tế sau thời gian làm nghiên cứu sinh tại Học viện
Ngoại giao.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới, hoạt động đối ngoại địa phƣơng không phải là hiện tƣợng
mới nhƣng chỉ trở thành một chủ đề chính thức của nghiên cứu quan hệ quốc tế
từ đầu những năm 1980. Đó là giai đoạn các hoạt động quốc tế của chính quyền
địa phƣơng có sự gia tăng nhanh chóng, đồng thời phạm vi hoạt động ngày càng
rộng, nhất là ở các nƣớc dân chủ phƣơng Tây và các nền kinh tế đang chuyển



3

đổi. Sự xuất hiện của đối ngoại địa phƣơng trong nghiên cứu quốc tế rất đáng chú
ý vì nó thách thức các giả thuyết nổi bật của của quan hệ quốc tế truyền thống vốn
chỉ tập trung vào vai trò trung tâm của nhà nƣớc, đồng thời mở ra hƣớng tiếp cận
mới về cấp độ phân tích trong nghiên cứu quan hệ quốc tế nói chung. Từ đó đến
nay, nghiên cứu về đối ngoại địa phƣơng đã đạt đƣợc nhiều kiến thức sâu sắc với
những thuật ngữ mới ra đời nhƣ “ngoại giao song song”, “ngoại giao đa tầng”,
“ngoại giao hợp nhất”… để nắm bắt hiện tƣợng đối ngoại địa phƣơng. Đồng thời,
các nghiên cứu cũng đã bàn tới sự khác biệt giữa hoạt động đối ngoại của chủ thể
địa phƣơng với hoạt động quốc tế các chủ thể phi nhà nƣớc khác.
Đối với Việt Nam, các công trình nghiên cứu riêng về đối ngoại địa
phƣơng chƣa có nhiều song không thiếu những công trình bàn về các vấn đề liên
quan nhƣ “đối nội với chính sách đối ngoại”, “cách thức các chính quyền địa
phƣơng tham gia vào lĩnh vực đối ngoại”. Các công trình bàn trực tiếp về đối
ngoại địa phƣơng đến nay chủ yếu là nguồn Kỷ yếu các kỳ Hội nghị Ngoại vụ
địa phƣơng do Bộ Ngoại giao tổ chức định kỳ, các bài viết của Lãnh đạo Bộ
Ngoại giao qua các thời kỳ phân tích về đƣờng lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nƣớc, quan điểm về nền ngoại giao hiện đại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
quốc tế.
2.1. Các công trình nghiên cứu ngoài nước
Có thể chia các nghiên cứu về đối ngoại địa phƣơng thành ba nhóm chính:
nhóm “ngoại giao song song”, nhóm “ngoại giao đa tầng”, và nhóm các nghiên
cứu theo trƣờng phái chủ nghĩa thể chế lịch sử.
Nhóm ngoại giao song song
Công trình nghiên cứu đầu tiên về đối ngoại địa phƣơng đƣợc ghi nhận là
loạt bài “Các bang của chính quyền liên bang và quan hệ quốc tế của họ” của
nhóm tác giả Ivo Duchacek và John Kincaid, John Kline đăng thành tạp chí xuất
bản năm 1984 [119]. Các bài báo mô tả thực tiễn hoạt động quốc tế của các
chính quyền thuộc chính phủ liên bang ở Mỹ và Canada trong những năm 1970

và 1980. Trong các bài báo này, Duchacek sử dụng từ “ngoại giao vi mô” – sau


4

này tác giả đổi thành “ngoại giao song song” để chỉ hoạt động đối ngoại của các
chính quyền địa phƣơng, phân biệt với “ngoại giao vĩ mô” thực hiện bởi chính
phủ trung ƣơng.
Tác phẩm tiếp theo „Khía cạnh lãnh thổ của chính trị: bên trong, với nhau
và bên ngoài các dân tộc” [116] của Duchacek xuất bản năm 1986. Trong tác
phẩm này, Duchacek định nghĩa “ngoại giao song song” là hoạt động song song,
phối hợp hoặc bổ sung, thậm chí có lúc xung đột với ngoại giao vĩ mô giữa các
quốc gia với nhau. Duchacek cho rằng sự hiện diện của địa phƣơng trên trƣờng
quốc tế đã trở thành một thực tiễn của đời sống quốc tế trong thế giới phụ thuộc
lẫn nhau. Tác giả phân nhóm ngoại giao song song thành ba loại: ngoại giao
song song khu vực xuyên biên giới diễn ra giữa các địa phƣơng các nƣớc chung
biên giới với nhau; ngoại giao song song xuyên khu vực diễn ra giữa các vùng
của các nƣớc láng giềng nhƣng không có biên giới chung; ngoại giao song song
toàn cầu tức là quan hệ giữa các chính phủ trung ƣơng và địa phƣơng các nƣớc
mà không phụ thuộc về biên giới chung.
Nghiên cứu thứ ba “Một khuôn khổ giải thích cho nghiên cứu về các bang
thuộc liên bang nhƣ là những chủ thể chính sách đối ngoại” do Duchacek kết hợp
với Hans J. Michelmann và Panayotis Soldatos xuất bản năm 1990 [133] đi xa
hơn trong việc phát triển chủ thể chính quyền địa phƣơng nhƣ là những “chủ thể
chính sách đối ngoại”. Tác giả Panayotis Soldatos cho rằng hoạt động đối ngoại
của chính quyền địa phƣơng trong các nhà nƣớc liên bang có những nhân tố cấu
thành của chính sách đối ngoại, có mục tiêu, chiến lƣợc, thủ thuật, thể chế, quá
trình ra quyết định, công cụ và các giải pháp thực hiện [133][134]. Tác giả còn
đƣa ra cách phân biệt các nguồn gốc dẫn đến sự hình thành của hoạt động đối
ngoại song song: nguyên nhân trong nƣớc tại cấp độ bang; nguyên nhân trong

nƣớc tại cấp độ liên bang, và các nguyên nhân quốc tế.
Các tác giả Fancisco Aldecoa và Miachel Keating với tập hợp “Đối ngoại
song song trong thực tiễn” đã tiếp cận hoạt động quốc tế của địa phƣơng các
nƣớc châu Âu ở Bỉ, Đức, Tây Ban Nha. Dựa trên khái niệm ngoại giao song


5

song của các học giả Mỹ và Canada, các nhà khoa học châu Âu, gắn với thực
tiễn hình thành Liên minh châu Âu, đã nghiên cứu về quan hệ giữa chính quyền
liên bang và chính quyền bang nhƣ là một hệ quả của trào lƣu khu vực hóa châu
Âu. Nhóm tác giả cho rằng nhờ các cải cách liên tục, EU đã phát triển một
khuôn khổ thể chế tƣơng đối thuận lợi cho việc huy động tiềm năng của địa
phƣơng trong hoạt động quốc tế và dần dần thể chế hóa cho hoạt động quốc tế của
chính quyền địa phƣơng.
Bài viết của Geoffrey Wiseman “Chủ nghĩa đa chủ thể và các phƣơng
thức mới của đối thoại toàn cầu” đã đề cập đến một hình thức mới của ngoại
giao trong thế kỷ 21, đó là ngoại giao đa chủ thể (polylateralism). Tác giả định
nghĩa “ngoại giao đa chủ thể” là quan hệ giữa các thực thể chính thức - nhƣ nhà
nƣớc, một nhóm nhà nƣớc hoặc các tổ chức quốc tế có các quốc gia thành viên với ít nhất một đối tác “phi nhà nƣớc” không chính thức, không nhất thiết phải
dựa trên sự công nhận nhau là các thực thể có chủ quyền hoặc các thực thể bình
đẳng”. Weisman nói về chủ nghĩa đa chủ thể nhƣ là một hình thức thứ ba của
ngoại giao, cùng với ngoại giao song phƣơng và ngoại giao đa phƣơng, trong đó
các chủ thể địa phƣơng là một phần đáng chú ý của trật tự thế giới.
Nhóm ngoại giao đa tầng
Brian Hocking là tác giả hàng đầu về ngoại giao đa tầng với một loạt công
trình nghiên cứu trong các năm 1993 - 1999 nhƣ “Địa phƣơng hóa chính sách
đối ngoại: Các chính quyền phi trung ƣơng và ngoại giao đa tầng” (nguyên gốc
“Localizing Foreign Policy: Non-Central Governments and Multilayered
Diplomacy), “Vƣợt qua làn ranh: Toàn cầu hóa, Địa phƣơng hóa và vai trò chủ

thể của các chính quyền phi trung ƣơng”, “Bắc cầu nối các đƣờng biên giới: Tạo
các liên kết. Các chính quyền phi trung ƣơng và Mô trƣờng chính sách đa tầng”.
Trong các nghiên cứu này, Brian Hocking cho rằng ở mỗi quốc gia ngày nay,
ngoại giao là một mạng lƣới các tƣơng tác giữa nhà nƣớc, địa phƣơng và các chủ
thể khác. Các chủ thể này sẽ tƣơng tác theo các cách khác nhau phụ thuộc vào
vấn đề lợi ích và năng lực hoạt động nhằm tìm cách đảm bảo đồng thời lợi ích


6

đối nội và đối ngoại. Trái ngƣợc với “ngoại giao song song” cho rằng hoạt động
đối ngoại của chính phủ và địa phƣơng diễn ra trong hai thế giới tách biệt,
“ngoại giao đa tầng” cho rằng chủ thể nhà nƣớc và địa phƣơng cùng là bộ phận
của một môi trƣờng ngoại giao phức tạp có sự liên tục của các chính sách đối nội
và đối ngoại. Khái niệm “ngoại giao đa tầng” cũng phê phán cách “ngoại giao
song song” tạo sự chia cắt giữa trung ƣơng và địa phƣơng trong lĩnh vực quan hệ
quốc tế và mặc nhiên coi chủ thể địa phƣơng là các chủ thể đơn nhất, bỏ qua các
khác biệt về lợi ích và chiến lƣợc mà họ theo đuổi. Trƣờng phái đa tầng nhận
thức hoạt động đối ngoại ngày càng tăng của các chính quyền địa phƣơng là một
phần trong chuỗi những phát triển của quá trình chính sách đối ngoại quốc gia.
“Địa phƣơng hóa chính sách đối ngoại” nhƣ Hocking gọi, “thể hiện sự mở rộng
chứ không phải thu hẹp của chính sách đối ngoại”. Bằng việc “dung nạp”, “bình
thƣờng hóa” đối ngoại địa phƣơng trong hệ thống đối ngoại quốc gia, lý thuyết
của Hocking nhấn mạnh sự hợp tác lớn hơn xung đột giữa địa phƣơng và trung
ƣơng trong đối ngoại.
David Criekemans cũng là tác giả chuyên nghiên cứu về đối ngoại địa
phƣơng nhất là các nƣớc châu Âu với một loạt nghiên cứu tình huống nhƣ
“Trƣờng hợp Flanders 1993 – 2005: cách các thực thể địa phƣơng phát triển đối
ngoại địa phƣơng của mình” (The case of Flanders (1993-2005): how
subnational entities develop their own "paradiplomacy") [101], Nghiên cứu về

địa phƣơng – con đƣờng phía trƣớc (“Researching sub-state diplomacy: the road
ahead”) [102], “Đối ngoại địa phƣơng của khu vực: Cách tiếp cận so sánh:
Quebec, Scotland, Bavaria, Catalonia, Walonia và Flanders” (“Regional Substate Diplomacy from a Comparative Perspective: Quebec, Scotland, Bavaria,
Catalonia, Wallonia and Flanders” [103]. Dựa trên sự phát triển của đối ngoại
châu Âu, tác giả đƣa ra khái niệm về đối ngoại địa phƣơng nhƣ là một hiện
tƣợng đang không ngừng phát triển và liên tục có những thay đổi. Trong bài
“Nghiên cứu về đối ngoại địa phƣơng – Con đƣờng phía trƣớc” [102], tác giả
phân tích 3 giai đoạn phát triển của đối ngoại địa phƣơng:


7

(i) Làn sóng thứ nhất từ những năm 1980 đến gần 1990: các chính quyền
địa phƣơng tăng cƣờng phát huy các giá trị văn hóa và bản sắc để tham gia hoạt
động quốc tế và thực hiện các sáng kiến nhằm thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài,
(ii) Làn sóng thứ hai trong những năm 1990, đƣợc ghi dấu bởi việc thể thức
hóa đối ngoại địa phƣơng trong các nƣớc châu Âu. Các quy định pháp lý ra đời
tạo cơ sở cho hoạt động đối ngoại địa phƣơng, đồng thời bộ máy chính sách đối
ngoại “riêng”, có thể là cơ quan chính sách hoặc cơ quan hành chính, đƣợc thành
lập để phối hợp các hoạt động giữa các địa phƣơng với nhau nhất, là trong từng
vùng. Ví dụ nhƣ ở Pháp, Luật 6/2/1992 liên quan tới quản lý lãnh thổ là văn bản
luật đầu tiên chính thức cho phép các chính quyền địa phƣơng ký các thỏa thuận
với các chính quyền tƣơng ứng ở nƣớc ngoài, đồng thời thành lập Ủy ban quốc gia
về hợp tác phi tập trung của Pháp - Commission Nationale de la Coopération
Décentralisée (CNCD).
(iii) Làn sóng thứ ba tính từ đầu những năm 2000 đến nay. Giai đoạn này
đƣợc ghi dấu bởi việc bộ máy tổ chức cơ quan đối ngoại địa phƣơng phát triển
theo chiều sâu trong các quốc gia, việc hòa nhập các công cụ đối ngoại địa
phƣơng vào tổng thể chính sách đối ngoại quốc gia trở nên nhuần nhuyễn, các
trọng tâm về hợp tác quốc tế và khai thác lợi thế địa chính trị của các địa phƣơng

đƣợc nhấn mạnh. Ví dụ, Pháp là quốc gia có nền tảng thể chế mạnh về đối ngoại
địa phƣơng. Ở cấp quốc gia, Ủy ban quốc gia về hợp tác phi tập trung (CNCD)
do Thủ tƣớng chính phủ đứng đầu, tại Bộ Ngoại giao có Vụ Hợp tác quốc tế của
chính quyền địa phƣơng nay trực thuộc Tổng vụ Toàn cầu hoá, Hệ thống các
hiệp hội hỗ trợ đối ngoại địa phƣơng gồm có Hiệp hội các đô thị (CUF) và Ủy
ban các vùng của Pháp (DAECL).
Tác giả Noe Cornago với hai nghiên cứu “Về việc bình thƣờng hóa ngoại
giao địa phƣơng” (On the Normalization of Sub-State Diplomacy) [130] và “Bàn
về khía cạnh toàn cầu của ngoại giao địa phƣơng” (Exploring the global
dimensions of paradiplomacy) [131] đề cập hiện tƣợng đối ngoại địa phƣơng từ
nhãn quan toàn cầu. Neo Cornago cho rằng sự tham gia của chính quyền địa


8

phƣơng vào quan hệ quốc tế không chỉ diễn ra ở các nƣớc phát triển ở Bắc Mỹ
và Tây Âu mà còn ở tất cả các châu lục, đối ngoại địa phƣơng thực sự là một
hiện tƣợng toàn cầu, là một cấu thành của nền kinh tế chính trị toàn cầu mới.
Tác giả Brian Hocking tiếp tục bổ sung lý giải mối quan hệ giữa trung
ƣơng và địa phƣơng trong hệ thống ngoại giao đa tầng với khái niệm “ngoại giao
hợp nhất”. Trong hai nghiên cứu “Tƣơng lai của ngoại giao: Ngoại giao hợp nhất
trong thế kỷ 21” (Futures for Diplomacy: Integrative Diplomacy in the 21st
Century) [98] và “Ngoại giao đa chủ thể : Các hình thái, Chức năng và những
vấn đề” (Multistakeholder Diplomacy: Forms, Functions, and Frustrations) [97],
tác giả khẳng định nhu cầu về phối hợp hoạt động đối ngoại trung ƣơng và địa
phƣơng luôn tồn tại vì chính sách đối ngoại sẽ đem lại lợi ích lớn nhất khi có sự
cố kết và liên tục với chính sách đối nội. Không đi sâu vào quan điểm cực đoan
“một mất – một còn” trong quan hệ giữa các cấp chính quyền của hệ thống chính
trị hay sự chiếm ƣu thế của trung ƣơng trong môi trƣờng đối ngoại, ngoại giao
hợp nhất nhấn mạnh sự phức tạp, đa chiều trong quan hệ giữa cấp trung ƣơng và

địa phƣơng đồng thời tìm cách phân biệt vai trò và chức năng các chủ thể này
trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách đối ngoại.
Cách tiếp cận của chủ nghĩa thể chế lịch sử.
Mặc dù hai trƣờng phái trên đƣa ra một loạt những khái niệm hữu ích, liệt
kê các hình thức phong phú của đối ngoại địa phƣơng, nghiên cứu về đối ngoại
địa phƣơng vẫn bị đánh giá là chƣa vƣợt qua đƣợc khuôn khổ “mô tả”. Không
thỏa mãn với cách giải thích theo thuật ngữ, một nhóm các học giả châu Âu là
những ngƣời đầu tiên đã áp dụng lý thuyết thể chế lịch sử vào việc nghiên cứu
đối ngoại địa phƣơng. Cách tiếp cận thể chế lịch sử cho phép việc nghiên cứu
đối ngoại địa phƣơng phát huy đƣợc năng lực “mô tả” của các trƣờng phái
“ngoại giao song song”, “ngoại giao đa tầng”, đồng thời giải thích đƣợc tác động
của bối cảnh có tính thể chế quốc tế và trong nƣớc tới chủ thể địa phƣơng.
Hai tác giả Peter Bursensa và Jana Deforcheb có công trình nghiên cứu
“Vƣợt lên ngoại giao song song? Thể chế lịch sử sẽ giải thích năng lực chính


9

sách đối ngoại của các vùng” [135]. Dựa trên nguyên lý cơ bản của thuyết thể
chế lịch sử, nhóm tác giả đi sâu phân tích trƣờng hợp của Bỉ - nơi đƣợc đánh giá
là nhà nƣớc liên bang dành thẩm quyền đối ngoại rất lớn, gần nhƣ đầy đủ cho
cấp bang. Quan điểm thể chế lịch sử cho phép đánh giá lại năm lần cải cách hiến
pháp Bỉ trong vòng 35 năm: các năm 1970, 1981, 1988, 1993 và 2001 đã đƣa Bỉ
từ một nhà nƣớc đơn nhất, tập trung hóa thành một nhà nƣớc Liên bang đầy đủ:
(i) Cuộc cải cách lần thứ nhất năm 1970 đã du nhập chủ nghĩa liên bang vào Bỉ,
chuyển giao một số thẩm quyền về văn hóa từ cấp nhà nƣớc Bỉ xuống cấp địa
phƣơng với ba cộng đồng văn hóa; (ii) Cuộc cải cách hiến pháp lần thứ hai năm
1981 chuyển giao thẩm quyền về những vấn đề liên quan đến dân sinh nhƣ các
vấn đề thanh niên, thể thao, văn hóa, giáo dục… và một phần thẩm quyền kinh tế
cho các cộng đồng trên, và chính thức lập ra hai vùng: vùng Flanders và vùng

Wallon; (iii) Cải cách năm 1988 thành lập Vùng thứ ba của Bỉ là vùng thủ đô
Brussels. Cùng với đó, các vùng của Bỉ đƣợc quyền tham gia quá trình xây dựng
chính sách đối ngoại trong những lĩnh vực thuộc thẩm quyền của địa phƣơng;
(iv) Cải cách năm 1993, các nhà cải cách nhận ra các rắc rối tiềm ẩn của việc
dành cho các đơn vị cấp vùng quyền quyết định chính sách đối ngoại nên đã áp
dụng một số giới hạn: nếu một vùng hay cộng đồng không đáp ứng các yêu cầu
của châu Âu hoặc quốc tế, bị kết án bởi một tòa án EU hoặc quốc tế thì luật liên
bang sẽ có hiệu lực trên luật địa phƣơng; (v) Cũng trong năm 1993, các vùng đã
vận động EU ban hành quy định về đại diện quốc gia ở “Hội đồng Bộ trƣởng
EU” phải có thành phần của bang, đồng thời EU cũng duy trì nguyên tắc: Các
bang nên hành động nhƣ chủ thể độc lập trên trƣờng quốc tế.
Trong bài nghiên cứu “Những vấn đề chính trị của đối ngoại địa phƣơng:
Bài học từ các nƣớc phát triển” (Political issues of paradiplomacy: lessons from
the developed world), tác giả André Lecours cũng sử dụng thuyết thể chế lịch sử
để phân tích sự lựa chọn công cụ chính sách đối ngoại của các vùng, địa phƣơng.
Lecours phân biệt các yếu tố quyết định có tính cấu trúc của đối ngoại vùng theo
các cấp độ toàn cầu, lục địa, quốc gia: (i) Cấp quốc gia: Các yếu tố cấp quốc gia


10

sẽ giải quyết những vấn đề nhƣ khuôn khổ hiến pháp dành cho địa phƣơng thẩm
quyền chính thức về đối ngoại, quan hệ giữa chính quyền liên bang và các bang
có tính hợp tác cao thay vì xung đột, đại diện của chính quyền vùng trong thể
chế liên bang hoạt động hiệu quả, nội dung hoạt động không tập trung nhiều vào
những vấn đề “chính trị cao” nhƣ quốc phòng, an ninh mà chủ yếu là các vấn đề
“chính trị thấp” nhƣ thƣơng mại, đầu tƣ…(ii) Cấp châu lục: Các cơ hội tạo ra bởi
các chế độ kinh tế chính trị nhƣ Liên minh châu Âu EU; (iii) Cấp toàn cầu: Vai
trò của các tổ chức quốc tế nhƣ Liên hợp quốc, các tổ chức liên chính phủ và nền
kinh tế toàn cầu sẽ là các cấu trúc nhiều khả năng ảnh hƣởng, hoặc tạo điều kiện

hoặc gây ra khó khăn cho đối ngoại địa phƣơng.
2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Các tác giả trong nƣớc cũng bàn tới những mô hình nghiên cứu mới bổ
sung cho thuyết Hiện thực và thuyết Tự do trong việc giải thích ảnh hƣởng quan
trọng của chính trị đối nội đến chính sách đối ngoại và chính trị quốc tế. Tác giả
Nguyễn Vũ Tùng trong cuốn “Phƣơng pháp nghiên cứu khoa học” [74, tr. 14 –
44] đã nêu “Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, đã có một số công trình quan trọng
tập trung vào tính chất của nhà nƣớc, tổ chức chính phủ, hoặc cá nhân các nhà
lãnh đạo.... các học giả này không tìm cách đƣa ra các những “đại lý thuyết” về
quan hệ quốc tế nhƣng cố gắng làm rõ các nhân tố có thể đƣa đến hành vi của
một nƣớc ngƣợc với những dự đoán của thuyết Hiện thực hoặc Tự do đƣa ra”.
Tác giả Nguyễn Vũ Tùng đã đề cập, từ sau chiến tranh lạnh, tức trùng với thời
kỳ nghiên cứu về đối ngoại địa phƣơng trên thế giới có nhiều phát triển mạnh
mẽ, “các học giả tiếp tục nghiên cứu tác động của chính trị trong nƣớc đối với
hành vi của quốc gia, cách nào các nhóm lợi ích trong nƣớc có thể bóp méo việc
hình thành các ƣu tiên quốc gia và đƣa tới hành vi đối ngoại dƣới mức tối ƣu”.
Những vấn đề mới của thế giới toàn cầu hóa nhƣ sự tham gia của các tổ chức phi
chính phủ, các công ty đa quốc gia, các chính quyền địa phƣơng... vào lĩnh vực
đối ngoại, những tác động của hiện tƣợng này đến ngoại giao nhà nƣớc mà ngƣời
đại diện là Bộ Ngoại giao ở các quốc gia cũng đƣợc các tác giả quan tâm. Tác


11

giả Dƣơng Văn Quảng trong bài “Bàn về quá trình dân chủ hóa trong đời sống
quốc tế” [53] đã ghi nhận: “… các tác nhân mới xuất hiện và ngày càng có vai
trò đáng kể và đa dạng trong đời sống quốc tế. Đó là các tổ chức phi chính phủ,
các công ty đa quốc gia... Nhiều nhà nghiên cứu không coi các tổ chức này là
chủ thể của quan hệ quốc tế”. Trong khi ở nhiều nƣớc châu Âu, các nhà nghiên
cứu đặt vấn đề “dung nạp” hay “bình thƣờng hóa” đối ngoại địa phƣơng trong

đối ngoại quốc gia, ở Việt Nam, thông qua các nghiên cứu tiêu biểu của Vũ
Dƣơng Huân [31][32][33], Dƣơng Văn Quảng [54][55] , Đặng Đình Quý,
Nguyễn Vũ Tùng [59], Phạm Quang Minh [48]…. về “lợi ích quốc gia dân tộc là
bất biến” “thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng”, ngoại giao Việt Nam
hiện lên nổi bật với phƣơng châm nhất quán đề cao sự tham gia của các lực
lƣợng trong nƣớc vào hoạt động đối ngoại. Tác giả Đặng Đình Quý (2010) trong
bài “Bàn thêm về lợi ích quốc gia dân tộc trong hoạt động đối ngoại Việt Nam
giai đoạn mới” [60, tr. 69 - 71] đã viết “Đối ngoại là sự kéo dài của đối nội. Điều
này đặc biệt đúng với việc thảo luận về lợi ích quốc gia. Việc xác định lợi ích
quốc gia nhấn mạnh tới vai trò của các chủ thể bên trong một nƣớc”. Lợi ích
quốc gia là vấn đề gốc rễ giải thích cho truyền thống của ngoại giao Việt Nam
luôn phát huy vai trò của chính quyền địa phƣơng trong công tác đối ngoại cả
trong thời chiến lẫn thời bình.
Những vấn đề lý luận cụ thể về đối ngoại địa phƣơng Việt Nam có thể
thấy trong những phát biểu chính sách và các công trình nghiên cứu về ngoại
giao toàn diện, ngoại giao hiện đại Việt Nam, nhất là từ những năm 1980 của thế
kỷ trƣớc khi đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế.
Trƣớc hết, quan điểm toàn diện trong lĩnh vực đối ngoại đã bén rễ sâu trong tƣ
tƣởng cách mạng Việt Nam. Nhƣ tác giả Vũ Khoan đã viết: “chúng ta có một bài
học về sức mạnh tổng hợp. Chúng ta huy động các lực lƣợng đối ngoại của
Đảng, Nhà nƣớc, Quốc hội, Chính phủ và các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp và
cá nhân tham gia làm ngoại giao….Đó là một sự triển khai toàn diện, tổng lực
của toàn bộ hệ thống chính trị. Chính điều này mới giúp cho hoạt động ngoại


12

giao thành công đƣợc” [80]. Khái niệm “ngoại giao toàn diện” lần đầu tiên chính
thức đƣợc đƣa trong bài “Triển khai chiến lƣợc ngoại giao toàn diện thực hiện
thắng lợi đƣờng lối đối ngoại Đại hội XI” của Phó Thủ tƣớng, Bộ trƣởng Ngoại

giao Phạm Gia Khiêm (nhiệm kỳ 2006 – 2011) đăng trong cuốn “Đƣờng lối
chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn mới”[39]. Trong bài viết này, tác
giả đã khẳng định tính tất yếu của ngoại giao toàn diện trong quá trình hội nhập
quốc tế của Việt Nam “Nền ngoại giao thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
nhằm huy động mọi lực lượng, binh chủng, kênh đối ngoại, mọi công cụ và
phương thức triển khai; địa bàn và đối tượng triển khai”.
Các phát biểu chính sách về đối ngoại địa phƣơng thể hiện tập trung trong
văn kiện các kỳ Hội nghị ngoại vụ địa phƣơng giai đoạn 2006 – 2011. Tại Hội
nghị Ngoại vụ địa phƣơng lần thứ 15 tháng 6/2009 [81], Phó Thủ tƣớng Bộ
trƣởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm khẳng định vị trí của đối ngoại địa phƣơng
trong nền ngoại giao của đất nƣớc:
“Mỗi địa phương là một chủ thể, một lực lượng cấu thành trong các lực lượng
đối ngoại của đất nước; có vai trò, trách nhiệm triển khai trên địa bàn các vấn đề
trọng tâm của ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hoá, công tác
Việt kiều; là “cánh tay nối dài” của Bộ Ngoại giao và các cơ quan đối ngoại ở Trung
ương trong việc đôn đốc, thực hiện các chức năng quản lý thống nhất, tham mưu
đóng góp cho việc hoạch định, triển khai công tác đối ngoại chung”
Việc nhấn mạnh vào nền ngoại giao toàn diện làm nổi bật lên tính chất
mới của sự nghiệp đối ngoại cũng nhƣ yêu cầu tham gia tích cực và chủ động
hơn của mọi lực lƣợng làm đối ngoại, đồng thời hƣớng tới thống nhất hoạt động
đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc, các bộ, ngành và địa phƣơng. Tác giả Phạm Bình
Minh trong bài “Một số suy nghĩ về định hình chính sách đối ngoại mới” [46] đã
viết “Tính toàn diện của đối ngoại Việt Nam được quy định bởi (i) sự lãnh đạo
toàn diện của Đảng trong mọi hệ thống chính trị, đặc biệt trong hoạt động đối
ngoại; (ii) tính toàn diện trong mục tiêu của chính sách đối ngoại và của lợi ích
dân tộc; (iii) sự đa dạng của các mối quan hệ đối ngoại trong quá trình hội


13


nhập; (iv) tầm vóc của các vấn đề đòi hỏi cách tiếp cận và xử lý tổng hợp với
tầm chỉ đạo tổng thể và có sự tham gia cũng như liên quan tới lợi ích của mọi
ngành, mọi cấp và mọi địa phương...”. Trên thực tế giai đoạn này, công tác đối
ngoại trong thời kỳ đổi mới ngày càng đƣợc triển khai sôi động với sự tham gia
của các cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nƣớc, các đoàn thể và tổ chức nhân dân từ
Trung ƣơng đến địa phƣơng, của các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần
kinh tế. Sự tham gia đầy đủ của các lực lƣợng này cũng đã làm nên diện mạo
mới của ngoại giao hiện đại Việt Nam.
Trong bài “Đƣờng lối đối ngoại Đại hội XI và những phát triển quan trọng
trọng trong tƣ duy đối ngoại của Đảng ta” đăng trong cuốn “Đƣờng lối chính
sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn mớ

. Phó Thủ tƣớng, Bộ

trƣởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã khẳng định nguyên tắc lớn của ngoại
giao Việt Nam hiện đại là “bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý
tập trung của Nhà nƣớc đối với hoạt động đối ngoại, sự phối hợp nhịp nhàng
giữa Trung ƣơng và địa phƣơng”. Tác giả cũng nhấn mạnh “ Triển khai nền ngoại
giao toàn diện Việt Nam bao gồm nhiều binh chủng hợp thành sẽ tạo nên xung lực
tổng hợp của các lĩnh vực, các loại hình, các kênh đối ngoại, tuy nhiên cũng tạo
nên một số thách thức mới, mà lớn nhất là nguy cơ chồng chéo, triệt tiêu hiệu quả
lẫn nhau. Để đối phó với những thách thức này, hoạt động đối ngoại cần đƣợc
triển khai với kế hoạch tổng thể, đồng bộ, có sự chỉ đạo thống nhất và phối hợp
nhịp nhàng giữa các kênh, các lĩnh vực đối ngoại, nếu không sẽ dẫn đến lãng phí
nguồn lực và làm suy giảm hiệu quả của các hoạt động đối ngoại”.
Tháng 10/2012, Bộ Ngoại giao hoàn thiện đề tài cấp cơ sở “Thực trạng và
giải pháp trong việc tăng cƣờng quản lý thống nhất hoạt động đối ngoại của Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng” [78], lần đầu tiên có sự
vận dụng cách tiếp cận đa lĩnh vực giữa quan hệ quốc tế và chính sách công để
xem xét vấn đề phân cấp thẩm quyền trong lĩnh vực đối ngoại địa phƣơng. Đáng

chú ý, về cơ sở lý luận, Đề tài đã dựa vào cách tiếp cận “ngoại giao đa tầng” của
thế giới để so sánh với nền ngoại giao toàn diện Việt Nam, theo đó khẳng định


14

ngoại giao nhà nƣớc là trụ cột, là trung tâm, là nguồn tham vấn chính của các bộ
phận cấu thành trong nền ngoại giao toàn diện Việt Nam.
Hội nghị Hợp tác quốc tế cấp địa phƣơng lần thứ nhất đƣợc Bộ Ngoại
giao tổ chức tháng 6/2012 tại thành phố Hồ Chí Minh. Các công trình nghiên
cứu đƣợc trình bày tại Hội nghị cho thấy những kết quả ban đầu của việc thiết
lập quan hệ hữu nghị hợp tác, kết nghĩa cấp địa phƣơng giữa Việt Nam và các
nƣớc, việc tham gia ký kết các thỏa thuận quốc tế của địa phƣơng Việt Nam với
các đối tác nƣớc ngoài [77]. Hội nghị đã đặt ra các định hƣớng nghiên cứu tiếp
theo về công tác hợp tác quốc tế cấp địa phƣơng, trong đó nêu bật yêu cầu
nghiên cứu thể chế hóa vấn đề này trong hệ thống pháp lý của Việt Nam, bao
gồm xác định rõ chức năng của chính quyền địa phƣơng trong lĩnh vực đối ngoại
và hợp tác quốc tế, xây dựng các nguyên tắc, quy trình thiết lập các quan hệ hợp
tác, các quy định về trách nhiệm và nghĩa vụ trong thực hiện các dự án thuộc
khuôn khổ hợp tác cấp địa phƣơng.
Tháng 8/2014, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã tổ chức loạt hội nghị và hội thảo
với các chủ đề “Đối ngoại Đa phƣơng thế kỷ 21 và khuyến nghị chính sách đối với
Việt Nam”, “Địa phƣơng - Chủ thể của hợp tác quốc tế”, “Các vấn đề đặt ra cho
hợp tác quốc tế cấp địa phƣơng trong tình hình mới” [20]. Chủ đề của loạt hội nghị
này đã thể hiện đậm nét tƣ duy đổi mới của đối ngoại Việt Nam thế kỷ 21 đó là
ngoài các quan hệ song phƣơng truyền thống, Ngoại giao Việt Nam đã có cách tiếp
cận đa phƣơng và bên cạnh đó, vấn đề đa chủ thể cũng đã đƣợc đề cập tới. Các
công trình nghiên cứu tại “Hội thảo Địa phƣơng - chủ thể của hội nhập quốc tế” đã
có nhiều đóng góp về lý luận và thực tiễn nhằm khẳng định vai trò quan trọng của
các địa phƣơng trong triển khai hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề trình bày ở trên cho thấy trên thế giới đã có
nhiều công trình nghiên cứu bàn về đối ngoại địa phƣơng, phản ánh thực tế phong
phú, đa dạng của loại hình hoạt động đối ngoại này ở các quốc gia. Những nghiên
cứu ban đầu về đối ngoại địa phƣơng Việt Nam đã có những đóng góp nhất định
về dòng văn liệu này, đặc biệt đã phản ánh đƣợc những nét đặc trƣng của đối


15

ngoại địa phƣơng Việt Nam, những tác động của đƣờng lối chính sách chung tới
đối ngoại địa phƣơng, sự cấu thành tự nhiên không thể tách rời của đối ngoại địa
phƣơng trong nền ngoại giao Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu quan hệ quốc tế
đến nay còn thiếu những công trình bàn trực tiếp, cụ thể về đối ngoại địa phƣơng
Việt Nam. Nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác đối ngoại thời kỳ hội
nhập quốc tế chƣa thu hút đƣợc sự quan tâm của giới học giả, các chuyên gia đầu
ngành tham gia nghiên cứu, tìm lời giải đáp. Đây là một hạn chế lớn trong nghiên
cứu quan hệ quốc tế Việt Nam nhất là trong bối cảnh đất nƣớc đã bƣớc vào giai
đoạn mới của hội nhập quốc tế sâu rộng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục đích: Làm rõ bản chất của hoạt động đối ngoại địa phƣơng Việt
Nam, vai trò của đối ngoại địa phƣơng trong nền ngoại giao Việt Nam hiện đại,
triển vọng và xu hƣớng phát triển của đối ngoại địa phƣơng đáp ứng nhu cầu của
hội nhập quốc tế.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
i) Phân tích cơ sở lý luận của hoạt động đối ngoại địa phƣơng nƣớc ta trên
cơ sở có đối chiếu với các mô hình đối ngoại địa phƣơng trên thế giới, những
điểm chung và riêng có của mô hình đối ngoại địa phƣơng Việt Nam
ii) Hệ thống hóa lịch sử phát triển, kết quả đạt đƣợc của công tác đối
ngoại địa phƣơng Việt Nam, áp dụng khung phân tích chính sách để làm rõ
những nhân tố tác động tới hoạt động đối ngoại của các chính quyền địa phƣơng

Việt Nam
iii) Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại của các
chính quyền địa phƣơng Việt Nam đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ hội nhập.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tƣợng nghiên cứu chính của luận án là hoạt động đối ngoại của các
chính quyền địa phƣơng Việt Nam, đối tƣợng nghiên cứu kiến nghị chính sách là
các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại của các chính quyền địa
phƣơng Việt Nam.


16

- Phạm vi không gian là Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: Luận án có phạm vi thời gian tập trung từ năm 2004
đến năm 2017 vì tháng 6/2004, Bộ Chính trị ban hành văn bản đầu tiên về quản
lý thống nhất đối ngoại đó là Quyết định số 101-QĐ/TƢ của Bộ Chính trị về quy
chế thống nhất quản lý các hoạt động đối ngoại, mở đƣờng cho việc một loạt các
Sở Ngoại vụ đƣợc thành lập đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế của các địa
phƣơng trong tình hình mới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt đƣợc kết quả nghiên cứu đáp ứng mục đích và nhiệm vụ nói trên,
Nghiên cứu sinh đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu quốc tế nhƣ phƣơng
pháp nghiên cứu hệ thống, lịch sử, sử dụng tƣ duy biện chứng, có kết hợp giữa so
sánh lý thuyết và thực tiễn, phƣơng pháp phân tích của thuyết thể chế lịch sử. Các
phƣơng pháp này đƣợc thể hiện xuyên suốt trong công trình nghiên cứu, từ phân
tích cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cũng
nhƣ triển vọng và xu hƣớng phát triển của công tác đối ngoại địa phƣơng.
Ngoài ra, để các vấn đề lý luận và thực tiễn đƣợc đƣa ra một cách dễ hiểu,
cá nhân nghiên cứu sinh đã sử dụng phƣơng pháp lƣợng hóa các vấn đề xã hội,
phƣơng pháp mô hình hóa thông tin qua các biểu đồ. Nghiên cứu sinh đã làm rõ

căn cứ áp dụng phƣơng pháp đồng thời đảm bảo các mô hình đƣa ra đều phản
ánh trung thực, phù hợp các nội dung đề cập, góp phần làm sâu sắc hơn hàm
lƣợng khoa học và giá trị học thuật của công trình. Các phƣơng pháp này đã
đƣợc nhiều học giả có uy tín ứng dụng trong các nghiên cứu về các sự kiện lịch
sử trên thế giới, các tổ chức quốc tế và cơ quan chính phủ Việt Nam áp dụng
trong xây dựng chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội, chỉ số năng lực cạnh tranh,
năng lực hội nhập của các địa phƣơng Việt Nam.
6. Nguồn tài liệu
Luận án đƣợc xây dựng dựa trên nguồn tài liệu gốc là các báo cáo công
tác đối ngoại địa phƣơng của các Sở ngoại vụ thuộc Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ƣơng, Cục Ngoại vụ và Văn phòng Bộ Ngoại giao,


17

các kỷ yếu Hội nghị Ngoại vụ toàn quốc, Hội nghị hợp tác quốc tế cấp địa
phƣơng, Hội nghị các địa phƣơng Việt Nam - Pháp của Bộ Ngoại giao, các văn
bản pháp luật của nhà nƣớc. Ngoài ra, luận án sử dụng nguồn tài liệu nƣớc ngoài,
nhất là các nƣớc có hoạt động đối ngoại địa phƣơng phát triển mạnh nhƣ các
nƣớc châu Âu, Mỹ, Trung Quốc, trang web của các tổ chức quốc tế, các trang
thông tin cập nhật tình hình thời sự về hoạt động quốc tế của địa phƣơng các
nƣớc trên thế giới.
7. Những đóng góp của luận án
Luận án đƣợc hoàn thành dự kiến sẽ đóng góp một cách nhìn khoa học, có
chiều sâu về hoạt động đối ngoại của các chính quyền địa phƣơng Việt Nam. Về
học thuật, Luận án hệ thống hóa các thông tin, áp dụng các phƣơng pháp khoa học
xã hội và lựa chọn một mô hình phân tích hiện đại vào nghiên cứu đối ngoại địa
phƣơng Việt Nam. Về chính sách, Luận án giúp ích cho việc đề xuất chính sách cho
công tác đối ngoại địa phƣơng, đóng góp tích cực vào việc triển khai chính sách đối
ngoại và hội nhập của đất nƣớc. Về đào tạo, Luận án có thể là một nguồn tài liệu

tham khảo cho giảng dạy và bồi dƣỡng cán bộ ngoại vụ địa phƣơng.
8. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 3 chƣơng chính nhƣ sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động đối ngoại địa
phương Việt Nam
Chƣơng 1 tổng hợp cơ sở lý luận của hoạt động đối ngoại địa phƣơng bao
gồm những khái niệm cơ bản, sự hình thành, các cách tiếp cận lý thuyết đối với
chủ đề đối ngoại địa phƣơng; đồng thời phân tích cơ sở thực tiễn của đối ngoại
địa phƣơng Việt Nam bao gồm các vấn đề về đặc điểm chính trị, quan điểm
chính sách và khái quát thực tiễn đối ngoại địa phƣơng Việt Nam từ năm 1954
đến nay. .
Chương 2: Họat động đối ngoại địa phương Việt Nam
Chƣơng 2 áp dụng mô hình hai giai đoạn để phân tích hoạt động đối ngoại
địa phƣơng Việt Nam. Giai đoạn một là phân tích nội dung chính sách đối ngoại,


18

bao gồm những nội dung về hội nhập quốc tế, cơ chế phối hợp trong công tác đối
ngoại địa phƣơng. Giai đoạn hai phân tích kết quả thực hiện hoạt động đối ngoại
địa phƣơng theo bốn lĩnh vực đối ngoại nổi bật là an ninh biên giới, kinh tế đối
ngoại, hợp tác hữu nghị và hội nhập tiểu vùng.
Chương 3: Đánh giá và khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu
quả công tác đối ngaoij địa phương
Chƣơng 3 đánh giá hoạt động đối ngoại địa phƣơng, trên cơ sở đó đề xuất
ba nhóm giải pháp giúp nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại địa phƣơng trong
những năm tới bao gồm đổi mới phƣơng pháp xác định lợi ích địa phƣơng, đổi
mới đánh giá hiệu quả hoạt động đối ngoại địa phƣơng, nâng cao hiệu quả phối
hợp giữa trung ƣơng và địa phƣơng trong quản lý đối ngoại. Hai triển vọng và
bốn xu hƣớng phát triển đƣợc đề cập cho hoạt động đối ngoại địa phƣơng Việt

Nam thời gian tới.


×